Thân Hữu Tiếp Tay...
TRI HÀNH HỢP NHỨT! - LÃO NGOAN ĐỒNG
Lời người xưa
đã nói: “muốn là một chính nhân, có danh dự, được người ta tôn trọng, lời nói
phải đi đôi với việc làm, như vậy mối tương quan giữa lời nói và việc làm không
thể tách rời. Đã nói mà không làm thì người ta cho là nói xuông, nói xạo.lời
nói không nhất thiết phải nói ra ngoài miệng mà lời nói còn phải kể lời nói
thầm trong lòng. Nhưng khi đã nói lớn tiếng hay tự nhủ thì phải thực hành bằng
việc làm, như vậy lời nói đó mới có giá trị, mới chứng tỏ thành tâm và ý chí
của mình.”
Trong suốt 39 năm qua, Người Việt nam chúng ta, dù ở bất cứ nơi nào, đã trải
qua những kinh nghiệm sống đớn đau tủi nhục, nghèo khó nhọc nhằn trong chế độ
của cộng sản Việt Nam, đã từng nói lớn tiếng hoặc nói thầm trong lòng rằng :
- Chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa không tưởng, được sáng tác bởi những con
người bất bình thường, phản lại lẽ tự nhiên của tạo hóa, là đại họa của loài
người;
- Chế độ xã
hội chủ nghĩa là chế độ dựng lên bởi những con người ngông cuồng, ác độc, tham
lam và khát máu;
- Nhà cầm
quyền của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là sự tập hợp của những con
người dốt nát, tham tàn, không bao giờ nói thật với dân những việc làm, những ký
kết buôn dân bán nước, dùng những luật lệ rừng rú man dã để cai trị dân, kềm
hảm sức sống văn minh, coi người dân như là tôi mọi cho đảng và nhà nước;
- Những thành
viên của đảng và nhà cầm quyền tự cho mình có quyền uy tột đỉnh, sẳn lòng làm
bất cứ việc gì kể cả bán nước để cầu vinh, không bao giờ biết đến lương tâm hay
bổn phận của một con người, một con dân của một quốc gia, của một dân tộc.
Những lời nói dối, những tuyên truyền xảo trá, nhửng hù dọa là những câu nói
trên đầu môi chót lưởi, kèm với súng đạn, tù đày của bọn người nầy, với mục
đích làm ngu dân, làm suy tàn ý chí vươn lên của con người, để bọn chúng dễ
dàng cai tri, dễ dàng bóc lột, dễ dàng áp bức.
- Những con
người trong đảng và nhà cầm quyền, sống và làm việc không phải để xây dựng đất
nước, mưu cầu hạnh phúc và sung túc cho dân, mà bọn chúng sống và làm việc cho
bản thân vị kỷ, cho nên bọn chúng bất chấp danh dự của một con người, bất chấp
sĩ diện của tổ quốc, của giống nòi.
Những lời
than vảng, những cảm xúc cho cảnh đời nghiệt ngã, những bất công áp đặt lên bản
thân và gia đình những người đã và đang sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, kể ra không xiết, đã kêu gào thấu trời xanh nhưng đâu vẫn hoàn đấy, chẳng
có gì thay đổi, chẳng có gì biến hóa.
Chúng ta,
những người đã biết nghĩ, biết nói lên thành tiếng, biết kêu gào phải thay đổi
đời sống nghèo nàn khốn khổ, tự do bị chà đạp.Chúng ta kêu gào Tổ Quốc đang lâm
nguy phải làm một hành động gì để giải vây cho tổ quôc, vân vân…rồi thì chờ đợi
tiếng vọng lại từ lời kêu gào của chúng ta mà thôi. Nhưng tiếng vang của lời
kêu gọi bị cản ngăn bởi những bản mặt dầy như da trâu, bởi những màng nhỉ của
những lổ tai điếc, bởi cái chế độ gian manh
dối trá, nên chờ mải chờ hoài trong suốt 39 năm qua mà chẳng nghe được
tiếng kêu gào vọng lại. Chúng ta kêu gào, chúng ta chờ tiếng vọng lại đến bao
giờ nữa đây ?một trăm năm, một ngàn năm hay lâu hơn nữa ?
