Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Tài Liệu: CUỘC RÚT QUÂN TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7
Tài Liệu: CUỘC RÚT QUÂN TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7
Phạm Bá Hoa
****************
Dẫn chuyện
Sau khi tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản ngay 7/1/1975, thủ phủ Ban Mê Thuột và tỉnh Darlac thất thủ ngay 11/3/1975, tinh hinh chiến sự Quân Đoan II/Quân Khu II trở nen sôi động. Xin nhớ la Thỏa Hiệp Ngưng Bắn đa ký tại Paris ngay 27/1/1975 va hạ tuần tháng 3/1975 là có hiệu lực. Do vậy mà bầu không khí chính trị cũng sôi động không kém tình hình quân sự
Lúc bấy giờ các vị lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đội liên quân đến những phản ứng sau đó, la:
- Tổng Thống: Nguyễn Văn Thiệu (Trung Tướng)
- Thủ Tướng: Trần Thiện Khiem (Đại Tướng)
- Tổng Tham Mưu Trưởng: Đại Tướng Cao Văn Viên
- Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiem Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Ông được phép đưa thân phụ sang Tokyo chữa bệnh ung thư, nên không có mặt từ lúc đầu cuộc rút quân. Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tổng Cục Trưởng
- Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú
- Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (Qui Nhơn): Đại Tá Bửu Khương
- Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lý
Lúc bấy giờ tôi là Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận
Vào chuyện
Ngày 14/3/1975, một buổi họp quan trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ
tọa của Tổng Thống, nhưng người bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng không rõ nội
dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch phản công chiếm lại Ban Me Thuột.
Rất tiếc là Trung Tướng Đồng Văn Khuyen chưa về, nên tôi với Đại Tá
Phạm Kỳ Loan không biết gì hơn
Ngày 15/3/1975, ngay đầu giờ buổi làm chiều, điện thoại reo:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Có ai ngồi gần anh không?
- Dạ không, thưa Đại Tướng
- Đó l&afrave; Đại Tướng Cao Văn Viên. Ông tiếp:
- Tuyệt đối là anh không cho ai biết lệnh nay ngoài những sĩ quan trách nhiệm thi hanh -
- Vâng, tôi ro thưa Đại Tướng -
- Tổng Cục Tiếp Vận có bao nhiêu phi cơ vận tải C.130 khả dụng? -
- Thông thường thì sử dụng 2 hoặc 3 chiếc, nhưng trường hợp tối
cần thiết có thể sử dụng được 8 hoặc 9 chiếc. Nhưng tôi sẽ hỏi bên Không
Quân và sẽ trình lại Đại Tướng con số chính xác hơn, thưa Đại Tướng -
- Thôi được. Điều cần thiết là anh phải sử dụng tối đa vi đây la nhu cầu khẩn cấp. Anh lien
lạc ngay với Quân Đoàn II, xem họ cần bao nhiêu chiếc thì cho họ bấy
nhiêu, con sử dụng vào công tác gì thì tuy họ. Nhiệm vụ kể từ ngày mai.
Anh rõ chưa? -
- Thưa Đại Tướng, tôi rõ -
- Phần anh, anh chuyển các quân dụng đắt tiền ra khỏi Pleiku và muốn đem về đâu thi tuy anh-
- Vâng. Tôi thì hành, thưa Đại Tướng -
Tôi thuật lại cho Đại Tá Loan nghe, và cả Đại Tá Loan lẫn tôi, đều
không suy đoán được là chuyện gi sắp xảy ra mà chúng tôi không được
phép biết. Nếu chuẩn bị đánh nhau với quân cộng sản thi tại sao không để
quân dụng lại ma thay thế số tổn thất? Nếu không đánh nhau,..... mà
không đánh nhau là thế nào? Thật không hiểu nỗi!
Tổ chức một quân đội, phải có hai yếu tố chính, là "con người va quân
dụng". Quân dụng do ngành Tiếp Vận quản trị. Những gi trang bị cho mỗi
quân nhân từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, từ dinh dưỡng đến điều trị khi
bị thương hay đau yếu, vấn đề mai táng và nghĩa trang, rồi doanh trại,
phương tiện di chuyển, rồi súng đạn, xe tăng thiết giáp, đại bác hỏa
tiển,...... đều là nhiệm vụ của ngành Tiếp Vận. Ấy vậy mà Tiếp Vận lại
không được quyền biết đến kế hoạch hanh quân, ít nhất la đối với lệnh
vừa rồi của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà !
Trong quân đội, chỉ có Trung Tướng Đỗ Cao Trí và Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng, là hai vị Tư Lệnh đại đơn vị đặt Tiếp vận vao đúng vị trí
của ngành này mà thôi. Điển hinh là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh
Quân Đoan III, đầu năm 1970, khi soạn kế hoạch hành quân sang lãnh thổ
Cambodia tấn công các kho dự trữ tiếp vận của quân cộng sản sát biên
giới Việt Nam, sau khi quyết định ngày N, Trung Tướng Trí nêu câu hỏi
với Trung Tá Trương Bảy (sau nay la Chuẩn Tướng Cảnh Sát) Chỉ Huy Trưởng
Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận:
- Theo kế hoạch hành quân như đa trình bày, Tiếp Vận có chuẩn bị kịp không? Nếu không, Quân Đoàn sẽ lui ngay lại".
Khi vị Tư Lệnh hỏi như vậy, cho dù chuẩn bị gấp rút cách mấy cũng
phải thực hiện cho xong chớ đâu thể xin lui ngay được. Đằng nào cũng
phải vất và, nhưng vất và mà được biết đến vẫn vui lòng hơn
Trước khi lên Pleiku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú điện thoại tôi:
- Anh Hoa a, tôi sắp sửa lên Quân Đoàn II, anh cho tôi mượn Trung
Uý Thiem một tuần để nó lên đó chọn hướng đặt ban giấy giùm tôi nghe
anh-
- Vâng. Tôi sẽ nói với anh Thiêm và Thiếu Tướng cứ liên lạc trực tiếp với anh ấy về những chi tiết cần thiết -
Lúc bấy giờ tôi là Cục Trưởng Cục Mai Dịch (đồn trú ở SaiGon), và
trong đơn vị tôi có Trung Uý Nguyễn Xuân Thiêm được nhiều người cho là
giỏi tướng số tử vi và chữ ký. Và sau 5 ngày công tác riêng cho Thiếu
Tướng Phú ở Pleiku trở về, Trung uý Thiêm nói với tôi:
- Thưa Đại Tá, tôi thấy vận số của Thiếu Tướng Phú hết rồi, nhiều
lắm cũng chỉ tính bằng tháng chớ không tính bằng năm đâu -
- Anh có nói gi với Thiếu Tướng Phú không?-
- Dạ không. Vi sợ ổng mất tinh thần. Với lại có nói ra cũng không có cách gi giải được, thà không nói vẫn hơn -
- Nghî như anh cũng phải -
(Năm 1990, tôi được biết Trung Uý Nguyễn Xuân Thiem định cư tại Australia )
Tôi nhớ, có một hôm Trung Tướng Đồng Văn Khuyen nói với tôi rằng, "Thiếu
Tướng Phú tuổi con rắn, nen Tổng Thống cử lên Quân Đoan II vi rắn thích
hợp với núi rừng".
Trở lại lệnh của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi gọi lên Plei
Ku liên lạc với Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II:
- Tôi Hoa đây anh Lý. Tôi được lệnh cấp C.130 cho anh nhưng không
được biết la Quân Đoàn sử dụng vào công tác gì. Vậy anh có thể cho tôi
biết để tôi tiện sắp xếp phi cơ theo đúng nhu cầu của anh không ? Vì
chắc anh cũng biết là số phi cơ khả dụng của chúng tôi giới hạn lắm -
- Anh cứ đưa lên đây cho tôi, con sử dụng vào công tác gì thi không thể nói được đâu- Lời của Đại Tá Lý.
- Đanh vậy. Nhưng anh cần bao nhiêu chiếc? Cần vào lúc nào? Và chuyển vận từ đâu tới đâu?
- Anh có bao nhiêu chiếc thì đưa lên tôi bấy nhiêu, và kể từ sáng
mai (16/3/1975). Không trinh có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc
Saigon -
- Vậy thi như thế nay. Sáng mai tôi cho lên anh 2 chiếc, trong khi
2 chiếc kế tiếp túc trực tại phi trường Tân Sơn Nhất và anh cần là cất
cánh ngay, vì một lúc anh đâu sử dụng được 4 chiếc. Được không? -
- Được. 8 giờ sáng mai anh cho có mặt tại phi trường Cu Hanh nghe -
- Xong. Minh thỏa thuận như vậy nhé -
Tôi trình Đại Tá Loan là vẫn không biết được gi thêm ở Quân Đoàn
II. Đại Tá Loan hỏi Chuẩn Tướng Trần Đinh Thọ, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng
Tham Mưu, Chuẩn Tướng Thọ cũng không tiết lộ điều gi. Bên Không Quân
xác nhận là có thể sử dụng tối đa 9 chiếc C.130, nhưng sau khi sử dụng
như vậy thi các nhu cầu tiếp theo không thể thực hiện được ít nhất la
một tuần vi phải tu bổ lại. Bộ Chỉ Huy Không Chiến, cơ quan điều động
phi cơ, đồng ý về thỏa thuận giữa tôi với Đại Tá Lý, nghĩa la 2 chiếc
C130 cất cánh len Pleiku thi 2 chiếc kế tiếp túc trực tại căn cứ Tân Sơn
Nhất.
Sáng ngày 16/3/1975, Bộ Chỉ Huy Không Chiến điện thoại tôi:
- Trinh Đại Tá, trưởng phi cơ C.130 đang trên không phận phi
trường Cu Hanh (Plei Ku), cho biết là không thể nào đáp xuống phi trường
được, vì người ta đông không thể tưởng tượng nỗi. Chẳng biết là chuyện
gì xảy ra vì không liên lạc được dưới đất. Va hai chiếc C.130 đang chờ
lệnh Đại Tá đó -
- Anh chuyển đến Trưởng phi cơ, hay chờ tôi vài phút để tôi lien
lạc với Quân Đoan xem tinh hinh ra sao đa -
Gọi Quân Đoàn II và tôi nói chuyện với Đại Tá Lý:
- Phi cơ tôi đang trên không phận của anh đó, nhưng không thể đáp
được. Nếu anh muốn họ đáp xuống thi anh phải giải toả sân bay giùm đi vi
nếu chậm quá thi họ sẽ về lại Sai Gon đó. Ma chuyện gi xảy ra vậy Anh? -
- Tại &vgrave;i người ta tranh nhau chờ lên phi cơ mới có
chuyện tràn ngập đường băng như vậy. Để tôi cho Quân Cảnh giải toả, anh
bảo phi cơ đáp xuống cho tôi đi -
- Thì phi hành đoàn đang chờ đường băng trống là đáp xuống, trừ
khi anh không giải toả nỗi. Anh nhớ ưu tiên cho Trung Tá Thời, Liên Đoan
Trưởng Yểm Trợ Tiếp Vận của tôi ở Plei Ku, chở một số kiện hang quan
trọng xuống Qui Nhơn hoặc Nha Trang a nghe -
Tôi lại nhờ Bộ Chỉ Huy Không Chiến chuyển đến phi hành đoàn C.130.
Và sau đó, phi cơ đáp xuống được tuy rất khó khăn vi đông nghẹt người
la người hai ben đường băng. Để rồi một hinh ảnh hỗn loạn chưa từng thấy
-theo lời thuật của Trưởng phi cơ- la cả một rừng người chen lấn xô
đẩy, thậm chí đạp len nhau để tranh len phi cơ, va hết sức khó khăn đến
độ nguy hiểm, phi hanh đoan mới cho phi cơ cất cánh được.
Hóa ra là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn chuyển xuống Nha Trang. Tôi trinh
ngaày cho Đại Tá Loan vi ước tính là sắp đánh nhau với quân cộng sản
rồi. Ước tính nay không phải la vô căn cứ, bởi vi cộng sản đa chiếm thủ
phủ Cao Nguyen, bây giờ chúng tấn công vao Bộ Tư Lệnh Quân Đoan II cũng
la điều có thể xảy ra lắm chớ. Nhưng chúng tôi nhầm ...
Vì sáng ngày 17/3/1975, trong lúc 2 chiếc C.130 trên không phận Plei Ku
thì điện thoại nhà tôi reo, hôm nay là chủ nhật nen tôi đi lam muộn:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Bộ Chỉ Huy Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ cho biết là toàn thị
xa Pleiku hôm nay không có một bóng sinh vật nao cả, va bây giờ phi hanh
đoàn xin phép về lại căn cứ -
- Anh hỏi lại phi hành đoàn giùm tôi, nếu sự thực hoàn toàn đúng như vậy
thi tôi đồng ý phi cơ quay về. Xin nhớ, đây la trách nhiệm rất quan
trọng nghe anh -
Tôi điện thoại qua nhà Đại Tá Phạm Kỳ Loan, và ngày sau đó Đại Tá Loan
lien lạc Chuẩn Tướng Trần Đinh Thọ (Trưởng Phong 3/Bộ Tổng Tham Mưu)
nhưng Chuẩn Tướng Thọ vẫn không nhỏ được một giọt thông tin nào về tình
hình đó cả. Tôi và Đại Tá Loan tức lắm, nhưng chúng tôi không có cách
nào khác vì Trung Tướng Khuyên đi Tokyo chưa về. Có vẻ như chúng tôi bị
coi như la những sî quan không đáng tin cậy thi phải, ít nhất cũng la
không được tin cậy trong cuộc hành quân này, du rằng Đại Tá Loan đang là
cấp chỉ huy cao nhất của ngành Tiếp Vận với gần 100.000 quân nhân công
chức chuyen nganh va quản trị một khối lượng dụng cụ chiến tranh trên
dưới 7 tỉ mỹ kim!
Tất cả các hệ thống liên lạc truyền tin bằng vô tuyến lẫn hữu
tuyến của quân đội, cũng như hệ thống lien lạc bên hành chánh, đều không
liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị nào ở Plei Ku cả. Đại Tá Bửu
Khương (ở Qui nhơn) cũng không có tin tức gi khá hơn trong khi đoàn quân
xa hơn 100 chiếc của Liên Đoàn 2 Vận Tải vẫn con kẹt tren Plei Ku vi
quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn - Plei Ku bị quân cộng sản chiếm giữ nhiều
chặng. Một tình hình không thể hiểu nỗi ít nhất là đối với nganh Tiếp
Vận chúng tôi. Không biết tại sao lúc ấy chúng tôi không nghĩ đến giả
thuyết nao khác, chẳng hạn như Quân Đoàn II vờ rút quân ra ngoài để
thành phố bỏ ngỏ cho quân cộng sản tiến vào, và bất thình lình quật lại
tấn công chúng ngay trong thanh phố. Con về giả thuyết rút bỏ Cao
Nguyên thi nhất thiết không thể có trong tư tưởng của bất cứ sĩ quan nào
chớ chẳng riêng gì chúng tôi. Cho dù một giả thuyết như vậy thôi cũng
không có trong hàng sĩ quan cấp dưới, nhưng nó lại la một kế hoạch thật
sự của hàng sĩ quan cấp Tướng lãnh đạo đất nước 20.000.000 dân, trong đó
có một quân đội hơn 1.000.000 người!
Cả hai chúng tôi -Đại Tá Loan và tôi- không thông báo tình hình
tệ hại đó cho bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận biết, trong khi chúng tôi
hết sức lo lắng cho tất cả quân nhân nói chung va số phận của anh em
trong ngành Tiếp Vận ở Plei Ku và Kon Tum nói riêng, vì chúng tôi không
có bất cứ một thông tin nào về tình hình đó, kể cả nguồn cung cấp chính
xác nhất là vị Tướng Trưởng Phong 3 ngang hàng với cơ quan chúng tôi, và
vị Tổng Tham Mưu Trưởng cấp tren của chúng tôi cũng vậy.
Chiều 18/3/1975, điện thoại reo:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Khương đây anh Hoa- Đó la Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, đồn trú tại Qui Nhơn.
- Anh có tin gì về anh em mình trên Pleiku chưa? -
- Liên Đoan 2 Vận Tải mới liên lạc vô tuyến với đoàn xe bị kẹt
trên Plei Ku rồi anh. Đoàn xe nay đang cung với hằng ngan quân xa và dân
xa rút bỏ Pleiku và Kon Tum, đang di chuyển trên đường liên tỉnh số 7
để xuống Tuy Hoà. Toàn bộ lực lượng gồm nhiều đơn vị chiến đấu, cung với
Pháo Binh, Thiết Giáp, bị sa lầy sau khi vượt qua Cheo Reo. Phần thi
đường hư cầu sập lam nhiều chiến xa M.48 và đại bác 175 cơ động lật
xuống hố, phần thi các đơn vị cộng sản tấn công nhiều mặt, đa gây tổn
thất nặng cho cả quân đội lẫn dân sự nhưng chưa thấy phản ứng của Quân
Đoan. Anh em mất tinh thần lắm anh ơi! -
- Được rồi. Bảo vệ đoàn quân và khi nào xuống đến Tuy Hoà, chắc
chắn là trách nhiệm của Quân Đoàn. Bây giờ anh nên chuẩn bị tổ chức
nhiều toán do một sî quan của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận chỉ huy và đặt tại Tuy
Hoà, mỗi toán phụ trách một công tác, để khi đoàn quân xuống đến Tuy
Hoà thi cấp phát ngay cho bất cứ đơn vị nào mà không cần theo thủ tục
tiếp liệu thông thường, chỉ cần viết tay và kYacute; nhận là đủ. Hang
mang theo cấp phát la: Lương khô đủ ăn 3 ngày, 1 bộ quần áo trận, đổ đầy
xăng dầu cho xe chạy bánh và xe chạy xích. Toán Quân Y thi cấp thuốc
cho các bệnh thông thường va cấp cứu đầu tiên. Anh thấy được không? -
- Được anh. Để tôi lo -
- Anh nói Liên Đoàn 2 Vận Tải ráng giữ liên lạc và khi có bất cứ
tin tức gi về đoàn quân này thi anh cho tôi biết ngay nghe anh Khương-
Sở dĩ có đoàn xe hằng trăm chiếc bị kẹt ở Plei Ku, là vì sau khi
Phước Long mất, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh cho tôi thực hiện kế
hoạch chuyển tiếp liệu loại 1 (lương thực thực phẩm), loại 3 (nhiên
liệu), loại 5 (đạn dược chất nổ), lên Plei Ku dự trữ cho 20.000 quân
phong thủ trong 30 ngày mới bổ sung. Do vậy mà hằng ngày đoàn xe cả trăm
chiếc đi đi về về giữa Qui Nhơn với Pleiku để vận chuyển tiếp liệu từ
Qui Nhơn lên Plei Ku.
Tôi sang văn phòng Đại Tá Loan, và sau đó tôi điện thoại lên Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng:
- Tôi Hoa đây anh Nguyện (Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, chánh văn phòng), anh cho tôi trinh vấn đề gấp với Đại Tướng -
- Anh chờ tôi một chút -
- Tôi đây. Anh có chuyện gì vậy? -
- Thưa Đại Tướng, tôi Hoa đây -
- Có việc gì vậy? -
- Vài phút cách đây, Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2
Tiếp Vận, cho tôi biết về đoan quân rút bỏ Pleiku và Kon Tum đang bị
sa lầy ... (tôi thuật lại chi tiết ma tôi va Đại Tá Khương đa nói với
nhau).
- Anh có chắc la đúng như vậy không? -
- Từ chổ đoàn xe bị kẹt đến Đại Tá Khương như thế nao thi tôi
không dám chắc, nhưng từ Đại Tá Khương đến tôi là hoàn toàn chính xác,
thưa Đại Tướng -
- Thôi được. Anh đừng nói với ai nữa nghe -
- Vâng -
Đại Tá Loan và tôi đều ngẩn ngơ về câu sau cung của Đại Tướng Tổng
Tham Mưu Trưởng. Chúng tôi ngẩn ngơ vi không hiểu tại sao tình hình đến
như vậy ma vẫn muốn giấu kín chúng tôi nữa! Vai phút sau đó, Chuẩn
Tướng Trần Đinh Thọ điện thoại tôi:
- Cưng ơi (Chuẩn Tướng Thọ thường gọi tôi như vậy), cưng có lien lạc với đoàn xe trecirc;n đường số 7 hả? -
- Tôi không trực tiếp liên lạc nhưng Liên Đoàn 2 Vận Tải của chúng
tôi đa liên lạc được với đoan xe chở tiếp liệu lên Pleiku và bị kẹt
tren đó, nay thi cung trong đoan quân sa lầy ma vừa rồi tôi đa trinh
Đại Tướng -
- Có. Đại Tướng mới gọi anh đây. Cưng cứ biết vậy thôi nghe -
Tôi có biết chút ít về đường liên tỉnh số 7 này, từ đoạn Plei Ku
vào đến Cheo Reo và xuống đến Cung Sơn. Vi cuối năm 1955 -lúc bấy giờ
tôi đang là Thiếu Úy, Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoan Khinh Quân 510-
toan bộ Tiểu Đoan chúng tôi cung với Tiểu Đoan Khinh Quân 507 va 527, di
chuyển từ Vỉnh Long len Cao Nguyen va đồn trú tại Cheo Reo, để thanh
lập Trung Đoan 35 Bộ Binh trong hệ thống tổ chức Sư Đoan Khinh Chiến 12.
Bộ Tư Lệnh Sư Đoan đồn trú tại Plei Ku. Các Tiểu Đoan được cấp phien
hiệu như sau: Tiểu Đoan 507 thanh Tiểu Đoan 1/35, Tiểu Đoan 510 chúng
tôi thanh Tiểu Đoan 2/35, va Tiểu Đoan 527 thanh Tiểu Đoan 3/35.
Vì các đơn vị yểm trợ tiếp liệu và hành chánh tài chánh đồn trú ở
Plei Ku, nên chúng tôi thường xuyên đi lại giữa Cheo Reo với Plei Ku
bằng đường lien tỉnh số 7 va một đoạn quốc lộ 14. Sở dĩ đoạn đường từ
nga ba quốc lộ 14 với lien tỉnh lộ 7 -ten địa phương la Mỹ Thạch- vao
đến Cheo Reo con sử dụng được, la vi trong chiến tranh giữa thực dân
Pháp với cộng sản 1945-1954 (lúc đó cộng sản núp dưới ten Việt Minh),
Cheo Reo la cứ điểm quân sự của Pháp, nen đường nay được tu bổ vi nó
la "con đường huyết mạch" của cứ điểm. Con đoạn từ Cheo Reo xuống Cung
Sơn va Tuy Hoa, quân đội Pháp không sử dụng nen không tu bổ gi cả. Khi
Trung Đoan chúng tôi đến Cheo Reo, thi xác những chiếc thiết giáp của
Pháp con ngổn ngang tại đó, con chiếc cầu bắc ngang Sông Ba thi tồi tệ
hơn bất cứ chiếc cầu tồi tệ nao. Thuở ấy "rất la hoa binh", nen chúng
tôi thường đi săn tren đường từ Cheo Reo xuống đến Cung Sơn, chỉ cần
thận trọng một chút thi xe jeep vẫn bo qua chiếc cầu tồi tệ ấy được.
Tren đoạn đường nay, chiếc xe jeep của chúng tôi chỉ gọi la "bo" chớ
không thể gọi la chạy được vi mặt đường giữa vung rừng gia heo hút nay
hầu như không con gi để gọi la con đường nữa.
Giữa năm 1969, lúc ấy tôi là Đại Tá, tháp tùng Trung Tướng Nguyễn
Văn La, đến thăm các đơn vị tại Cheo Reo và các quận lân cận, con đường
ben kia Sông Ba được tu bổ đôi chút. Va nếu đoạn đường tiếp nối xuống
Cung Sơn để ra Tuy Hoa (tỉnh Phú Yen) không được tu bổ thường xuyen, ma
Quân Đoan II quyết định sử dụng cho đoan quân hơn 10.000 người cung với
tren dưới 2.000 quân xa, dân xa, va chiến xa hạng nặng triệt thoái, quả
la tạo được bất ngờ đối với địch, nhưng phải nói la quá liều lĩnh! Bất
ngờ, nhưng con đường có sử dụng được hay không, lại la vấn đề trước mặt
của Quân Đoan II nói chung, va của bộ chỉ huy hanh quân cuộc hanh quân
lui binh nay nói rieng.
Chiều tối hôm sau thì Trung Tướng Đồng Văn Khuyên từ Tokyo (Nhật
Bản) về đến. Sau khi nghe chúng tôi trình bày về tình hình từ ngay ông
vắng mặt đến nay, ông nói sáng mai sẽ trinh diện Tổng Thống với Đại
Tướng (Tổng Tham Mưu Trưởng), chắc la sẽ có tin tức ro rang hơn.
Va đây là những tin tức đó:
"Sau khi mất Ban Mê Thuột, áp lực của quân cộng sản rất mạnh. Tổng
Thống nhận định là không đủ khả năng bảo vệ toan bộ Cao Nguyen trong
khi Ban Me Thuột cần giữ hơn la Plei ku với Kon Tum, vi vậy ma Tổng
Thống trong buổi họp tại Cam Ranh, đa quyết định rút bỏ Plei Ku, Kon
Tum, Phú Bổn, để đem lực lượng về phản công lấy lại Ban Me Thuột. Tổng
Thống giao cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoan II, nhiệm vụ
thực hiện cuộc hanh quân triệt thoái khỏi 3 tỉnh đó, nhưng phải giữ bí
mật tối đa va bảo vệ toan vẹn lực lượng (có lẽ vi bảo mật tối đa ma Tổng
Cục Tiếp Vận chúng tôi không được cho biết gi cả). Thiếu Tướng Phú
trinh kế hoạch la rút theo đường lien tỉnh số 7, du rằng con đường nay
không sử dụng từ lâu nhưng đạt được yếu tố bất ngờ đối với lực lượng
cộng sản. Thiếu Tướng Phú đề nghị Tổng Thống thăng cấp Chuẩn Tướng cho
Đại Tá Phạm Duy Tất, va Chuẩn Tướng Tất sẽ la Chỉ Huy Trưởng cuộc hanh
quân lui binh nay. Lời đề nghị được Tổng Thống chấp thuận tại chổ".
Lúc bấy giờ, Đại Tá Phạm Duy Tất đang là Chỉ Huy Trưởng Biệt Động
Quân/Quân Đoàn II.
Hết giờ buổi chiều khá lâu, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận chỉ con
nhân vien trực hoạt động. Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn phàng (ông
ngồi ở văn phong Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, tren toa nha chánh),
va ông đưa tôi xem một xấp không ảnh (ảnh chụp từ tren phi cơ) đa được
giải đoán đầy đủ. Toan bộ xấp không ảnh cho thấy đoan xe không phải theo
một hinh dai ma la một hinh gần như tron, vi khi phần đi đầu bị kẹt thi
những chiếc sau cứ lấn qua ben trái hay ben phải với hy vọng tim được
lối đi, nhưng cang lấn vao rừng thi cang không lối thoát, va cứ như thế
ma cả đoan xe quá nhiều đó đa tạo nen dáng như vậy. Ghi chú ben cạnh
những khoanh tron bằng ngoi bút của chuyen vien giải đoán không ảnh, có
gần 800 xe đa bị thieu hủy. Nếu như giải đoán vien không ảnh chính xác
hay ít ra cũng gần như vậy, thi chỉ mới 4 ngay dấn thân vao đường lien
tỉnh số 7 ma số xe bị tổn thất tren dưới 1/3 trong tổng số xe các loại,
quả la rất nặng. Trong số tổn thất đó có Tiểu Đoan Pháo Binh 175 ly cơ
động va Trung Đoan Chiến Xa hạng nặng M48". Đây la hai loại vũ khí mới
được Hoa Kỳ viện trợ năm 1973 bằng cách các đơn vị pháo binh va xe tăng
của họ chỉ rút người về nước va để toan bộ chiến cụ đó lại cho quân đội
chúng ta.
Những bai học chiến thuật trong trường Vo Bị cũng như trường Đại
Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương của Pháp va
la tiền thân của trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp) đều thừa nhận rằng,
trong các cuộc hanh quân thi hanh quân rút lui (hay triệt thoái, hay lui
binh) la nhiều hiểm nguy hơn các cuộc hanh quân khác, vi đơn vị "đưa
lưng" về phía địch. Khi tấn công thi trước mặt la địch va sau lưng la
hậu tuyến, con trong rút lui thi trước mặt lại la hậu tuyến ma sau lưng
trở thanh tiền tuyến. Nguy hiểm la vậy. Nguyen tắc căn bản của bai học
"lui binh" la phải có một lực lượng hanh quân giao tiếp để bảo đảm an
toan phía trước mặt (hậu tuyến), con lực lượng lui binh thi tự bảo vệ
phía sau lưng (tiền tuyến), ngoai ra phải được Không Quân quan sát va
yểm trợ hỏa lực nữa.
Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hoà lên, đoàn quân
triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vi bị
quân Việt cộng lien tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoa thi tổn
thất đến nỗi không con khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại
Ban Me Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém
số thương vong của quân đội. Chết vi súng đạn, chết vi xe cộ tranh gianh
lối đi ma gây tai nạn bừa bai, chết vi tranh nhau miếng ăn nước uống,
chết vi cướp giật, ..v..v..
Rút bỏ 3 tỉnh Cao Nguyên là Pleiku, Kon Tum, và Phú Bổn, những
tưởng bảo toàn được lực lượng gồm một phần của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, các
Liên Đoan Biệt Động Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh, Truyền Tin,
va các nganh khác, để phản công chiếm lại thủ phủ Ban Me Thuột, nhưng
rồi toan bộ Cao Nguyen miền Trung bỗng dưng rơi vao tay quân cộng sản
một cách nhẹ nhang. Tôi nói "bỗng dưng", vi rút bỏ Plei Ku từ đem thứ
bảy 16 rạng ngay chủ nhật 17/3, ma đến 3 giờ 15 phút chiều thứ tư
20/3/75 tín hiệu của Truyền Tin tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoan II mới ngưng
hoạt động. Đại Tá Cục Trưởng Cục Truyền Tin nói với tôi như vậy. Điều
nay có thể la lúc đó quân cộng sản mới tiến đến va phá hủy máy móc hoặc
tắt máy, cũng có thể la quân cộng sản chưa chiếm nhưng vi máy phát điện
hết nhien liệu nen cả hệ thống đều ngưng hoạt động. Cho du ở vao trường
hợp nao đi nữa, thi ro rang la quân cộng sản ma minh tưởng nó bao vây
hay sắp sửa bao vây Plei Ku, nhưng thật ra chúng con ở tận đâu đâu nen
mai 4 ngay sau -đó la thời gian sớm nhất- chúng mới vao chiếm Bộ Tư Lệnh
Quân Đoan, trong khi những Sư Đoan của chúng ở cang xa Plei Ku về hướng
Nam va Đông Nam thi khoảng cách cang gần với đoan quân triệt thoái hơn,
do dó ma thiệt hại của đoan quân nặng nề chưa từng thấy trong hơn 20
năm chiến tranh! Một thất bại vô cung đau đớn cho những người cầm súng,
nhất la những người cầm súng dưới quyền chỉ huy của vị Tư Lệnh đa từng
xông pha trận mạc. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, khi con la sĩ quan cấp Úy
cấp Tá trong hang ngũ quân đội Lien Hiệp Pháp lẫn trong quân lực Việt
Nam Cộng Hoa, đa có tiếng la cấp chỉ huy can đam, không lui bước bất kể
chiến trận gay go nghieng nga như thế nao. Nay, với chức vụ Tư Lệnh
Quân Đoan II, liệu có phải la hơi quá tầm lanh đạo chỉ huy của ông
không? Hay la quyền lực hoặc khả năng của ông bị điều gi đó giới hạn?
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đa tự tử ngay sau ngay 30/4/1975. Tôi đến chua
Vĩnh Nghiem (Sai Gon) vao ngay 2/5/1975 va chao tiễn biệt ông vao coi
vĩnh hằng giữa hoan cảnh đau thương của đất nước, dân tộc!
Năm 1960, trong thời gian tôi học
tại Trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghien Cứu Quân Sự của
Quân Đội Viễn Chinh Pháp), tôi đọc được một tập tai liệu, có nhận định
rằng: "Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm giữ được Cao Nguyen miền
Trung thi người dó sẽ nắm phần chiến thắng". Chắc chắn rằng, những vị
Tướng của chúng ta đang nắm quyền lanh đạo quốc gia va lanh đạo quân đội
đều biết tai liệu đó, nhưng có thể các vị bị chính trị đẩy Cao Nguyen
ra khỏi tầm tay chăng?
Ngược dong thời gian, thượng tuần tháng 5/1954, Điện Biên Phủ do
13.000 quân của Pháp trấn giữ, đa thất thủ làm rúng động toàn bộ quân
viển chinh Pháp tại Đông Dương va rúng động cả nước Pháp. Va hiển nhien
la sự thất trận nay đa đưa nước Pháp đến tinh trạng mất toan bộ Đông
Dương gồm Việt Nam, Cam Bốt, va Lao. Hơn 20 năm sau -tháng 3/1975- toan
bộ Cao Nguyen miền Trung vao tay quân cộng sản, lam rúng động toan quân
va toan dân Việt Nam Cộng Hoa. Va liệu sự thất bại nay có phải la
nguyen nhân dẫn đến toan bộ Việt Nam Cộng Hoa vao tay quân cộng sản từ
ngay cuối tháng 4/1975 không? Du gi đi nữa thi sự thể đa la như vậy rồi!
Tinh trạng hỗn loạn bi đát trong cuộc hành quân lui binh
tr&eciec;n đường liên tỉnh số 7, nếu chưa phải la nguyen nhân chính,
cũng là khởi đầu cho sự hỗn loạn trong các cuộc hanh quân lui binh của
các Sư đoan 1, 2, 3, 22, 23 Bộ Binh, Nhẩy Du, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt
Động Quân, Hải Quân, Không Quân, dọc các tỉnh duyen hải từ Quảng Trị ,
Huế, Đa Nẳng, đến Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngai, Binh Định, Phú Yen,
Khánh Hoa, Cam Ranh.
Trước ngay cuối tháng 3/1975, thi từ Quảng Trị đến Cam Ranh đều bỏ
ngỏ. Tôi nói "bỏ ngỏ" vi không có Tiểu Khu nao hay Trung Đoàn, Sư Đoàn,
Quân Đoàn nào, phong thủ chống lại quân cộng sản, hoặc nếu có chống trả
như Sư Đoan 3 Bộ Binh tại sườn Tây Đa Nẳng cũng chỉ trong thời gian
ngắn ngủi la rút lui, con lại la rút đi trước khi quân cộng sản đến!