Chúng ta không thể chờ đợi được nữa, vì cuộc đời của chúng ta, mấy ai sống được
quá trăm tuổi? Dù có chờ đợi đến đời con, đời cháu, đời chắt mà không làm gì,
thì sự chờ đợi đó vẫn mãi mãi không bao giờ có kết quả. Muốn thực hiện lý
tưởng, ước vọng của mình thì tự bản thân mình phải hành động, phải thành tâm
thực hiện, không thể chờ người khác đem đến cho mình. Nhất là sự tự do cho bản
thân, cho gia đình, cho tổ quốc. Tự Do không phải xin mà có, không phải là
một món quà từ thiện cho không.
Chúng ta đã
suy nghĩ, đã biết và nói lên thành tiếng, nhưng còn thiếu, vì biết mà không làm
thì cũng vô ích mà thôi.
Có người tự hỏi làm gì đây ? Rồi nhìn quanh quất, ngang ngửa thấy cảnh tù đày
của những người đã xá thân để chống đối bọn tham quan ô lại, bọn bán nước cầu
vinh, bọn ác ôn côn đồ hà hiếp dân lành, rồi buông thỏng một câu: “ thấy thì đã
thấy, biết thì cũng biết, trong lòng cũng cảm thấy căm giận lắm, nhưng làm gì
bây giờ, vì tôi có nhiều nỗi sợ lắm”:
Sợ bị đuổi học; sợ mất việc làm; sợ bị công an mời đi làm việc; sợ bị cắt hộ
khẩu; nhút nhít là vào tù, và còn nhiều thứ sợ mà kể ra không hết.
Bị sát hại,
bị tù đày ai mà không sợ ?
Thế nhưng tại sao có những người đã không sợ như anh Điếu Cày Nguyễn văn Hải, Bùi
Thị Minh Hằng, linh mục Nguyễn văn Lý, luật sư Nguyễn văn Đài, Việt Khang, Đoàn
Văn Vươn, Tạ Phong Tần, mẹ con bà Phạm thị Lài ở Cần Thơ,vân vân.. và những
đoàn người dân oan, những công nhân thợ thuyền, những nhà tranh đấu, học sinh,
sinh viên, nam phụ lão ấu xuống đường biểu tình chống giặc ngoại xâm Tàu cộng,
đòi hỏi bọn cầm quyền của nhà nước XHCN Việt Nam phải trả quyền tự do, quyền
làm người cho nhân dân. Họ không sợ vì họ biết rằng những cái mà họ cần làm là
chính đáng, là hợp với lòng người. Nếu không đòi hỏi thì có ai trả lại những
quyền đó cho mình ?
Họ cũng biết là khi biểu lộ ý tưởng, thái độ chống đối sự độc tài, độc đảng, họ
có thể bị bọn ưng khuyển, nha trảo, là dụng cụ đàn áp của bọn cầm quyền độc
tài, ám hại, bắt bớ, đánh đập giam cầm, tù đày, và có thể bị thủ tiêu nữa. Họ
không sợ vì họ biết rằng sau lưng họ còn trên 85 triệu đồng bào ủng hộ họ.Họ đã
không sợ vì tin rằng, khi lâm nguy thì sẽ được đồng bào giải vây cho họ, cứu
giúp họ.Họ không sợ vì nghĩ rằng, nếu họ ngã xuống thì sẽ có người khác tiếp
nối con đường của họ đang đi.Sau khi họ bị bắt, bị xử tù, họ vẫn hiên ngang
khẳng định là họ sẽ tiếp tục chiến đấu với bọn độc tài độc đảng cho đến cùng.
Có người trong lực lượng đối kháng đã nói lên câu đồng nghĩa với “TỰ DO HAY LÀ
CHẾT” (lời của cô Maria Đậu thị Thuỷ, em gái của anh Antôn Đậu văn Dương thuộc
khối Thanh Niên Công Giáo : “Nếu giữ nguyên bản án bất công, vô pháp luật, mà
đổi lấy hòa bình, tự do thì chẳng nhằm nhò gì !” ).
Quan trọng hơn hết, họ không sợ là vì trong họ có chính khí của dòng giỏi Lạc
Hồng, trong cơ thể họ đang luân lưu dòng máu bất khuất của nòi giống Việt Nam.
Thế nhưng, sự
can trường, chấp nhận hy sinh của họ đã không được niềm tin mà họ đã gởi thác,
được sự đồng thanh tương ứng của những người việt nam cùng dòng máu, cùng quê
hương, nhiệt tình làm hậu thuẩn cho họ.
Trong khi họ xuống đường thì số đông thầm lặng, bàng quan đứng ngắm nhìn, chớ
không dám cùng họ hiên ngang xuống đường, dù trong lòng những người nầy vẫn có
cùng khát vọng, ước ao như những người đang biểu tình, cho nên bầy lang sói
công an, dân phòng với nhân số đông gấp nhiều lần dể dàng đàn áp, đánh đập,
cướp bóc những người biểu tình ôn hoà với tay không, chỉ có tấm lòng yêu nước
mà thôi.
Phải chi đám đông thầm lặng bàng quan đó, cùng tháp tùng vào đám biểu tình, tạo
nên một lực lượng có quyết tâm, nhân số đông gấp mười lần, trăm lần hơn bọn ác
ôn, ra sức ngăn chặn những bàn tay ác ôn của bọn ưng khuyển, thì làm gì có
những người trong đoàn biểu tình bị bắt, bị đánh đập dã man, bị đạp vào mặt, bị
liệng lên xe bít bùng đem về hang ổ của bọn cầm thú công an, để tra khảo, để
hành hung những người biểu tình ôn hòa;
Phải chi trong khi chỉ có gia đình anh Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng tử thủ trong
tuyệt vọng tại nhà cửa, đất đai của họ, thì đám đông thầm lặng trong xóm làng,
trong cộng đồng nông dân khắp nơi, tập trung lại cùng tiếp tay với gia đình anh
Vươn, thì chắc rằng nhà cửa, đầm nuôi thủy sản, đất canh tác của gia đình anh
Vươn sẽ không bị bọn cướp ngày tàn phá, bị cướp cạn giữa ban ngày, gia đình anh
Đoàn Văn Vươn sẽ không bị tù đày một cách vô lối;
Phải chi khi đồng bào ở Văn Giang, ở Hải Dương, ở Nghệ An, ở Thủ Thiêm, ở Cần
Thơ, v.v… đang tranh đấu, ngăn cản bọn đầu trâu mặt ngựa của bọn cầm quyền, bè
phái của những tên tư bản đỏ, đang dùng thủ đoạn cướp ngày để cướp ruộng vườn
của những người đang sinh sống tại những nơi đó, mà được những người dân sống
trong cùng thành phố, cùng làng ,quận, tỉnh cùng nhau trợ lực cho những nạn
nhân của tệ nạn cướp nhà, cướp đất, cùng nhau ra tay quyết liệt chống trả lại
sự đàn áp, cùng nhau đốt phá các xe ủi đất, xe móc đất của bọn cướp cạn, thì
đâu có cảnh nhà xập, ruộng vườn bị cày xới, đâu có cảnh phải bị trúng những
viên đạn từ họng súng của bọn cầm quyền khát máu, đâu có cảnh hai người đàn bà
dùng hai tấm thân “trần truồng” của người phụ nữ để cản ngăn bọn vô luân đang
cướp của, phá nhà;
Phải chi tại các phiên toà xử những người yêu nước Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần,
Phan Thanh Hải, Antôn Đậu văn Dương, Phêrô Trần Hữu Đức, Antôn Chu Mạnh Sơn,
được đồng bào các nơi tập trung về các địa điểm xử án, hợp cùng với gia đình