Trong số những vị Tướng Tư Lệnh đại đơn vị thuộc Quân Đoàn I và
Quân Đoàn II rút khỏi khu trách nhiệm của những vị đó, tôi luôn tự hỏi
về thái độ của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoan I/Quân
khu I. Tôi được tiếp xúc với ông qua những công tác "chống đảo chánh" từ
năm 1965 khi ông la Tư Lệnh Phó Sư Đoan Nhẩy Du. Chính vi hiểu ông ma
tôi tự hỏi như vậy. Bởi trong cuộc tấn công của quân cộng sản hồi Tết
Mậu Thân đầu năm 1968, Huế va nhất la trong khuôn vien thanh nội, nơi có
bản doanh cung một số đơn vị của Sư Đoan 1 Bộ Binh đồn trú, đa bị chúng
chiếm giữ trong 3 tuần lễ. Lúc bấy giờ, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng
(cấp bậc lúc ấy) la Tư Lệnh Sư Đoan nay. Cuộc phản công chiếm lại từng
khu vực trong thanh nội Huế rất cam go với tổn thất đáng kể, Chuẩn Tướng
Trưởng đa chứng tỏ quyết tâm tieu diệt quân cộng sản hay ít nhất cũng
phải đánh bật chúng ra khỏi Huế trong thời gian ngắn nhất, khi ông đứng
nghiem chỉnh ở chân cột cờ với lễ phục va huy chương biểu tượng cho các
chiến công của ông, Chuẩn Tướng Trưởng đa keu gọi quyết tâm của quân sĩ
dưới quyền ông hay vi danh dự va trách nhiệm đối với tổ quốc dân tộc.
Qua lời keu gọi đầy trách nhiệm cung với nhiệt tâm của ông, chính la
quyết tâm của vị Tư Lệnh cung quân sĩ chiến đấu, đa thúc đẩy cuộc phản
công của Sư Đoan đến chiến thắng vẻ vang. Đanh rằng trong cuộc hanh quân
phản công nay, có sự chiến đấu yểm trợ của quân lực Hoa Kỳ, nhưng Sư
Đoan 1 Bộ Binh Việt Nam vẫn la lực lượng chính.
‘Muà Hê Đỏ Lửa’ năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (đa thăng
cấp) đang là Tư Lệnh Quân Đoan IV/Quân khu IV vung đồng bằng Cửu Long,
được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoan I/Quân
Khu I va tức tốc len phi cơ ra Đa Nẳng nhận chức. Một vị Tướng như thế,
tôi nghĩ, ông không thể để Đa Nẳng vao tay quân cộng sản gần như em
thắm như vậy! Xin nhớ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng gốc la binh chủng
Nhẩy Du, va binh chủng nay la một trong những binh chủng rất li với
chiến trận. Nhưng sự thể đa diễn ra như vậy, ắt phải có điều gi đằng sau
quyết định rút bỏ thanh phố cảng quan trọng của miền Trung. Va chỉ có
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng mới có thể hiểu đến tận cung điều ấy ma
thôi.
Ngày 14/1/1995, tôi gặp anh Nguyễn Thanh Trí trong chợ Hong Kong ở
Houston, bạn tôi. Anh là cựu Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoan Thủy Quân Lục
Chiến, và Sư Đoàn này đặt dưới quyền sử dụng dai hạn của Quân Đoan I từ
sau trận chiến Mua He Đỏ Lửa năm 1972. Dưới đây la lời thuật của cựu Đại
Tá Trí về những ngay cuối tháng 3/1975, trong lúc anh va bộ chỉ huy
hanh quân Sư Đoan Thủy Quân Lục Chiến ở khu vực Non Nước, Đa Nẳng:
‘’Khoảng 5 giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân cộng sản tấn
công vào Sư Đoan 3 Bộ Binh ở sườn Tây Đa Nẳng, và chỉ vài giờ chống trả
là Sư Đoan rút lui, tạo khoảng trống ben sườn của Thủy Quân Lục Chiến,
va các đơn vị co về bản doanh Sư Đoan (Thủy Quân Lục Chiến). Thieu Tướng
Bui Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoan Thủy Quân Lục Chiến, đa rời khỏi Sư Đoan
va len chiến hạm của Hải Quân (Việt Nam) từ lúc chiều. Nhưng trước khi
đi ông có đến gặp Trung Tuóng Ngô Quang Trưởng xin quyết định vi tinh
hinh rất nghiem trọng, nhưng Trung Tướng Trưởng không nói gi cả. Lúc nay
ben cạnh Thiếu Tướng Bui Thế Lân có ông Tổng Lanh Sự Hoa Kỳ tại Đa
Nẳng, ông ta có mang theo máy vô tuyến cầm tay loại nhỏ va chốc chốc ông
ta nói vị trí của ông với ai ở đâu đó tôi (tức cựu Đại Tá Trí) không
ro. Thiếu Tướng Bui Thế Lân nói với tôi rằng: Ông Tổng Lanh Sự khuyen
ổng (tức Thiếu Tướng Lân) nen bảo toan lực lượng, nhưng Thiếu Tướng Lân
không nói điều nay với Trung Tướng Trưởng.
‘’Khoảng nửa đem 28 rạng 29/3/1975, có tiếng động cơ trực thăng
xuống bai đáp ben cạnh, sĩ quan trực chạy ra đón va hướng dẫn phái đoàn
vào bộ chỉ huy hanh quân Sư Đoan Thủy Quân Lục Chiến, gồm các vị: Trung
Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Khánh (tôi không biết họ) Tư Lệnh Sư
Đoan 1 Không Quân (đồn trú tại Đa Nẳng), Đại Tá Phước (cũng không biết
họ) Không Đoan Trưởng Không Đoan 51/Sư Đoan 1 Không Quân, Đại Tá Nguyễn
Hữu Duệ, Tỉnh/Thị Trưởng Thừa Thien/Huế, va Đại Úy sĩ quan tuy vien của
Trung Tướng Trưởng. Vao bộ chỉ huy, sau khi Trung Tướng Trưởng lien lạc
với các đơn vị va được biết đa rút lui an toan (tức bỏ Đa Nẳng), Trung
Tướng Trưởng nói với các sĩ quan cung đi theo ông:
- Bây giờ thì các anh hay tự thoát, còn tôi, tôi đi theo Thủy Quân
Lục Chiến-
‘’Trung Tướng Trưởng vừa nói xong thi gần như cung một lúc, Chuẩn
Tướng Khánh, Đại Tá Phước, Đại Tá Duệ, cung cho Trung Tướng Trưởng và
lên trực thăng cất cánh ngay. Khoảng 6 giờ sáng ngay 29/3/1975, sĩ quan
vao trinh tôi la chiến hạm đang tiến vao để đón các đơn vị Thủy Quân Lục
Chiến. Tôi đến trinh Trung Tướng Trưởng:
- Thưa Trung Tướng, tôi không biết do lệnh từ đâu mà chiến hạm
đang chờ đón tôi va các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Vậy Trung Tướng nên
đi với chúng tôi ngay bây giờ, thưa Trung Tướng-
‘’Sau một lúc chần chừ như có ý không muốn rời Đa Nẳng, ông đứng
dậy cung đi với tôi. Nhưng vì chiến hạm không vào sát bờ được, cũng
không có tàu nhỏ để từ bờ ra chiến hạm, nen tất cả đều lội nước, va khi
mực nước len đến ngực cũng la lúc treo len tau. Sau khi mọi người len
chiến hạm, lúc ấy tôi trông thấy Đại Tá Hường (Nguyễn Xuân Hường), Tư
Lệnh Lữ Đoan 1 Kỵ Binh đa có mặt tren tau. Chiến hạm lui ra khơi nhưng
chưa chạy, có vẻ như chờ lệnh hay chờ ai đó.
‘’Vai tiếng đồng hồ sau, chiếc trực thăng chở các sĩ quan rời khỏi
bộ chỉ huy hành quân Sư Đoan Thủy Quân Lục Chiến lúc nửa đem qua, đa
quay trở lại, không ro la do thời tiết xấu hay vi lý do gi đó, va cả ba
vị la Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, với Đại Tá Duệ, cung lội nước ra
chiến hạm. Vẫn la chiến hạm đang có Trung Tướng Trưởng tren đó. Tôi thấy
sự chia tay đem qua sao ma thản nhien quá, thản nhien đến mức không có
vẻ gi có chút tinh cảm đọng lại trong giây phút chia tay đó lam tôi cảm
thấy khó chịu. (lời của Phạm Bá Hoa: thuật chuyện đến đây đôi mắt anh
Trí đỏ hoe, chực phát khóc! Ro rang la anh đang xúc động!)
Sau phút im lặng vì xúc động, cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí thuật
tiếp:
‘’Tôi nhờ ông Hạm Trưởng để 3 sĩ quan này ở phía trước hầu tránh
cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trông thấy e không đẹp long nhau. Mai
đến quá trưa, chiến hạm mới rời vung biển Đa Nẳng va trực chỉ Cam Ranh.
Giữa chiến hạm với Bộ Tư Lệnh Hải Quân giữ lien lạc vô tuyến chặt chẻ,
nen khi chiến hạm vừa đến vịnh Cam Ranh thi nhận được công điện của Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu. Theo đó thi Tổng Thống ra lệnh cho tất cả len
bờ, chỉ rieng Trung Tướng Trưởng vẫn ở tren chiến hạm va về Sai Gon
ngay. Tôi thắc mắc nếu muốn Trung Tướng Trưởng về Sai Gon ngay thi tại
sao Tổng Thống hay Bộ Tổng Tham Mưu không cho phi cơ ra Cam Ranh đón ma
lại bảo đi bằng tau? Lúc đó Trung Tướng Trưởng nói la ông đi theo Thủy
Quân Lục Chiến chớ không về Sai Gon. Đến khi Thiếu Tướng Phạm Văn Phú,
Tư Lệnh Quân Đoan II một đại đơn vị hầu như đa tan ra sau cuộc hanh quân
lui binh thảm bại, ông từ Nha Trang vao Cam Ranh khuyen Trung Tướng
Trưởng nen về Sai Gon theo lệnh Tổng Thống. Va Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoan I đa theo chiến hạm về Sai Gon’’.
Đến đây là hết lời thuật của cựu Đại Tá Nguyễn Thanh Trí, Tư Lệnh
Phó Sư Đoan Thủy Quân Lục Chiến.
Với lời thuật trên đây của cựu Đại Tá Trí, tôi nghĩ rằng: rất có
thể la các vị Tư Lệnh tại Quân Đoàn I từ binh chủng Bộ Binh, Nhẩy Du,
Thủy Quân Lục Chiến, đến quân chủng Hải Quân, Không Quân, và cũng có thể
ngay cả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoan I, đa nhận được
lời khuyen ‘bảo toan lực lượng’ như Thiếu Tướng Bui Thế Lân đa nhận của
ông Tổng Lanh Sự Hoa Kỳ tại Đa Nẳng cũng nen? Không chừng chiến hạm vao
gần bờ để đón Thủy Quân Lục Chiến cũng từ ‘lời khuyen’ của ông Tổng
Lanh Sự nữa chăng! Vi ro rang la cựu Đại Tá Trí không hề biết lệnh xuất
phát từ đâu ma. Va phải chăng với ‘lời khuyen’ đó đa dẫn đến các vị có
quân có quyền trong tay lần lượt rời khỏi đơn vị hoặc chỉ huy đơn vị
triệt thoái? Điều nay tôi không ro, nhưng có điều quí vị đều ro la Bộ Tư
Lệnh Quân Đoan I va Đa Nẳng vao tay quân cộng sản quá dễ như khi vao Bộ
Tư Lệnh Quân Đoan II ở Plei Ku vậy!
Tối ngày 6/9/2003, khi vợ chồng tôi dự tiệc cưới tại Washington
DC, chúng tôi ngồi chung ban với cựu Trung Tướng Ngô Quan Trưởng, va cựu
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi có ý định hỏi Trung Tướng Trưởng về
điều thắc mắc của tôi, nhưng vi cựu Phó Đề Đốc Thoại lại đưa vấn đề cuộc
đảo chánh ngay 1/11/1963 hỏi tôi nen tôi mai nóí chuyện với ông, để rồi
cuối cung không con thi giờ xin lời tâm sự từ cựu Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng.
Bây giờ xin mời quí vị quay nhìn vào số lượng đồng bao chạy loạn
được các loại tau chở từ Huế và Đa Nẳng xuôi Nam và đưa ra đảo Phú Quốc
tạm trú. Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang mà tỉnh lỵ la Rạch Giá, nằm
ngay cửa ngỏ vao vịnh Thái Lan. Số đồng bao chạy loạn nay do Bộ Xa Hội
phụ trách nuôi ăn trong khi chờ biện pháp giải quyết chung. Bộ Xa Hội
yeu cầu Tổng Cục Tiếp Vận giúp họ tiếp tế mỗi ngay 20.000 phần cơm va
phi cơ đưa ra Phú Quốc cung cấp cho đồng bao. Trung Tướng Đồng Văn
Khuyen bảo tôi lo giúp Bộ Xa Hội. Tôi điện thoại len Trung Tâm Huấn
Luyện Quang Trung, xin tiếp chuyện với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Chỉ Huy
Trưởng Trung Tâm nay:
- Hoa đây Anh. Có việc nay xin nhờ Anh và hi vọng Anh tiếp tay
được- Xin lỗi quí vị, tôi xưng hô như vậy với Thiếu Tướng Trần Bá Di, vi
chúng tôi thân nhau từ lâu.
- Việc gi mà coi bộ quan trọng vậy anh?
- Tại Phú Quốc hiện có khoảng 20.000 đồng bao của các tỉnh miền
Trung chạy vao tạm trú, bên Bộ Xa Hội nhờ quân đội nấu cơm , vắt lại
từng vắt, và dung phi cơ quân sự đưa ra Phú Quốc cho đồng bao. Chuyện
nay la chuyện hằng ngay nghe Anh. Gạo thi Bộ Xa Hội cung cấp. Anh liệu
Trung Tâm có thể giúp được không?
- Được chớ. Chuyện chung mà. Nhưng chừng nào thì tụi tôi nấu?
- Ngày hôm nay. để mai là chuyến tiếp tế đầu tiên do quân đội nhận
giúp. Vậy Anh cho mượn gạo hôm nay nghe, và mai chúng tôi chở gạo đến
Anh đủ một tuần, sau đó tính tiếp.
- Được. Tôi cho nấu ngay. Khi xong, tôi cho anh hay.
- Xin cám ơn Anh -
- Cái gì mà anh cám ơn. Mỗi người mỗi đơn vị phải góp phần trách nhiệm của minh chớ anh -
Thế là từ hôm ấy, cơm vắt được đưa ra Phú Quốc bằng phi cơ phi cơ
tiếp tế cho đồng bao tạm trú tại đó. Nhưng rồi tinh hinh ngày
c*agrave;ng xấu thêm ./.
* * * * *
Houston, cuối Đông 2003-2004
Bài viết này trích từ quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ ấn hành năm 1994, 1995,
1998, và tôi đang chuẩn bị để nhà xuất bản ấn hành lần 4 vao mua he 2004
nay, sau khi bổ túc do những điều ma cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và
cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết thêm
Phạm Bá Hoa .
*********************************
NHÌN LẠI TRẬN ĐÁNH BAN MÊ THUỘT
Đại Tá Nguyễn Trọng Luật
******************************
Chủ Nhật 9/3/75
- Trinh Đại tá, Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn 2 sẽ đến Bộ Tư lệnh Sư
đoan 23 vao lúc 10 giờ hôm nay để duyệt tinh hinh. Trung úy Dzi, sĩ quan
tuy vien, sau khi đứng nghiem chao tôi va nói với tôi như vậy, khi tôi
con ngồi tại tư dinh để xem công văn công điện cung ký những giấy tờ cần
thiết cho một ngay lam việc. Không phân biệt ngay cuối tuần, ngay nao
cũng la ngay thứ Hai, ma người Mỹ thường nói tren cửa miệng. Với trọng
trách Tỉnh trưởng kiem Tiểu khu trưởng Darlac, ngay lại ngay tôi rất
bận, về hanh quân, đi thanh tra, đôn đốc, kiểm soát các chi khu, phân
chi khụ Đó la chưa kể danh thi giờ tiếp đón các phái đoan từ Saigon ra
hay từ Quân đoan xuống. Nen chỉ con ban đem va những giờ sáng sớm để xe
công văn giấy tờ. Tôi hỏi lại:
- Xe sẵn sang chưả
- Dạ, thưa sẵn sang
- OK, thôi chúng ta đi
Khi tới phi trường Phụng Dực, lòng tôi như lửa đốt. Phần vì đêm qua mất
ngủ, phần lo số phận của hang trăm sinh linh đang chiến đấu tại Đức Lập
ma VC đa tấn công tối quạ Hiện mất lien lạc không biết con hay mất. Tâm
hồn tôi như đang gắn liền với các chi khu, các binh lính dưới quyền
minh. Lam sao cho họ an toan giữa cuộc chiến cang ngay cang tan khốc naỵ
Hang đem vừa chợp mắt la thấy những lo lắng không đâu chợt đến với giấc
ngủ muộn mang... Du quận Đức Lập không phải la vung trách nhiệm của
minh nhưng tien liệu cho kế hoạch phong thủ Darlac vẫn la trọng tâm của
tôi trong lúc nay
Tôi có một cái nhìn rõ ràng, mất Thuần Mẫn, mất Đức Lập thi việc tiến
chiếm Ban Me Thuột chỉ con la vấn đề thời gian. Nhưng tiếng nói của tôi
có ai nghe trong khi tôi chỉ la một Tiểu khu trưởng trong tay có mấy
tiểu đoan Địa phương quân, mấy Trung đôi Nghĩa quân, Cảnh sát, Nhân dân
tự vệ. Tư lệnh chiến trường lại do Đại tá Quang đảm trách, tôi chỉ la
cấp thừa hanh. Tôi sinh ra trong binh chủng Thiết giáp; nếu tấn công thi
rất thích hợp cho binh chủng nay, con phong thủ thi thiết giáp chỉ la
bia đỡ đạn cho những tro chới của súng chống chiến xạ Tôi cang suy nghĩ
bao nhieu, lại cang nhin thấy sự bất lực của minh. Con ngựa sắt của tôi
đâu, hay bây giờ chỉ con những tay súng tai tử đối chọi với những kẻ
gian hung đang đien khung xông vao lửa đỏ chẳng khác gi những con thieu
thân? Chợt phía Tây, h+ớng về phía Đông, một chiếc Dakota 47 lu lu đang
tiến tới va đáp xuống phi trường
Máy bay mở cửa, tôi dứng nghiêm chào Tướng Phạm Văn Phú và phái đoan.
Tướng Phú tiến đến bắt tay tôi va ngồi len xe của Toa Hanh chánh đi về
Ban Me Thuột. Ngồi cạnh Tướng Phú, tôi thấy ông có vẻ đăm chieụ Ông
không hỏi tôi điều chi, cũng như tôi vẫn giữ im lặng, trông chờ một hy
vọng. Hinh như, Tướng Phú đang lo nghĩ về quận Đức Lập, đến bay giờ con
hay mất?
Đoàn xe trực chỉ Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Tướng Le Trung Tường,
Đại tá Vũ Thế Quang đa chờ sẵn để hướng dẫn phái đoan vao Trung tâm Hanh
quân Sư đoan. Tại đây, đa có sự hiện diện của Đại tá Nghin, Tỉnh trưởng
kiem Tiểu khu trưởng Quảng Đức để thuyết trinh về tinh hinh quận Đức
Lập len Tướng Phú va phái đoan. Nhin tren bản đồ hanh quân, sau mấy câu
mở đầu chiếu lệ, Đại tá Nghin ngậm ngui:
- Cộng quân đa pháo kích và tấn công vào quận Đức Lập vào lúc 5 giờ
sáng, rất nặng va thiệt hại đáng kể. Bộ chỉ huy Chi khu đa trúng nhiều
đạn pháo binh 130 ly, nên Chi khu trưởng đa đưa Bộ chỉ huy Chi khu rời
khỏi quận va hiện giờ vẫn con đang chiến đấu...
(Sau này, tôi được gặp lại Trung tá Nguyễn Cao Vực, Quận trưởng Đức Lập
tại trại tu Vĩnh Phú, Tân Lập. Trung tá Vực đa kể cho tôi biết trận đánh
vào Chi khu như sau: Khi tấn công vào Chi khu, VC đã dung pháo binh 130
ly và SKZ 82 ly — súng không giựt 82 ly — bắn vào Chi khu và Chi đoàn
Chiến xạ Với đạn SKZ 82 ly bắn trực xạ, địch đa lam te liệt các chiến xa
của ta, nen không con được xử dụng ngay từ phút đầụ Chi khu cầm cự cho
đến sáng, khi mặt trời bắt đầu len thi thất thủ)
Sau đó Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 BB, kiêm Tư lệnh Mạt
trận Ban Mê Thuột, lên trinh bày kế hoạch phong thủ của Trung đoàn 53 BB
do Trung tá Vo Văn Ân làm Trung đoàn trưởng. Nói là Trung đoàn, nhưng
cấp số chỉ con Bộ chỉ huy Trung đoàn và một Tiểu đoàn ma thôi, cộng them
một Trung đội Pháo binh 105 ly để lam lực lượng tiếp ứng cho Darlac va
Quảng Đức khi bị tấn công
Đại tá Quang trình bày kế tiếp về kế hoạch phong thủ của thị xã Ban Mê
Thuột. Thị xa Ban Mê Thuột được phong thủ với tất cả các đơn vị trú đóng
như sau:
- Phía Bắc có Trung tâm Huấn luyện Sư đoàn 23 BB
- Phía Nam có Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 BB
- Phía Đông có Bộ chỉ huy Chi khu Ban Mê Thuột
- Phiá Tây, vùng nguy hiểm nhất, có hậu cứ của Thiết đoàn 3 Thiết giáp va Kho đạn Mai Hắc Đế.
- Trừ bị cho thị trấn Ban Mê Thuột là Trung đoàn 53 trừ bị, đóng tại phi trường Phụng Dực
Nghe xong phần trình bày của Đại tá Vũ Thế Quang, Tướng Phú có vẻ hài
lòng và không chê trách cũng như cho những chỉ thị đặc biệt. Lúc bấy giờ
đa quá trưa, tôi cho dọn cơm ra mời Tướng Phú, Tướng Tường, Đại tá
Nghin cùng phái đoan ăn tại chỗ. Đây la bữa cơm rất dạm bạc. Tất cả đều
dung cơm đĩa, uống nước ngọt hay biạ Tướng Phú ăn rất nhanh để con kịp
trở về Pleiku theo doi tinh hinh chung của Quân đoan 2. Tôi cũng không
ngờ, đây la bữa ăn cuối cung giữa tôi va Tướng Phú, cấp chỉ huy trực
tiếp của tôị
Ăn xong, chính tôi đích thân đưa tiễn Tướng Phú ra phi trường Phụng Dực
để về Pleikụ Khi bắt tay tạm biệt, Tương Phú đa vỗ vai tôi nhỏ nhẹ:”Chú
mầy cẩn thận coi chừng chúng nó đánh nghe”. Đây chỉ là câu nói thông
thường ma cuộc đời binh nghiệp đa dạy cho tôi, nghĩa la hầu hết các cấp
chỉ huy đi thăm các đồn bót, hay đơn vị tiếp giáp với địch đều dặn do
với thuộc cấp của minh bằng câu nói tren. Nói khác hơn, không có tính
cách khẩn cấp, nguy ngập. Nếu nghiem trọng, các cấp chỉ huy sẽ chỉ thị
một cách tỉ mỉ hơn nhiều
Khi về đến Ban Mê Thuột tôi lại phải đến nha Tướng Tường để đưa Tướng
nay về Pleiku bằng trực thăng. Bước vào nhà tôi thấy Tướng Tường đang
nói chuyện với gia đinh va sau đó ông ra phi trường L19 cũng là phi
trường trực thăng. Trong lúc chờ đợi phi công trực thăng đến, có ông
Paul Struharick, la đại diện cho Tổng lanh sựMyẠ tại Nha Trang đến hỏi
Tướng Tường về tinh hinh VC xung quanh Ban Me Thuột ra saọ Tướng Tường
cười hí hí, có vẻ tự tin tự đắc, cầm cây gậy tướng đánh vao mông đít
minh bộp bộp, rồi trả lời bằng tiếng Anh:”Don't worry about that”. Ông
Paul cụt hứng nen không hỏi them va Tướng Tường cũng len trực thăng bay
về Pleikụ
Việc đầu tien trở về Bộ chỉ huy Tiểu khu là tôi triệu tập ngay Bộ tham
mưu, các đơn vị trưởng quân đội tại thị xa và các ty sở thuộc Toa hanh
chánh cũng như các Ty trưởng chuyen môn. Tôi trinh bay tinh hinh quân
sự. Quận Thuần Mẫn đa bị mất. Quốc lộ 14 nối liền Pleiku - Ban Me Thuột
đa bị cắt. Quốc lộ 21 từ Ban Me Thuột - Nha Trang qua quận Khánh Dương
đa gián đoạn va sáng nay quận Đức Lập đa bị CS tấn chiếm, va như vậy
Quốc lộ từ Quảng Đức - Ban Me Thuột coi như không xử dụng được nữạ Không
cần phải la nha quân sự, mọi người cũng đủ hiểu, Mặt trận Ban Me Thuột
coi như bị bao vây tứ phía, va cần đặt câu hỏi về sự kiện hoạt dộng quân
sự của địch va thấy ro ý đồ của địch. Rieng phía Tây thị xa con dồn Ban
Đon, cách xa Ban Me Thuột khoảng 40 km
Cuối cùng việc cấm trại 100% từ quân nhân đến công chức là điều bắt buộc
trong thời gian nghiêm trọng nay và tôi ra lệnh:”Sẵn sang ứng chiến!”
Để tăng cường cho Ban Mê Thuột, tôi quyết định nhanh chóng rút ngay Tiểu
đoàn 204 Địa phương quân đang đóng tại Ban Don về thị xa. Việc di
chuyển nay không phải là dễ dang vi phải trưng dụng hết tất cả các xe
GMC của các đơn vị đóng tại Ban Me Thuột mới đủ chuyen chở cả một Tiểu
đoan. Trước khi trở về tư dinh, tôi đa cẩn thận đi quan sát tất cả những
yếu điểm phong thủ của thị xa va cho họ những chỉ thị cần thiết. Có một
điều tôi hơi an tâm một chút la các đơn vị như Địa phương quân, Nghĩa
quân, Cảnh sát va Nhân dân tự vệ đều thi hanh nghiem chỉnh lệnh cắm trại
100% va báo động
Chẳng cần tắm rửa và du người nha đa dọn cơm sẵn, tôi vẫn đi thẳng vào
nơi làm việc của tôi với bản đồ hanh quân. Tôi như muốn suy nghĩ về tình
hình và ý đồ của địch. Du cấp nhỏ, nhưng tôi vẫn cố gắng phân tích theo
nhan quan của tôi để mình con nước con tát trong việc giữ Ban Me Thuột,
vung trách nhiệm của minh bằng mọi giá. Nhin qua những mũi ten va những
đơn vị của Cộng quân, theo như bản phối trí của Quân đoan: các Sư đoan
320, F10, 316 của Cộng quân vẫn con ở phía Tay Pleiku va Kontum. Những
tin tức các sư đoan nay đa về Ban Me Thuột vẫn chưa được Quân đoan xác
nhận, vẫn con phải theo doi va kiểm chứng, nói theo Phong 2 của Quân
đoan
Tôi đa tiên đoán, Ban Mê Thuột sẽ là nơi thử lửa đầu tiên cho việc tiến
chiếm miền Nam. Bằng chứng là VC đa chặt tay chân của Ban Me Thuột rồi
bằng cách nhổ 2 cứ điểm Thuần Mẫn và Đức Lập, Khánh Dương coi như đứt
đoạn. Vì vậy, tôi đa nhiều lần xin Tướng Phú tăng cường quân chính qui
bằng cách đưa Trung đoan 45 BB về phong thủ Ban Me Thuột
Với nhiều lần xin quân viện, mai đến ngay 4/3/75, Tướng Phú mới bằng
lòng cho Trung đoaàn về Ban Mê Thuột. Lệnh di chuyển đa được ban hành. 2
giờ chiều cùng ngày, toàn thể đơn vị thuộc Trung đoàn 45 đa ngồi len xe
GMC để chờ lệnh Tướng Tường la xe chuyển bánh. Không ngờ vừa lúc đó,
pháo kích của Cộng quân rót vao thị xa Pleiku, cũng Bộ Tư lịnh Quân đoan
2. Tướng Phú đang ở Nha Trang được báo cáo của Tham mưu trưởng Quân
đoan 2 về việc pháo kích nay, đa không ngần ngại hét vao máy:”Tôi ra
lệnh cho Trung đoan 45 BB không di chuyển về Ban Me Thuột nữa, ở lại
Pleiku vi Mặt trận Pleiku đa bung nổ rồi”
Qua ngày hôm sau, tức ngày 5/3/96, Chi khu Thuần Mẫn thuộc tỉnh Phú Bổn,
nằm ngay Quốc lộ 14, lại bị Cộng quân đánh chiếm. Sự kiện này càng củng
cố ước đoán của Tướng Phú:”CS sẽ tấn công Pleiku” là đúng
Cho dù ngày 7/3/95, chi khu Khánh Dương thuộc tỉnh Khánh Hoà nằm trên
trục lộ Ban Mê Thuột - Nha Trang bị mất ma Tướng Phú vẫn chưa nghĩ đến
việc CS sẽ tấn chiếm Ban Mê Thuột. Rồi đến sáng ngay 9/3/75, Tỉnh Quảng
Đức đa báo cáo cung Tướng Phú về tinh hinh rất bi đát của Quảng Đức, các
chi khu đang giao tranh với cấp số đáng kể của Cộng quân. Tôi như người
có miệng phải câm, nhin đồi núi chập chung của Cao nguyen ma long héo
hắt. Vận mệnh của cả đất nước đang bị cấp chỉ huy lượng giá sai va chiến
thắng sẽ đến của CS chỉ la may mắn
Tôi phải đương đầu với thử thách này đến bao giờ??? Nghĩ đến câu dặn do
của Tướng Phú để dối long:”Hay coi chừng tụi nó đánh nghe”, như một câu
nói thôn thường. Rồi “Don't worry about that” của Tướng Tường nói một
cách kieu hanh với ông Paul. Cộng them lời tường trinh của Trung tá
Trưởng Phong 2 Quân đoan: Cộng quân vẫn con luẩn quẩn tại Pleiku,
Kontum, kể cả những đơn vị thiết giáp, lam tôi cũng bớt lo âu phần naọ
Va tự an ủi minh, nếu Cộng quân có tiến chiếm Ban Me Thuột, minh con cầm
cự được đôi ba ngaỵ Khó khăn lắm tôi mới chợp mắt qua đem, với những lo
âu...
TRẬN ĐÁNH MỞ MAN: Ngày 10/3/75
Khoảng 2 giờ sáng, khi Ban Mê Thuột con đang trong giấc điệp, bỗng bị
đánh thức dậy bằng tiếng pháo kích inh tai, rợn óc của Cộng quân. Tôi
rất binh tĩnh vi đa nếm mui hỏa tiễn của Cộng quân ở những trận đánh
trước Tết Mậu Thân tại Kontum, tại Quảng Ngai, Đa Nẵng va cả trận đánh
Hạ Lao, v.v... Từ lầu hai tôi chạy xuống hầm chỉ huy ma những vị Tiểu
khu trưởng tiền nhiệm đa xây cất. Đây la một hầm rất kie cố, lam bằng be
tông cốt sắt, có thể chống được pháo kích. Trong hầm trang bị đầy đủ
máy móc truyền tin để lien lạc tới các đơn vị trực thuộc cũng như lien
lạc với cấp tren, hay cấp trung ương rất dễ dang. Tôi lien lạc ngay với
Thiếu tá Hy, Trưởng Phong 3 Tiểu khu dưới hầm TOC của Tiểu khu:
- Pháo kích từ hướng naỏ
- Dạ thưa, Cộng quân bắn từ phía Tây tớị
- Bắn vao vị trí naỏ
- Trinh Đại tá, bắn vào Bộ chỉ huy Tiểu khu, Đai truyền tin ở sân bay L19, Bộ tư lệnh Sư đoan 23 BB va Kho đạn Mai Hắc Đế.
- Anh hay gọi ngay Pháo binh của mình cũng như Pháo binh Sư đoàn 23 BB tai Phụng Dực phản pháọ
Tiếng pháo kích vang rền thị xa Ban Mê Thuột cho đến 4 giờ sáng. Chúng
dung chiến thật tiền pháo hậu xung va tấn chiếm kho đạn Mai Hắc Đế ở
phía Tây, bằng mũi dui thật manh liệt. Đơn vị đồn trú đa chống trả một
cách anh dũng va kho đạn vẫn vững vang. Về phía Bắc, Đai Truyền tin của
Không quân cũng bị tấn công...
Với chiến thuật biển người (Human Wave) va đánh sát lá cà, chỉ cần nửa
tiếng đồng hồ sau, Cộng quân đa tiến tới sát miệng hầm và dung lựu đạn
tung vao miệng hầm. Một số sĩ quan va binh sĩ ta bị tử thương va bị
thương. Và chỉ 15 phút sau, TOC đa báo cáo với tôi, Đai Truyền tin đa
lọt vao tay giặc. Về phía trại Mai Hắc Đế, với những tay súng can trường
ta da bẻ gẫy nhiều đợt tấn công của Cộng quân. Khoảng 5 giờ sáng,
TOC/TK báo cáo Đại úy Chỉ huy trưởng bị thương nặng. Kho đạn như rắn mất
đầu va chỉ cầm cự đến 5 giờ 30 thi kho đạn bị tran ngập. Như vậy mặt
trận về phía Bắc va Tây đa bỏ ngo, bây giờ chỉ con trông chờ vao những
đơn vị phía Nam va Đông.
Đạn pháo kích 130 ly vẫn rót đều vào thị xa. Lý do dễ hiểu la pháo binh
của ta tại phi trường Phụng Dực phản pháo với đạn 105 ly đâu có tầm xa
như đạn 130 ly của CS, đang đặt tuốt phía Tâỵ Vi vậy sự phản pháo trở
nen vô vọng, không thể khóa họng những khẩu đại pháo của địch. Nhất la
pháo binh của ta không có L19 hướng dẫn, chỉ điểm, điều chỉnh chính xác.
Đến 7 giờ sáng, địch ngưng pháo kích và cũng ngay lúc nay Thiếu tá Trưởng ty Cảnh sát Darlac báo cáo thẳng với tôi:
- Thưa Đại tá, chiến xa CS đa tiến vào thị xa va hiện đang bố trí xung
quanh nha thờ thị xa. (Cũng nen ghi nhận là nhà thờ Công giáo này nằm ở
trung tâm thanh phố).
Lúc bấy giờ, vi Tiểu khu nằm dưới hệ thống chỉ huy của Sư đoan 23 BB va
để tiện phối hợp, ban bạc kế hoạch chóng trả nhanh chóng. Tôi liề báo
cáo va xin Tướng Phú được qua chung với Đại tá Vũ Thế Quang, tại Trung
tâm Hành quân Sư đoan 23 BB. Tướng Phú chấp thuận.
Mối lo ngại lớn lao của Đại tá Quang và tôi là chiến xa CS đa lọt vao
giữa thị xa. Với kinh nghiệm của một sĩ quan kỵ binh tôi hiểu rất ro hỏa
lực tấn công của những con ngựa sắt naỵ
Tia hy vọng tới, khi trên bầu trời Ban Mê Thuột, đa xuất hiện L19 của
Quân đoàn 2 gởi tớị Những chiếc phản lực cơ chiến đấu đa vần vũ trong
vung giao tranh để yểm trợ cho Tiểu khu Darlac va Sư đoàn 23 BB. Tinh
thần chiến đấu của quân cán chính len rất caọ Những đoan chiến xa CS từ
hướgn Bắc tiến về phía Nam đa bị các đơn vị Điạ phương quân của Tiểu khu
đánh chặn lạị Sư tiến quân của CS rất chậm chạp.