của những người yêu nước, đè bẹp lực lượng công an, dân phòng, đầu gấu, tràn
vào nơi xử án, phản đối cách hành xử vô pháp vô luật của tòa án bất hợp pháp
của đảng Việt cộng, thì làm gì những người yêu nước đó bị xử án một cách độc
tài, một cách tàn bạo, không coi luật pháp đáng một đồng xu nào;
Phải chi những người bộ đội không thuộc phe phái tham quan, không thuộc bầu đoàn
tham nhủng, không phải trong bọn mua quan bán tước, biết nhìn cảnh cha mẹ anh
chị em, đồng bào ruột thịt của mình, đang bị những con lang sói, tay chân của
bè lủ độc tài bán nước, hành hạ, đâm chém, dày xéo, mà biết đau lòng xót dạ,
dùng vũ khí có sẳn trong tay để bảo vệ cho những con người yêu nước yêu nòi,
thì đâu đến nổi có những cảnh oan khiên, đâu có những sự đàn áp vô nhân xảy ra
hàng ngày trên mảnh đất Việt Nam thân yêu của dân tộc;
Phải chi tất cả con dân Việt Nam, bất kể đang ở nơi đâu trên trái đất nầy, đã
biết phân biệt cái phải cái quấy, cái thiện cái ác, cái gì cần phải làm mà cùng
ra tay, biết tri hành hợp nhứt, thì Nước Việt Nam ta đâu có đến nông
nổi nầy.
Trên đây là những lời tự thán của cá nhân người viết, và hết sức thành tâm mong mỏi, lời tự thán nầy cũng là lời tự thán của tất cả con dân nước Việt Nam. Dù ở nơi đâu, cũng mong nước Việt Nam của chúng ta trường tồn, với đầy đủ quyền tự do cho mỗi con dân nước Việt, mà điều đó nằm trong tầm tay, bằng hành động của mọi con người, mọi thế hệ Việt Nam.
Lão Ngoan Đồng ( HNPĐ )
TRI HÀNH HỢP NHỨT! - LÃO NGOAN ĐỒNG
Lời người xưa
đã nói: “muốn là một chính nhân, có danh dự, được người ta tôn trọng, lời nói
phải đi đôi với việc làm, như vậy mối tương quan giữa lời nói và việc làm không
thể tách rời. Đã nói mà không làm thì người ta cho là nói xuông, nói xạo.lời
nói không nhất thiết phải nói ra ngoài miệng mà lời nói còn phải kể lời nói
thầm trong lòng. Nhưng khi đã nói lớn tiếng hay tự nhủ thì phải thực hành bằng
việc làm, như vậy lời nói đó mới có giá trị, mới chứng tỏ thành tâm và ý chí
của mình.”
Trong suốt 39 năm qua, Người Việt nam chúng ta, dù ở bất cứ nơi nào, đã trải
qua những kinh nghiệm sống đớn đau tủi nhục, nghèo khó nhọc nhằn trong chế độ
của cộng sản Việt Nam, đã từng nói lớn tiếng hoặc nói thầm trong lòng rằng :
- Chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa không tưởng, được sáng tác bởi những con
người bất bình thường, phản lại lẽ tự nhiên của tạo hóa, là đại họa của loài
người;
- Chế độ xã
hội chủ nghĩa là chế độ dựng lên bởi những con người ngông cuồng, ác độc, tham
lam và khát máu;
- Nhà cầm
quyền của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là sự tập hợp của những con
người dốt nát, tham tàn, không bao giờ nói thật với dân những việc làm, những ký
kết buôn dân bán nước, dùng những luật lệ rừng rú man dã để cai trị dân, kềm
hảm sức sống văn minh, coi người dân như là tôi mọi cho đảng và nhà nước;
- Những thành
viên của đảng và nhà cầm quyền tự cho mình có quyền uy tột đỉnh, sẳn lòng làm
bất cứ việc gì kể cả bán nước để cầu vinh, không bao giờ biết đến lương tâm hay
bổn phận của một con người, một con dân của một quốc gia, của một dân tộc.