9 giờ tin vui đem tớị Ta hạ được 2 chiến xa T54 địch và đang bốc cháy
trước Câu lạc bộ Sĩ quan trên đường Thống Nhất. Sự chênh lệch về lực
lượng ta va địch quá ro. Địa phương quân phải so tai với quân chính qui
Bắc Việt, với sự yểm trợ chiến xa va pháo binh. Con ben ta, đội pháo
binh tại Phụng Dực, cũng như phi pháo không thể yểm trợ vi dân chúng
chưa được di tản. Cộng them, hỏa lực phong không của địch rất day đặc,
lam phản lực cơ A37 của ta cũng không thể xuống thấp để thả bom cho
chính xác được.
12 giờ 45, Thiếu tá Hy, Trưởng phòng 3 Tiểu khu báo cáo: BCH/TK đa bị
pháo kích nặng nề. Một trái đa đánh trúng hầm TOC/TK lam nhiều người
chết và bị thương. Trong số đó có Trung úy Năm, Trưởng phong 5/TK đa đền
nợ nước. Hệ thống va máy truyền tin chỉ huy bị hư hại nặng. Thiếu tá Hy
xin phép được di chuyển Bộ Tham mưu ra khỏi vị trí. Tôi chấp nhận ngaỵ
13 giờ 30, Thiếu tá Hy báo cáo, địch quân đa tập trung pháo binh bắn vào
Bộ Chỉ huy, sau đó chiến xa va bộ binh đang tran ngập vao hệ thống
phong thủ.
14:00 giờ, BCH/TK coi như thất thủ hoàn toàn. Tôi liền báo cáo cho Tướng
Phú. Tướng Phú ra lệnh cho trực thăng vận Liên đoàn 21 Biệt động quân
xuống Ban Me Thuột để tái chiếm BCH/TK.
Mai đến 16 giờ chiều, tôi mới nhận tin của Quân đoàn 2 rằng Liên đoàn
21/BDQ đang được trực thăng vận xuống Ban Me Thuột để chiếm lại BCH/TK.
17:00 giờ, đoàn trực thăng đa đến gần thị xa nhưng không đáp xuống được
vì phong không CS bắn quá rát. Đến mai 18 giờ, Quân đoan 2 mới quyết
định cho thả Lien đoan 21 BDQ xuống BCH/Chi khu Buôn Hô rồi đi bộ tiến
vao thị xa Ban Me Thuột. Tôi lien lạc với Trung tá Dậu, Chỉ huy trưởng
Lien đoan 21 BDQ, hối thúc Trung tá Dậu phải cho tiến quân nhanh vao thị
xa để tái chiếm lại BCH/TK. Mai đến 11 giờ khuya, Trung tá Dậu cho biết
rằng đa tới ven thị xa Ban Me Thuột ma không tiến vao được vi bị VC
chặn đánh.
Tướng Phú ra lệnh cho Trung tá Dậu, với bất cứ giá nào đêm nay Liên đoàn BDQ phải tái chiếm BCH/TK.
Sau khi CS chiếm được BCH/TK/DL xong là tiếng súng pháo binh cũng như súng trường đều được im lặng khắp mọi nơị
Tôi báo cáo len Tướng Phú kết quả trong ngày là Tiểu khu bắn cháy 7
chiến xa T54 CS và rất nhiều xác VC. Tướgn Phú rất vui khen ngợi TK/DL
(Darlac).
Tôi theo doi cuộc tiến quân của Liên đoàn 21 BDQ từng phút, cứ 15-20
phút là tôi liên lạc với Trung tá Dậu hỏi coi đa tiến tới đâu rồị Vẫn
những câu trả lời ngắn gọn:”Đang tiến nhưng gặp nhiều ổ kháng cự. Ở
trong hầm TOC/SD/23 BB suốt đem, tôi va Đại tá Vũ Thế Quang không nghe
một tiếng súng nổ nao của bạn va địch cả.
Tôi ra lệnh cho ông Phó Tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Vỵ và Trung úy Dzi hiện
là tuỳ viên của tôi, nhưng trước la sĩ quan Chiến tranh Chánh trị của
Tiểu khu, viết bài keu gọi dân chúng yên tâm, ngay mai Quân đoan 2 sẽ
chiếm lại Bộ Chỉ huy Tiểu khu .
Tôi đọc ghi vao băng và phát ra cho dân trong thị xa Ban Mê Thuột nghe lúc 1 giờ sáng ngày 11/3/75.
Trong đem, Phòng 3 Bộ Tổng tham mưu liên lạc với tôi bằng điện thoại
nhiều lần, hỏi về tiAh hinh thị xa như thế naọ Tôi báo cáo: BCH/TK đa
mất, Kho đạn Mai Hắc Đế, phi trường L19 đa bị CS chiếm từ sáng. Tôi va
Đại tá Quang đang ở BTL/SD cố thủ, chờ quân viện của Quân đoan 2. Tinh
thần anh em sĩ quan va binh sĩ rất cao, không có gi nao núng.
Lực lượng trừ bị của Tiểu khu là Trung đoàn 53 với 1 Tiểu đoàn và 1
Trung đội pháo binh cũng bị CS tấn công từ sáng nên không thể tiếp cứu,
giúp đỡ gi được. cho Tiểu khu Darlac.
Tôi chờ đợi Liên đoàn 21 BDQ tiến vào thị xa, 2 giờ sáng ngày 11/3, rồi 3
giờ, rồi 4 giờ cho đến hừng sáng Liên đoàn 21 BDQ cũng không tiến vào
được.
Đúng 7 giờ sáng ngày 11/3/75, CS Bắc Việt bắt đầu na pháo binh vào Bộ Tư
lịnh Sư đoan 23, chiếc xe Jeep của tôi đậu gần TOC cũng bị trúng pháo
nổ tung rạ Tôi đoán chắc rằng CSBV đang cho pháo binh bắn vao vị trí
BTL/SD 23 để chuẩn bị tấn công. Tôi nói với Đại tá Vũ Thế Quang, lúc nay
la lúc nguy ngập, sắp cận chiến, nếu không có cấp chỉ huy đứng ben cạnh
binh sĩ để chỉ huy, thi binh sĩ sẽ bỏ chạy khi địch quân xung phong.
Đại tá Quang đồng ý. Tôi nói với Đại tá Quang — Vi ở trước cổng BTL/SD
(Bộ Tư lịnh Sư đoan) có 1 chiếc M113, nen để tôi trấn giữ mặt đó, con
Đại tá Quang thi trấn giữ phía Tây Nam.
Lúc nay khoảng 7 giờ 30 sáng. Tôi liền đi thẳng ra cửa BTL/SĐ đến chiếc
thiết quân vận M113 đang bố trí tại cổng, dưới các loạt pháo kích 130 ly
của CSBV gây nên một vùng khói lửa mịt mu.
Tôi nhảy len chiếc thiết quân vận để quan sát thi thấy ngay ngoài cổng
BTL khoảng cách độ 300 m đầy chiến xa T54 đa bao xung quang BTL. Đồng
thời trong lúc nay, Trung úy Hoành đặc trách phong thủ dinh Tỉnh trưởng
với 1 Trung đội Địa phương quân, báo cáo tư dinh, đang bị chiến xa tấn
công va bắn trực xạ vao lầu tư dinh, đa bị sụp đổ. Trung đội phong thủ
đa hạ được 2 chiến xa địch ngay trước cổng dinh bằng súng M72. Tôi hết
sức động vien khen ngợi Trung úy Hoanh cố gắng chống cự.
Tôi cũng biết CS tấn công xong tư dinh là tấn công BTL SĐ 23.
Các chiến xa T54 đậu xung quanh BTL ngạo nghễ coi thường đối phương,
không cần phải ẩn núp, ngụy trang chi cả, vi chúng nó biết bên ta không
có một chiến xa nào cả để đương đầu, có thể tiêu diệt chiến xa của
chúng.
Trung úy Hoành báo cáo chiến xa CS đa ủi sập cổng tư dinh và tấn công
vào phía trước. Trung úy Hoanh báo cáo vi có một số tử thương cung bị
thương, không thể chống giữ với đợt tấn công bằng chiến xa của địch, nên
binh sĩ rất nao núng va xin phép được rút ra khỏi tư dinh.
Tôi chấp thuận
(Trong khi chiến xa CS tấn công bắn trực xạ đại bác của chiến xa vào lầu
của tư dinh, 3 đứa con trai của tôi vẫn con ở trên lầu, có một đứa con
trai út bị sức ép của vien đạn đại bác nổ ra, nó bị hơi đẩy té từ lầu,
lăn xuống thang, rớt xuống đất bị thương ở ngực va chân).
Trung úy Hoành hướng dẫn Trung đội Điạ phương quân con lại thoát ra
ngoaị Con 3 dứa con trai của tôi thi được toán phục dịch trong nhà dẫn
theo Trung độị
Tôi biết, sau khi thanh toán tư dinh, thì bọn CS sẽ cho lệnh xung phong vào BTL/SĐ 23.
Giờ phút nguy ngập sắp đến, tôi sợ binh sĩ bỏ chạy, liền nhảy xuống M113
đi một vong theo hang rao phong thủ để kiểm soát binh sĩ và nhất là với
mục đích cho binh sĩ thấy mặt cấp chỉ huy của minh, cung trực tiếp tham
dự vào trận đánh, nên không dám bỏ chạỵ Tôi nói với binh sĩ hay can đảm
chống giữ BTL vi lực lượng của Quân đoan 2 sắp tớị Kiểm soát va ra lệnh
xong, tôi liền nhanh chân trở lại chiếc M113 va nhảy phóc len tren,
quan sát lại thi thấy các chiến xa T54 vẫn con ở vị trí cũ.
Những giây phút cuối cung của Bộ Tư lệnh SĐ 23 BB
Khoảng 10 giờ sáng, tiếng pháo địch im tiếng. Nếu ai đa ở trong binh
nghiệp thi đều hiểu ro tâm trạng của những phút giây im lặng naỵ Nó
hoang mang va lo sợ hơn nhiều khi bên tai minh có tiếng súng nổ. Người
ta cho là say súng. Mà thật vậy, khi đa lam quen với chiến trận, việc
nghe thấy tiếng nổ lam mọi người quen chính minh va chỉ con một cách duy
nhất la chiến đấụ Chiến đấu để sống con va ít ai con để ý đến thần chết
đang lảng vảng quanh minh. Tôi lại nhảy len pháo tháp quan sát va thấy
những chiếc xe đang chuyển bánh. Tôi nhảy vội xuống va la lớn:”Sẵn sang
ứng chiến!”. Tôi dứng cạnh trưởng xa va căn dặn chỉ được bắn khi chúng
tới gần 100 m nhé. Các anh em đều răm rắp tuân lệnh theo va chờ đợi khúc
phim nghẹt thở bắt đầụ
Chiến xa địch đầu chầm chậm tiến thẳng vào chiết vận xa M113. May ma
ngụy trang khéo léo nen chúng không thấỵ Tôi mừng quá va nói thầm trong
bụng:”May sẽ chết con ạ”... Khói đen từ ống thoát phun ra mu mịt, chiến
xa T54 địch, chiếc đầu chầm chậm tiến vaọ Chúng vẫn chưa biết có chiếc
M113 đang chờ đón nó vao cửa tử, vi được ngụy trang kỹ cang như đa nói
tren.
Tiếng máy keu ầm và các chiến xa đâm thẳng vào cổng Bộ Tư lệnh. Những
con cua sắt i ạch tiến gần cổng 250m, rồi 200m, rồi 100m. Thần kinh tôi
như gian rạ Tất cả anh em chúng tôi hồi hộp, giờ sinh tử bắt đầụ Tôi hét
lớn “Bắn!”. Thay vi chúng tôi phải nghe tiếng nổ thật lớn của vien đạn
vút ra khỏi nong súng, thi trái lại cây súng chỉ cho chúng tôi một tiếng
khô khan, lang xẹc:”Cóc!”.
Trong khi mắt mọi người và tôi dán chặt vào những con cua sắt. Tôi gào lên:
- Gi thế! Gi thế!
Xạ thủ trả lời:
- Trở ngại tác xạ, Đại tá!
- Mở “culasse” ra xem?
- Trinh Đại tá, “Percuteur” bị gẫy!
- Có “Percuteur” thay thế không?
- Thưa... không!
Tiếng “thưa không” làm tôi toát mồ hôi, vi đây là hy vọng cuối cung cho
sự cầm cự với Cộng quân để chờ viện binh tớị Cây súng đại bác 106 ly
không giựt này là phương tiện duy nhất chống trả với T54 của địch mà
thôị Các loại súng khác chỉ la tro đua với những con cua sắt naỵ
Bây giờ tiêu diệt chiến xa địch bằng phương tiện gi đâỷ Tôi biết tôi
phải rất binh tĩnh mới cứu được anh em và chính minh. A phải rồi, chúng
ta còn oanh tạc cơ đang bay lượn trên không. Những chiếc phản lực cơ A37
sẽ xơi tái chúng một cách dễ dang. Cũng nen biết từ ngay hôm qua cho
đến sáng nay, phi cơ của ta chỉ có thể thả bom ở các mục tieu xa ở ngoai
thị xa.
Trong thị xa còn 50,000 thường dân chưa được di tản, vi vậy tôi đa
trinh với Tướng Phú về việc nay và ông đa chấp nhận không oanh tạc vao
khu đông dân cự Cũng cần ghi nhận, từ trước tới giờ, chưa bao giờ thị xa
bị pháo kich của CS hoặc tấn công nen không gia đinh nao có hầm trú
ẩn...
br>
Nay thì chiến xa địch đa lọt vào thị xa thì các oanh tạc cơ cũng không
có cơ hội nhao xuống thấp để đánh trúng mục tiêu vì phong không của Cộng
quân quá mạnh. Cứ mỗi lần máy bay quan sát L19 hay oanh tạc cơ bay thấp
một chút là phòng không địch đa bắn len trời như cảnh đốt pháo bông
trong ngay Quốc Khánh.
Tôi liên lạc ngay với L19 và nói chấp nhận sự nguy hiểm để dung phản lực
cơ dội bom thẳng vào các chiến xa đang tiến vào Bộ Tư Lịnh Sư đoàn 23
BB, và như vậy mới chặn đứng cuộc xung phong của CS. Trong lúc chờ đợi
phi cơ lam thịt mấy con “cua sắt”, tôi đi lui đi tới kế cận các chiến sĩ
đang ghi tay súng chống trả lại địch quân. .
Thình lình, mọi người nghe một tiếng nổ “ầm” thật khủng khiếp vang dội
cả một góc trờị Cát, đá, bụi tung len cao cả hang trăm thước. Thôi hỡi
ơi! Trung tâm Hành quân Sư đoan (TOC), nơi đầu nào Mặt trận Ban Me Thuột
để chống lại địch quân đa bị Không quân ta đánh trúng. .
TOC bị sập và các phương tiện truyền tin thiết trí trong đó đều tieu
tung theo mây khóị Một số lớn sĩ quan, binh sĩ ở trong TOC bị chết và bị
thương. Ai cũng biết, trong trận mạc, truyền tin là huyết mạch chính.
Bây giờ không còn để lien lạc với cấp tren va thông tin cho cấp dưới nữạ
Không một chút suy nghĩ, tôi chạy về phía sau TOC để ban với Đại tá
Quang. Tôi nói nhanh với Đại tá Quang nhận định của tôi:
- Chúng ta không thể cố thủ được nữa vi đầu nao của chúng ta la Trung
tâm hanh quân nay đa sụp đổ. Không có truyền tin, không có chiến xa lam
sao chận đứng những chiến xa T54 và bộ binh CS đang tiến vào căn cứ.
Trong khi đó chúng ta không có viện binh. Tồi đề nghị chúng ta rút ra
khỏi vị trí phong thủ BTL Sư đoan ngay để bảo toan lưc lượng con lại .
Đại tá Quang đồng ý và ra lịnh rút quân. Chúng tôi vọt ra khỏi hang rào
va hướng về phía Tây tức là “Suối Ba Hoàng” - cách BTL Sư đoan 250m.
Cũng may mua nay là mua khô nên suối cạn. Đáy suối lại thấp hơn mặt đất
tới 15m nen rất dễ cho việc ẩn nấp. Anh em binh sĩ đi theo rất đông,
chừng 100 ngườị Xa xa tiếng phát thanh tuyen truyền của địch quân gần
Chua Phật giáo của Tỉnh hội Phật giáo Ban Mê Thuột kêu gọi các binh sĩ
ta đầu hàng.
Chúng tôi tiếp tục di chuyển về phía Tâỵ Nhin anh em binh sĩ, súng tren
vai va lầm lũi theo minh. Đến giờ phút nay tôi mới thấy tinh chiến hữu
bên nhau thắm thiết. Lòng tôi bỗng chung xuông. Không có bút nào tả cho
hết nỗi nhọc nhằn, buồn tủi của chúng tôi khi phải xa lià BLT Sư đoàn,
tượng trưng cho sự thách đố với địch quân. Tôi không dám ngoảnh mặt nhin
lại một lần cuối vi sợ không biết chính minh có đủ can đảm để không nhỏ
nước mắt cho số phận hẩm hiu, xui xẻo cho Ban Me Thuột, cho anh em binh
sĩ, cho chính mình không? Đừng oanh tạc lầm, thì bây giờ minh đâu đến
nỗi trở thanh kẻ chạy trốn như thế naỵ Ôi Ban Mê Thuột, xin tạm biệt mi
va hứa sẽ trở về ben mi suốt đời...
Hinh ảnh lê thê lếch thếch của đoàn quân ô hợp, như những khúc phim tren
màn bạc cho trận thế chiến II - trận Dunkerque năm 1940, mà lực lượng
đồng minh phải bỏ thanh phố vi bị Đức tran ngập. Lúc đó ho con thiết
giáp, nhưng thiết giáp của Đức tối tân hơn nen phải ra hàng. Họ chạy đến
bờ biển va đa kiếm bất cứ phương tiện nao như du thuyền, canô hay thung
phao để thoát.
Con tôi bây giờ còn gi đâỵ Sinh ra làm lính thiết giáp ma bây giờ di
chuyển như lính bộ binh. Tôi cũng không biết minh là ai bây giờ. Minh là
cấp chỉ huy hay chỉ la một binh sĩ tầm thường? Lo cho anh em ra sao đây
va chính minh sẽ ra sao đâỷ Trong những giây phút cuối cung của đời
binh nghiệp, chết hay sống là chuyện binh thường. Lúc vao lính, tôi đa
có lúc nghĩ đến lúc minh lam thân chiến bại hay một vien đạn xuyen vao
lồng ngực. Nhưng không ngờ trong cảnh huống nay nó lại sầu đau chất ngất
như lúc này, tủi nhục như bây giờ? Tôi chưa dám nghĩ quẩn vi ben cạnh
minh còn anh em đang trông chờ nơi minh. Chỉ một phút sai lầm, sẽ đem
anh em và minh xuống hố sâu vực thẩm. Tôi chỉ ban với Đại tá Quang. Minh
phải phân tán mỏng để tránh sư phát giác của địch quân.
Tôi đề nghị:”Toa” đi về một phía, “moa” một phía va cố gắng tìm về Nha
Trang nhé. Đại tá Quang gật đầu va chọn ngay cho minh một quyết định. Vị
Tư lịnh chiến trường Ban Mê Thuột nói với tôi:”Moa sẽ đi về hướng Nam,
đến gần cầu khoảng cách 14km là tim đường về Nha Trang”. Con tôi không
con chọn lựa nao khác hơn la đi về hướng Tây, nằm về khu ca phe của
Trung tướng Hoang va chờ trời tối sẽ bọc lên phía Bắc Ban Me Thuột va từ
đó tim về Nha Trang. Thật là đau thương, khi lam việc có nhau, và giữa
phút nghiem trọng nay chúng tôi cần có nhau hơn. Nhưng hoan cảnh lại
không cho phép như vậỵ Đanh chia tay nhau và may ra con cứu được lấy
định mệnh riêng của mình.
Trước khi chia tay, chúng tôi bên tập trung anh em binh sĩ lại và tôi
tuyên bố:
- Tôi xin thay mặt cho chính phủ và quân đội tuyen dương công trạng của
anh em - những chiến sĩ anh hùng, can trường đa chống trả manh liệt với
bọn CS xâm lược miền Nam với một tinh thần hy sinh cao độ. Từ 2 giờ sáng
ngay hôm qua cho đến cho đến giờ nay các anh em đa làm tron nhiệm vụ mà
đất nước giao phó cho du địch quân có đông gấp mười chúng tạ 2 quả bom
rơi nhầm vào Trung tâm Hành quân đa đưa chúng ta tới nông nỗi naỵ Bây
giờ anh em phân tán mỏng đừng dể địch quân phát giác và tim cách trở về
Nha Trang. Hy vọng lúc đó chúng ta sẽ tập họp lại để tiếp tục chiến
đấu... Toàn dân ghi công anh em. Tổ quốc VN ghi công anh em. Xin tạm
biệt.
Với nét buồn vô tận, anh em đa nghe tôi nói như lời biệt ly sầu thảm.
Nhiều anh em đa bật khóc, khiến tôi không dám nhin thẳng vao mặt họ và
lặng lẽ giơ tay chao anh em. Nhin anh em binh sĩ, Đại tá Quang và tôi
còn nguyên vẹn bộ đồ tác chiến, giây ba chạc, áo giáp, nót sắt. Nhìn
chiếc hoa mai bạc trên ngực Đại tá Quang, tôi đề nghị nên dấu nó đi để
dễ bề ngụy trang trong khi di chuyển. Chúng tôi chia tay nhau mà ai cũng
như muốn khóc. Đi theo con suối Ba Hoang ma long tôi như bị cắt từng
đoạn ruột, chúng tôi len lỏi qua các bụi lau sậy, những tảng đá lớn va
những nha choi ma người dân cất lam chỗ tạm thời che nắng đụt mưa khi
làm việc cả ngay ngoai đồng áng. Đi khoảng 100m tôi ngó lại vẫn con
chừng 20 người theo tôị Trong đó có ông Phó Tỉnh trưởng Ban Me Thuột,
Nguyễn Ngọc Vy, một người kỳ cựu của vùng Darlac và nhất la thị xã Ban
Mê Thuột.
Tôi liền hỏi ông Vy:
- Anh có biết dồn điền ca phe của Trung tướng Thái Quang Hoàng ở đâu không?
Ông Vy chỉ tay về hướng đằng trước mặt:
- Thưa Đại tá tôi biết. Xin Đại tá cứ tiếp tục đi về phía Tây la sẽ tới .
- Vậy khi nào đi ngang qua anh cho biết nhé. Chúng ta sẽ vao đó ẩn núp
cho đến tốị Lợi dụng bóng đem chúng ta sẽ bọc về phía Bắc rồi tim đường
về Nha Trang.
Ông Vy gật đầu và chúng tôi âm thầm tiếp tục di chuyển. Việc tôi chọn
đồn điền của Trung tướng Thái Quang Hoàng vì đồn điền nay đa có từ lâu
tất nhiên cây cỏ đa cao và rậm rạp rất dễ ngụy trang... Những phút cuối
cung của đời binh nghiệp
Chúng tôi tiếp tục đi khoảng 300m, anh Nguyễn Ngọc Vy nói với tôi:
- Trình Đại tá, chúng ta đa tới ngang vườn cà phe của Trung tướng Hoàng rồi đâỵ
Tôi nói ngay:
- Bây giờ chúng ta phân tán mỏng và cẩn thận bo từ con suối này lên vườn
cà phê và mỗi người hay chọn một chỗ ẩn núp và rồi chờ đến tối chúng ta
sẽ tim đường thoát thân về Nha Trang.
Tuân theo lời nói của tôi tất cả đều giăng hang ngang và từ từ bo len bờ
suốị Sự hồi hộp đến với mọi người vi phải bo băng qua một thửa đất bằng
lộ thien - không có cây cối nào để ngụy trang, ẩn núp được. Nhin toán
người theo tôi, tôi rất lo ngạị Phần vi, có hơn phân nửa la quân nhân,
con kỳ dư la nhân vien hanh chánh với những chiếc sơ mi áo trắng rất dễ
dang cho địch quân phát giác. Tôi rất ngao ngán cho việc vượt thoát naỵ
Nhưng không con một con đường nào khác. Chúng tôi bo tiến lên ngang mặt
đất. Vưa lúc đó hang loạt súng cộng đồng nổ vang và nhắm vao đoàn người
chúng tôị Đạn cay xới lên đất làm tung bụi mịt mu. Phản ứng tự nhien của
mọi người la chạy ao len vườn ca phe để ẩn núp. Bây giờ tôi mới thấm
thía câu “đạn tránh người chớ không phải người tránh đạn”.
Nhiều người trúng đạn đa lăn ra chết hoặc rên là vì bị thương. Dưới hỏa
lực vũ bao, tôi vẫn bo như người lính trong quân trường. Nhìn sang bên
cạnh có Thiếu úy Phương, tùy viên của tôi vẫn bám sát lấy tôị Tôi rất
cảm phục người sĩ quan tuy vien nay, du đến phút nay tinh thần kỹ luật
vẫn con giương cao va vẫn lam tron nhiệm vụ của một quân nhân gương mẫụ
Tiếng đại lien, tiếng gao thét của chiến xa đang tiến về chúng tôi như
cuộc bủa vây đang thắt chặt. Tôi biết chúng tôi không thể nao thoát
trước một thế trận đường cung naỵ
Tôi bèn bàn với Thiếu úy Phương là chúng ta nên đầu hàng. Như hiểu ý
tôi, Thiếu úy Phương cởi áo lót trắng và lấy cây đưa len cao phẩy qua
phẩy lại để ra dấu hiệu đầu hàng. Lập tức súng đại lien ngưng bắn va
chiến xa tiến sát về phía chúng tôị Chúng ngừng cách chúng tôi khoảng
10m, một cán binh CS nhảy ra khỏi chiến xa, với khẩu AK47 chĩa thẳng vao
chúng tôi va quát lớn:
- Tất cả hay giơ tay lên! Giơ tay lên!
Mọi người đều tuân lệnh hắn. Nó hỏi tôi:
Tụi bây chức vụ gi và cấp bậc gi??
Như cái máy, tôi trả lời:
- Tôi la Đại tá Tỉnh trưởng.
Hắn tron xoe mắt lại và nghi ngờ:
- Thật không? Thật không?
Tôi gật đầu và hắn hỏi tiếp:
- Tên gi nói mau
Tôi không ngần ngại:
- Nguyễn Trọng Luật!
- Thật không?
- Thật.
Khi biết tôi là sĩ quan cao cấp, hắn sững người và rất đỗi ngạc nhiên.
Hắn càng ghim tay súng vao đầu tôi va nói hay đứng yen va giơ tay cao
khỏi đầu, va hắn tiếp tục hỏi Thiếu úy Phương như vậỵ Một cán binh khác
nhảy từ tren xe đến lột hết quần áo chúng tôị Tren người tôi va Thiếu úy
Phương chỉ con chiếc áo lót va chiếc quần treillis. Chúng lấy hết súng
lục, áo giáp, nón sắt, giầy boots va luôn cả vớ. Chúng nhanh tay lấy
giây trói chặt tay chúng tôi ra đằng sau va đẩy chúng tôi mỗi người vao
một hố cá nhân. Chừng nửa giờ sau, từ phía Tây một chiến xa khác tớị Một
cán binh người mập mạp, mặt mũi sáng sủa nhảy ra khỏi chiến xa va tiến
tới tôi chất vấn:
- Anh có thật là Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Darlac không?
- Đúng.
- Thôi anh ngồi chờ, chốc lát sẽ có xe đưa anh đi.
Khoảng 4 giờ chiều, cũng từ phía Tây một chiến xa xuất hiện va bốc một
minh tôi len xẹ Cửa xe đóng lại tối thui va xe bắt đầu di chuyển. Tôi có
thể đoán chắc là chúng đi về hướng Tây để đến Bộ Chỉ huy của chúng. Đến
lúc nay, tôi thật binh tĩnh va coi nhẹ những sự việc xảy ra cho minh.
“Sinh nghề tử nghiệp. Tôi la sĩ quan thuộc binh chủng Thiết giáp va bây
giờ bị bắt bởi chính đoan quân kỵ ma naỵ Dầu sao, tôi vẫn con những tia
hy vọng rọi xuống tâm hồn khô héo của tôi lúc nay la tiếng súng vẫn còn
vang động khắp chiến trường Ban Mê Thuột. Phản lực cơ của quân đội ta
vẫn vần vũ tren không phận thân quí Cao nguyen. Du tôi có bị bắt, nhưng
hy vọng của tôi vẫn la Ban Me Thuột vẫn như thanh đồng trụ sắt. Quân
tiếp viện sẽ tới va những con manh hổ sẽ lam tron nhiệm vụ của người
lính VNCH ngan đời uy danh. Ban Me Thuột vẫn ngạo nghễ thách đố với mọi
hoan cảnh...
Nhin lại trận đánh Ban Me Thuột
Bây giờ với đời sống thật sự thanh thản, binh tâm mà nhìn lại, nghĩ lại
tôi thấy vai điều cần được xét lạị Tất nhiên không phải để phe phán, hay
gỡ tội hoặc giả để lẩn tránh trách nhiệm, lẩn tránh sự thật. Nhin lại,
nghĩ lại chỉ có mục đích duy nhất la chia sẻ với những người con sống về
một biến cố trọng đại đầu tien đa dẫn tới sự sụp đổ của chính thể va
chế độ VNCH tại miền Nam nước Việt.
1. Mất tỉnh, Tỉnh trưởng phải chịu trách nhiệm?
Đây là câu nói thông thường của những người thiếu hiểu biết. Nhiệm vụ
của Tỉnh trưởng chỉ là trách vụ về hành chánh, kinh tế, chính trị,
v.v...ma thôị Về an ninh quân sự lại nằm trong tay Tiểu khu trưởng.
Nhiệm vụ của Tiểu khu trưởng là giữ an ninh các cơ sở, đường xá, cầu
cống, tim kiếm tin tức tình báo để báo cáo lên cấp trên, cũng như truy
lung, tieu diệt du kích và những cán bộ CS xâm nhập vao vung trách nhiệm
của minh. Tiểu khu trưởng chỉ có trong tay những Tiểu đoan Địa phương
quân, Nghĩa quân, Cảnh sát va tổ chức Nhân dân Tự vệ... Vi vậy, các đơn
vị nay không có khả năng đương đầu với quân chính qui của địch.
Nhin lại trận đánh Ban Mê Thuột, Tiểu khu Darlac đa nhiều lần báo cáo có
những dấu hiệu về sự xuất hiện hoạt động của quân chính qui CS. Bằng
chứng la tại phía Tây, Ban 2 Tiểu khu Darlac đa phát hiện ống dẫn dầu
của quân Bắc Việt hay những dấu xích chiến xa để lại ở phía Tây Ban Don
va Ia Sup. Đặc biệt ngay 7/3/75, Tiểu khu Darlac hanh quân đa bắt được
một tu binh thuộc Sư đoan 320/BV đang giăng giây điện thoạị Tin tức nay
cũng không thuyết phục nổi Tướng Phú va Tướng Tường để cho Trung đoàn 45
BB trở lại Ban Me Thuột. 2 ông nay vẫn con ám ảnh về CS sẽ đánh Kontum
hay Pleikụ Chưa bao giờ các ông cho rằng Ban Me Thuột sẽ bị tấn công.
2. Tại sao Tiểu khu lại không biết chiến xa địch tiến vào Ban Mê Thuột?
Câu hỏi nay lam tôi thắc mắc mai và muốn tim câu trả lời cho chính mình.
Khi ngồi trong tu, tôi có đọc “Đại Thắng Mua Xuân” của Văn Tiến Dũng
tôi mới vỡ lẽ. Các chiến xa của CS đa được bố trí cách thị xa Ban Mê
Thuột tren hang trăm km về phía Tây Bắc, trong rừng núi trung trung điệp
điệp của Cao nguyen.
Nhìn trên bản đồ, Phong 2 hay cấp chỉ huy bao giờ cũng tiên đoán ngay
và cho rằng nếu chiến xa địch, nếu có tấn công đem nay, thi chỉ có khả
năng tấn công Pleiku chứ không thể là Ban Me Thuột. Vi xung quanh Ban Mê
Thuột, hay phía Tây, du Tây Bắc hoặc Tây Nam đều la day rừng gia với
cây cối cao lớn. Qua con mắt của một sĩ quan kỵ binh như tôi, việc tấn
công Ban Me Thuột bằng chiến xa khó có thể thực hiện nổị Trái lại,
Pleiku với những đồi thoai thoải, trống trải, không có cây cối la địa
ban lý tưởng cho chiến xạ Nhưng, đây la chữ nhưng to tướng, nghĩa la CS
đa cho công binh dọn đường trước, bằng cách cho cưa tất cả các cây lớn
ma chiến xa không ủi nga được.
Bọn CS đa không cưa đứt hẳn để cây đổ xuống làm phi cơ quan sát được,
ma chỉ cưa 2/3 cây thôị Trên máy bay do thám của ta luôn luôn thấy cây
cối um tum như thường, không có con đường nao băng qua rừng cả. Đến khi
mặt trời lặn chiến xa cứ việc trực chỉ Ban Me Thuột, va khi gặp những
thân cây lớn, chiến xa cứ ủi xập những cây ma công binh đa cưa sẳn 2/3.
cây lớn đều nằm rạp xuống va chiến xa cứ thế ma tiến len dễ dang. Khi
gần tới thị xa, CS đa cho pháo kích vao thị xa để che lấp tiếng động cơ
của các chiến xa đang di chuyển...
3. Lam sao Địa phương quân có thể tiêu diệt chiến xa
Tôi la sĩ quan kỵ binh được giao trọng trách chỉ huy trưởng Tiểu khu
Darlac, ngoài ý muốn của tôị Kinh nghiệm về Thiết giáp vẫn là sở trường
của tôị Khi tôi nhậ nhiệm vụ lẽ tất nhien tôi đa để &yacite; nhiều
về những con ngựa sắt naỵ Tất cả thiết giáp của ta đều được điều dộng về
Pleiku hết. Ban Me Thuột chỉ co có 2 chiếc Commando car để tuần tiểu,
hộ tống cho các đoan công voa hay các cấp chỉ huỵ Trong đầu tôi bao giờ
cũng đặt ra câu hỏi, liệu CS tấn công các chi khu hay đồn bót bằng chiến
xa thi saỏ Vi vậy, việc đầu tien nghĩ đến la loại súng M72, loại chống
chiến xa ma Quân đội Hoa Kỳ cung cấp.
Tôi ben xin BTL Quân đoàn 2 cho trang bị loại súng trên cho Tiểu khụ
Không có toán, tiểu đội, trung đội, đại đội nao thuộc Địa hương quân của
Tiểu khu Darlac la không có trang bị M72. Ngay cả những Trung đội Nghĩa
quân nữạ Tôi chỉ thị cho các sĩ quan va binh sĩ đều phải sử dụng M72
một cách nhanh nhẹn va chính xác. Tôi con luôn luôn kiểm soát chặt chẽ
va khi tôi thanh tra bất cứ một đơn vị thuộc Tiểu khu Darlac, bất cứ
đâu, từ sĩ quan đến binh sĩ đều lưu lại khảo hạch va chờ biểu diễn cách
sử dụng M72 chống chiến xa, cũng như ân cần nhắc nhở mọi người lam sao
tăng hiệu năng của của súng va bắn cho chính xác.
Trong trận đánh Ban Me Thuột, 9 chiến xa CS nằm ụ trên đường Thống Nhất
hoặc trước mặt BCH Tiểu khu và Dinh Tỉnh trưởng đều la công đầu của các
chiến sĩ Điạ phương quân Tiểu khu Darlac. Ai cũng biết, các oanh tạc cơ
của ta không được thả bom vao thị xa ma chỉ được đánh bom vao các mục
tieu ven thị xa ma thôị Oanh tạc cơ của ta chỉ có một lần đánh vao chiến
xa địch trước mặt BTL Sư đoan 23 BB với 2 quả bom. Nhưng thảm thương
thay lại đánh trúng Trung tâm Hanh quân của Mặt trận Ban Mê Thuột. Tôi
cũng cần minh xác, tôi viết ra đây những sự kiện nay, không phải la kể
công cho Tiểu khu Darlac hay phiền trách Không quân, ma la những lời nói
danh dự của một sĩ quan QLVNCH biết tự trọng, liem sỉ va sự trung thực
gởi đến các chiến hữu đa sát cánh ben nhau trong những ngay lửa đạn va
các bạn.
Tôi cũng xin kể them, năm 1984, trong hời gian tôi ở trại tu Nam Hà — Hà
Nam Ninh. Một buổi sáng tôi đang gánh nước tưới rau, vì tôi thuộc trung
đội trồng rau cho trạị Tinh cờ tôi gặp một thanh niên trạc ngoài 30
tuổi, lại chào tôi:
- Chao Đại tá.
- Thôi cứ gọi nhau bằng anh em đi, vi nước mất nhà tan rồi, con đâu la tá với tướng.
- Không! Rieng với Đại tá, tôi vẫn tôn kính là Đại tá. Tôi phục Đại tá
là chưa có Địa phương quân của Tiểu khu nào mà bắn cháy được chiến xa CS
được. Riêng chỉ có Địa phương quân Darlac là tiêu diệt được T54 của
địch. Tôi con nhớ ngay 11/3/75, tôi la người đi dọc theo đường Thống
Nhất để lấy tin tức về báo cáo cho Đại đội 23 Thám sát của tôị Tôi đa
đếm được 10 chiến xa bị bắn cháy.. Sự thán phục ấy đến nay tôi mới gặp
Đại tá để bay tỏ nỗi niềm cũng như chào kính và thăm hỏi Đại tá.
- Vậy anh la ai va ở đâu
- Tôi ten la Chí trước thuộc Đại đội Thám báo Sư đoàn 23 BB. Hiện nay tồi con bị tu ở đây cùng với Đại tá nhưng ở khu khác.
- Cám ơn anh về những lời khen cho Địa phương quân Tiểu khu Darlac. Xin
anh một điều la từ bây giờ chúng ta cứ gọi là anh em thôị Vì như tôi đa
nói lúc này, đất nước đa mất rồi, chúng ta chỉ còn tình nghĩa để đối với
nhau mà thôi .
- Dạ nếu như Đại tá cho phép thi tôi vâng.
Long tôi dâng len một niềm vui sướng cho buổi gặp gỡ ngắn gọn ấỵ Thứ
nhất là dù trong hoàn cảnh tu đay anh em vẫn tôn kính nhau và họ nhận ra
tôi đa không lam điều sai quấy khi con tại chức. Đây cũng là phần
thưởng cho tôi vì trong tù anh em thường hay nói với nhau:”Khi ở tu rồi
mới biết ai la tướng tá thật, ai la tướng tá giả — đáng kính hay đáng
khinh...
Thứ hai la anh Chí đa xác nhận số chiến xa bị bắn cháy mà do Thiếu tá
Trưởng Phong 3 báo cáo cùng tôi là 9 chiếc mà bây giờ là 10 chiếc.
4. Tướng Phạm Văn Phú là tướng giỏi hay dở?
Tướng Phú hoàn toàn bị địch đánh lừa và ít ra không có kinh nghiệm chiến
trường Cao nguyên. Trước kia, khi con Quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại
VN, tin tức tình báo chiến lược hay tin tức lien quan đến các đơn vị lớn
của VC đều do Mỹ cung cấp. Nhưng sau Hiệp định Paris,
nguồn tin từ Mỹ đều chấm dứt va Phong 2 của ta chỉ con khả năng lấy tin
tức các đơn vị chính qui Bắc Việt bằng cách tim điện đai của địch. Vi
biết được yếu điểm nay của QLVNCH, nen CS vẫn cho điện đai phát thanh
hàng ngay như thường lệ va tuyệt đối im lặng truyền tin trong khi di
chuyển về phía Nam. Vi vậy Tướng Phú cứ đinh ninh la các Sư đoan Bắc
Việt vẫn con ở phía Tây Pleiku va Kontum.
5. Tổng Thống va Tổng Tham mưu Trưởng
Nếu qui trách nhiệm cho Tướng Phú làm mất Ban Mê Thuột vi dở la quá saị
Vì kế hoạch hành quân hay bố trí các đơn vị để phong thủ các Vùng đều
được Tổng Tham Mưu Trưởng va Tổng Thống (Tổng Tư Lệnh) duyệt xét và chấp
thuận mới được thi hanh. Quân đoan 2 va Tướng Phú được sự chỉ huy trực
tiếp của Tổng TMT va TT.
Mất Ban Me Thuột đâu phải trách nhiệm riêng gi của Tướng Phú mà chính
là Tổng TMT và TT. Các đơn vị chia sẻ trách nhiệm như Phòng 2 Bộ Tổng
Tham Mưu, Cục An ninh Quân đội, Đơn vị 101/TTM. Tất cả các cơ quan trên
làm gì, để các đại đơn vị Bắc Việt di chuyển về phía Nam, để đánh vao
thị xa Ban Me Thuột? Ai la người dám công khai lanh nhận trách nhiệm?
Cho đến nay, trong chiến tranh VN mới chỉ có thấy ông cựu Bộ trưởng Quốc
phong McNamara la dám nói len lỗi lầm của ông ấy ma thôị Bằng một cuốn
sách, McNamara nhận trách nhiệm. Còn ai nữả Hay tất cả chỉ cầu mong thời
gian khỏa lấp vao “cuối trời lang quen” hay la viết hồi ký để rửa tay
kiểu quan Phi-la-tô trong Thánh kinh khi trao Đức chúa Giesu cho dân
chúng muốn lam gi thi lam, muốn giết chúng may cứ việc giết, tao không
có trách nhiệm gi hết? Ngụy biện quá sức.
6. H&aatilde;y so sánh lực lượng đôi bên
a) Lực lượng Quân đoàn 2
- Sư đoàn 22 BB
- Sư đoan 23 BB
- 4 Lien đoan BDQ (bằng 1 sư đoàn)
- 1 Lữ đoàn Thiết giáp
- 1 Sư đoan Không quân (Sư đoàn 6 Không quân)
- 1 Trung đội Hoả tiển TOW
b) Lực lượng CS
- Sư đoàn 320 .
- Sư đoàn F10 .
- Sư đoàn Sao Vàng .
- Sư đoàn 968 .
- Pháo binh 130 .
- Pháo binh Phòng không (Sư đoàn) .
- Thiết giáp Lữ đoàn) .
- Các đơn vị Công binh .
- Các đơn vị Đặc công (2 Trung đoan) .
Nhin qua tương qua giữ ta và địch, với nhiệm vụ phòng thủ, ta có thể làm
tron nhiệm vụ một cách dễ dang. Trong binh pháp ai cũng biết, một lực
lượng tấn công, phải gấp 3 lần lực lượng phong thủ mới mong thắng trận
được. Mất Ban Me Thuột ta đa bị đánh lừa, vi ta không biết địch tấn công
ở đâu, cũng giống như tren ban cờ tướng, ta thua vi không biết nước
chiếu của đối thủ. .
7. Bài học của người Pháp.
Khi còn là Đại úy, tôi đa có dịp theo học một khóa tham mưu, trong đó
học chiến thuật, chiến lược. Người Pháp đa để lại một tai liệu nói về
Cao nguyen. Đại ý:”Muốn giữ Cao nguyen thi phải giữ Ban Me Thuột. Muốn
giữ miền Nam phải giữ Cao nguyen”. Phải chăng qua nhận dịnh đó, chúng ta
đa mắc tới 3 sai lầm: .
- Dời Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 về Pleiku.
- Tập trung quân giữ Kontum và Pleikụ .
- Bỏ Cao nguyên để giữ miền Nam? .
8. Những chuyện nghe được từ trong tù .
Tại trại tù Nam Hà (Hà Nam Ninh), tôi được biết đứa con út của tôi đa
chết tại xa Châu Sơn cách thị xa Ban Me Thuột chừng hơn 3km. Số la khi
CS tran ngập tư dinh Tỉnh trưởng Darlac, các con tôi đa theo chân những
binh lính trong dinh chạy trú ẩn tại nha cha Tâm, cha sở xa Châu Sơ, một
xa phần dông la người Công giáo từ Bắc di cư vao Nam năm 1954, nen có
tinh thần chống Cộng cao độ. CS đa na pháo kích như mưa vao lang, lam
trúng hầm trú ẩn gia đinh cha Tâm. .
Kết quả là đứa con út tôi và 2 đứa cháu của cha Tâm bị tử thương. Cũng
trong tu CS, tôi có gặp Đại tá Nguyễn Văn Của, Thiết giáp, Tỉnh trưởng
tỉnh Châu Đốc đa có dịp nói chuyện cho tôi biết: “Khi thị xa Ban Me
Thuột bị mất, TT Thiệu đa triệu các Tỉnh trưởng về họp tại Dinh Độc lập
va có phán một câu xanh rờn, “Thằng Luật trở về trinh diện, tôi sẽ xử
bắn ngay vi bỏ chạy ma không giữ được thị xa. Con các anh cũng vậy, ai
bỏ tỉnh ma chạy, tôi cũng bắn ngay”. .
Nghe lời kể của anh Của mà lòng tôi xót xạ Ở dời ai có hiểu minh và tôi
lại nhớ tới bai hát “Bay Đem” của Song Ngọc có câu “Ở đời ai hiểu ai...”
để an ủi chính minh trong đời lao tu không có ngay ra naỵ Them nữa,
cũng may cho tôi la tôi đa không có bỏ tỉnh, chạy trước khi địch quân
đến như ít vị Tỉnh trưởng khác va cũng may la tôi con ở lại cố thủ để bị
bắt tại chiến trường. Nếu không bị xui xẻo vi bị oanh tạc lầm vao TOC,
nếu quân tiếp viện đến kịp thời thi đâu đến nỗi bị bắt va ở tu tại miền
Bắc 13 năm, 5 tháng, 25 ngaỵ .
Để chấm dứt bài này, sau khi gia đình tôi đã được định cư tại Mỹ, qua
diện HỌ Vi chưa ổn định được đời sống nen tôi chưa có dịp diện kiến TT
Thiệu để thưa lại vị Tổng tư lịnh của tôi đôi điềụ Có một cảm nghĩ ma
tôi cứ suy nghĩ mai la các Tướng VNCH có đọc truyện Tau không, nhất la
Tướng Phú, để không bị CS đánh lừa ở vung 2. Vi nếu đọc truyện Tau đời
xưa, chúng ta đều biết trận đánh giữa Han Tín va Hạng Vo được gọi la
“Minh tu sạn đạo; ám độ trần thương”. .
Tá Nguyễn Trọng Luật
**************************************
Những Ngày Tháng 4-1975, Đẫm Máu Và Nước Mắt Tại Tiểu Khu Binh Thuận
Mường Giang
Kính nhớ tất cả những anh hùng đã vị quốc vong thân
Riêng tặng Phạm Ngọc Cưu, Dụng văn Đối, Mai Xuân Cúc, Huỳnh văn Quý, Lê Văn Thắng.
Bình Thuận nằm về cực nam của miền Trung nước Việt, đông la biển với
những đồi cát mông m&ecỉc;nh chạy dai từ Ca Ná tới tận Cu My, qua
những lang chai , xóm lưới Long Hương, Phan Rí Cửa, Mũi Né, Hàm Tân.
Nhiều nơi trước năm 1975, không hề có bước chân của người Phố Thị, ngoai
lính tráng.
Miền tây của tỉnh, cũng là phần đất cuối cùng của rặng Nam Trường Sơn,
nên có nhiều núi cao sông rộng, tuy nhiên người Phan Thiết , dù là ai
chăng nửa cũng không bao giờ quên được hai địa danh Ta Dôn-Ta Cú, nằm
sát trên con đường quan lộ số 1, trước đây không bao giờ thiếu mìn
chông, bom đạn. Ngoài khơi có đảo Phú Quý, đông đúc, nhiều thắng cảnh
đẹp, dân chúng giau có nhờ ngư nghiệp..
Trước năm 1975, Bình Thuận có chừng 25 vạn người, với đủ sắc dân, Kinh,
Chàm, Nùng, Hoa, Thượng, sống chung đụng khắp nơi trong tỉnh. Rieng Thị
xã Phan Thiết có 50.000 người. Ngay từ thời Pháp thuộc, Bình Thuận nổi
tiếng khắp nước, là chốn " Rừng tiền, biển bạc" và là vựa cá mắm của
Đông Dương, còn thóc gạo đủ nuôi sống dân trong tỉnh, nên trong trận đói
năm Ất Dậu 1945, địa phương vẫn không bị ảnh hưởng. .
Về chiến thuật, Bình Thuận nằm án ngữ, trên con đường sắt xuyên việt Hà
Nội-Sai Gon va quốc lội số 1. La phân nhánh của đường mon HCM, từ Đa
Lạt, Lâm Đồng , tới các mật khu Nam Sơn, Le Hồng Phong, Ba Hon, Ca Ná,
Vĩnh Hảo..vao tới Rừng Lá, Cu Mi xuống tận các cửa ngỏ tiếp tế từ biển
của VC tại La Gan, Hon Rơm, Mũi Điện. Do các yếu tố tren, từ khi Quốc Tế
Cộng Sản xâm nhập VN vao thập niên 30, cho tới ngày kết thúc cuộc chiến
Đông Dương lần thứ 2 (1945-1975), luôn nuôi mộng cưỡng chiếm cho bằng
được vùng đất thép của Chính Phủ Quốc Gia, ma giặc luôn gọi la thanh
đồng cách mạng, ngang cỡ Củ Chi, Mo Cầy, Ba Tơ, Dầu Tiếng..
Nhưng người Bình Thuận tuy hiền hoa, chỉ biết làm lũ làm ăn nhưng đa số
la con cháu của dân Ngũ Quảng, vốn có bản chất lời ngay nói thật. Bởi
vậy ngoai một số trí thức khoa bảng no cơm ấm cật, thụ hưởng tiền bạc
của tổ tiến, nen không biết lam gi, ngoai việ chạy theo gót giặc để được
nổi tiếng xấu, hay có một số đồng bao sống trong vung xôi đậu, bắt buộc
phải theo VC, con hầu hết dân bản địa, có cơm ăn áo mặc va hít thở được
không khí tự do, đều tin tưởng vao Quốc Gia. .
Cho nên sự kiện, tỉnh Bình Thuận bị VC tấn công ba lần vào dịp Tết Mậu
Thân 1968 nhưng vẫn giữ vẹn thanh phố. Ngoai ra, đây cũng la tỉnh duy
nhất ở Trung Phần, vao những ngay cuối tháng 4-1975, đa quyết tâm, ngăn
chống giặc Bắc xâm lăng, cho tới khi không con chịu nổi, trước sự tấn
công biển người, với xe tăng, đại pháo, mới đanh bỏ que hương ma đi
trong ngấn lệ..
Tháng 8-2004, John Pilger một nhà làm phim người Úc, đa thực hiện bộ
phim " trận đánh cuối cung", nói về chiến tranh VN, theo óc tưởng tượng
Tây Phương , cung đơn đặt hang của Hollywood va VC. Ai cũng biết, lịch
sử nao cũng đẫm máu va nước mắt, chứ không phải chỉ rieng có lịch sử
chiến tranh VN. Điều đáng chú ý la con người, không thể nao sống ngoai
lịch sử của nước minh, cho nen dẩu ta có la nạn nhân của lịch sử, cũng
phải biết quen khổ đau của chính minh, để chia chung niềm tự hao của
những anh hung dân tộc, đa xem nhẹ cái chết vào những giờ phút tử thần. .
Ngoai ra,ai cũng biết lịch sử của cọng sản, là toàn cảnh chủ nghĩa hiếu
chiến va đấu tranh giai cấp, nen đừng có lạ khi được xem qua bộ phim
tren, với nội dung " kẻ nao không đứng chung với ta đưới một mau cờ, đều
la kẻ thu thua trận "..
Tóm lại, lịch sử không phải là văn chương, nên không thể ngồi một chỗ
để hư cấu, ma la những trang kể về các anh hung va tiểu nhân có thật,
được viết bằng máu va nước mắt của chính nhân vật trong cuộc, để chấp
nhận phe phán theo quan niệm đạo lý cung với chính nghĩa. Nhưng văn
chương, xét cho cùng từ khởi thủy cho tới chung cuộc, vẫn la tiếng ren
nghẹn của thân phận con người. Con lịch sử thì trái lại muôn đời không
dời đổi, giống như chuyện dai về các đế quốc, triều đại xưa nay, trong
đó có đế quốc Việt Cộng..
Chắc chắn người Bình Thuận dù ở trong thế hệ nào chăng nữa, qua hơn 300
thanh lập, cũng đều tự hao về những trang sử vẻ vang của que hương
minh, từ lúc khởi đầu, cho đến những ngày cuối cung tháng 4-1975, đẫm
đầy máu lệ, cang đọc cang thắm thiết va trân trọng, cho tất cả những
quân dân đa một thời bỏ minh vi nước..
1- Phan Thiết, Những Ngày cuối Tháng 4-1975.
Theo sử liệu, Chưởng Cơ Nguyễn Hửu Cảnh, một tướng lanh tai danh của
Đang Trong, thời Chúa Nguyễn Phúc Chu, đa chỉ huy đạo quân Đại Việt đầu
tien, tiến vao miền Thủy Chân Lạp bằng đường bộ,sau khi Châu Panduranga
cuối c&ung của
Vương quốc Chiem Thanh mất vao năm Quý Dậu 1693. Đoàn quân khi qua sông
Mai Nương, thuộc xứ Pan Rang, bắt đầu tiến dọc vao vung gió cát ven
biển lúc đó, hầu như không có bao nhieu lang xóm, sự sống, mà chỉ có
hàng hàng lớp lớp cát đụn, xương rồng mọc suốt bờ biển phía đông Binh
Thuận , từ Cà Ná chạy vao tới Phù M&yatlde;, giáp ranh với Ba Rịa.
Cuộc hanh quân đường bộ dài trên 150km, đa góp phần tạo nên những thị
trấn tru phú sau nay như Long Vĩnh trong vịnh Ron, Phan Rí ở cửa biển
Paric, Phố Hải tại vịnh Ba Giai va Hamulithít (Phan Thiết).
Cũng ở vùng này, từ thế kỷ thứ VIII sau TL, người Chàm trong vương
triều Panduranga I, đa hoan thanh nhóm đền tháp Pôshanư, thờ cúng các vị
thần thánh Ấn Độ giáo, tren đồi Ba Nai cách Phan Thiết về phía nam
chừng 7 km. Từ thế kỷ XVII về sau, các thị trấn miền đông Binh Thuận như
Long Hương, Phan Rí Cửa, Mũi Né, Phú Hai va La Gi.. cang lúc cang trở
nen trú phú va quan trọng, du từ đầu thế kỷ XX, tỉnh lỵ đa dời từ Hoa Đa
về Phan Thiết, chỉ là một Xóm Biển, nằm ngay tren cửa sông Mường Mán,
chẳng mấy chốc, đa chiếm lĩnh địa vị số 1 của Phố Hải suốt mấy thế kỷ
qua. Trước năm 1975, Mũi Né la thủ phủ của quận Hải Long, giống như La
Gan,Ba Hon, Cu Mi..những cửa ngo để Ha Nội tiếp tế mọi thứ bằng đường
biển cho bộ đội Bắc Việt, trong mật khu Le Hồng Phong. .
Vùng này chạy từ Hon Hồng,Bai Xếp, Ốc,Ghềnh, Dơi thuộc Binh Nhơn,Hoa
Thắng đối diện với Hon Nghệ ngoai biển, về hướng bắc Thạch Long, Khánh
Thiện cũng như Vùng Rạng, Thiện Nghiệp. .
Những ngày cuối cùng cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975), theo
các sử gia trong va ngoai nước cận đại, thi Binh Thuận la tỉnh duy nhất
của miền Trung,từ lính cho tới công chức, kể cả dân chúng, không bỏ
chạy và họ đa chiến đấu với cộng sản Hà Nội tới ngay cuối cung vao sáng
19-4-1975, cũng như đa thực hiện được các cuộc lui quân về Nam an toan
bằng đường bộ lẫn đường biển. Rieng tại mặt trận miền đông Phan Thiết,
trong vung chiến thuật thuộc chi khu Hải Long, bao gồm quận lỵ Mũi Né,
các phân chi khu Thện Nghiệp, Thiện Khánh,An Hải,Phước Thiệu Xuân va
Thanh Hải..theo báo chí VC, mai tới 5 giờ sáng ngay 19-4-1975, khi
QLVNCH được lệnh di tản chiến thuật khỏi tỉnh Binh Thuật,mới có một đại
đội thuộc C/482 VC, tới tiếp thu Hải Long đa bỏ ngỏ. Sau nay nhân có một
vai cấp sĩ quan tại Binh Thuận đa rời chức vụ trước khi giặc tới như
Thiếu Tá Le Văn Thông, quận trưởngThiện Giáo, hay Thiếu Tá Vo Đạm, Chỉ
Huy Trưởng Quân Y Viện Đoan Manh Hoạch, bỏ chạy về SaiGon từ đầu tháng
4-1975,tạo cớ cho một vai người, mặc du mang tiếng la lính, nhưng chưa
hề phục vụ tại TK.Binh Thuận, qua đây viết báo, chỉ trích về một trận
đánh nao đo, không ten tuổi,u vao giờ thứ 25 của chiến cuộc, la không có
đại bang, lúc ma các trụ đen vi không có chân va những tu nhân đang bị
giam, nen không thể chạy. Con hầu như mọi người kể cả một vai tướng
lanh, các sĩ quan cao cấp, công chức, sư ni cha cố, đại trí thức, ca sĩ,
đĩ điếm,me Mẽo, thương gia cho tới hang mệnh phụ, tiểu thư đa dám thí
cái trinh tiết ngan vang cho cả lính Mỹ da đen, chỉ để xin một chổ ra
khỏi nước, hầu giữ mạng trước biển giặc. Sự thật thi tới lúc đó, các đại
bang lớn nhỏ gần như đều có mặt, va có một vai đơn vị Nghĩa Quân đóng
tại Xa Phước Thiệu Xuân, Kim Ngọc, du được lệnh di tản, vẫn nhất định ở
lại. Chính Họ đa bắn cháy vai chiếc T54 của Bắc Việt tren QL1, nen Cọng
Sản phải chia lam hai cánh quân, một tiến theo đường công hương qua Phú
Hai về Phan Thiết. Toán kia theo QL1. .
Nhưng thôi lích sử vẫn là lịch sử , nhất là các thẩm quyền lúc đó của
Tiểu Khu, như Đại Tá Tỉnh Trưởng Ngô Tấn Nghĩa, Phó TT. Phạm Ngọc Cửu va
những Sĩ Quan chỉ huy chiến trường như Thiếu Tá Dụng Văn Đối,Thiếu Tá
Lê Văn Trung, Thiếu Tá Phạm Minh, Thiếu Tá Phan Sang, Đại Uý Huỳnh Văn
Quý, Đại Uý Huỳnh văn Hoang, Đại Uý Le Bá Hung, Đại Uý Bác Sĩ Le Bá
Dũng, Đại Uý Đặng Vũ Đang, Đại Uý Mai Xuân Cúc, Tỉnh Đoan Trưởng XDNT.
Le Minh Giang, Thiếu Úy Le văn Thắng.....
Sau nhiều năm tu tại Miền Bắc, đều có mặt ở Hoa Kỳ qua diện HO. Chính họ
mới la nhân chứng thật sự, có tư cách , để xác nhận củng như phê phán
trước quân sử VNCH, rằng cho tới trọn ngay 19-4-1975, các mặt trận tại
Binh Thuận, gần như có đại bang và binh sĩ các cấp tham dự, trong biển
máu địa ngục, giữa tuyệt vọng vi phải đối mặt với hằng chục ngan quân
xâm lăng Bắc Việt , có đầy đủ tăng, pháo va sự tiếp tay của lũ ăn chén
đá bát, cung bọn nhân danh đủ thứ để có cớ đâm sau lưng người lính tận
tuyệt, khiến cho miền nam VN phải mất, dân tộc VN bị nhuộm đỏ va đất
nước mai đắm chim trong nhục nha đói ngheo giữa thien đang xa nghĩa,
được tạo bởi một phần công quả của một đám người được ưu tien hậu hỹ
suốt 20 năm tại VNCH....
2-Tiểu Khu Bình Thuận, Trước Tháng 4-1975 :.
Ngay 20-12-1960 theo tình thần nghị quyết số 15 của trung ương đảng tại
Ha Nội, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, cánh tay nối dai của Quốc Tế Cọng
Sản ra đời, mở man cho cuộc xâm lăng của Bắc Việt. Tại Bình Thuận, bọn
nằm vung như Nguyễn quý Đôn, Nguyễn Như, Năm Tra, Song Ma,Hồ ngọc Lầu,
Nguyễn Thị Kim Lien, Trần Thiện Bật, Ngô Đinh Cường, Nguyễn Phong
Đạm..vẫn bám trụ trong nội thanh va không ngớt bay binh bố trận, từ
khủng bố bằng quân sự cho tới việc xuí dục các học sinh trung học trong
tỉnh , nhân danh tôn giáo , tiếp tay với chúng phá hoại đời sống an lanh
của người dân hiền hoa miền biển mặn. Sau ngay binh biến 1-11-1963,
tinh hinh chiến sự tại miền nam VN trở nen tồi tệ vi ba năm xáo trộn
chính trị do bọn kieu tăng loạn tướng gây ra, tạo diều kiện cho VC hồi
sinh va phá hoại dữ dội khắp nơi. Binh Thuận cũng không tránh khỏi nạn
kiếp tren, một mặt thi học sinh biểu tinh, tuyệt thực,do chính Nguyễn
Văn Minh, bí thư của Chi Bộ Cộng Sản tại Trường TH.Phan Bội Châu, năm
1966 (đa chết trước năm 1975), vạch ngực lấy máu..bắt chính quyền phải
hoa hợp mời bắc bộ phủ về cầm quyền. .
Mặc khác đem 25-12-1964, C430VC tấn công dồn cảnh sát cổng chử Y, cung
lúc C480VC tấn công các ấp chiến lược ven bien thị xa Phan Thiết, mở man
cho những bửa tiệc máu người dân vô tội, cho tới khi Đại Tá Ngô Tấn
Nghĩa, nguyên Trưởng Phong 2/Quân Đoàn II về nhậm chức tỉnh trưởng vao
mua thu năm 1969, mới van hồi được an ninh khắp tỉnh va thị xa Phan
Thiết , cho tới ngay tan cuộc 19-4-1975. .
Tại Tiểu khu Bình Thuận, năm 1966 tỉnh trưởng là Trung Tá Đinh văn Đệ,
khoá 1 sĩ quan trừ bị Nam Định, về sau la dân biểu QHVNCH, giữ chức vụ
chủ tịch uỷ ban QP.Ha viện vao năm 1969, nhưng lại la một điệp vien của
Hà Nội, lộ mặt sau tháng 5-1975. Về tổ chức, thi thiếu tá Trần văn Cha
lam tiểu khu phó kiem Phó TT.Nội An., về sau TT.Cha len Trung Tá va lam
Trung đoan trưởng Trung đoan 53/SD23BB. Đại Úy Le Trung Hưng lam Tham
Mưu Trưởng TK. Trung Úy Lữ Tây Tựu, người Phan Thiết, một sĩ quan tai
giỏi va can trường, từ SD23BB được biệt phái về giữ chức Trưởng phong
2.TK. Cũng năm đó, trưởng phong 3/TK la trung úy Nguyễn văn Trị. Rieng
đại uý Le văn Trạch la quận trưởng Ham Thuận, đại uý Trọng QT.Thiện
Giáo, đại uý Kiều văn Út QT.Hải Long, thiếu tá Woang sắn Cảnh, Q/T.Hải
Ninh, đại uý Lương Vặng,QT.Phan Lý Cham, đại uý Nguyễn quang Mẫn,QT.Hoa
Đa, Thiếu tá Bui quang Huỳnh QT.Tuy Phong. Về quân sự, thuở đó cấp đại
đội DPQ la đơn vị cao nhất trong tỉnh. Về phía bắc có Trung tâm
HL.ÐPQ-NQ Sông Mao do Trung Tá Thanh làm chỉ huy trưởng, con Thiếu tá
Woang văn Thông thi lam CHT/BCH bắc BT bao gồm 4 quận HD,TP,PLC va HN. .
Rieng CHT/ÐÐPQ-NQ tỉnh là thiếu tá Lê văn Thông, đóng chung với Quân vụ
thi trấn va đồn quân cảnh trong T/K củ đối diện với vườn hoa va Ty ngân
khố, cạnh trường nử TH. Về chủ lực quân biệt phái, chỉ có TD2/44/SD23
của Thiếu tá Xứng bao vùng khắp lanh thổ. Cuối năm 1967, Trung Tá Nguyễn
khắc Tuân thuộc tổng cục quân huấn/BTTM về lam tỉnh trưởng BT thay
trung tá Đinh văn Đệ, Trung Tá Tuân ở lại VN đi tu va chết tại Bắc Việt.
Giữa năm 1968, Đại Tá Đang thiện Ngôn về làm tỉnh trưởng BT thay thế
Trung Tá Tuân, con Thiếu tá Hồ ứng Phung làm tiểu khu pho va đại uý Le
văn Anh làm Tham mưu trưởng. Muà thu năm 1969, ĐT Nghĩa thay ĐT Ngôn làm
TT, Trung Tá Vương Đăng Phong, TKP và Trung Tá Mai Lang Luông TMT. Các
phòng sở cũng được thay đổi như sau : Phó Tỉnh Trưởng HC. Phạm Ngọc Cửu,
Chánh Văn Phong Cát Ngọc Giao. ThT Nguyễn văn Mầng (K17SQTD), trưởng
phong Tổng Quản Trị. Đại Uý Nguyễn văn Hiển (K19SQTD) trường phong 1.
Đại Uý Đặng Vũ Đan (K19SQ/DPQ) trưởng phong 2. ThT Nguyễn Văn Trị,
trưởng phong 3. ThT Trần Hoạt (chết tại Honolulu), trưởng phong 4. ThT
Phạm Minh (K16VBDL) Trung tâm trưởng TTTV. Th/T Trực,trưởng phong Truyền
Tin.Trung Tá Phan Trần Bảo, Trưởng Ty CSQG. Từ năm 1970 về sau, trong
đa cải tiến QLVNCH, cơ cấu BCH.TK thay đổi, TrungTá Trí, TKP kiem TMT,
Trung Tá Mai Lang Luông, TTT Binh Định phát triển nông thôn nhưng Le
Minh Giang vẫn Tỉnh Đoan Trưởng TD.XDNT. Thiếu Tá Nguyễn văn Trí, Trưởng
Ty ANQD. Th/T Nguyễn Văn Hồng, trưởng khối CTCT. Trung Tá Nguyễn Hoa,
chủ tịch Hội Đồng Tỉnh..
Các Quận Trưởng cũng được hoán chuyển từ cuối năm 1974 : Quận Tuy Phong,
Th/T Ha Văn Thanh, Hoa Đa Trung Tá Kiều Văn Út, Phan Lý Cham ThT Đặng
Chánh Anh, Hải Ninh Trung Tá Diep Sắng Cảnh, Thiện Giáo Th/T Le Văn
Thông, Ham Thuận ThT Dụng Văn Đối, Hải Long Th/T Hang Phong Cao, Xa
Trưởng Phan Thiết ThT Nguyễn Thanh Hải, Yếu Khu Châu Thanh ThT Cư va
CHT.QYV Đoan Mạnh Hoạch, ThT bác sĩ Vo Đạm. .
ÐÐ/ÐPQ được nâng cấp, có 8 Tiểu Đoan, một Liên Đội Đặc Nhiệm Nông Trường Sao Đỏ va nhiều DD/Biệt Lập, được phối trí như sau : -.
ÐÐ206/ÐPQ Trinh sát , do Đ/U Lê văn Tro (khóa 19.SQ/ÐPQ) làm ÐÐT.
ĐĐ290 Biệt lập của Đ/U Sâm, đóng tại Hải Long. ÐÐ283 biệt lập của DU
Nguyễn văn Ba, đóng tại Tuỳ Hoa,Thiện Giáo, kiem Yếu Khu trưởng Phú
Long. Ở Hàm Thuận có 2 ÐÐ/ÐPQ biệt lập 127 và 887..
Tại Bắc Binh Thuận có TĐ248/ÐPQ của Thiếu Tá Lê văn Trung tại Tuy Phong,
sau là Th/T Xuân làm TÐT., TD212ÐPQ của Thiếu tá Quân cọi Lương Sơn,
Sông Lũy.TD 229/DPQ của Th/T Tiến, đóng tại Phan Rí. Sau khi Bắc BT thất
thủ, TÐ nay về giữ mặt nam Thị Xã Phan Thiết..
Nam Bình Thuận có 5 TÐ/ÐPQ : TĐ249 ÐPQ của Thiếu tá Phan Sang, BCH đóng
tại núi Tà Dôn, hoạt động tại Long Hiệp, Hoa Vinh,Tuỳ Hoa., những ngay
cuối cung do DY.Huỳnh văn Quý lam TÐT thế Th/T Sang. TD202DPQ của Thiếu
Tá Lương văn Bính hoạt động tại Cây Táo,Long Thạnh., sau Ð/U.Huỳnh văn
Hoang XLTV.TDT thế Th/T Bính. TÐ275 /ÐPQ của Thiếu tá Nguyễn Tư, có 1 DD
của Trung Uý Lợi, đóng tren núi Ta Dôn, bảo vệ Khẩu đội Pháo Binh., một
DD của DU.Nguyễn Đinh Úy đóng tại Hoa Vinh, thanh phần con lại của TD
đóng ở Kim Ngọc. TD230DPQ của Thiếu tá Thổ Them, hoạt động tại Thiện
Giáo, sau giao cho DU Mai Vi Thanh XLTV.TDT va DU Trần Đăng Thiệt TDP.
TD274DPQ của Thiếu tá Trịnh văn Binh hoạt động tại Bầu Gia,Phú Hội.,
Thiếu Tá Binh chết tại trại tu ở Bắc Việt..
Tại Bắc BT, BCH quân sự bai bỏ nhưng thay vào đó là BCH.Liên đoàn ÐPQ do
Đại Tá Lại văn Khuy, nguyên Trung đoan Trưởng TRD42/SD22BB về lam CHT.