Những lời nói dối, những tuyên truyền xảo trá, nhửng hù dọa là những câu nói
trên đầu môi chót lưởi, kèm với súng đạn, tù đày của bọn người nầy, với mục
đích làm ngu dân, làm suy tàn ý chí vươn lên của con người, để bọn chúng dễ
dàng cai tri, dễ dàng bóc lột, dễ dàng áp bức.
- Những con
người trong đảng và nhà cầm quyền, sống và làm việc không phải để xây dựng đất
nước, mưu cầu hạnh phúc và sung túc cho dân, mà bọn chúng sống và làm việc cho
bản thân vị kỷ, cho nên bọn chúng bất chấp danh dự của một con người, bất chấp
sĩ diện của tổ quốc, của giống nòi.
Những lời
than vảng, những cảm xúc cho cảnh đời nghiệt ngã, những bất công áp đặt lên bản
thân và gia đình những người đã và đang sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, kể ra không xiết, đã kêu gào thấu trời xanh nhưng đâu vẫn hoàn đấy, chẳng
có gì thay đổi, chẳng có gì biến hóa.
Chúng ta,
những người đã biết nghĩ, biết nói lên thành tiếng, biết kêu gào phải thay đổi
đời sống nghèo nàn khốn khổ, tự do bị chà đạp.Chúng ta kêu gào Tổ Quốc đang lâm
nguy phải làm một hành động gì để giải vây cho tổ quôc, vân vân…rồi thì chờ đợi
tiếng vọng lại từ lời kêu gào của chúng ta mà thôi. Nhưng tiếng vang của lời
kêu gọi bị cản ngăn bởi những bản mặt dầy như da trâu, bởi những màng nhỉ của
những lổ tai điếc, bởi cái chế độ gian manh
dối trá, nên chờ mải chờ hoài trong suốt 39 năm qua mà chẳng nghe được
tiếng kêu gào vọng lại. Chúng ta kêu gào, chúng ta chờ tiếng vọng lại đến bao
giờ nữa đây ?một trăm năm, một ngàn năm hay lâu hơn nữa ?
Chúng ta không thể chờ đợi được nữa, vì cuộc đời của chúng ta, mấy ai sống được
quá trăm tuổi? Dù có chờ đợi đến đời con, đời cháu, đời chắt mà không làm gì,
thì sự chờ đợi đó vẫn mãi mãi không bao giờ có kết quả. Muốn thực hiện lý
tưởng, ước vọng của mình thì tự bản thân mình phải hành động, phải thành tâm
thực hiện, không thể chờ người khác đem đến cho mình. Nhất là sự tự do cho bản
thân, cho gia đình, cho tổ quốc. Tự Do không phải xin mà có, không phải là
một món quà từ thiện cho không.
Chúng ta đã
suy nghĩ, đã biết và nói lên thành tiếng, nhưng còn thiếu, vì biết mà không làm
thì cũng vô ích mà thôi.
Có người tự hỏi làm gì đây ? Rồi nhìn quanh quất, ngang ngửa thấy cảnh tù đày
của những người đã xá thân để chống đối bọn tham quan ô lại, bọn bán nước cầu
vinh, bọn ác ôn côn đồ hà hiếp dân lành, rồi buông thỏng một câu: “ thấy thì đã
thấy, biết thì cũng biết, trong lòng cũng cảm thấy căm giận lắm, nhưng làm gì
bây giờ, vì tôi có nhiều nỗi sợ lắm”:
Sợ bị đuổi học; sợ mất việc làm; sợ bị công an mời đi làm việc; sợ bị cắt hộ
khẩu; nhút nhít là vào tù, và còn nhiều thứ sợ mà kể ra không hết.
Bị sát hại,
bị tù đày ai mà không sợ ?