BCH Lien đoan đóng tại xa Lương Sơn, đối diện với mật khu Le Hồng Phong,
gồm 2 TÐ229 và 212 ÐPQ, hành quân tại 4 quận miền bắc. Từ tháng 3/1975,
Binh Thuận không con Trung Đoan 44/SD23 va Chi đoan 3/8/Thiết kỵ tăng
phái, vi những đơn vị chủ lực quân nay đa di chuyển hết len cao nguyen
năm 1972. .
Để bảo vệ an ninh cho thị xã Phan Thiết, từ năm 1970 lập them Yếu khu
châu thành hay BCH/LD/DPQ/PT đóng tại trại Đinh công Tráng, trước sân
vận động Quang Trung, kế trường trung học Bạch Vân, do thiếu tá Nguyễn
văn Cư làm CHT. Phía Nam Phi Trường Phan Thiết, có Lien Đội DPQ.Đặc
Nhiệm Công Trường Sao Đỏ, do DU Huỳnh văn Quý chỉ huy, hoạt động tới Phú
Khánh-Ba Hon. Về đơn vị Đồng Minh, quan trọng nhất vẫn la Bộ chỉ huy
MACV/TKBT đóng tại khách sạn Hồng Hưng, đối diện với trường Tiến Đức,
tức la PBC củ tren đại lộ Trần Hưng Đạo. Để góp phần giải tỏa an ninh
cho bốn quận miền bắc, cũng như lộ trinh đường bộ trên QL1, từ Hoa Vinh
tới Phan Rí, ngang qua mật khu Le Hồng Phong dối diện vói các xạ Long
Phú,Lương Son,Sông Lủy, Chợ Lầu,Tịnh Mỹ,Hiệp An, Hiệp Hoa....cơ quan
MACV đa phối hợp với TK.Binh Thuận, thanh lập lực lượng Dân Sự Chiến
Đấu, BCH đóng tại trại Phi Long ở xa Lương Sơn, trại Phi Ma ở xa Phan Rí
Thanh cạnh Chi khu Hoa Đa, trại Phi Hổ ở ấp Tịnh Mỹ, xa Chợ Lầu, đồn
Mara ở Sông Lũy..Tất cả doanh trại Lực lượng DSCD đều có bai đáp trực
thăng, con các SQ,HSQ chỉ huy đều thuộc các toán A/LLDB VN va SQ-HSQ
/LLDB Hoa Kỳ lam cố vấn., chính họ đa vô hiệu hóa cái gọi la mật khu
thanh cây vách cát Le Hồng Phong của VC, nơi trú ẩn của các tiểu đoan
địa phương 482 va 840 VC, cũng như Trung đoan chính quy 812 Bắc Việt của
quân khu 7 VC tăng phái. Năm 1970, các trại LLDB tại Binh Thuận đóng
cửa nen Biệt kích Mỹ hay LL/DSCH cũng giải thể để thanh lập các DD/DPQ.,
các cấp chỉ huy được mang quân ham Thiếu úy, con danh hiệu la
DD700,710,720,730/ DPQ/BT, sau đó nhập chung thanh Lien Đội 2/32/DPQ/BT
do Thiếu Tá Nguyễn thanh Xuân chỉ huy, trách nhiệm bao vung tư Lương
Sơn, Sông Lũy , tới ngả ba Chợ Lầu-Sông Mao. Sau năm 1972, LD2/32/DPQ
lại cải danh thanh tiểu đoan 2/212 do thiếu tá Quận chỉ huy cho tới lúc
tan cuộc. Về các đơn vị tăng phái, có Duyen Đoan 28 Hải thuyền, hoạt
động bảo vệ vung duyen hải Binh Thuận, từ mủi Đá Chẹt ở bắc Tuy Phong,
vao tới Mũi Đen Nam Binh Thuận, chỉ huy Duyen Đoan từ đầu có Thiếu úy
hải quân Nguyễn văn Thuận, cựu HS/PBC 1955-1962, đa chết trong lúc di
tản. Duyen đoan trưởng cuói cung la HQ.Thiếu tá Việt va Duyen đoan phó,
Đại Uý HQ.Cat. Ngoai ra con có Biệt đội quan sát L.19, thuộc Phi Đoan
quan sát 215, SD2 Không quân từ Nha Trang tăng phái cho TK/BT giúp
P2,3/TK bay quan sát bao vung hanh quân, mở đường va hướng dẫn pháo binh
tác xạ. Về thiết kỵ, trước năm 1973 có các chi đoan 2 va 3/8 thuộc SD23
tăng phái.. Tết Mậu Thân 1968 trung úy Hang phong Cao lam chi đoan
trưởng 2/8 giải tỏa Phan Thiết, sau biệt phái về lam Quận Trưởng Ham
Thuận từ thời Đại Tá Ngô tấn Nghĩa. Rieng Chi Đoan 2/8 giao cho Đại Uý
Đệ, nguyen DDT 948 DPQ, lúc đó hoạt động tại Tuỳ Hoa va Phú Long. Đại
đội nay về sau di chuyển ra Hoa Đa va giao cho Đại uý .Mai xuân Cúc,
nguyen trưởng ban 2/ quận Hoa Đa của Quận Đối lam Đại Đội Trưởng va
những ngay cuối cung la đơn vị đóng trong thị xa Phan Thiết cho tới sáng
19-4-1975, Binh Thuận hoan toan thất thủ, mới xuống tau HQ tại Kim Hải,
di tản về Ba Rịa-Vũng Tau..
3- Những Ngày Chiến Đấu Cuối Cùng .
Của T/K Bình Thuận, Vào Cuối Tháng 4-1975 :.
Theo VC, từ sau năm 1970 qua chương trìh binh định của Đại Tá Nghĩa, đa
khiến các cơ sở nằm vung cũng như bộ đội trong tỉnh lâm vao tinh trạng
gần như bế tắc và bị tổn thất nặng nề , trong đó phần lớn do min
Claymore gây ra. Từ sau Phước Long thất thủ vào đầu năm 1975, tiếp theo
la Ban Me Thuột mất ngay 14-3-1975, VC Binh Thuận bắt đầu ngoi len va
phá hoại khắp, nơi như đốt các cây xăng số 6,8, tấn công đồn cảnh sát
Đức Long. Từ ngay 5-4-1975, Chi Khu Thiện Giáo di tản chiến thuật tren
Lien tỉnh lộ 8 ..
Nhân dịp nay, thiếu tá quận trưởng Lê văn Thông và Chi khu phó là Ð/U.Lê
văn Tuân, đa trốn về Sai Gon nhưng TD.230/DPQ của DU Mai Vi Thanh va
Các DD/DPQ biệt lập của Quận, vẫn không ra ngủ. Phan Thiết, Hải Long lúc
đó gần như trân ngập người tị nạn khắp miền Trung đổ xô về bằng đủ mọi
phương tiện, đường bộ, tau thuyền..va được Ty Xa Hội trợ cấp giúp đở tận
tinh.
Để giải toả bớt căng thẳng trong thị xa, từ ngày 13-4-1975 Tỉnh cho
thanh lập tại Thiện Khánh va Thiện Nghiệp các trung tâm tiếp cư tạm thời
dưới các rặng dừa va sân vận động, để chờ tau HQ vào di tản họ tới Vũng
Tau. Do tren tinh hinh tại Hải Long them phức tạp, một phần từ những
phần tử xấu như đao binh, đặc công tra trộn gây rối loạn, cũng như công
khai cướp bốc tai sản của dân chúng tại địa phương. Mặt khác, bọn VC nằm
vung thừa cơ hội dậu chưa đổ, nhưng bim đa leo khắp nơi với sự ra đời
của cái gọi la ủy ban khởi nghĩa, may sẳn cờ, khẩu hiệu..va các đội tự
vệ vo trang em bé quang khăn đỏ...
Từ ngay 15-4-1975, tinh hinh Hải Long cang them nặng nề vi có nhiều đơn vi từ QD1 va 2 ngoai Trung đến đây bằng đường biển. .
Riêng các xóm đạo của người Bắc di cư, tại Thanh Hải, Cầu Ké, Vĩnh Thủy,
Vĩnh Phú đa kéo tau thuyền chạy về Long Hải, Vũng Tau. Tuy nhien, tinh
hinh mặt trận miền đông va Phan Thiết, vẫn chưa có gi nguy ngập, tới
ngay 17-4-1975 Chi Khu Hải Long chưa loan va tất cả các đại bang kể cả
quận trưởng Hang phong Cao vẫn có mặt , trong các vị trí phong thủ gần
như 24/24. .
A- TỬ THỦ PHÚ LONG :.
Ngày 16-4-1975 phòng tuyến Phan Rang vở, trước sự tấn công của mấy sư
đoan Bắc Việt, với xe tăng, đại pháo tối tân của Lien Xô, Trung Cộng ca
cả khối cọng sản quốc tế. Trong lúc VNCH gần như kiệt quệ về nhân lực
cũng như trang bị, vi người Mỹ phản bội, thất hứa. Gần hết Bộ Tư Lệnh
Tiền Phương của Quân Đoan III, trong đó có Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi,
cũng như Tư Lệnh Sư Đoan 6 KQ la Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Lữ Đoan
Trưởng LD2/ND la Đại Tá Nguyễn Thu Lương va nhiều Sĩ Quan cao cấp khác,
đều lọt vao tay giặc tại Phan Rang..
Cũng trong ngày đó, các lộ quân Bắc Việt, từ Nha Trang, Đa Lạt, ồ ạt
theo QL1 tiến vao Binh Thuận. Cho nen trách sao được bốn chi khu Tuy
Phong Hoa Đa, Phan Lý Cham, Hải Ninh với quân số chưa tới 3 Tiểu Đoàn,
mà chỉ toàn DPQ + NQ, thi lấy chi chọi với tăng pháo va biển người..
Cũng nhờ có nhiều chiến hạm của BTL. Vung 2 Duyen Hải , đa bất chấp pháo
địch, ghé sát bờ , vớt được nhiều đơn vị đa tham chiến tại Phan Rang,
cũng như các Chi Khu của bốn quận miền Bắc. Nói chung tất cả quân các
cảnh tại đây, kể luôn Tiểu Đoan 274 DPQ của ThT Xuân, lúc đó đang đóng
tại cầu Đá Chẹt, giáp ranh với Ca Ná, cũng di tản được tới Vũng Tau bằng
ghe đánh cá , tại Long Hương va Cửa Phan Rí ..
Như vậy từ đó, ranh giới của tỉnh Bình Thuận với giặc Hồ là thị trấn Phú
Long, tren QL1, cách Phan Thiết khoảng 10 km, về phía bắc. Ở mặt trận
miền đông, Chi Khu Hải Long vẫn con và BCH.Tiền phương của TK.Binh
Thuận, do Đại Tá Tỉnh Truởng , Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, vẫn đóng tren Lầu
Ông Hoang. Trong thị xa, con có 2 BCH khác, một do Trung Tá Trí, Tham
Mưu Trưởng Tiểu Khu Trưởng kiem Chỉ Huy Trưởng DPQ+NQ, đóng tại Căn Cứ
của Duyen Đoan 28 tại của biển Thương Chánh. Con BCH.Hanh Chánh Tỉnh thi
do Phó Tỉnh Trưởng la Phạm Ngọc Cửu, cung với các Trung Tá Hoa, Luông,
ThT Huỳnh văn Việt (Trưởng Ty CCB/BT) chỉ huy, đóng ngay trong Toa Hanh
Chánh, lúc đó coi như lanh đạn pháo kích của VC hằng giờ..
Chiều ngày 12/4/1974, Đại Uý Huỳnh Văn Quý, lúc đó đang la Lien Đội
Trưởng Lien Đội Đặc Biệt, đang bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ, ở phía nam phi
trường Phan Thiết, thuộc Ấp Binh Tú, xa Kim Binh, quận Ham Thuận, nơi
có mấy ngan Viet Kiều hồi hương từ Kampuchia về. Ông được chỉ đinh lam
Tiểu Đoan Trưởng , TĐ 249 DPQ, lúc đó do ThT.Phan Sang chỉ huy. Việc ban
giao đơn vị được thực hiện ngay lúc 7 giờ tối cung ngay, với nhiệm vụ
TD249 phải tái chiếm lại Phú Long, đa mất từ mấy ngay qua. Vi quân số
quá hao hụt, nen TK biệt phái them cho TD, Đại Đội 283 Biệt Lập của Đại
Uý Nguyễn Văn Ba, một sĩ quan LLDB rất gan dạ và tai giỏi. Ngoài ra Đại
Uý Nguyễn Văn Hạnh, cũng được chỉ định lam Tiểu Đoan Phó/249 thay Đ/U
Huỳnh Đắc Hoá. .
Ngày 13-4, sau khi hết nhiệm vụ, Thiếu Tá Phan Sang được TK.Binh Thuận,
trả về đơn vị gốc la SD21BB. Lúc 4 giờ chiều ngay 13-4-75, xe chở TD249
va DD283, từ Phan Thiết tới Phước Thiệu Xuân thi đổ quân va tái chiếm
Phú Long bằng ba cánh : - 1 do DD283 tăng phái của DU Ba va DD3/249 của
Trung Uý Thời, đánh từ Lo Vôi tới Chợ va Cầu Phú Long. Cánh 2, do
DD4/249 của Trung Uý Thanh va Trung Đội Thám Sát của TD, đánh từ Lo Vôi
tới Trụ Sở Xa Phú Long. Cánh 3, do DD1/249 của DU.Đáp, tấn công hướng
đông. Rieng DD2/249 của Đại Uý Nguyễn Chánh Trúc, lam lực lượng trừ bị
cho TD. .
Trận chiến rất khốc liệt, kể cả Trung Đoan 6/SD2BB biệt phái, mấy ngay
trước vẫn phải rút về Phước Thiệu Xuân, vi hỏa lực của giặc rất mạnh,
lại chiếm được nhiều cao ốc trên QL1, đặt súng Đại bác 57 ly va B40 bắn
từ tren cao xuống. Them vao đó la pháo 105 ly, ma giặc đa chiếm được ,
bắn lien tục từ Binh An sang, lam thương vong nhiều người, trong đó có
Trung Uý Thời (DDT) va Trung Uý Nhan (DDP) của DD2/249, tại Ấp Phú
Trường. Vi vậy tới ngay 14-4-75, Tiểu Đoan phải đánh cận chiến bằng lưu
đạn, cũng như tranh gianh từng thước đất khắp các vị trí, mới chiếm lại
được xa Phú Long, ngoại trừ các ngôi chua, không dám đụng tới vi sợ hư
hại chốn tôn nghiem, kể cả sự yểm trợ của Không Quân va Pháo Binh tác
xạ..
Coi như TD249 và ĐĐ283 biệt lập cố thủ tại Phú Long, cho tới ngay
18-4-1975, thi nhận được lệnh của TK/BT báo, la sẽ có Đơn Vị khác len
thay thế, cho TD đa quá mệt mỏi và tổn thương nhiều, trong mấy ngay tử
chiến. .
Vì Miền Bắc BT bỏ ngỏ từ khi Phan Rang thất thủ, nên Binh Đoan Bắc Việt
tiến vao Phan Thiết rất nhanh va sáng ngay 18-4-75, đa tới Ta Dôn. Bởi
vậy Đại Uý Quý., xin Đại Tá Nghĩa, tăng cường cho TD249, Chi Đoàn Thiết
Giáp của SD2BB, đóng tại Phước Thiệu Xuân, cùng với TrD 6/SD2BB nhưng TK
không đáp ứng, vi các Đơn Vị tăng phái nay, đang chuẩn bị rút về Nam,
khi biết tin quân Bắc Việt sắp tới Phú Long. ..
Khoảng 6 giờ chiều ngay 18-4, qua hệ thống truyền tin, Đại Uý Quý, biết
BCH.
Tiền Phương của Đại Tá Nghĩa, đóng trên Lầu Ông Hoàng, đa rút ra bờ
biển, theo đường Phú Hai về Phan Thiết. Du nhận lệnh cố thủ Phú Long,
nhưng Quý không thể chấp hành lệnh, khi tất cả các đơn vị,kể cả Thiết
Giáp đa rút. Lúc đó, coi như TD249 và Đ&3272;283/DPQ la đơn vị đoạn
hậu. Tuy nhien cuộc rút quân, chỉ thực hiện, khi biết xe tăng địch đa
tới Xa Tuỳ Hoà, vào lúc 7 giờ tối. .
Theo kế hoạch, DD4/249 đóng ở Cổng Bắc xa nhất, rút trước. Con DD2/249
là thành phần trừ bị, nen rút sau cung. Vi nghĩ rằng sẽ về tái chiếm lại
, nen DU Quý không cho phá Cầu Phú Long, ngang sông Cả, trên QL1, như
lệnh của TK/BT, mà chỉ gọi Hải pháo . Trong lúc TD249 rút quân, thì máy
của Thiết Giáp/SĐ2BB, lien lạc ngăn chận, bảo chờ gở min. .
Thật sự , Đơn Vị nay đa rút , nhưng muốn gạt DPQ ở lại đoạn hậu,cho an
toan. Tại Lầu Ông Hoang, lúc đó con có DD1/275DPQ của Đại Uý Nguyễn Đinh
Uý, từ Ta Dôn rút về. Còn ÐÐ290/ÐPQ biệt lập của Ð/U Sâm, thì từ lâu ở
đó, để bảo vệ BCH nhẹ của TK va Khẩu Đội Pháo Binh 105, đóng tại đây.
Cuối cung trong đem 18-4-1975, TD 249 va DD283 rút về Rạng va được
thuyền đánh cá, chở tới Vũng Tàu. Riêng ĐĐ1/275 của Đại Uý Uý và ĐĐ290
của Đ/U.Sâm, chỉ rút khỏi Lầu Ông Hoàng, khi xe tăng VC tấn công . Tại
QL số 1, du SD2/BB cũng như các TD249/DPQ va TD275/DPQ rút về Phan
Thiết, nhưng các Trung Đội Nghĩa Quân vẫn ở lại, du có lệnh di tản.
Chính Họ đa bắn cháy một T54 , trước Nha Thờ Kim Ngọc, trong khi Mặt
Trận Không Có Đại Bang, không phải vi Đại Bang khiếp nhược bỏ chạy, ma
vi " Thời Thế Thế Thời Thời Phải Thế "..
** Thiếu Uý Lê Văn Thắng, Ban 3/TD/249DPQ/BT viết lại trận Phú Long : .
Nhớ lại "những ngày tái chiếm và tử thủ Phú Long " Thiếu Uý Le văn
Thắng, Phụ Tá Trưởng Ban 3/TD249/DPQ, hiện tạm cư tại Úc, cũng viết gần
giống sử liệu :.
Sau khi xuất viện từ bệnh viện Cà Mau, tôi được sự vụ lệnh thuyền chuyển
về Binh Thuận, tháng 12/1974 .Tôi về lại Binh Thuận thân thương, nhin
lại trường cũ, thầy xưa, gặp lại bạn be năm nào trong vui sướng. Tuy
nhien, về lại Binh Thuận lần nay, tôi được đưa về Tiểu Đoan 249/ ĐPQ của
Thiếu Tá Phan Sang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoan đóng lưng chừng núi Ta Dôn,
cũng như ở Binh An va Binh Lâm, tren Lien Tỉnh Lộ 8 (Phan Thiết-Ma Lâm).
Vi vết thương con nhiều mủ, nen được lam phụ tá Ban 3 của Trung Úy Ba.
Tôi chưa quen nhiều người tại Phan Thiết., ngoai những sĩ quan trong
tiểu đoan, như Trung Úy Thời (người Lại An), Đại Uý Tập (Mũi Né), Thiếu
Úy Ba (bạn học cũ, PBC 72, Lại An), Thiếu Úy Quận (Y Sĩ Tiểu Đoan)..
Điều tôi thấy sung sướng la cấp số trong đơn vị đầy đủ. Tôi tự hao về
Binh Thuận. Theo chỗ tôi biết, mỗi đem ông anh em về nghỉ, va luân phien
hết người nọ đến người kia. Khi trở lại, có những anh em đem cá, mực
len nhậu chơi. Tinh thần nay đa khác biệt hoan toan với những đơn vị của
tôi tại Bạc Lieu. Tinh huynh đệ chi binh, tinh chiến hữu thật la đậm
đa..
Khi con đóng quân tại núi Tà Dôn, Trung Úy Ba đề cử tôi đi theo đoàn
khai quang của Công Binh vài ngày để tiếp ứng khi cần. Khai quang gần
Tuy Hoa. Ngay khai quang cuối cung, man đem buông xuống. Hai anh Công
Binh rủ tôi vào quán nhậu rồi đưa tôi về sau. Tôi không đi. Tôi gọi máy
về nhờ Tiểu Đoan cho người đến rước. Khi tôi được rước về Tiểu Đoan, vừa
bước xuống xe thi hay tin hai anh Công Binh khi nay đa bị VC bắn lật xe
chết rồi. Thế la tôi thoát chết trong gang tất..
Tháng 3/1975, mất Ban Mê Thuộc, "tàn quân" chạy trên quốc lộ 1. Tôi chỉ
nghe kể là chết chóc nhiều tren đường chạy loạn. Người giết người để
cướp vang, tiền. Xe hết xăng bị đẩy khỏi đường ..Về đến Phan Thiết,
những người nay đốt kho xăng, bắn vào các tiệm ở đường Gia Long, đốt chợ
Phan Thiết ... Sự thật thi tôi không nắm vững vi luôn luôn có mặt tại
trận tuyến. Chúng tôi không lanh lương trọn hai tháng 3 va 4/1975..
Đến đầu tháng 4/1974, Đại Úy Huỳnh Văn Quý thay thế Thiếu Tá Sang, làm
Tiểu Đoan Trưởng va tái chiếm Phú Long. Thị trấn nay đa bị VC chiếm hai
ben đường Quốc Lộ 1. Chúng tôi di chuyển lên từ hướng Phước Thiện Xuân,
cách VC đang cố thủ tại Quốc Lộ 1 khoảng 50 thước. Nhiệm vụ thật nặng
nề, vừa tái chiếm Phú Long, vừa bảo vệ tai sản va nha cửa dân..
Đối với chiến thuật chiến tranh trong thành phố mà chúng tôi học được
qua phim ảnh, gnười Mỹ đa dung lựu đạn va vũ khí để chiếm lại từng căn
nha. Khi chiếm được khu vực nào thì nhà cửa của khu vực đó coi như the
thảm. QLVNCH thi nghèo nàn hơn, không thể dung số lượng đạn dược như vậy
cho chiến tranh trong thanh phố. Vả lại, chúng ta cần bảo vệ cả tai sản
dân. .
Lúc này, dân Phú Long đã di tản hết. Tiểu Đoàn chúng tôi tiến từng bước
một, chậm, vi VC nằm trong bóng tối đâu đó trong khi minh di chuyển tren
hướng quan sát của địch. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đóng quân nới nào thì chỉ
trong vong 10 phút, VC pháo tới đó. Có lần, Đại Úy Quý đa đơn thân độc
ma ra quan sát chiến trường. VC bắn vao áo giáp của ông ma đầu đạn vẫn
con trong áo..
Sau vài ngày, chúng tôi cũng đa giải tỏa được khu vực ben này Quốc Lộ 1,
tiến đến được mặt đường, có chốt đóng ngay cầu Phú Long..
Tin đồn bắt đầu bất lợi là có nhiều đoàn xe VC tiến về Phan Thiết, Đại
tá Nghĩa đa dời BCH từ Lầu Ông Hoang ở Phú Hai, tới Bải Thương Chánh để
chỉ huy va sẵn sang rời bỏ Phan Thiết bất cứ giờ phút nào..
Trong tình trạng khẩn cấp, tôi được lệnh đi với một người xạ thủ súng
cối 81ly, đến đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân. Tại đây, tôi lam bảng tác
xạ, để kịp thời yểm trợ các vị trí khi được thông báothông báo, bằng
khẩu súng cối 81 ly, khá chính xác..
Thời gian không còn tác dụng trên chúng tôi hay nói đúng hơn, tôi không
còn biết đến ngày tháng nữa. Sau nay, tôi chỉ dựa vao sách để biết ngay
mất Phan Thiết chứ thật tinh tôi không biết la ngay 18, 19 hay 20/4/75..
Trong ngày cuối cùng, Trung Úy Ba gọi tôi lên đai quan sát coi VC đi về
hướng nào. Đai quan sát tuy cao nhung tôi không thể thấy được gi. Đem
ấy, tôi được lệnh bắn cối dồn dập nhưng chính xác về các tọa độ được
cho. Chúng tôi bắn đến viên đạn cuối cùng. Khi tôi báo cáo hết đạn 81,
tôi được lệnh xếp cang súng, bỏ sẵn tren xe va đợi lệnh . Trung Úy Ba
vừa cười vừa nói với tôi: " Thắng, may đừng có chạy trước nghen". Tôi
trả lời: " Tôi sẽ chờ Tiểu Đoan, có di thi cung đi, có chết thi cung
chết"..
Tôi theo dõi tình hình qua máy truyền tin của tôi. Một lát sau, có báo
cáo từ chốt cầu Phú Long là xe tăng VC đến cầu Phú Long. Họ chạm trán
nhưng không ben nao nổ súng, xin lệnh từ Tiểu Đoan. Đại Úy Quý gọi về
Tiểu Khu xin lệnh. Lệnh từ Tiểu Khu, Tiểu Đoan chúng tôi về "Ma Trái Bí"
chờ lệnh mới. Xe với súng cối chúng tôi chờ sản trước cổng đồn Nghĩa
Quân Phước Thiện Xuân. Tiểu Đoan chúng tôi di chuyển gần tới chỗ tôi..
Trưởng đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân mà tôi quen tên đa nói rằng:
"Tiểu Đoàn chạy kệ họ, minh phải tử thủ. Đứa nao chạy tao bắn bỏ mẹ".
Chính câu nói này làm tôi vẫn còn thấy nhục nha từ ngày cuối cùng của
Phú Long, của Phan Thiết. Sau ngay mất Phan Thiết, trong thâm tâm tôi,
tôi luôn luôn kính phục người trưởng đồn Nghĩa Quân này. Khi cải tạo ra,
tôi hỏi thăm tin tức về anh ta và nghe nói anh ấy vào rừng tiếp tục
chiến đấu. Tôi theo Tiểu Đoan di chuyển về Ma Trái Bí (mật ma của Lầu
Ông Hoang), nằm đó chờ lệnh. Khoảng nửa tiếng sau, chúng tôi lien lạc
được với Tiểu Khu va được lệnh về tăng phái cho Thiếu Tá Hang Phong Cao
(Hải Long). Tiểu Đoan di chuyển suốt đem về Mũi Né. Ai cũng mệt mỏi
nhưng không có lệnh nghỉ ngơi. Tới gần sáng, chúng tôi đến cuối Rạng,
gặp nhiều người lính bỏ ngủ, họ nói Thiếu Tá Cao (Chi Khu Trưởng Hải
Long) đa ra tau đi rồi. Vi Chi khu đả bỏ ngo, nen Đại Uý Quý phải tim
thuyền đánh cá, để đưa TĐ249/ĐPQ về Vũng Tau
B-TỬ CHIẾN TRONG THÀNH PHỐ PHAN THIẾT:
Trong ngày 18-4-75, tình hình Phan Thiết đa bắt đầu hỗn loạn, du giặc
vẫn còn ở rất xa, bên kia phong tuyến của các Đơn Vị Địa Phương Quân
Binh Thuận đang tử thủ tại Tường Phong, Đại Nẳm, Phú Hội, Phú Long va
Quận Hải Long. Từ 7 giờ đem 18-4, sau khi BCH Nhẹ của Đại Tá Nghĩa, đóng
tren Lầu Ông Hoang, rút về Phan Thiết ra biển, thi Trung Đoan 6/SĐ2BB
va Thiết Giáp, cung các Tiểu Đoan 249/ĐPQ, TĐ275/ĐPQ, ĐĐ283 va 290/DPQ
biệt lập cũng rút, cung lúc với Chi Khu Hải Long. Trong Thị Xa Phan
Thiết, lúc 9 giờ tối đem 18-4, xe tăng va bộ binh của Bắc Việt, đa chiếm
được Toa Hanh Chánh, nhưng khắp các vị trí, vẫn con nhiều Đơn Vị Địa
Phương Quân Binh Thuận chống trả như Đại Đội 206 Trinh Sát của Đại Uý
Le Văn Tro, ĐĐ954/ĐPQ của Đại Uý Mai Xuân Cúc, Tiểu Đoan 229/ĐPQ của
Thiếu Tá Tiến, Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận của Thiếu Tá Phạm Minh, Yếu
Khu Châu Thanh của Thiếu Tá Cư va Xa Châu Thanh Phan Thiết của Thiếu
Tá Hải. Nói chung, khắp thanh phố lửa đạn mịt mu, VC tuy vao được trong
thanh phố nhưng chỉ cố thủ trong các vị trí vừa chiếm được, chứ không
dám bung ra trong đem, vi chỗ nao cũng con quân ta chiến đấu , chứ không
tan hang như các địa phương khác. Trong lúc đó, máy truyền tin của ba
Bộ Chỉ Huy Binh Thuận vẫn hoạt động lien tục, ra lệnh cũng như hướng
dẫn các đơn vị , tới các vị trí an toan, chờ các chiến hạm của Bộ Tư
Lệnh Vung 2 Duyen Hải, vao vớt chở tới Vũng Tau.. .
Trong đêm 18-4, Đại Tá Nghĩa, sau khi được một tau đánh cá chở ra chiến
hạm, liền được một trực thăng của QD3, chở ngay về Vũng Tau, cung với
Đại Uý Đặng Vũ Đang, Trưởng Phong 2 Tiểu Khu, để chuẩn bị kế hoạch
phương tiện, tiếp đón các Đơn Vị ĐPQ+NQ/Binh Thuận , đang tren đường di
tản tới. Có la nhân chứng sống thực trong giờ thứ 25 của VNCH, mới biết
nao la thân phận của người lính Miền Nam. .
Gần nửa đem 18-4-75, Thiếu Tá Nguyễn Cư, Yếu Khu Trưởng YK Châu Thành,
nhận lệnh trực tiếp của Bộ Chỉ Huy .Tiểu Khu Binh Thuận ban lệnh cho
tất cả các Đơn Vị Địa Phương Quân đang chiến đấu, trong thanh phố, cố
gắng tập trung về Bến Tau Kim Hải, phía sau Phi Trường va Quân Y Viện .
Đoan Mạnh Hoạch Phan Thiết. Do đó, ngay trong đem, Đại Đội 954/ĐPQ của
Đ/U.Mai Xuân Cúc , chiến đấu tại Ấp Đại Hoa, đa phải vượt sông Ca Ti,
tới Quận Đường Ham Thuận ở Ngả Hai, rồi từ đó băng ngang qua Phú Khánh,
đến điểm tập trung Kim Hải..
Kính phục nhất là tại Quân Y Viện . Đoàn Mạnh Họach, trong lúc giặc gần
như đa chiếm trọn thanh phố, thi trong bệnh viện, ngoại trừ Chỉ Huy
Trưởng, Thiếu Tá Bác Sĩ Vo Đạm (Hiện có phong mạch tại Boston-Mỹ), khuân
vác tất cả đồ đạc va cong vợ con, trốn về Sai Gon, để kịp qua Mỹ, trước
khi giặc vao. Con đơn vị, từ các Y,Nha, Dược Sĩ cho tới quân nhân cơ
hữu các cấp , du biết giờ 25, vẫn miệt mai lam việc, cứu sống bao sinh
mệnh của thương binh va đồng bao chiến cuộc..
Do nhu cầu, Đại Úy Y Sĩ Lê Bá Dũng, khi vào Cục Quân Y tại Sai Gon lãnh
thuốc men và y cụ, đa được Chuẩn Tướng Phạm Ha Thanh, Cục trưởng Cục
Quân Y, bổ nhiệm lam Quyền Chỉ Huy Trưởng , đồng thời ban báo thị tầm
na, việc đao ngũ của Thiếu Tá Đạm. Ngay 8-4-75, Đề Đốc Chung Tấn Cang,
Tư Lenh Hải Quân có tới Phan Thiết họp với Đại Tá Nghĩa, để soạn thảo kế
hoạch di tản đường biển, nếu Binh Thuận bị nguy cấp. Dịp nay, TK đa cấp
cho QYV một máy truyền tin PRC25, nhờ vậy có thể cập nhật tin tức từng
giờ..
Trong ngày 18-4-75, dù Phú Long mịt mù lửa đạn, nhưng mặt trận Nam Phan
Thiết vẫn còn an ninh, vi đa có sự phong thủ của Lien Đoan địa Phương
Quân Ham Thuận của Thiếu Tá Dụng Văn Đối, Quận Trưởng. Ngoài ra khu vực
nay con có nhiều đơn vị khác hiện diện, như Lien Đội Đặc Nhiệm Nông
Trường Sao Đỏ va nhất la 2 TĐoan /BĐQ di tản từ Quảng Đức về chờ phương
tien vao Nam. Vi vậy Quân Y Viện Đoan Mạnh Hoạch rất an toan.
Chừng 7 giờ tối, VC đa vào Phan Thiết và ác chiến trong thanh phố, QYV
nhờ có máy PRC25, nen biết tin tức. Cung lúc, lại có một đơn vị của
Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận, do Thiếu Tá Phạm Minh hướng dẫn, tren đường
tới Bến Tàu Kim Hải, có lien lạc với Quân YViện cho biết tin tức chiến
sự. Theo Phó Tỉnh Trưởng Binh Thuận. Phạm Ngọc Cửu, lúc đó con đang ở
Phan Thiết, thi hai chiếc xe thiết giáp tắt đen chạy ngang qua đó, la
của quân ta, chứ VC tới trưa ngay 19-4-1975 mới dám len khu vực nay, sau
khi QLVNCH đa di tản hết..
11 giờ 30 khuya cùng ngày, Đại Úy Dũng mới nhận được lệnh di tản. Cũng
may, địa điểm của bệnh viện nằm sát bờ biển,lại đa lam sẳn con đường,
nên việc di chuyển thương bệnh binh ra tau Hải Quân, cũng không trở
ngại. Mặc du lúc đó chỉ con một phần quân nhân ở lại, nhưng cũng đa di
tản được 200 thương bệnh binh . .
Từ sáng ngày 19-4-1975, các đơn vị Địa Phương Quân Bình Thuận đa tập
trung rất đông tren bai biển Kim Hải, để chờ tau vao rước. Buổi sáng
nước thủy triều xuống, nên chiến hạm không thể vao sát bờ, nen phải thả
các loại tau há mồm LCM vào rước các đơn vị.
Loại tàu này có thể chở được tới 2 thiết vận xa M113. Công tác hoàn tất
lúc 12 giờ trưa nhưng các chiến hạm của Vung 2 Duyen Hải, vẫn đậu ở
ngoai khơi Phan Thiết chờ lệnh, tới 2 giờ trưa mới len đường và cập bến
Vũng Tàu lúc 2 giờ sáng, ngay 20-4-1975. Tại Bến Đinh, lúc đó có sự hiện
diện của Đại Tá Vũ Huy Tạo, Thị Trưởng Vũng Tau va Đại Tá Ngô Tấn
Nghĩa, Tỉnh Trwởng .Binh Thuận chực sẵn, đón các đơn vị, đưa về Trung
Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, tái trang bị va tiếp tục chiến đấu khắp lanh
thổ Phước Tuy, cho tới khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hang, mới ra ngủ.
Sau đó, tất cả các Sĩ Quan của TK.Binh Thuận, bị chở về Xuân Lộc va tập
trung trong doanh trại củ của Tiểu Đoan 1, Trung Đoan 43/SĐ18 BB va đi
cải tạo chung với Sĩ Quan của SĐ 5 BB, khắp các trại tu miền Bắc. Ngoai
ra, đem 18-4-1975, Thiếu Tá Dụng Văn Đối, Quận Trưỏng .Ham Thuận , đa
chỉ huy các Tiểu Đoan Địa Phương Quân , Lien Đội Nghĩa Quân , Cán Bộ Xây
Dựng Nông Thôn , Cảnh Sát, Vien Chức Xa Ấp thuộc Chi Khu, cung với Pháo
Binh va một Chi Đội Thiết Giáp V100, di tản bằng đường bộ vao tới Binh
Tuy. Sau đó được tau Hải Quân chở vao Vũng Tau va tăng phái cho Sư Đoan
22 Bộ Binh của Tướng Niệm, đang trấn giữ tại Cầu Bến Lức-Long An , cho
tới khi tan cuộc. .
20-4-1975, BT coi như đa lọt vào tay Hà Nội, VC lập ra ủy ban quân quản
thị xa, do thiếu tá VC Từ quảng Tuyen lam Chủ tịch, khắp nơi lập ra 16
địa điểm để các quân, công,cán,cảnh VNCH tới khai báo trình diện, để
cung nhau vào địa ngục trần gian tại Cà Tót, Huy Khiem,Sông Mao va mọi
nẽo đường tận tuyệt. .
Cuộc chiến đa qua nhưng không bao giờ xoá nhoà nổi vết tích trong tâm
trí người Việt. Vinh hay nhục thi nay đa được lịch sử xác nhận, nen
không cần phải ca ngợi hay biện minh về cái thua hay cái thắng, một công
việc thừa thải khi mặt thật của cộng sản Hà Nội được phơi bay suốt 30
năm qua., nen chỉ xin bạn be ai có dịp về thăm que hương miền biển măn,
đừng quen : .
'có xuống bến qua nghĩa địa
đừng quen mặc niệm những hồn oan
bỏ minh trên biển khi di tản
u uất bao năm nỗi hận hờn
đừng quen thăm lại Quân Y Viện
thắp một nén hương mộ bạn minh
lính trận dân lành chung buổi giổ
tháng Phan Thiết hận đào binh ..'
Xóm Cồn tháng 3-2005
Mường Giang
************************************
Sư Đoàn 18 Bộ Binh Và Những Ngày Tử Chiến Tại Xuân Lộc
Hồ Đinh - KBC 4424
Kính tặng SÐ18BB, riêng Trung Đoan 43BB
Và Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế (TDT/2/43)
Qua những tài liệu lịch sử đa bật mí, nên ngày nay ai cũng biết , trong
suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1960-1975),người Mỹ gần như cung
cấp cho VNCH, tất cả vũ khí, quân trang, tiền bạc va những hệ lụy của
cuộc đời mà bi thảm nhất là sự mất nước vao tạy cọng sản quốc tế. Theo
sự chỉ trích gay gắt của Đô đốc Sharp, trong cuốn ' Strategy for defear
', vị tư lệnh đầu tien của Đồng Minh tại Thái Binh Dương, thi sự thất
trận tại VN vao ngay 30-4-1975, ro rang la cố ý, do những ten đầu nảo
dân sự, ngồi tại Hoa Thịnh Đốn, tự trói một tay của quân lực Hoa Kỳ va
Nam VN, trong khi ho đang tử chiến với khối cọng sản đệ tam quốc tế, qua
tấm binh phong, mang ten Bắc Việt. Tren tạp chí Encounter tháng 8-1981,
ký giả người Mỹ Robert Elegant , cũng đa hai tội bọn trí thức, khoa
bảng va truyền thông Tây phương thien tả, đa dung vũng bun văn, báo,
truyền hinh của minh, để giúp cọng sản đánh bại nước Mỹ. Ông đa chua
chát nói thẳng với thế giới rằng :'o Bắc Việt đa thảm bại tren chiến
trường nhưng cuối cung ngay 30-4-1975, người Việt quốc gia, đa phải mất
nước tại Hoa Thịnh Đốn, Nữu Ước, Ba Le, Luân Đôn, Huế va Sai Gon , vi
trận giặc báo chí, từ những cái miệng thúi vô liem sỉ, chuyen bẻ cong
ngoi bút, dựng đứng câu chuyện, để hại người . '
Ngày nay ai cũng biết hết những thành tích của QLVNCH, qua thời gian tồn
tại suốt 20 năm máu hận (1955-1975) giữa biền thu trời lệ, giặc ngoai,
giặc trong, giặc đâm sau lưng chiến sĩ., ngay cả trong lời kinh tiếng kệ
va những ngón tay lần hạt đỏ, đen. Cũng nhờ người lính VNCH đa can
trường anh dũng, trong suốt cuộc chiến, cho tới giờ phút cuối cung tháng
4-1975, bị Dương văn Minh quyền tổng tư lệnh, dung kỷ luật quân đội,
bắt mọi người đầu hang giặc, mới phải buông súng tan hang. Nhờ vậy, ma
một thế hệ sau của VN ngay nay tại hải ngoại, mới có cơ hội ngẩn mặt
nhin trời, lấy lại sự hanh diện của cha anh trong cuộc sống lưu vong uất
hận trung hằng.
Tóm lại như bình luận của Luật sư Lawrence L.O'Brien trên The Wall
Street Journal vao ngay 25-1-1983, chứng minh la từ sau ngay ký hiệp
định ngưng bắn tháng 1-1973, nước Mỹ va quốc hội Hoa Ky,o do đảng dân
chủ phản chiến cầm chịch,kể cả cái gọi là Lien-Hiệp-Quốc, gần như ra mặt
bưng bợ cọng sản. Bởi vi phần lớn, họ đa bị Nixon, Kissinger va Việt
Cộng , du gạt, lừa bịp , dễ dang như lừa con nít, qua cái thủ đoạn xảo
quyệt, được tiếp tay công khai bởi bọn nhân danh, khoa bảng, trí thức ăn
hại, khôn nha dại chợ của miền Nam lúc đó Năm 1944, người Mỹ điều động
5000 quân xa, để chuyển Lộ quân 1 va 2 của Đồng Minh, xuyen nước Pháp,
đánh Đức. Lúc đó va về sau, người Mỹ khoe la thanh tích vĩ đại, để cho
ai cũng biết va khen ngợi. Nhưng tại chiến trường Đông Dương, từ
1960-1975, khối cọng sản quốc tế , đa dung 10.000 xe bộ đội, để đưa 20
sư đoan từ Bắc Việt vao xâm lăng Miền Nam VN, qua đường rừng Trường Sơn.
Rồi nhờ cái loa tuyen truyền của trí thức Miền Nam, đâm mu thế giới,
nen rốt cục ai cũng tin va bảo đó la lực lượng của quân cách mạng Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam. Tất cả đều la thực chất của một cuộc chiến vừa
đánh, vừa đam hay đúng hơn la hanh động con buôn chính trị của sieu
cường Mỹ, giờ chót bán đứng Đồng Minh VNCH cho kẻ thu, đổi lấy sự lien
kết chiến lược với Trung Cộng, gở lại lời vốn đa tieu phí tại chiến
trường nhiều trăm tỷ đô la va ngan ngan sinh mạng. Phải biết như vậy,
chúng ta mới đánh tan được cái huyền thoại, tại sao Miền Nam sụp đổ chỉ
có 55 ngay va cuối cung, xin thương xót cho thân phận những người đa cầm
súng chiến đấu tại miền Nam suốt 20 năm qua, quanh quanh chỉ la kẻ thu
va khung cảnh xa hội vô ơn bạc bẻo. Đời sống của lính va vợ con, nhất la
khi lính nằm xuống hay bị thương đui, que, tan phế, có thua gi kiếp
sống của gia cầm, vậy ma cứ bảo Lính minh đánh thue cho giặc Mỹ ?. Tồi
tệ hơn hết khi đi tim sự thật, la câu chuyện người Mỹ trong lúco tháo
chạy, đa dung cái thủ đoạn ' ăn không được phải phá nát bấy', khi đưa
cái ba vật chất an toan, lam mồi để dụ dỗ một số cấp chỉ huy của QLVNCH,
nhất la không quân, đao ngũ bỏ đơn vị, đem máy bay trả lại để được tới
Hoa Kỳ. Chính sự tồi tệ tren, đa góp phần phá hủy tinh thần chiến đấu
của quân lực VNCH, trong lúc nguy ngập. Sau rốt la việc sử dụng bom CBU
đâu có trái với qui ước chiến tranh đa ký kết. Theo hai ký gia người
Pháp thân cộng la Jean Lartégui va Pierre Darcourt, đa chứng kiến cảnh
quân Bắc Việt bị chết ngạt tại Xuân Lộc, vi bom nay, đa viết :' Miền Nam
sẽ không mất, nếu Mỹ thả tiếp vai chục trái CBU vao đoan quân xâm lược,
đang công khai di chuyển tren các quốc lộ, thế nhưng Hoa Kỳ đa không
làm '.
Mới đây, trong tác phẩm ' 55 days of the fall of South Vietnam', tác giả
Alan Dawson, có nhắc tới hai tiểu đoan con lại của Nam VN, chừng 600
người, giữa trung vây của Bắc Việt , sau khi QLVNCH được lệnh rút bỏ
Xuân Lộc. Chuyện có thật nhưng Alan viết sai dữ kiện, vi giờ chót rút
quân, không có một đơn vị nao, kể cả Nghĩa quân, bị buộc ở lại để bảo vệ
Xuân Lộc, lúc đó không con giá trị chiến lược, vi Bắc Việt đa tim đường
khác để tiến quân về Sai Gon. Đơn vị bị kẹt lại, đó la Tiểu Đoan 2,
Trung Đoan 43, SD 18BB, do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế lam Tiểu Đoan Trưởng.
Trong suốt những ngay tử chiến tháng 4-1975, TD2/43/18 có nhiệm vụ đóng
tren Núi Thi., ngoại ô thị xa Xuân Lộc, để bảo vệ dan pháo của Su Đoan.
Khi Tướng Le Minh Đảo, tư lệnh Mặt Trận Long Khánh, nhận lệnh của Bộ
Tổng Thanm Mưu QLVNCH, qua lệnh trực tiếp của Trung tướng Nguyễn Văn
Toan, Tư Lệnh Quân Đoan 3, ngay tại mặt trận, ' BỎ LONG KHÁNH' va triệt
thoái tất cả các đơn vị đang chiến đấu, gồm SD18BB, Tiểu Khu Long Khánh,
Lữ Đoan1 Nhảy Du, Biệt Động Quân..thi Tiểu Đoan 2/Trung Đoan 43/SD18BB
la đơn vị cuối cung, trong cuộc rút quân, vi con có nhiệm vụ đánh nghi
binh, chận đường, để giúp đại quân an toan trở về coi sống, nen bị thiệt
hại nặng nề. Con luật sư Nguyễn văn Chức thi dựa vao tai lieu của Hoang
Cơ Thụy va Frank Snepp, nen nói trực thăng tới bốc 4 tiểu đoan con lại
của SĐ18BB, trong đó có Tướng Tư Lệnh Le Minh Đảo, Đại Tá Trung Đoan
Trưởng TrĐ43/18 la Le Xuân Hiếu, đang bị 40.000 bộ đội Bắc Việt tran
ngập. Thật sự trong cuộc lui quân, từ tướng xuống tới hang binh sĩ,
không có ai được trực thăng tới bộc về, ma tất cả đều hanh quân bộ. Lúc
các cánh quân VNCH, hầu hết đa về gân như an toan tại Binh Giả, Phước
Tuy,thi TD2/43'18BB, chỉ một minh con trong biển giặc như Alan Dawson mô
tả. Sự thật la vậy đó, các nhân chứng như tướng Đảo, các Đại Tá Lược,
Lến, Hiếu. Dũng, Công..của SD18), Đại Tá Phạm Văn Phúc-Tỉnh Trưởng Long
Khánh, Đại Tá Đính , Lữ Đoan Trưởng Lữ Đoan 1 Nhảy Du, các Tiểu Đoan
Trưởng thuộc SD18BB, có tham dự tra65n đánh va cuộc lui quân như Nguyễn
Phúc Sông Hương, Ý Yen-Phan Tấn Mỹ, Đại Uý Le Sơn, Chi Đoan Trưởng Thiết
Đoan 5 Kỵ Binh, các Đại Uý Đặng Phúc (Biệt Đội Quân Báo), Ngô Gia Hậu
(Phóng Vien), Nguyễn Hao (Phong 3.SD)..va nhất la Thiếu Tá Nguyễn Hữu
Chế, Tiểu Đoan Trưởng Tiểu Đoan 2/TrD43/SD18BB, người từ coi chết trở
về, vao tu tại Bắc Việt va tới Mỹ qua diện HO..đều la những nhân chứng
sống, có đủ tư cách, để nói va viết những sự thật lịch sử.
Tóm lại, đến giờ nay, sự đau đớn nhất của người Lính Miền Nam, la thấy
cái thân phận bọt beo của chính minh, cứ bị đem ra mổ xẻ rao bán, bởi
những người không hề biết gi về thực chất của đời lính, du họ có là
lính. Nhưng lịch sử vẫn la lịch sử, câu chuyện sử gia số 1 của nước Mỹ
la giáo sư Joseph J.Ellis, tại Đại Học Mount Holyoke, vừa bị nha báo
Walter V. Robinson, lột mặt nạ trong bai báo ' Professors past in doubt
', đăng tren tờ Boston Globe ngay 18-6-2001, về những đề tai có lien
quan tới Chiến tranh VN va sự Ellis du ở trong quân đội Mỹ nhưng chỉ
ngồi dạy học ở Hoa Kỳ., nen đa mao tôn cương, khi viết trận đánh không
có đại bang. Mới đây la bai học thất cử của ứng cử vien tổng thống Mỹ,
thượng nghị sĩ John Kerry, cũng do chính khẩu nghiệp, đa lam hại thân
minh.Việt Cộng va những kẻ lừa đảo ngoi bút, đa đến lúc phải đối mặt với
những tra vấn của lương tâm, trong cuộc chiến VN vừa qua, vi cuộc chiến
đấu thần thánh của QLVNCH, trách nhiệm bảo vệ que hương, trong đó có
SD18BB,LD1Du,BDQ,DPQ va NQ Long Khánh..vao những ngay cuối tháng 4-1975,
la câu chuyện lịch sử , trong dong sinh mệnh của Dân Tộc Hồng Lạc, mien
viễn sẽ không bao giờ bị phủ nhận của bất cứ một ai, qua thời gian hay
miệng lưỡi nao, kể cả những lỗ miệng có gan có thép, nhổ ra nuốt vao của
bọn văn cộng giặc cộng.
1-THÂN PHẬN NGƯỜI LÍNH VNCH TRONG 20 NĂM CHINH CHIẾN (1955-1975)
Sau ngày 30-4-1975, que hương của người Việt quốc gia bị cọng sản quốc
tế dô hộ hoan toan từ nam ra bắc, mọi người mới sáng mắt thấy rằng,
không có một lanh tụ nao của đảng, từ Hồ Chi Minh xuống tới chang du
kích, biết coi trọng sinh mạng của người dân, bởi vi nguyen tắc thanh
công của cọng sản, la chỉ có thẳng tay bắn giết , thi mới có sự phục
tung. Rieng chuyện dai VN, vi chính người dân lúc trước tự xiềng xích
minh, để chui vao thien đang xa nghĩa, cho nen nay, cũng chỉ có người
dân, tuy thầm lặng đứng ben vệ đường thời gian, nhưng lại la động lực
chính, bẻ gay được khóa cổng thien đường mu, để trở về cuộc sống tự do
no ấm của con người.
Ngày nay, mỗi lần đọc lại lịch sử, cảm thấy ngui ngui va thương xót biết
bao cho dân tộc minh, bỗng dưng trở thanh nhược tiểu, vi cả nước mu
quáng nen bị Hồ Chí Minh, thắng một vụ lừa bịp bẩn thỉu nhất , trong
dong sử Việt, từ vụ cướp chính quyền tháng 8-1945, cho tời sự lanh đạo
của cọng sản trong chin năm kháng Pháp. Cũng từ đó, người Việt quốc gia
coi như đứng trước nga ba đường sinh mệnh va du có chọn lối nao chăng
nửa, rốt cục cũng chỉ dẫn tới địa ngục mà thôi.
Năn 1951, thống chế De Lattre de Tassigny sau khi chận đứng Việt Minh
tại Vĩnh Yen, Bắc Việt, đa len lớp người Việt lúc đó thụ động, hen nhát,
không chịu ra chiến trường để bảo vệ que hương minh. Trong cuộc chiến
Đông Dương lần 2 (1955-1975), thế giới ben ngoài, qua tuyen truyền từ
báo chí của VC va truyền thông Mỹ, Tây Phương, nen đa đánh lận cuộc xâm
lăng của cọng sản quốc tế, thanh một tấn tuồng chống ngoại xâm của Ha
Nội. Nữ ký giả Ý la Oriana Fallaci , trước trận mua he đỏ lửa 1972, khi
tới Ha Nội phỏng vấn, Vo Nguyen Giáp, mới biết Bắc Việt đa nướng tren
800.000 sinh mạng bộ đội tại Miền Nam, trong thời gian qua, trước khi
tiếp tục nướng trong trận he đỏ lửa 1972 va địa ngục Xuân Lộc tháng
4-1975. Điều nay cho thấy la Cọng Sản không bao giờ thiếu nhân lực, tiếp
tế lẫn tinh báo. Ngược lại thi mai mỉa biết bao, trong cách đối xử của
người dân ta đối với phe minh, nhất la những vung bị giặc tạm chiếm hay
la xôi đậu. Nói chung , Chính phủ VNCH trong suốt 20 năm, cố gắng gần
như tuyệt vọng, chỉ mong mang lại cơ hội sống tự do, no ấm cho người
dân, nhưng giống như ngay trước, vi quá khao khát độc lập, nen người dân
đa khoán trắng cho họ Hồ va đảng . Lần nữa, trong cuộc chiến, họ cũng
bỏ mất cơ hội cuối cung. Nói như vậy để mọi người thấy ro thân phận của
người Lính Miền Nam, qua tấm long hy sinh cao cả, trong gần một phần tư
thế kỷ, phải chiến đấu ở một chiến trường bất hạnh, thu nghịch, du rằng
những người Lính ấy, đa phải đem cái mạng sống cung với hạnh phúc của cá
nhân va gia đinh minh, bảo vệ lang xóm, chua nha thờ va sinh mạng của
người dân miền Nam, trong đó có nhiều kẻ đang chực chờ giết hại Lính. Du
vậy, bao nhieu xương máu của QLVNCH nói chung, đa hy sinh vô cung ý
nghĩa, phần nao đa mang đến no âm tự do cho mọi người, du chính quyền
quốc gia chưa được toan hảo trọn vẹn như mong muốn, trong thời gian
1955-1975.
Ra đời từ năm 1950 nhưng quân đội Quốc Gia VN, coi như chỉ được chính
thức nhin nhận bằng văn kiện hanh chánh, trong ngay Quân Lực 19-6-1965.
Sự nghịch lý nay, phần nao nói len những bất hạnh chồng chất, đa va sắp
tới với một quân đội mang đầy máu lệ, ngay từ ngay thanh lập. Sự lộng
hanh của báo chí va truyền thông Mỹ, gần như trong suốt cuộc chiến, đa
trút hết căm hờn len quân đội VNCH, lam tác hại ghe gớm đến tinh thần
chiến đấu của người lính, đến nỗi nha báo Mỹ la Robert Elegant phải ngao
ngán viết rằng, chiến tranh VN trước hết đa thua trong trận giặc miệng
va nước bọt tại hậu phương.
Ngày 17-4-1961, tổng thống Mỹ John F Kenedy, nghe xúi dại của CIA, dưa
1000 quân đổ bộ len đảo Cuba, lật đổ Trum Fidel Castro nhưng kế hoạch
Bay of Pigs hoan toan thất bại, lực lượng đổ bộ bị bắt sống gần hết va
Mỹ phải đem máy cầy cùng xe ủi đất, chuộc tu binh về. Thua me gỡ bai
cao, Kenedy đem con thieu thân Nam VN lam vật tế thần, gở thể diện. Sứ
mệnh nay, được giao cho Đại Tá Lansdale, mở cuộc chiến tranh bí mật (The
Secret War) tại miền bắc VN va Lao, nói nôm na la man đem con bỏ chợ.
Tiếp tới la sự ngây thơ của Mỹ, dại dột ký thỏa ước trung lập Lao, giúp
Bắc Việt mượn đường xăm lăng miền Nam. Cuối cung la gởi 12.000 cố vấn
sang Nam VN, sau khi bị Trum đỏ Lien Xô la Khrushchev nhục mạ tại ban
hội nghi thượng đỉnh. Tóm lại như Edward Weintal va CharleBarlett viết
trong ' Facing the Brink ', thi Kenedy đa nghĩ rằng đưa vai chục ngan cố
vấn vao VN, để buộc Ha Nội từ bỏ mộng cuồng xâm nhưng đó lại la sự đien
rồ, để cho giặc có cái cớ, gây chiến tranh xâm lược VNCH ma thôi. Máu
VN bắt đầu đổ từ đó, bởi sự ngông cuồng lếu láo của tổng thống Mỹ.
Với tổng thống Lyndon Johnson, thì tình trạng VN càng thê thảm hơn, vi
ro rang khi len thế chức tổng thống Hoa Kỳ, thay Kenedy bị ám sát,
Johnson chỉ vi rất sợ bị đảng Cộng Hoa buộc tội quá nhu nhưọc khi đương
đầu với cọng sản, nen đa đưa nước Mỹ va Miền Nam VN vao một cuộc chiến
tranh kỳ lạ nhất trong lịch sử , với sách lược ' không cho thắng '. Như
John Fisher, đô đốc của Anh đa viết :' thực chất của chiến tranh la tan
bạo, đánh giặc ma cầm chung la ngu xuẩn, nen muốn đạt chiến thắng, phải
đánh mạnh va đánh khắp nơi '. Theo các nha quân sử, trong chiến tranh
VN, Mỹ chỉ cần phong tỏa đường biển, oanh tạc bien giới Việt-Hoa-Lao va
cho lệnh QLVNCH tấn công trả đũa vao Bắc Việt, thi giặc đa yen từ lâu.
Nhưng Johnson thi lam ngược lại, hạn chế tối đa các mục tieu tren lanh
thổ Bắc Việt, với lý do sợi chọc giận Bắc Kinh. Tại Lao, các căn cứ của
Bắc Việt được coi la bất khả xâm phạm, cấm tấn công . Đồng thời Johnson
đưa đề nghị viện trợ kinh tế, dụ Việt Cộng chấm dứt xâm lăng Miền Nam,
nen đa bị giặc Cộng khinh bĩ xem thường, vi đa biết được con bai tẩy
'kém nhất' trong quân bai Domino, chính la sieu cường Hoa kỳ, ma khối
cọng sản lúc đó ngạo la con cọp giấy..
Với tổng thống đảng cọng hòa Richard Nixon , ngoai bệnh chủ quan, tự
tin, tự tôn của Kennedy, Johnson con la một tổng thống Mỹ lien hệ sâu
đậm nhất trong chiến tranh VN, bị kết tội la kẻ xảo quyệt, bội tín, bất
nhân, nen dân chúng Mỹ ghét nhất . Do thanh tích bán đứng Nam VN cho
cọng sản đệ tam quốc tế vao ngay 30-4-1975, cũng như tội đa lien kết với
trum đỏ Mao Trạch Đông năm 1972,vi lợi lộc của Mỹ ma phản bội thế giới
tự do, nhân quyền, nen sau 25 từ chức tổng thống , được các nha báo Mỹ
xếp hạng, chỉ đứng tren tổng thống trốn quân dịch la Bill Clinton.
Thành tích khôi hài nhất của cặp Nixon-Kissinger là chủ thuyết ' Nixon',
hay 'VN hóa chiến tranh', thực chất la cuộc chạy lang, bỏ bạn, vô liem
sỉ của một sieu cường số 1 lúc đó va ngay cả bây giờ. Nói ro hơn, Nixon
chỉ vi quyền lợi cá nhân, nen tuyen bố ' đơn phương' rút quân , trong
lúc đang hợp đồng chiến đấu với nhiều quốc gia khác. Đây la một sự lố
bịch va con tan nhẫn đối với sự sống chết của VNCH. Trước tin nay, Ha
Nội chỉ cần ngồi chờ để thừa cơ đánh lén. Rieng những man dội bom va
đánh vao mật khu Mo Vẹt tại Kampuchia năm 1970, Hạ Lao 719 cũng la những
tro bịp, dung máu xương của QLVNCH lót đường cho cặp Nixon-Kissinger ,
mua thời gian cho quân Mỹ về nước sớm hơn hai năm, trước khi Nixon tái
ứng cử vao năm 1972. Trong hồi ký ' A Sldier's Report ' của tư lệnh Mỹ
tại VN, tướng Westmoreland đa vô cung cảm phục va thương xót người lính
VNCH, tham dự trong chiến dịch Lam Sơn 719. Ông đánh giá cao QLVNCH, khi
cho biết, chính kế hoạch nay la của Kissinger, định dung 60.000 quân Mỹ
nhưng rồi thấy không chắc thắng trận, nen đa bỏ ý định va bắt ép tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu thi hanh. Theo sử liệu, trong trận nay, VNCH chỉ
có 17.000 quân va du bị tổn thất nặng, do Mỹ thất hứa không yểm trợ đủ
hỏa lực pháo va không yểm, nhưng Sư Đoan 1 Bộ Binh cũng đa đạt được mục
đích cuối cung, la đặt chân vao cứ điểm Tchepone như Nixon mong muốn.
Tóm lại suốt cuộc chiến 1960-1975, người Mỹ lúc nào cũng muốn QLVNCH
chiến thắng cọng sản quốc tế, trong khi chính minh không lam được. Vô lý
hơn la bó buộc người lính Miền Nam phải chiến đấu, trong khi không cung
cấp đầy đủ vũ khí, quân dụng, kể cả việc ngăn cấm không cho tấn công
giặc. Chưa hết, chỉ vai ngay sau khi Nixon nhậm chức tổng thống lần 2,
thi quốc hội đảng dân chủ Hoa kỳ, đa cắt xén những hứa hẹn ma Nixon hứa
với Nam VN trước khi VN hóa. Tồi bại nhất la quốc hội của đảng dân chủ,
đoi Nixon phải tiết lộ bí mật quốc phong, để kịp báo cho Ha Nội , tấn
công VNCH. Cuối cung lý do ma Việt Cộng phải ký với Mỹ tại Ba Le tháng
1-1973, nói chung la không con chịu nổi những đợt oanh tạc khủng khiếp
va hang rao thủy lôi quanh hải cảng Hải Phong nhưng tren hết, theo tố
cáo của nhân chứng Stephen Young, vi cặp Nixon-Kissiger cam kết với VC,
la sẽ không đoi quân Bắc Việt rút về lại ben kia vỹ tuyến 17 như tinh
thần hiệp định Geneve 1954, nen Ha Nội mới ký THỎA HIỆP BỊP, con Mỷ thi
ký BẢN KHAI TỬ VNCH. Sau nay chính Stephen Young đích thân tới hỏi
Nixon, có biết Kissinger tự ý sửa ' Bản đề nghị ngưng bắn của đại sứ Mỹ ở
VN la Bunker không ', Nixon trả lời ' KHÔNG '. Một điều bí mật khác, la
Kissinger trong thời gian hanh sử chức vụ Tổng Trưởng Ngoại Giao va Cố
Vấn An Ninh Quốc Gia cho TT.Mỹ, đa hoan toan học theo đúng sach lược của
ten điệp vien Pháp thân cộng Jean Saintery ( đại diện phe De Gaulle năm
1945 ), một kẻ đa từng hợp tác với Hồ Chi Minh, để thực dân Pháp công
khai trở lại Bắc Việt năm 1946. Chính Saintery đa chỉ dậy bai bản , giúp
Kissiger bán đứng Nam VN cho Ha Nội, gián tiếp trả thu việc chính phủ
VNCH theo Mỹ, hất chân thực dân ra khỏi đất Việt.
Cũng liên quan tới Người Lính VNCH, qua tài liệu của MACV mới phổ biến,
cho biết, suốt cuộc chiến, Nam VN đa có nhiều binh sĩ đao ngũ nhưng đó
lại la một điều rất kỳ lạ, vi Lính đao ngũ không phải để đầu hang Việt
Cộng, m họ muốn trở về nguyen quán đầu quân vao các đơn vị địa phương,
để chiến đấu gần gia đinh minh. Tinh yeu que hương của người Việt la vậy
đó, chỉ khi nao không con con đường nao khác để lựa chọn, họ mới đanh
gạt lệ bỏ xứ ma trong đau khổ. Cho nen đâu lạ, năm 1954, chia đôi đất
nước, không rieng gi 300.000 binh sĩ va gia đinh của Quân đội Quốc Gia,
ma con cả triệu người dân binh thường khác, đứt ruột, lia nơi chôn nhao
cắt rún ở miền Bắc, để di cư vao Nam, vi họ không muốn sống chung với
cọng sản bạo tan. Con Dwight Owen cố vấn My,o thi nói QLVNCH không có
những thứ tối thiểu ma các quân đội nước khác có, từ lương bổng, khẩu
phần hanh quân, nghĩ phép..tới tinh thương lang xóm. Chính những điều
nay lam giảm sút tinh thần va hiệu năng chiến đấu. Nhưng tất cả cũng đều
la phép lạ, khiến cho người lính Miền Nam vẫn tiếp tục chiến đấu cho
đến giờ phút cuối cung tại Sai Gon, trong khi Quân Đoan 4 vẫn an toan va
chờ Chính phủ trung ương di chuyển tới, để lại tiếp tục chiến đấu, thi
có lệnh buông súng đầu hang giặc. Tổng thống Nixon những ngay cuối đời,
trong tác phẩm ' No more Vietnams ' nói rằng nếu tin vao báo chí Hoa kỳ,
thi VNCH không con tồn tại sau khi Mỹ rút quân hoặc khi Mỹ chưa tới
giúp. Điều nay cho thấy QLVNCH rất anh dũng, kieu hung va qua những bản
phân tích quân sự khách quan, thi lính miền nam giỏi gấp 10 lần bộ đội
miền bắc về mọi mặt, kể cả nhân cách va tinh người. Phân tích gia Allan
Goodman, năm 1983 trong cuộc hội thảo đề tai rút kinh nghiệm chiến tranh
VN, quy tụ 50 học giả, tại Smithsonian Hoa Kỳ, đa ca tụng tinh thần
chiến đấu anh dũng của người lính miền nam, họ đa tử trận tren 200.000
người va hơn nửa triệu thương binh. Nhưng có lẽ mai mỉa nhất la lời của
Lewis Walt, tướng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đa viết :
' Không phải ngồi biểu tinh, ăn chơi,trốn lính đi tu hay lam báo, viết
văn, lấy Mỹ tại Sai Gon-Huế, ma có một con số chết va bị thương như
vậy'.
2-SƯ ĐOÀN 18BB VÀ CÁC ĐƠN VỊ TĂNG VIỆN, TỬ CHIẾN VỚI CỌNG SẢN QUỐC TẾ
TẠI XUÂN LỘC THÁNG 4-1975 :
Sau ngày Saigon thất thủ, ngày 2-5-1975 Peter Kahn chủ bút Wall Street
Journal, giải báo chí Pulitzer, đa viết bai truy điệu Nam VN đăng tren
báo nay ' Quả thật sau cung, quân lực VNCH đa ra ngũ vi tuân theo lệnh
của tổng tư lệnh quân đội lúc đó, la tổng thống hai ngay Dương Văn Minh.
Nhưng đó không phải la một quân lực hen nhát hoặc vô dụng, vi có một
vai phần tử quan quyền đao ngũ chạy theo Mỹ. Sự thật , quân đội VNCH rất
vững mạnh va chiến đấu dũng cảm khắp các mặt trận, đăc biệt la từ mua
he đỏ lửa 1972 tại Quảng Trị, Kon Tum, Binh Định va An Lộc. Đó la một
quân đội xứng đáng được biết ơn, ca tụng vi đa giữi được từng mảnh đất
que hương, trước cuộc xâm lăng của cọng sản quốc tế, trong nhiều năm
qua. Va cuối cung vao những tuần lễ chót của tháng tư, khi người Mỹ đa
chấp nhận đầu hang giặc, thi người Lính VNCH vẫn tiếp tục chiến đấu khắp
nơi, va mặt trận XUÂN LỘC đa trở thanh mồ chôn tập thể của những kẻ xâm
lăng, bạo tan. Nhờ vậy, một số người , VN lẫn My,o mới có cơ hội trốn
chạy ra ngoại quốc, thoát được cảnh tu đầy địa ngục, chốn nhân gian cung
khốn tận tuyệt của coi đời, khi rợ Hồ từ miền Bắc vao Nam lam chủ. Một
số it nay, hiện nay, du đa cuối đời nhưng vẫn không giữ nổi khi phách va
danh phận của đấng trượng phu, tướng lanh, trí thức , khi đa quay lưng
phản bội dân tộc, bôi mặt hợp tác với giặc, đề dầy xéo them nỗi đau tận
tuyệt của đồng bao minh trong suốt 30 năm quốc hận, đối lấy chút hư danh
cặn thừa trong vũng bun ô uế xa nghĩa. Đây la những hinh nộm nói tiếng
người, hằng ngay được VC beu xấu tren báo chí, để miệng đời bôi bác rủa
tru, chẳng những rieng chúng, ma lây xấu tới con cái dong họ.
Tháng tư ở Long Khánh, trời thường đổ những cơn mưa rao như trút nước,
nhiều lúc lính đang hanh quân trong rừng, có cảm tưởng như minh đang
lenh đenh bơi trong biển khổ của cuộc đời.
Và tháng tư năm 1975, trời hinh như biết trước cơn bao táp của miền Nam,
nen đổ mưa rất sớm. Trong mưa có gió, nen khiến cho cả thị xa Xuân Lộc,
đỏ ối một mau vi xác hoa phượng vĩ ven đường, bị gió mưa dồn dập.
'..đem nay Xuân Lộc, vầng trăng khuyết
Như một vành tang trắng đất trời
Chân theo quân rút, hồn ta ở
nghe nước La Nga cuồn cuộn trôi
..em ơi tiếng tắc ke the thiết
gọi giữa đem dai quá lẽ loi
chân bước, nửa hồn chinh chiến dục
Nửa hồn Xuân Lộc, gọi quay lui..'
( thơ của Nguyễn Phúc Sông Hương).
Xuân Lộc là chiếc nôi đầu đời, ma người lính Tiểu Đoan 1, Trung Đoan 43
Biệt Lập, của Đại uý Ngô Văn Diệp, từ miền xa cao nguyen Di Linh, tới
hanh quân va tru đóng vao giữa tháng 4-1964, coi như la đơn vị tiền
phương thanh lập Sư Đoàn 10 bô binh vào ngay 16-5-1965, gồm ba Trung
Đoan biệt lập, kỳ cựu của quân lực VNCH la Trung Đoan 43, 48 va 52.