Thế nhưng tại sao có những người đã không sợ như anh Điếu Cày Nguyễn văn Hải, Bùi
Thị Minh Hằng, linh mục Nguyễn văn Lý, luật sư Nguyễn văn Đài, Việt Khang, Đoàn
Văn Vươn, Tạ Phong Tần, mẹ con bà Phạm thị Lài ở Cần Thơ,vân vân.. và những
đoàn người dân oan, những công nhân thợ thuyền, những nhà tranh đấu, học sinh,
sinh viên, nam phụ lão ấu xuống đường biểu tình chống giặc ngoại xâm Tàu cộng,
đòi hỏi bọn cầm quyền của nhà nước XHCN Việt Nam phải trả quyền tự do, quyền
làm người cho nhân dân. Họ không sợ vì họ biết rằng những cái mà họ cần làm là
chính đáng, là hợp với lòng người. Nếu không đòi hỏi thì có ai trả lại những
quyền đó cho mình ?
Họ cũng biết là khi biểu lộ ý tưởng, thái độ chống đối sự độc tài, độc đảng, họ
có thể bị bọn ưng khuyển, nha trảo, là dụng cụ đàn áp của bọn cầm quyền độc
tài, ám hại, bắt bớ, đánh đập giam cầm, tù đày, và có thể bị thủ tiêu nữa. Họ
không sợ vì họ biết rằng sau lưng họ còn trên 85 triệu đồng bào ủng hộ họ.Họ đã
không sợ vì tin rằng, khi lâm nguy thì sẽ được đồng bào giải vây cho họ, cứu
giúp họ.Họ không sợ vì nghĩ rằng, nếu họ ngã xuống thì sẽ có người khác tiếp
nối con đường của họ đang đi.Sau khi họ bị bắt, bị xử tù, họ vẫn hiên ngang
khẳng định là họ sẽ tiếp tục chiến đấu với bọn độc tài độc đảng cho đến cùng.
Có người trong lực lượng đối kháng đã nói lên câu đồng nghĩa với “TỰ DO HAY LÀ
CHẾT” (lời của cô Maria Đậu thị Thuỷ, em gái của anh Antôn Đậu văn Dương thuộc
khối Thanh Niên Công Giáo : “Nếu giữ nguyên bản án bất công, vô pháp luật, mà
đổi lấy hòa bình, tự do thì chẳng nhằm nhò gì !” ).
Quan trọng hơn hết, họ không sợ là vì trong họ có chính khí của dòng giỏi Lạc
Hồng, trong cơ thể họ đang luân lưu dòng máu bất khuất của nòi giống Việt Nam.
Thế nhưng, sự
can trường, chấp nhận hy sinh của họ đã không được niềm tin mà họ đã gởi thác,
được sự đồng thanh tương ứng của những người việt nam cùng dòng máu, cùng quê
hương, nhiệt tình làm hậu thuẩn cho họ.
Trong khi họ xuống đường thì số đông thầm lặng, bàng quan đứng ngắm nhìn, chớ
không dám cùng họ hiên ngang xuống đường, dù trong lòng những người nầy vẫn có
cùng khát vọng, ước ao như những người đang biểu tình, cho nên bầy lang sói
công an, dân phòng với nhân số đông gấp nhiều lần dể dàng đàn áp, đánh đập,
cướp bóc những người biểu tình ôn hoà với tay không, chỉ có tấm lòng yêu nước
mà thôi.