Trung Đoàn 43 bô binh thoát thai từ Trung Đoan 404 thanh lập tại Phan
Thiết ngay 1-8-1954, trước khi biệt lập, trực thuộc SD5 khinh chiến,
từng tham dự các chiến dịch Đinh Tien Hoang, Nguyễn Huệ..tại Nam Phần
vao năm 1955. Trung Đoan 48 bộ binh thoát thai từ Trung Đoan 203 bộ
binh, gồm các tiểu đoan 47, 702 va 52. Sau đó cải thanh Trung đoan 48 bộ
binh, thuộc Sư Đoan 16 khinh chiến, gồm các Trung Đoan 46, 47 va 48.
Năm 1958 qua đợt cải tổ, SD16 khinh chiến bị bai bỏ, các Trung Đoan
46,47 va 48 trở thanh biệt lập. Sau nay, Trung Đoan 47 bô binh cung với
Trung Đoan 43 qua nhiều lần hoán đổi đơn vị, để trực thuộc SD23 bộ binh,
cuối cung Trung Đoan 46 thuộc SD25BB, Trung Đoan 47 thuộc SD22 BB va
Trung Đoan 48 thuộc SD 18BB.
Riêng Trung Đoàn 52 được thanh lập ngày 1-12-1954 tại Đệ 1 Quân Khu, gồm
các Tiểu Đoan 54 BVN, 704 va 713. Về Trung Đoan nay, ngay 14-2-1968,
tướng Wheeler, chủ tịch Lien quân Mỹ,khi trả lời với báo chí,trong cuộc
điều trần trước Hạ Viện Mỹ, la sáng nay tướng Westmoreland có báo, la đa
tới thăm Trung Đoan 52 biệt lập, đóng ở phía nam Đa Nẳng, để chúc mừng
va tưởng thưởng cho Họ vi đa chận đứng được Sư Đoan 2 Bắc Việt , trong
mưu toan chiếm Đa Nẳng, vao Tết Mậu Thân. Hai tiểu đoan nổi tiếng nhất
của SD18/BB la TD2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế va TD1/52 của Đại Uý
Nguyễn Văn Út, nhiều lần được vinh danh trước quân đội, vi thiện chiến
va la đơn vị bắn cháy nhiều xe tăng của Bắc Việt tại trận địa. Năm 1974,
hai chiếc T54 va PT76 của Bắc Việt, bị hai đơn vị tren bắn cháy, được
kéo về lam kiểng trước sân Dinh Độc Lập, sau khi mất nước, mới bị VC phi
tang.
Sư Đoàn 10 BB sau đổi thanh SĐ18BB vào ngày 1-1-1967 qua đề nghị của Tư
lệnh lúc đó la Chuẩn tướng Đổ Kế Giai. SĐ mang phu hiệu Nỏ Thần, đang
lướt tren hai nền mau xanh da trời đậm va lợt, tượng trung cho bước chân
của lính trong coi mông mênh cung tận, ma Nguyễn Cộng Trứ khi đề cập
tới chí nam nhi, đa viết : ' tang bồng hồ thỉ nam nhi trái, lam cho bách
thế lưu phương, trước la sĩ sau la khanh tướng '. Từ năm 1965-1969 qua
các tư lệnh như Đại Tá Nguyễn Văn Mạnh (16/5/1965-10-8-1965), Chuẩn
Tướng Lữ Lan (10/8/1965-15/9/1966), Đại Tá Đổ Kế Giai (15/9/66-20/8/69),
trong giai đoạn nay, Sư Đoan 18BB bao vung Khu 31 Chiến Thuật, gồm các
tỉnh Binh Tuy, Long Khánh, Bien Hoa, Phước Tuy va Đặc Khu Vũng Tau,
thuộc Vung III Chiến Thuật. Từ ngay 20-8-1969 tới 4-4-1972,tư lệnh la
Thiếu tướng Lâm Quang Thơ, vi bị Quân Đoan III, chia chặt thanh từng
manh, tăng phái khắp nơi, dưới quyền của các SD5 va 25 BB, nen binh sĩ
có mặc cảm la đơn vị trừng giới, khiến cho SD18BB, bị xếp hạng chót
trong bảng xép hạng đơn vị thuộc QLVNCH.
.
Cá sống nhờ nước, lính chiến đấu giỏi khi gặp được cấp chỉ huy tai ba,
can trường, thương lính va tren hết phải biết lội với lính trước súng
đạn.. Ngay xưa, qua huyền thoại, điển tích va sách vở, ta biết giai nhân
cung danh sĩ, như có duyên nợ với nhau từ tiền kiếp. Dương Chí Hoán đời
Đường, nổi danh nhờ một ca kỹ hát bai Lương Châu Từ của minh. Tô Đông
Pha lam giúp một bai phú cho ca nhi Triệu Vân, ma lấy được một người vợ
tai hoa ý hợp nhưng cảm động hơn hết, có lẽ la Giang Châu Tư Ma-Bạch Cư
Dị (772-846), trong một đem mưa rơi tầm tả, tiễn bạn tren Bến Tầm Dương,
tinh cờ gặp lại người ca kỹ năm nao nổi danh tai sắc chốn Trường An,
qua một bản đan tuyệt diệu, Danh Sĩ đa cảm hứng viết Trường Ca ' Tỳ Ba
Hanh' cổ kim bất hủ.
Trong đời binh nghiệp cũng vậy,suốt cuộc chiến VN, những nguời lính nhảy
du, biệt kích, thủy quân lúc chiến, biệt động quân..được đồng bao miền
nam thân thương quen gọi la các thien thần, bởi vi hầu hết các đơn vị
trên đa có nhiều cấp chỉ huy tai ba can trường. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Đại
Tá Ngô Tấn Nghĩa..luôn hoa minh với thuộc cấp của minh tại các tiền đồn
hẻo lánh,ben những đơn vị nghĩa quân, cảnh sát da chiến,xây dựng nông
thôn va địa phương quân tại chiến trường.Nhờ vậy hai tỉnh Chương
Thiện-Binh Thuận, bị cọng sản quậy phá nhiều nhất, lại la hai địa phương
an ninh hạnh phúc cho tới 30-4-1975. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu
(1967-1975) du bị lịch sử phán xét thế nao cũng kệ nhưng ro rang nhất,
ông la một cấp lanh đạo can đảm, biết chia xẻ gian lao, máu lệ với người
chiến sĩ đang lăn xả trong bom đạn sa trường nguy hiểm nhất, ngay lúc
trận tuyến chưa im tiếng súng, tại Quảng Trị, KonTum, An Lộc, Binh
Định..Tương tự, những người lính Nỏ Thần Miền Đất Đỏ, đa tao phung-kỳ
ngộ với một cấp chỉ huy năng động, thích hợp với những lính biệt lập
43,48 va 52 đa từng bị đầy ải khắp mọi miền đất nước, đâu có khác gi các
Đơn Vị Biệt Động Quân Bien Phong, Biệt Lập, không biết ai la Cấp Chi
Huy tối cao của minh. Đây cũng la một trong những yếu tố then chốt, đa
vực dậy một Đại Đơn Vị sắp quỵ vi quá nản phiền.Nhờ đó ma SD18BB từ đội
đít, lần lần dọc ngang va cuối cung, đứng ưỡn ngực với các Đơn Vị khác
của Quân Lực trong bảng xếp hạng cuối đời.
Ngày 4-4-1972, Đại Tá Lê Minh Đảo làm Tư Lệnh SĐ18BB, thế Thiếu Tướng
Lâm Quang Thơ. Gọi la Sư Đoan Trưởng cho oai, chứ lúc đó quân số con lại
của SD18BB vỏn vẹn chỉ có DD18 Trinh Sát, DD48 Trinh Sát và 1 Tiểu Đoàn
của Trung Đoan 48BB. Tất cả lính của Sư Đoan từ Thiết Đoan 5 kỵ binh,
Trung Đoan 43, 48, 52 đều bị Quân Đoan III xử dụng, tận góc biển chân
mây, khiến cho Tư Lệnh SD18BB lúc đó, thật ra con thua Tiểu Đoan Trưởng,
vi trong tay không con một đơn vị nao thuộc về minh., để chỉ huy xử
dụng.
Khởi sự từ con số không, Tướng Đảo, một sĩ quan thường bị cười nhạo la
hanh chánh vi quẩn quanh chỉ lam quận trưởng, tỉnh trưởng. Nhưng đó la
một nhận xét có ác ý ganh tỵ, v&ihrave; qua kinh nghiệm lịch sử cận
đại VN, không thiếu gi những vị tá, tướng..một đời lăn xả ngoai trận
mạc, vẫn không được đời xưng tụng la tai giỏi. Để chứng minh người thật
việc thật, tri hanh phải hợp nhất, qua việc hanh sử lúc ban đầu, với số
đơn vị ít ỏi trong tay, đa biết khôn khéo, cũng như bỏ cái quan niệm '
lính chính quy-lính bảo an', trong việc phối hợp hanh quân cung các Đơn
Vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân va Binh Định Xây Dựng Nông Thôn, kể cả
Cảnh Sát Da Chiến (Lúc đó toan la chủ lực quân biệt phái hay thuyen
chuyển về gần nha).. tại các Tiểu Khu Long Khánh, Phước Tuy, nen chỉ một
thời gian ngắn đa binh định xong vung nay. Rồi thi lần lượt Quân Đoan
III, trả lại các Trung Đoan cơ hữu của SD18BB cho tướng Đảo. Lúc
đó,Trung Đoan 52BB, đang hanh quân tại Binh Long, Trung Đoan 48BB trách
nhiệm giữ nha, nen chỉ con Trung Đoan 43 của Trung Tá Le Xuân Hiếu, cung
tư lệnh la Đại Tá Đảo, xông pha hầu hết các miền đất dử của VC lúc bấy
giờ , dẹp tan chiến khu Cha Rầy, Trung Lập, Củ Chi để giải vây cho quận
Trảng Bang. Tiếp đến, Trung Đoan 43 va Tướng Đảo lại vao Bến Súc, Dầu
Tiếng, giải vây Đồn Điền Michelin, giữ được con đường huyết mạch từ Binh
Dương-Bến Cát, ma trong trận Mua he đỏ lửa 72, quân tiếp viện của ta sử
dụng để vao An Lộc.
Tới cuối tháng 6-1972, SD5BB của Tướng Le Văn Hưng, tuy vẫn giữ vững An
Lộc nhưng đa bị tổn thất nặng nề, nen được điều động ra khỏi trận địa.
Các đơn vị tăng phái của Vùng 4 CT như SD21BB, Trung Đoàn 15/SĐ9BB..cũng
được trả về bản địa. Do tren, Quân Đoan III, sau khi hoan lại đủ quân
số cho Tướng Đảo, đa điều động toan bộ SD18BB vao An Lộc, phối hợp với
Lien Đoan 5 Biệt Động Quân của Trung Tá Ngô Minh Hồng, chiếm lại toan
vẹn lanh thổ Binh Long. Tháng 12-1972, sắp đến ngay ký Hiệp Định Paris,
nen VC lại ồ ạt danh dân chiếm đất, vi vậy QDIII giao Binh Long-An Lộc
cho Biệt Động Quân va sử dụng SD18BB như một đơn vị Tổng Trừ Bị của Quân
Đoan. Thời Trung Tướng Phạm Quốc Thuần thay Tướng Nguyễn Văn Minh lam
Tư Lệnh QDIII, ngay 7-11-1973 đa cho tái lập lại Lực Lượng 3 Xung Kích,
trước sau vẫn do Chuẩn Tướng Kỵ Binh Trần Quang Khôi, la một trong những
tướng lanh tai ba, anh hung của QLVNCH chỉ huy. Đại đơn vị nay có bảng
cấp số tương đương với một sư đoan bộ binh nhưng về hỏa lực có phần hung
mạnh hơn vi được phối hợp tác chiến giữa bộ, thiết giáp va pháo binh.,
gồm 3 Chiến Đoan Thiết Giáp 315,318 va 322. Các Chiến Đoan đều tổ chức
giống nhau, gồm 1 Tiểu Đoan BDQ, 2 Chi Đoan Thiết Vận Xa 113, 1 Chi Đoan
Chiến Xa M48, 1 pháo đội cơ động 105 ly gắn tren xe M548 va 1 Trung Đội
Công Binh. Đây la đơn vị trừ bị thứ 2 của QDIII, sau ngay ký hiệp định
Ba Le năm 1973. Từ đó chiến cuộc càng ngày càng tan khốc, Bắc Việt ngoai
số bộ đội có sẵn được Mỹ cho ở lại, con có nhiều sư đoan khác cũng ao
ạt vao Nam, vi đường mon Hồ Chí Minh coi như đa bị bỏ ngo, tấn công khắp
mọi nơi nhưng dữ nhất vẫn là những địa danh sát nách SaiGon như Định
Quán, Củ Chi, Tam Giác Sắt, Phước Tuy..hầu hết những vung tren đều thuộc
trách nhiệm của SD18BB. Tóm lại, từ năm 1972 tới đầu năm 1975, SD18BB
dưới quyền của Tướng Le Minh Đảo, gần như xông pha trăm trận, nen đa hy
sinh rất nhiều quân nhân các cấp. Nhờ vậy ma người lính Nỏ Thần đa
trưởng thanh trong khói lửa, quân kỳ của Sư Đoan được gắn nhiều anh dũng
bội tinh, mang giây biểu dương mau quân công bội tinh, nhờ niềm hanh
diện đó, dân và lính miền đất đỏ, đa đánh một trận cuối cung với giặc
tại Xuân Lộc, vừa rửa hận cho Dân-Nước, vừa lưu danh ngan đời trong Việt
Sử, chống ngoại xâm do Bắc Việt mang từ Nga-Tàu về.
Tháng 4-1974, Thượng Viện Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ cho Nam VN. Tại chiến
trường, Bắc Việt xé bỏ hiệp ước vừa ký tại Ba Le năm 1973, tấn chiếm
Thường Đức va Trại Tống Le Chân. Ngay 9-8-1974, Nixon từ chức tổng thống
vi vụ Watergate mang theo hẹn hứa giúp VNCH xuống mồ, vi Ford len thay
không bao giờ đếm xỉa tới., hoặc có muốn giúp miền Nam, thi nói cũng
chẳng ai nghe, vi ông không phải la vị tổng thống do dân bầu len theo
luật định.
Trước tình hình hỗn độn chính trị tại Mỹ,Bắc Việt tấn công va chiếm tỉnh
Phước Long nhưng Hoa Kỳ vẫn im lặng, con Ford theo B.Paulmer trong '
The 25 th year war ' năm 1984, đa tuyen bố là Hoa Kỳ dứt khoát không can
thiệp vào chiến tranh VN. Thế là Hà Nội hồ hởi xâm lăng Miền Nam. Ngay
10-3-1975 đánh thanh phố Ban Me Thuột. Ngay 14-3-1975 rút bỏ cao nguyen
bằng Lien tỉnh lộ 7, Pleiku-Phú Bổn-Phú Yen. Ngay 20-3-1975 bỏ Huế,
Quảng Trị.
Nói chung hai cuộc lui quân, làm hang trăm ngàn đồng bao vô tội, gia
đinh binh sĩ , chết va bi thương thảm thiết vi hỏa lực của cọng sản, bắn
nhắm vao những người dân lánh nạn, trong đó phần lớn là người gia, đan
ba, trẻ thơ vô tội. Tổng thống Thiệu, Thủ Tướng Khiem, Đại Tướng Cao Văn
Vien..chỉ một phút quyết định ngắn ngủi tại Cam Ranh đa lam mất 2/3
lanh thổ, hủy diệt một nửa lực lượng quân lực tinh nhuệ của VNCH, trong
đó có các Đại đơn vị ưu tú như SĐ Du, Thủy Quân Lục Chiến, SD1,23 BB va
các Lien Đoan BDQ..Như vậy sau ngay 2-4-1975, Quân Đoan 1 mất hẳn, QD2
chỉ con Ninh Thuận-Binh Thuận, nen sáp nhập vao Quân Đoan III. Phan
Rang-Phan Thiết va Xuân Lộc, trở thanh vung hỏa tuyến, vi la cửa ngỏ (
quốc lộ 1 - 20), để Bắc Việt vao Sai Gon.
Để tấn công Long Khánh -Xuân Lộc, cọng sản quốc tế Bắc Việt, tung vao
chiến trường Quân Đoan 4, gồm 3 Sư Đoan 6, 7 va 341 va Sư Đoan 7 Việt
Cộng, do tướng Bắc Việt la Hoang Cầm và Hoàng Thế Thiệp chỉ huy. Về
VNCH, ngoài SĐ 18 BB với các Trung Đoàn 43 của Đại Tá Le Xuân Hiếu,
Trung Đoan 48 của Trung Tá Trần Minh Công, Trung Đoan 52 của Đại Tá Ngô
Kỳ Dũng, Thiết Đoan 5 của Trung Tá Nguyễn văn Nô, Tiểu Khu Long Khánh
của Đại Tá Phạm văn Phúc va các Đơn vị tăng phái như Lữ Đoan 1 Nhảy Du
của Đại Ta Nguyễn văn Đỉnh, đặc biệt la Tiểu Đoan 82 BDQ, thuộc LD24BDQ ,
của Thiếu Tá Vương Mộng Long, từ Quảng Đức, Lâm Đồng di tản về Xuân
Lộc..cung với các SD 3,4 va 5 Không Quân, kể luôn các đơn vị Truyền Tin,
Công Binh., đả đánh với quân xâm lăng cọng sản quốc tế, một trận để đời
, như các trận Chí Lăng, Bạch Đằng, Chương Dương, Xuân Kỹ Dậu, Rạch Gầm
Xoai Mút, ma tổ tien ta đa lưu lại nghin đời muôn kiếp cho con cháu sau
nay, trong dong sử Việt..
Ngay nay đọc những trang sử trong cũng như ngoai nước, từ người thương
cho đến kẻ thu Việt Cộng, kể cả bọn ăn cơm quốc gia thờ Hồ tặc, tất cả
đều hớn hở hoặc cúi mặt, kính chào và ngưỡng mộ, cuộc chiến đấu thần
thánh của người lính VNCH, trong lúc đất nước đa tận tuyệt, gần hết cấp
lanh đạo tối cao cong vợ con va vang bạc chạy theo Mỹ để cầu sinh, giữ
chức. Giữa giờ thứ 25, trong lúc ben ngoai thi Đồng Minh phản bội, ben
trong đầy rẩy bọn trí thức, cha-sư, đầu hang giặc Cộng, toa rập tru dập
va đâm sau lưng người lính trí mạng.
Trong ' Đại thắng muà xuân', Văn Tiến Dũng, tổng tư lệnh bộ đội cọng sản
Bắc Việt, đa thú nhận rằng ' Mặt trận Xuân Lộc vô cung ác liệt và đẫm
máu ngay từ ngày đầu tiên. Các sư đoàn 6,7,341 của ta, du đa tấn công
nhiều lần vao thanh phố Xuân Lộc, nhưng nhiều lần đều gặp phải sức kháng
cự manh liệt của Trung Đoan 43 địch, nen bị tổn thất nặng nề. Các đơn
vị pháo của ta, đa sử dụng nhiều hơn cơ số đạn dược dự tru. Số lớn tăng
va xe bọc thép bị bắn cháy..' , con D.Todd người ký giả Pháp thân cộng,
trong tác phẩm ' Cruel April, the fall of Sai Gon ', đa viết ' tinh thần
binh sĩ tại Xuân Lộc rất cao, hệ thống truyền tin rất tốt, các đơn vị
Du va BDQ đa đến, đường Sai Gon được thông. Các Sĩ quan QLVNCH đang gọi
pháo binh va không yểm rất chính xác va nhanh chóng. Tinh trạng chiến
đấu của họ, gần giống như lúc con quân đội Mỹ yểm trợ..'
Như vậy qua hai lời phê phán trên, ta biết mặt trận Xuân Lộc vô cùng ác
liệt và tinh thần chiến đấu của người lính VNCH dũng mãnh phi thường.
Được như vậy, trước hết theo lời của tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh Sư Đoan
18 BB cũng la Tư lệnh Mặt Trận Long Khánh -Xuân Lộc từ ngay 8-4-1975 tới
ngay 20-4-1975, đó la tinh thần của người lính quyết tâm chiến đấu tới
cung, vi từ tren xuống dưới không một ai đao ngũ hay bỏ theo giặc. Thứ
hai do ta chủ động trận địa va sau rốt la tinh thần binh sĩ ổn định, khi
thấy gia đinh minh đa được di tản về hậu phương an toan tại Bien Hoa.
* CHIẾN TRƯỜNG XUÂN LỘC *
Chiến trường Xuân Lộc gồm 3 mặt trận chính : Mặt trận Nga ba Túc Trưng,,
thanh phố Xuân Lộc và Khu vực Núi Chứa Chan-Gia Ray. Do nắm được tinh
hinh chính sự, biết chắc khi Phan Thiết-Lâm Đồng thất thủ, Bắc Việt sẽ
xuyen qua QL1 va 20 để về tấn chiếm Sai Gon. Do tren Xuân Lộc sẽ la
chiến địa đẫm máu. Biết như vậy, cho nen tướng Đảo sớm chuẩn bị trận địa
để chờ.
Trườc hết, khuyến khích dân chúng có phương tiện, nen về lánh nạn binh
lửa ở Bien Hoa hay Sai Gon. Đồng thời cho di chuyển trại gia binh, bệnh
viện, thương bệnh binh cùng các phong sở chuyên môn về hậu cứ tại Long
Binh, làm một đầu cầu tiếp vận từ Trung ương tới Chiến trường.
Tại Long Khánh, tướng Đảo cho sửa sang tất cả các phong tuyến trong
cũng như ngoai thị xa, đao giao thông hào khắp nơi, để chuẩn bị chiến
đấu lâu dai. Chiếm lại tất cả các vị trí cao quanh Xuân Lộc, để quan sát
địch từ mọi hướng. Đem tất cả pháo dấu trong các vị trí đao sẵn, một số
câu len núi Thị va giao cho TD2/43 cuả Thiếu Tá Nguyễn Hửu Chế bảo vệ,
chỉ để lại 2 khẩu cho Tiểu Khu Long Khánh va 2 khẩu khác cho Chiến Đoan
43 của Đại Tá Le Xuân Hiếu, trong thị xa Xuân Lộc sử dụng ma thôi. Lại
đặt ba bộ chỉ huy Sư Đoan, một tại Xuân Lộc, một tại Tân Phong va một
tren núi Thị có TD2/43 bảo vệ. Tất cả các Bộ Tư Lệnh Hanh Quân, đều
giống nhau, được thiết kế đầy đủ máy móc truyền tin kể cả đai sieu tầng
số.
Trong số nay, BTL/HQ trên núi Thị giao cho Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế,
TDT/TD2/43 trách nhiem, như một đai liên lạc giữa Tướng Đảo và Quân Đoàn
cũng như các cấp tại Trung Ương, nhờ máy móc siêu tần đặt tren núi cao
nen rất mạnh. Ngoài ra, nhờ có ba BTL/HQ nen tướng Đảo để di chuyển lien
tục, tránh phao địch. Về Truyền Tin của Ta cũng rất tai giỏi, nhờ thế
nen đa bắt va giải ma được tần số của giặc, gần như biết trước lệnh tấn
công của các đơn vị Bắc Việt, nen đa tránh được rất nhiều tổn thất.
Rieng bộ tham mưu của SD18BB lúc đó gồm có : Tướng Le Minh Đảo la tư
lệnh SD, Đại Tá Le Xuân Mai tư lệnh phó, Đại Tá Huỳnh Thao Lược - tham
mưu trường SĐ, Đại Tá Hứa Yến Lến - tham mưu phó hanh quân tiếp vận va
Đại Tá Dương Phun Sang - chánh thanh tra SĐ..
Theo tất cả các cấp chỉ huy thuộc SĐ18 BB con sống , hiện đang ở Mỹ, hầu
hết ai cũng xác nhận một sự thật rất quan trọng, đó là khi quân Bắc
Việt bắt đầu tấn công vào Xuân Lộc, thì Tướng Lê Minh Đảo đang có mặt
tại Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của SĐ18BB tại căn cứ Long Binh va chỉ một
vai giờ sau đa bay vao biển máu bom đạn va xác người tại trận địa Xuân
Lộc. Trong lúc đó, đại úy Nguyễn Khiem, trưởng ban ba của TrD43/18 vi
công vụ cũng có mặt tại Long Binh va chính Tướng Đảo đa ra lệnh cho phi
công chiếc C&C của TL, chở ông ta vao BTL/HQ tại Tân Phong.
Bốn ngày đầu chưa có Lữ Đoàn 1 Dù tăng viện nhưng Chiến Đoan 43 va các
Tiểu Đoàn Địa Phương Quân thiện chiến của TK Long Khánh, cung TD82 BDQ
vẫn giữ được Xuân Lộc. Từ ngày 12/4/75 , Lữ Đoàn 1 Nhảy Du của Đại Tá
Đỉnh tăng viện, đảm trách mặt trận Gia Ray-Chứa Chan, nen tướng Đảo đả
dung Trung Đoan 48 va Thiết Đoan 5 kỵ binh, lam lực lượng tiếp ứng khắp
nơi. Cũng theo tướng Đảo , trong trận Long Khánh, chỉ có cứ điểm Nga Ba
Túc Trưng, do Chiến Đoan 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng trấn giữ, la khó khăn
va ác hiểm nhất nhưng quân ta du lực lượng ít ỏi so với quân biển người
của Bắc Việt, vẩn anh dũng chống cự.
Oanh liệt nhất la trận Đồi Móng Ngựa, chỉ có hai đại đội của TD3/52 do
Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ, tức nhà văn nổi tiếng Ý Yen lam Tiểu Đoàn Trưởng,
đa giữ vững vị trí từ ngày 10-4 tới 15-4-75, qua nhiều đợt tấn công biển
người, cấp Trung Đoan của SĐ6 Bắc Việt. Trận tử chiến tren Đồi Móng
Ngựa cũng như hai trái bom con heo tại Dầu Giây -Túc Trưng, đều la những
huyền thoại đẹp nhất tren những trang cận sử vừa nở hoa vừa loang đỏ
máu, ma sau nay mỗi khi đọc tới, chắc ai cũng không thể ngăn nổi giọt
nước mắt muộn mang, để khóc tủi cho những người lính trận năm nao, đa vi
ai ma xả thân không tiếc hận.
Đánh mai không lấy được Xuân Lộc, Văn Tiến Dũng điều động Trần văn Tra
thay Hoàng Cầm nhưng chiến trường vẫn không thay đổi. Do trên Tra một
mặt để SD7 VC ở lại cầm chân SD18 BB và Dù tại Xuân Lộc, mặt khác tấn
công biển người vào các vị trí của Chiến Đoan 52, mở một đường máu từ
Túc Trưng xuyen qua Bien Hoa, đối mặt với các Đơn Vị phong thủ của Lực
Lượng 3 Xung Kích, của tướng Trần Quang Khôi. Rieng Chiến Đoan 52 của
Đại Tá Dũng, tuy bị tổn thất gần 1/2 quân số, nhưng cuối cung vẩn mở
được đường máu Từ ngảo ba Túc Trưng về Bien Hoa.
* HAI TRÁI BOM DAISY CUTTER VÀ CUỘC LUI QUÂN CỦA SD18 *
Trong ' Đứa con cầu tự ', ông Nguyễn Cao Kỳ nguyên Thiếu tướng QLVNCH,
cựu tư lệnh Không quân, cựu chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, cựu
phó tổng thống VNCH từ 1967-1971, có viết rằng chính ông ta là nhân vật
đa ra lệnh sử dụng bom con heo tại mặt trận Xuân Lộc. Ai cũng biết từ
sau năm 1972, ông Kỳ đa la một tướng lanh bị phế thải, ngồi chơi xơi
nước , trong tay ' không quân, không đơn vị ' . Cũng từ đó cho tới ngay
29-4-1975 bay trốn ra biển để tới Mỹ hưởng vinh hoa phú quý, tướng Kỳ
ngoai việc trồng khoai mi tại đồn điền rieng ở Khánh Dương-Khánh Hoa,
thi gần hết thời gian quý báu con lại của một tướng lanh, chỉ lăn vui
trong rượu che, mạt chược, đá ga …. Như vậy, sức nao để ra lệnh cho KQ
đánh bom , một sự kiện quan trọng bậc nhất của an ninh quốc phong quốc
gia VNCH, lúc đó chỉ có chính Tổng Thống, Thủ Tướng va Tổng Tham Mưu
Trưởng QLVNCH mới có thẩm quyền quyết định.
Bom Daisy Cutter , con được gọi là bom con heo hay tiểu nguyên tử, có
chiều dài và chiều cao gần tương đương với lòng chiếc vận tải cơ C130,
trọng lượng là 7 tấn, gồm vỏ bọc va khối thuốc nổ 15.000 cân Anh TNT.
Bom dung mở bai đáp cho cấp sư đoàn hay lộ quân trong bất cứ địa thế
nao. Với con người, bom có tầm sát hại trong vong bán kính 5 dặm Anh,
hút hết dưỡng khí, lam cho người bị chết ngạt. Những ngay cuối cung của
tháng 4-1975, Mỹ có để lại cho VNCH chừng 10 trái nhưng không có ngoi
nổ.
Trong trận Xuân Lộc, truyền tin của Bắc Việt gần như bị ta giải ma hết,
nen nhờ đó ma Bộ tư lệnh của SD18BB đều biết trước. Nhờ vậy đa kịp thời
xin không quân hay pháo binh, bắn hay giội bom vao các vị trí của địch
hay xe tăng một cách vô cung chính xác.
gay 15-4-75, khi tướng Đảo nhận tin vị trí của Chiến đoan 52 của Đại Tá
Ngô Kỳ Dũng, từ Nga ba Túc Trưng xuống tới Dầu Giây, bị hai sư đoan Bắc
Việt 6 va 341 tran ngập, nen đa xin tướng Nguyễn văn Toan, tư lệnh QD3,
trinh Bộ TTM, sử dụng bom con heo, để ngăn chận va giải cứu Chiến đoan
52. Do tren , trong ngay 15-4-1975, Bộ TTM đa dung vận tải cơ C130A thả 2
trái bom khổng lồ nay, xuống vị trí của Bắc Việt, từ Túc Trưng về tới
Dầu Giây, khiến cả một quân đoan Bắc Việt, gồm người, tăng, pháo như rối
loạn trong ba ngay liền vi có quá nhiều thương vong. Vi Ha Nội la lang,
Mỹ vi phạm hiệp định ngưng bắn, dung bom nguyen tử va trở lại VN, nen
Hoa Kỳ đa chở số bom con heo con lại về Mỹ.
Ngày 16-4-1975, phòng tuyến tại Phan Rang vỡ, các tướng lanh Nguyễn Vĩnh
Nghi, Pham Ngọc Sang, Đại Tá Nguyễn Thu Lương va hầu hết các sĩ quan
cao cấp trong Bộ tư lệnh tiền phương của QD3, vi đi bộ với lính (dù có
máy bay), và Đại Tá Lương, lúc đó đả cung với các tiểu đoan Du về tới Ca
Ná, nhưng ông cũng đa trở lại tim hai tướng Nghi-Sang, nen đa bị giặc
Cộng bắt giữa chốn ba quân. May mắn nhất vẫn la tướng Trần văn Nhựt ,Tư
lệnh SD2 BB đang tham chiến tại mặt trận, nhờ lanh lẹ, nen leo L19, chạy
kịp xuống tau hải quân, đậu trong vịnh Ninh Chữ, sau đo cũng la một
trong nhiều tướng lanh tới Mỹ sớm.
Đem 19-4-1975, Binh
Thuận-Phan Thiết mất va Binh Tuy ngay 20-4-1975. Như vậy các tuyến phong
thủ tren QL1 va 20, dẫn về Long Khánh gần như khai thông. Tướng Nguyễn
Văn Toan vi không muốn Xuân Lộc, lúc đó lại trở thanh một Điện Bien Phủ
hay Khe Sanh, giữa trung vây của hơn mấy vạn quân Bắc Việt như trước.
Hơn nửa, khi Trần Văn Tra thế Hoang Cầm, đa dung SD7 Bắc Việt cầm chân
quân ta, con Lộ quân 4 thi tim đường khác tại Nga ba Túc Trưng về Bien
Hoa. Ở đó, chỉ có Lực lượng 3 Xung Kích của tướng Khôi, cung Trung Đoan 8
/SD5BB tăng phái, nen không đủ quân chống giữa. Do tren tướng Toan đa
xin Bộ Tổng Tham Mưu, chấp thuận bỏ Xuân Lộc, rút toan bộ lực lượng đang
chiến đấu tại đây gồm SD18BB, TK Long Khánh, Lữ Đoan Du, BDQ về Phước
Tuy, giữ Bien Hoa-Sai Gon, va đa được chấp thuận, du lúc đó, quân ta con
đầy đủ đạn pháo va tinh thần chiến đấu. Tại Gia Ray-Chứa Chan, Lữ Đoan
Du-BDQ-Thiết Đoan 5 va Trung Đoan 48/18 đang gom SD7 Bắc Việt vao rọ, để
tieu diệt.
Theo tướng Đảo, thì vào lúc 9 giờ sáng ngày 20-4-1975, tướng Toàn thân
hành bay trực thăng vào BTL.SĐ18BB tại chiến trường Xuân Lộc, ban lệnh
RÚT QUÂN, BỎ LONG KHÁNH của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, tới Tướng Đảo và
CUỘC RÚT QUÂN hoàn toàn bằng đường bộ, không có ai được máy bay tới chở
về. Quan trọng hơn hết, tất cả đều đi, không có 600 quân nao của Trung
Đoan 43, do Đại Tá Le Xuân Hiếu tinh nguyện ở lại bán mạng, như một vai
người đả vin vao tai liệu Mỹ, viết sử. Cảm động vô cung, la khi Lữ Đoan 1
Du của Đại Tá Đỉnh rút quân, đồng bao công giáo ở các xa Bảo Định, Bảo
Toan, Bảo Hoa..đa đồng loạt rút theo, lam cho cánh quân nay vi phải bảo
vệ đồng nao tị nạn, nen bị thiệt hại nhiều nhất.
Ngày khi nhận được lệnh, trong ngày 20-4-1975, tướng Đảo ra lệnh cho Lữ
Đoan 1 Du, tấn công tới tấp SD7 VC để nghi binh. Trên núi Thị, rút hết
pháo, chỉ để lại 2 khẩu cho Tiểu Đoan 2/43 bắn cầm chừng, lam giặc không
biết đâu mà mò. Cuộc lui quân, bắt đầu, lúc 8 giờ đem 20-4-1975, bằng
Lien Tỉnh lộ 2, Tân Phong-Long Giao-Ba Rịa. Đây cũng la một quyết định
táo bạo, đồng thời cũng lamột yếu tố bất ngờ ma Bắc Việt không bao giờ
đoán nổi. Vi Lien tỉnh lộ 2 dai khỏng 40 km, từ khi quân Đồng Minh rút,
đường đa bị bỏ hoang va trở thanh căn cứ địa cuả các lực lượng Du kích
tỉnh cũng như Trung Đoàn 33 chính quy Bắc Việt.