Phải chi đám đông thầm lặng bàng quan đó, cùng tháp tùng vào đám biểu tình, tạo
nên một lực lượng có quyết tâm, nhân số đông gấp mười lần, trăm lần hơn bọn ác
ôn, ra sức ngăn chặn những bàn tay ác ôn của bọn ưng khuyển, thì làm gì có
những người trong đoàn biểu tình bị bắt, bị đánh đập dã man, bị đạp vào mặt, bị
liệng lên xe bít bùng đem về hang ổ của bọn cầm thú công an, để tra khảo, để
hành hung những người biểu tình ôn hòa;
Phải chi trong khi chỉ có gia đình anh Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng tử thủ trong
tuyệt vọng tại nhà cửa, đất đai của họ, thì đám đông thầm lặng trong xóm làng,
trong cộng đồng nông dân khắp nơi, tập trung lại cùng tiếp tay với gia đình anh
Vươn, thì chắc rằng nhà cửa, đầm nuôi thủy sản, đất canh tác của gia đình anh
Vươn sẽ không bị bọn cướp ngày tàn phá, bị cướp cạn giữa ban ngày, gia đình anh
Đoàn Văn Vươn sẽ không bị tù đày một cách vô lối;
Phải chi khi đồng bào ở Văn Giang, ở Hải Dương, ở Nghệ An, ở Thủ Thiêm, ở Cần
Thơ, v.v… đang tranh đấu, ngăn cản bọn đầu trâu mặt ngựa của bọn cầm quyền, bè
phái của những tên tư bản đỏ, đang dùng thủ đoạn cướp ngày để cướp ruộng vườn
của những người đang sinh sống tại những nơi đó, mà được những người dân sống
trong cùng thành phố, cùng làng ,quận, tỉnh cùng nhau trợ lực cho những nạn
nhân của tệ nạn cướp nhà, cướp đất, cùng nhau ra tay quyết liệt chống trả lại
sự đàn áp, cùng nhau đốt phá các xe ủi đất, xe móc đất của bọn cướp cạn, thì
đâu có cảnh nhà xập, ruộng vườn bị cày xới, đâu có cảnh phải bị trúng những
viên đạn từ họng súng của bọn cầm quyền khát máu, đâu có cảnh hai người đàn bà
dùng hai tấm thân “trần truồng” của người phụ nữ để cản ngăn bọn vô luân đang
cướp của, phá nhà;
Phải chi tại các phiên toà xử những người yêu nước Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần,
Phan Thanh Hải, Antôn Đậu văn Dương, Phêrô Trần Hữu Đức, Antôn Chu Mạnh Sơn,
được đồng bào các nơi tập trung về các địa điểm xử án, hợp cùng với gia đình
của những người yêu nước, đè bẹp lực lượng công an, dân phòng, đầu gấu, tràn
vào nơi xử án, phản đối cách hành xử vô pháp vô luật của tòa án bất hợp pháp
của đảng Việt cộng, thì làm gì những người yêu nước đó bị xử án một cách độc
tài, một cách tàn bạo, không coi luật pháp đáng một đồng xu nào;
Phải chi những người bộ đội không thuộc phe phái tham quan, không thuộc bầu đoàn
tham nhủng, không phải trong bọn mua quan bán tước, biết nhìn cảnh cha mẹ anh
chị em, đồng bào ruột thịt của mình, đang bị những con lang sói, tay chân của
bè lủ độc tài bán nước, hành hạ, đâm chém, dày xéo, mà biết đau lòng xót dạ,
dùng vũ khí có sẳn trong tay để bảo vệ cho những con người yêu nước yêu nòi,
thì đâu đến nổi có những cảnh oan khiên, đâu có những sự đàn áp vô nhân xảy ra
hàng ngày trên mảnh đất Việt Nam thân yêu của dân tộc;
Phải chi tất cả con dân Việt Nam, bất kể đang ở nơi đâu trên trái đất nầy, đã
biết phân biệt cái phải cái quấy, cái thiện cái ác, cái gì cần phải làm mà cùng
ra tay, biết tri hành hợp nhứt, thì Nước Việt Nam ta đâu có đến nông
nổi nầy.
Trên đây là những lời tự thán của cá nhân người viết, và hết sức thành tâm mong mỏi, lời tự thán nầy cũng là lời tự thán của tất cả con dân nước Việt Nam. Dù ở nơi đâu, cũng mong nước Việt Nam của chúng ta trường tồn, với đầy đủ quyền tự do cho mỗi con dân nước Việt, mà điều đó nằm trong tầm tay, bằng hành động của mọi con người, mọi thế hệ Việt Nam.
Lão Ngoan Đồng ( HNPĐ )