Theo kế hoạch lui quân, Trung Đoàn 48 của Trung Tá Trần Minh Công mở
đường. Cánh 2 là đoàn cơ giới, pháo, chiến xa Thiết đoan 5 của Trung Tá
Nô. Đặc biệt tướng Đảo, đa mang trả lại cho QD3 hai khẩu đại pháo 175 ly
cho mượn, có tầm bắn xa trên 30 km, đặt trên xe xích . Tất cả lực lượng
này do Đại Tá Hứa Yến Lến, tham mưu phó hành quân SĐ18BB chỉ huy. Đơn
vị kế tiếp là DĐQ va NQ Long Khánh của Đại Tá BDQ. Phạm văn Phúc, Tỉnh
trưởng Long Khánh. Cánh quân này, trong lúc rút bị đụng nặng, làm Trung
Tá Tiểu Khu Phó tử thương. Con Đại Tá Phúc bị bắt va giải ngay ra Bắc,
chịu nhiều năm tu khôc hận như các cấp Sĩ quan/QLVNCH sau ngày
30-4-1975.
Tướng Đảo đi bộ với cánh quân Trung Đoan 43 của Đại Tá Le Xuân Hiếu,
hiện ở Oregon. Và cuối cùng là Lữ Đoàn 1 Du đoạn hậu. Theo kế hoạch lui
quân, Tiểu đoan 2/43 của Thiếu tá Chế từ Núi Thị xuống sẽ đi trước Lữ
Đoan Du, nhưng vi trục trặc chiến thuật, nên cuối cung lại trở thanh đơn
vị cuối khi rời Long Khánh. Tóm lại cuộc lui quân coi như thành công,
nhờ có tổ chức, kế hoạch và trên hết, chính tướng Đảo cũng như tất cả
các đơn vị trưởng từ Tỉnh Trưởng Phạm văn Phúc, Đại tá Đỉnh, Lữ Đoan
trưởng Du..đều đi bộ va tác chiến như lính. Thử hỏi sao không đạt được
chiến thắng ?.
* NGƯỜI VỀ TỪ ĐỊA NGỤC *
Tiểu Đoàn Trưởng TÐ/Trung Đoàn 43/SÐ18BB la Nguyễn Hữu Chế, xuất thân từ
khóa 13, sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Từ năm 1972 khi Đại Tá Đảo, về làm tư
lệnh SD18BB, thay tướng Thơ, lúc đó Trung Úý Nguyễn Hữu Chế ở TD2/43
nhưng sau những chiến công rền vang khắp các mặt trẩn từ Cha Rầy-Trung
Lập, tới Tam Giác Sắt-An Điềm, chỉ trong 1 năm, đa được vinh thăng ngay
tại mặt trận , Đại Uý rồiThiếu Tá va giữ TDT.TD2/43 la một đơn vị cung
với TD1/52 của Đại Uý Út, la hai đơn vị kiệt hiệt nhất của SD18BB.
Theo lời Thiếu Tá Chế, thì trong đem lui quân 20-4-1975, lệnh hành quân
ghi ro : kể từ 12 giờ đem, TĐ2/43 sẽ trở về hệ thống liên lạc của sư
đoan. Tiểu đoan sẽ di chuyẻn trước, sau đó la Lữ Đoan 1 Dù, theo lộ
trinh về hướng Đức Thanh-Ba Rịa. Lệnh la vậy nhưng thực tế vô cung khó
khăn, vi khi Lữ Đoan 1 Du, cho lệnh TD2/43 trở về với hệ thống của sư
đoan 18BB, thi lúc đó đa 3 giờ sáng. Tiểu đoan liền cho lệnh gom quân
các tiền đồn về, trong đó có Trung Đội Biệt Kích hoạt động tận núi Ma,
cho nen tới 5 giờ sáng mơi hoan tất việc thu quân.
Vi vậy khi xuống núi Thị, thi trời đa rạng đông. Tiểu đoan tiếp tục di
chuyển theo lộ trinh rút quân, gần tới Căn cứ Long Giao, lúc đó đa 7 giờ
sáng, thi Đại Tá Ngô Kỳ Dũng, Trung Đoan Trưởng Tr/Đ52/18 , bay tren
chiếc C&C của Tư Lệnh, chuyển lệnh của Tướng Đảo, ra lệnh cho TĐ2/43
phải hủy bỏ lộ trinh củ như lệnh hanh quân ban đầu va phải băng rừng,
chuyển hướng về Long Thanh, vi Bắc Việt đa phát giác SĐ18 BB lui quân,
ma đơn vị cuối cung la TĐ2/43 nen ra lệnh cho SD7 VC phải truy sát cho
tận tuyệt.Thật ra, lúc đo cũng con một vai toán Địa Phương Quân va Nghỉa
Quân, lạc đan chạy theo. Nhưng trong tinh cảnh hiểm nguy đó, lam sao
biết được ai la bạn hay thu, hoặc có thể VC đa theo kíp họ, nen TĐ 2/43
đa tim cách đổi hương, để giữ mạng.
Khi rời núi Thị, quân số của TĐ2/43, kể cả tăng phái trong đó có nhiều
SQ,HSQ, va binh sĩ Pháo Binh,hơn 600 người. Ngoai Hậu cứ của TĐ2/43 đa
di chuyển trước với cánh quân của Trung Đoan, Bộ Chỉ Huy TD ngoai TDT
Chế, con có TDP la Đại Uý Nguyễn Tấn Chi (Khóa 12 SQTB/TD), Trung Úy Vo
Kim Thạch (DDT/DDCH), Trung Uý Nguyễn Văn Hao (DDT/DD1), Trung Uý Vo Văn
Mười (DDT/DD2), Trung Uý Nguyễn Văn Hung (DDT/DD3), Trung Uý Ha Văn
Dương (DDT/DD4) cung các Sĩ quan truyền tin, ban 2, ban 3 , quân y , sĩ
quan tiền sát vien pháo binh..
Nhưng sau lần liên lạc được với Đại Tá Dũng, TĐ2/43 coi như lạc lỏng
trong rừng sâu từ giây phút đó. Vùng này bốn bề xưa nay đầy rẩy các căn
cứ cọng sản trong đó có mật khu Hắc Dịch nổi tiếng, đang có sự hiện diện
của SD341 Bắc Việt tân lập. Từ đó, TD2/43 không con ai lien lạc, chẳng
có pháo binh, không quân hay thiết kỵ nao yểm trợ, vi mọi đơn vị bạn đều
cách xa. Nhưng cũng may, từ khi được thanh lập tại Phan Rí, tỉnh Binh
Thuận vao năm 1955, qua danh xưng TD265, 84 sau đó la TD2/43 biệt lập
cho tới ngay nay. Hầu hết các vị Tiểu Đoan Trưởng như Đại Uý Nguyễn Văn
Hai, cố Trung Tá Hắc Long Đổ văn Tân, cố Trung Tá Hắc Long Nguyễn Văn
Thoại va cuối cung la Thiếu Tá Bảo Đinh Nguyễn Hữu Chế, tất cả đều la
những đơn vị trưởng tai giỏi, đầy kinh nghiệm hanh quân trong vung, biết
địa thế ro như long ban tay, ma không cần phải xem ban đồ., nhờ vậy mới
không bị biển người cọng sản tieu diệt.
Từ 9 giờ sáng, TĐ2/43 đa bắt đầu chạm địch ở phía tây căn cứ Long Giao.,
nhưng vi không có quân bạn yểm trợ, nen Thiếu Tá Chế đa cố gắng đoạn
chiến, đổi hướng nhiều lần lộ trinh, vi không muốn gây thương vong cho
đơn vị. Đến chiều cung ngay, khi TĐ2/43 vao tới bia của một khu rừng
rậm, sau khi nhĩ ngơi, Thiếu Tá Chế chia TĐ lam hai cánh, một do Đại Uý
Chi TDP chỉ huy, để hanh quân xuyen rừng về Long Thanh. Cũng từ đó, TD
chạm địch lien mien, đến đổi cánh quân do Thiếu Tá Chế chỉ huy, chỉ con
vỏn vẹn có 28 người. Cũng trong đem đó, toán người của Thiếu Tá Chế lại
bị lọt vao vong vây, nhưng nhờ trong số nay con có Trung Đội Biệt kích
thiện chiến nhất của TD, nen cuối cung anh em thoát được.
Đến ngay thứ tư, TĐ đến gần Long Thanh nhưng TT Chế vẫn không dám lien
lạc truyền tin vi sợ lộ mục tieu, du lúc đó tren bầu trời lúc nao cũng
có phi cơ của SD18BB bay tim kiếm TĐ2/43
.
Tại căn cứ Long Bình, tiền trạm của TÐ2/43 do Trung Uý Nguyễn Văn Thắng,
SQ ban 1 chỉ huy hậu cứ, điều động quân xa vao các bia rừng ven Long
Thanh để đón lính TĐ2/43., đa vượt thoát được vong vây, trở về coi sống.
Nói chung, cánh quân do Đại Uý Chi, TDP chỉ huy gần như con nguyen vẹn
khi ra tới Long Thanh. Nhưng trái lại, cánh quân của Thiếu Tá Chế lại
đụng độ rất nặng, nhưng nhiều quân nhân con sống sót, đa tim được đường
về điểm tap trung.
Du đa liên lạc được với Đại Tá Hiếu Trung Đoan Trưởng TrD43 vao buổi
chiều ngay 24/4/1975 nhưng tới 9 giờ sáng hôm sau, bốn chiếc trực thăng
của SD mới vào bốc người nhưng vẫn bị VC truy sát, không buông tha.
Tại căn cứ Long Bình, Tiểu Đoàn tập hợp lại, bổ sung và tiếp tục chiến
đấu, sau khi thoát chết, để cùng với SĐ18BB và tướng Đảo, cũng như tất
cả các đơn vị trưởng, chiến đấu cho tới ngay 30-4-1975, mới phải buông
súng, ra ngũ vi lệnh đầu hang của Dương Văn Minh. Rieng Tiểu Đoan Trưởng
TĐ 1/43 la Đại Uý Chu hiện ở Úc nhưng vao ngay 12-4-1975 được thay thế
bởi Thiếu Tá Tung. Thảm nhất la Tiểu Đoan Trưởng TĐ3/43, Đại Uý Du, ngay
tan hang về nha, thi bị giặc bất ngay, đem thủ tieu mất xác.
Trong ' Đại thắng mùa xuân', Văn Tiến Dũng, Tổng tư lệnh bộ đội miền
Bắc, đa lấy lý do vi không kịp vẽ bản đồ Long Khánh, nen đa bị bại trận
Xuân Lộc. Thật sự trong 12 ngày ác chiến, Bắc Việt đa tung vao chiến
trường sáu Sư Đoan , gồm 6,7,341,325,10 va 304 để chọi với SD18BB, Lữ
Đoan 1 Nhảy Du, TĐ82 BDQ va các TD.DPQ , Trung Đội NQ của tỉnh Long
Khánh. Kết quả có hơn 6000 cán binh bộ đội bị phơi thây tại chỗ va 37
chiến xa đủ loại bị bắn cháy.
Để tưởng thưởng những quân nhân có công trong trận Xuân Lộc, quyền Tổng
Tham Mưu Trưởng lúc đó la Trung Tướng Đồng Văn Khuyen, ban hanh SVVT ân
thưởng cho tất cả quân sự đa tham dự , được len một cấp. Riêng Chuẩn
tướng Le Minh Đảo, Tư lệnh Mặt Trận Long Khánh kiem Tư Lệnh .SĐ18BB,
được chính Tổng Thống Trần Văn Hương, vinh thăng Thiếu Tướng, đặc cách
tại Mặt Trận từ ngay 25-4-1975.
Ba mươi năm qua, cuộc chiến đa tan theo năm tháng nhưng hơn 80 triệu
đồng bao trong nước vẫn không có đủ tự do để thở, cũng như có cơm ăn áo
mặc., khiến cho đất nước càng ngày càng thảm the héo hận.
Ngay nay ai có dịp được xuôi ngược trên các nẻo đường que hương lửa khói
xa xưa, từ cổng bắc của Thị Trấn Hố Nai, qua Bầu Cá, Trảng Bom, Hưng
Lộc, Dầu Giây, len Kiệm Tân, Túc Trưng, Định Quán ..hay về Xuân Lộc, Tân
Phong, Long Giao, Gia Ray, không hiểu họ có con nhớ chăng những ngay bi
thảm tận tuyệt của đất nước vào cuối tháng 4-1975.
Cũng chính tại Xuân Lộc, người dân cũng như lính tráng của miền cao
su-đất đỏ, trước cuộc xâm lăng tan bạo của giặc cộng xâm lăng Bắc Việt,
đa phẩn nộ, tử chiến lần cuối cùng với rợ Hồ. Trong lúc tại Sai Gon
người ta tim đường trốn khỏi nước, thi tại Xuân Lộc, người lính từ quan
cho tới cấp binh nhi, binh sĩ quân dịch, từng giây lội trong hố máu, hầm
xương, con tren đầu thi đội bom hứng đạn, gianh nhau từng vách tường
cháy, đống gạch vụn, các công sự phong thủ để giữ mạng . Tội nhất la
những lính của TD2/43 đơn vị cuối cung, đói khát chết chóc trong rừng
sâu, giữa chốn ba quân, để tim đường về coi sống.
Bỗng dưng thấy thật u uất ngậm ngùi, khi vô tình đọc được bai cổ thi '
Lưỡng Tây Hanh' của Trần Đao thời Hậu Hán, nói len thảm trạng chiến
tranh, đến nỗi xác của những người lính tại sa trường, đa trở thanh '
đống xương vô định cao hơn đầu ', ma tại hậu phương những người thiếu
phụ vẫn cứ mai ben án trông chồng ngoai quan tái. Hỡi ơi mới đó ma đa ba
mươi năm đoạn trường máu lệ, tóc xanh thanh tóc bạc, bạn be thân thương
một con, chín mất, lưu lạc khắp ngan phương, khiến mất cứ mai ngóng
tim.
' ngày mai rồi có ngày nào,
theo chân voi trận, để vao Thăng Long ..'
Cái mộng năm xưa nay cũng còn là mộng, khiến giờ chỉ con biết :
' nghiêng bầu mà hỏi
thien hạ mang mang
ai người tri kỷ
l lại đây cùng ta cạn một hồ trường
hồ trường, hồ trường
ta biết rót về đâu ?
( thơ của Nguyễn Bá Trác)
Xóm Cồn tháng 3-2005
HỒ ĐINH
TĐ1/43/18BB- KBC 4424
THAM KHẢO :
-Chiến sử QLVNCH của Phạm Phong Dinh và Nguyễn Đức Phương.
-55 ngay cuối cung của Chánh Đạo
-Những ngay cuối cûng của VNCH, của Nguyễn Khắc Ngử
-Tôn vinh Người Lính VNCH của Phạm Kim Vinh
-Nhật báo Tiền Phong, KBC hải Ngoại
-Tai Liệu của Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh SĐ18BB va Thiếu Ta Nguyễn Hữu Chế,
TĐT/TĐ2/43/SĐ18BB
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Tài Liệu: CUỘC RÚT QUÂN TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7
Tài Liệu: CUỘC RÚT QUÂN TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7
Phạm Bá Hoa
****************
Dẫn chuyện
Sau khi tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản ngay 7/1/1975, thủ phủ Ban Mê Thuột và tỉnh Darlac thất thủ ngay 11/3/1975, tinh hinh chiến sự Quân Đoan II/Quân Khu II trở nen sôi động. Xin nhớ la Thỏa Hiệp Ngưng Bắn đa ký tại Paris ngay 27/1/1975 va hạ tuần tháng 3/1975 là có hiệu lực. Do vậy mà bầu không khí chính trị cũng sôi động không kém tình hình quân sự
Lúc bấy giờ các vị lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đội liên quân đến những phản ứng sau đó, la:
- Tổng Thống: Nguyễn Văn Thiệu (Trung Tướng)
- Thủ Tướng: Trần Thiện Khiem (Đại Tướng)
- Tổng Tham Mưu Trưởng: Đại Tướng Cao Văn Viên
- Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiem Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Ông được phép đưa thân phụ sang Tokyo chữa bệnh ung thư, nên không có mặt từ lúc đầu cuộc rút quân. Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tổng Cục Trưởng
- Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú
- Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (Qui Nhơn): Đại Tá Bửu Khương
- Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lý
Lúc bấy giờ tôi là Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận
Vào chuyện
Ngày 14/3/1975, một buổi họp quan trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ
tọa của Tổng Thống, nhưng người bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng không rõ nội
dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch phản công chiếm lại Ban Me Thuột.
Rất tiếc là Trung Tướng Đồng Văn Khuyen chưa về, nên tôi với Đại Tá
Phạm Kỳ Loan không biết gì hơn
Ngày 15/3/1975, ngay đầu giờ buổi làm chiều, điện thoại reo:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Có ai ngồi gần anh không?
- Dạ không, thưa Đại Tướng
- Đó l&afrave; Đại Tướng Cao Văn Viên. Ông tiếp:
- Tuyệt đối là anh không cho ai biết lệnh nay ngoài những sĩ quan trách nhiệm thi hanh -
- Vâng, tôi ro thưa Đại Tướng -
- Tổng Cục Tiếp Vận có bao nhiêu phi cơ vận tải C.130 khả dụng? -
- Thông thường thì sử dụng 2 hoặc 3 chiếc, nhưng trường hợp tối
cần thiết có thể sử dụng được 8 hoặc 9 chiếc. Nhưng tôi sẽ hỏi bên Không
Quân và sẽ trình lại Đại Tướng con số chính xác hơn, thưa Đại Tướng -
- Thôi được. Điều cần thiết là anh phải sử dụng tối đa vi đây la nhu cầu khẩn cấp. Anh lien
lạc ngay với Quân Đoàn II, xem họ cần bao nhiêu chiếc thì cho họ bấy
nhiêu, con sử dụng vào công tác gì thì tuy họ. Nhiệm vụ kể từ ngày mai.
Anh rõ chưa? -
- Thưa Đại Tướng, tôi rõ -
- Phần anh, anh chuyển các quân dụng đắt tiền ra khỏi Pleiku và muốn đem về đâu thi tuy anh-
- Vâng. Tôi thì hành, thưa Đại Tướng -
Tôi thuật lại cho Đại Tá Loan nghe, và cả Đại Tá Loan lẫn tôi, đều
không suy đoán được là chuyện gi sắp xảy ra mà chúng tôi không được
phép biết. Nếu chuẩn bị đánh nhau với quân cộng sản thi tại sao không để
quân dụng lại ma thay thế số tổn thất? Nếu không đánh nhau,..... mà
không đánh nhau là thế nào? Thật không hiểu nỗi!
Tổ chức một quân đội, phải có hai yếu tố chính, là "con người va quân
dụng". Quân dụng do ngành Tiếp Vận quản trị. Những gi trang bị cho mỗi
quân nhân từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, từ dinh dưỡng đến điều trị khi
bị thương hay đau yếu, vấn đề mai táng và nghĩa trang, rồi doanh trại,
phương tiện di chuyển, rồi súng đạn, xe tăng thiết giáp, đại bác hỏa
tiển,...... đều là nhiệm vụ của ngành Tiếp Vận. Ấy vậy mà Tiếp Vận lại
không được quyền biết đến kế hoạch hanh quân, ít nhất la đối với lệnh
vừa rồi của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà !
Trong quân đội, chỉ có Trung Tướng Đỗ Cao Trí và Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng, là hai vị Tư Lệnh đại đơn vị đặt Tiếp vận vao đúng vị trí
của ngành này mà thôi. Điển hinh là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh
Quân Đoan III, đầu năm 1970, khi soạn kế hoạch hành quân sang lãnh thổ
Cambodia tấn công các kho dự trữ tiếp vận của quân cộng sản sát biên
giới Việt Nam, sau khi quyết định ngày N, Trung Tướng Trí nêu câu hỏi
với Trung Tá Trương Bảy (sau nay la Chuẩn Tướng Cảnh Sát) Chỉ Huy Trưởng
Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận:
- Theo kế hoạch hành quân như đa trình bày, Tiếp Vận có chuẩn bị kịp không? Nếu không, Quân Đoàn sẽ lui ngay lại".
Khi vị Tư Lệnh hỏi như vậy, cho dù chuẩn bị gấp rút cách mấy cũng
phải thực hiện cho xong chớ đâu thể xin lui ngay được. Đằng nào cũng
phải vất và, nhưng vất và mà được biết đến vẫn vui lòng hơn
Trước khi lên Pleiku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú điện thoại tôi:
- Anh Hoa a, tôi sắp sửa lên Quân Đoàn II, anh cho tôi mượn Trung
Uý Thiem một tuần để nó lên đó chọn hướng đặt ban giấy giùm tôi nghe
anh-
- Vâng. Tôi sẽ nói với anh Thiêm và Thiếu Tướng cứ liên lạc trực tiếp với anh ấy về những chi tiết cần thiết -
Lúc bấy giờ tôi là Cục Trưởng Cục Mai Dịch (đồn trú ở SaiGon), và
trong đơn vị tôi có Trung Uý Nguyễn Xuân Thiêm được nhiều người cho là
giỏi tướng số tử vi và chữ ký. Và sau 5 ngày công tác riêng cho Thiếu
Tướng Phú ở Pleiku trở về, Trung uý Thiêm nói với tôi:
- Thưa Đại Tá, tôi thấy vận số của Thiếu Tướng Phú hết rồi, nhiều
lắm cũng chỉ tính bằng tháng chớ không tính bằng năm đâu -
- Anh có nói gi với Thiếu Tướng Phú không?-
- Dạ không. Vi sợ ổng mất tinh thần. Với lại có nói ra cũng không có cách gi giải được, thà không nói vẫn hơn -
- Nghî như anh cũng phải -
(Năm 1990, tôi được biết Trung Uý Nguyễn Xuân Thiem định cư tại Australia )
Tôi nhớ, có một hôm Trung Tướng Đồng Văn Khuyen nói với tôi rằng, "Thiếu
Tướng Phú tuổi con rắn, nen Tổng Thống cử lên Quân Đoan II vi rắn thích
hợp với núi rừng".
Trở lại lệnh của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi gọi lên Plei
Ku liên lạc với Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II:
- Tôi Hoa đây anh Lý. Tôi được lệnh cấp C.130 cho anh nhưng không
được biết la Quân Đoàn sử dụng vào công tác gì. Vậy anh có thể cho tôi
biết để tôi tiện sắp xếp phi cơ theo đúng nhu cầu của anh không ? Vì
chắc anh cũng biết là số phi cơ khả dụng của chúng tôi giới hạn lắm -
- Anh cứ đưa lên đây cho tôi, con sử dụng vào công tác gì thi không thể nói được đâu- Lời của Đại Tá Lý.
- Đanh vậy. Nhưng anh cần bao nhiêu chiếc? Cần vào lúc nào? Và chuyển vận từ đâu tới đâu?
- Anh có bao nhiêu chiếc thì đưa lên tôi bấy nhiêu, và kể từ sáng
mai (16/3/1975). Không trinh có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc
Saigon -
- Vậy thi như thế nay. Sáng mai tôi cho lên anh 2 chiếc, trong khi
2 chiếc kế tiếp túc trực tại phi trường Tân Sơn Nhất và anh cần là cất
cánh ngay, vì một lúc anh đâu sử dụng được 4 chiếc. Được không? -
- Được. 8 giờ sáng mai anh cho có mặt tại phi trường Cu Hanh nghe -
- Xong. Minh thỏa thuận như vậy nhé -
Tôi trình Đại Tá Loan là vẫn không biết được gi thêm ở Quân Đoàn
II. Đại Tá Loan hỏi Chuẩn Tướng Trần Đinh Thọ, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng
Tham Mưu, Chuẩn Tướng Thọ cũng không tiết lộ điều gi. Bên Không Quân
xác nhận là có thể sử dụng tối đa 9 chiếc C.130, nhưng sau khi sử dụng
như vậy thi các nhu cầu tiếp theo không thể thực hiện được ít nhất la
một tuần vi phải tu bổ lại. Bộ Chỉ Huy Không Chiến, cơ quan điều động
phi cơ, đồng ý về thỏa thuận giữa tôi với Đại Tá Lý, nghĩa la 2 chiếc
C130 cất cánh len Pleiku thi 2 chiếc kế tiếp túc trực tại căn cứ Tân Sơn
Nhất.
Sáng ngày 16/3/1975, Bộ Chỉ Huy Không Chiến điện thoại tôi:
- Trinh Đại Tá, trưởng phi cơ C.130 đang trên không phận phi
trường Cu Hanh (Plei Ku), cho biết là không thể nào đáp xuống phi trường
được, vì người ta đông không thể tưởng tượng nỗi. Chẳng biết là chuyện
gì xảy ra vì không liên lạc được dưới đất. Va hai chiếc C.130 đang chờ
lệnh Đại Tá đó -
- Anh chuyển đến Trưởng phi cơ, hay chờ tôi vài phút để tôi lien
lạc với Quân Đoan xem tinh hinh ra sao đa -
Gọi Quân Đoàn II và tôi nói chuyện với Đại Tá Lý:
- Phi cơ tôi đang trên không phận của anh đó, nhưng không thể đáp
được. Nếu anh muốn họ đáp xuống thi anh phải giải toả sân bay giùm đi vi
nếu chậm quá thi họ sẽ về lại Sai Gon đó. Ma chuyện gi xảy ra vậy Anh? -
- Tại &vgrave;i người ta tranh nhau chờ lên phi cơ mới có
chuyện tràn ngập đường băng như vậy. Để tôi cho Quân Cảnh giải toả, anh
bảo phi cơ đáp xuống cho tôi đi -
- Thì phi hành đoàn đang chờ đường băng trống là đáp xuống, trừ
khi anh không giải toả nỗi. Anh nhớ ưu tiên cho Trung Tá Thời, Liên Đoan
Trưởng Yểm Trợ Tiếp Vận của tôi ở Plei Ku, chở một số kiện hang quan
trọng xuống Qui Nhơn hoặc Nha Trang a nghe -
Tôi lại nhờ Bộ Chỉ Huy Không Chiến chuyển đến phi hành đoàn C.130.
Và sau đó, phi cơ đáp xuống được tuy rất khó khăn vi đông nghẹt người
la người hai ben đường băng. Để rồi một hinh ảnh hỗn loạn chưa từng thấy
-theo lời thuật của Trưởng phi cơ- la cả một rừng người chen lấn xô
đẩy, thậm chí đạp len nhau để tranh len phi cơ, va hết sức khó khăn đến
độ nguy hiểm, phi hanh đoan mới cho phi cơ cất cánh được.
Hóa ra là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn chuyển xuống Nha Trang. Tôi trinh
ngaày cho Đại Tá Loan vi ước tính là sắp đánh nhau với quân cộng sản
rồi. Ước tính nay không phải la vô căn cứ, bởi vi cộng sản đa chiếm thủ
phủ Cao Nguyen, bây giờ chúng tấn công vao Bộ Tư Lệnh Quân Đoan II cũng
la điều có thể xảy ra lắm chớ. Nhưng chúng tôi nhầm ...
Vì sáng ngày 17/3/1975, trong lúc 2 chiếc C.130 trên không phận Plei Ku
thì điện thoại nhà tôi reo, hôm nay là chủ nhật nen tôi đi lam muộn:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Bộ Chỉ Huy Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ cho biết là toàn thị
xa Pleiku hôm nay không có một bóng sinh vật nao cả, va bây giờ phi hanh
đoàn xin phép về lại căn cứ -
- Anh hỏi lại phi hành đoàn giùm tôi, nếu sự thực hoàn toàn đúng như vậy
thi tôi đồng ý phi cơ quay về. Xin nhớ, đây la trách nhiệm rất quan
trọng nghe anh -
Tôi điện thoại qua nhà Đại Tá Phạm Kỳ Loan, và ngày sau đó Đại Tá Loan
lien lạc Chuẩn Tướng Trần Đinh Thọ (Trưởng Phong 3/Bộ Tổng Tham Mưu)
nhưng Chuẩn Tướng Thọ vẫn không nhỏ được một giọt thông tin nào về tình
hình đó cả. Tôi và Đại Tá Loan tức lắm, nhưng chúng tôi không có cách
nào khác vì Trung Tướng Khuyên đi Tokyo chưa về. Có vẻ như chúng tôi bị
coi như la những sî quan không đáng tin cậy thi phải, ít nhất cũng la
không được tin cậy trong cuộc hành quân này, du rằng Đại Tá Loan đang là
cấp chỉ huy cao nhất của ngành Tiếp Vận với gần 100.000 quân nhân công
chức chuyen nganh va quản trị một khối lượng dụng cụ chiến tranh trên
dưới 7 tỉ mỹ kim!
Tất cả các hệ thống liên lạc truyền tin bằng vô tuyến lẫn hữu
tuyến của quân đội, cũng như hệ thống lien lạc bên hành chánh, đều không
liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị nào ở Plei Ku cả. Đại Tá Bửu
Khương (ở Qui nhơn) cũng không có tin tức gi khá hơn trong khi đoàn quân
xa hơn 100 chiếc của Liên Đoàn 2 Vận Tải vẫn con kẹt tren Plei Ku vi
quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn - Plei Ku bị quân cộng sản chiếm giữ nhiều
chặng. Một tình hình không thể hiểu nỗi ít nhất là đối với nganh Tiếp
Vận chúng tôi. Không biết tại sao lúc ấy chúng tôi không nghĩ đến giả
thuyết nao khác, chẳng hạn như Quân Đoàn II vờ rút quân ra ngoài để
thành phố bỏ ngỏ cho quân cộng sản tiến vào, và bất thình lình quật lại
tấn công chúng ngay trong thanh phố. Con về giả thuyết rút bỏ Cao
Nguyên thi nhất thiết không thể có trong tư tưởng của bất cứ sĩ quan nào
chớ chẳng riêng gì chúng tôi. Cho dù một giả thuyết như vậy thôi cũng
không có trong hàng sĩ quan cấp dưới, nhưng nó lại la một kế hoạch thật
sự của hàng sĩ quan cấp Tướng lãnh đạo đất nước 20.000.000 dân, trong đó
có một quân đội hơn 1.000.000 người!
Cả hai chúng tôi -Đại Tá Loan và tôi- không thông báo tình hình
tệ hại đó cho bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận biết, trong khi chúng tôi
hết sức lo lắng cho tất cả quân nhân nói chung va số phận của anh em
trong ngành Tiếp Vận ở Plei Ku và Kon Tum nói riêng, vì chúng tôi không
có bất cứ một thông tin nào về tình hình đó, kể cả nguồn cung cấp chính
xác nhất là vị Tướng Trưởng Phong 3 ngang hàng với cơ quan chúng tôi, và
vị Tổng Tham Mưu Trưởng cấp tren của chúng tôi cũng vậy.
Chiều 18/3/1975, điện thoại reo:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Khương đây anh Hoa- Đó la Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, đồn trú tại Qui Nhơn.
- Anh có tin gì về anh em mình trên Pleiku chưa? -
- Liên Đoan 2 Vận Tải mới liên lạc vô tuyến với đoàn xe bị kẹt
trên Plei Ku rồi anh. Đoàn xe nay đang cung với hằng ngan quân xa và dân
xa rút bỏ Pleiku và Kon Tum, đang di chuyển trên đường liên tỉnh số 7
để xuống Tuy Hoà. Toàn bộ lực lượng gồm nhiều đơn vị chiến đấu, cung với
Pháo Binh, Thiết Giáp, bị sa lầy sau khi vượt qua Cheo Reo. Phần thi
đường hư cầu sập lam nhiều chiến xa M.48 và đại bác 175 cơ động lật
xuống hố, phần thi các đơn vị cộng sản tấn công nhiều mặt, đa gây tổn
thất nặng cho cả quân đội lẫn dân sự nhưng chưa thấy phản ứng của Quân
Đoan. Anh em mất tinh thần lắm anh ơi! -
- Được rồi. Bảo vệ đoàn quân và khi nào xuống đến Tuy Hoà, chắc
chắn là trách nhiệm của Quân Đoàn. Bây giờ anh nên chuẩn bị tổ chức
nhiều toán do một sî quan của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận chỉ huy và đặt tại Tuy
Hoà, mỗi toán phụ trách một công tác, để khi đoàn quân xuống đến Tuy
Hoà thi cấp phát ngay cho bất cứ đơn vị nào mà không cần theo thủ tục
tiếp liệu thông thường, chỉ cần viết tay và kYacute; nhận là đủ. Hang
mang theo cấp phát la: Lương khô đủ ăn 3 ngày, 1 bộ quần áo trận, đổ đầy
xăng dầu cho xe chạy bánh và xe chạy xích. Toán Quân Y thi cấp thuốc
cho các bệnh thông thường va cấp cứu đầu tiên. Anh thấy được không? -
- Được anh. Để tôi lo -
- Anh nói Liên Đoàn 2 Vận Tải ráng giữ liên lạc và khi có bất cứ
tin tức gi về đoàn quân này thi anh cho tôi biết ngay nghe anh Khương-
Sở dĩ có đoàn xe hằng trăm chiếc bị kẹt ở Plei Ku, là vì sau khi
Phước Long mất, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh cho tôi thực hiện kế
hoạch chuyển tiếp liệu loại 1 (lương thực thực phẩm), loại 3 (nhiên
liệu), loại 5 (đạn dược chất nổ), lên Plei Ku dự trữ cho 20.000 quân
phong thủ trong 30 ngày mới bổ sung. Do vậy mà hằng ngày đoàn xe cả trăm
chiếc đi đi về về giữa Qui Nhơn với Pleiku để vận chuyển tiếp liệu từ
Qui Nhơn lên Plei Ku.
Tôi sang văn phòng Đại Tá Loan, và sau đó tôi điện thoại lên Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng:
- Tôi Hoa đây anh Nguyện (Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, chánh văn phòng), anh cho tôi trinh vấn đề gấp với Đại Tướng -
- Anh chờ tôi một chút -
- Tôi đây. Anh có chuyện gì vậy? -
- Thưa Đại Tướng, tôi Hoa đây -
- Có việc gì vậy? -
- Vài phút cách đây, Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2
Tiếp Vận, cho tôi biết về đoan quân rút bỏ Pleiku và Kon Tum đang bị
sa lầy ... (tôi thuật lại chi tiết ma tôi va Đại Tá Khương đa nói với
nhau).
- Anh có chắc la đúng như vậy không? -
- Từ chổ đoàn xe bị kẹt đến Đại Tá Khương như thế nao thi tôi
không dám chắc, nhưng từ Đại Tá Khương đến tôi là hoàn toàn chính xác,
thưa Đại Tướng -
- Thôi được. Anh đừng nói với ai nữa nghe -
- Vâng -
Đại Tá Loan và tôi đều ngẩn ngơ về câu sau cung của Đại Tướng Tổng
Tham Mưu Trưởng. Chúng tôi ngẩn ngơ vi không hiểu tại sao tình hình đến
như vậy ma vẫn muốn giấu kín chúng tôi nữa! Vai phút sau đó, Chuẩn
Tướng Trần Đinh Thọ điện thoại tôi:
- Cưng ơi (Chuẩn Tướng Thọ thường gọi tôi như vậy), cưng có lien lạc với đoàn xe trecirc;n đường số 7 hả? -
- Tôi không trực tiếp liên lạc nhưng Liên Đoàn 2 Vận Tải của chúng
tôi đa liên lạc được với đoan xe chở tiếp liệu lên Pleiku và bị kẹt
tren đó, nay thi cung trong đoan quân sa lầy ma vừa rồi tôi đa trinh
Đại Tướng -
- Có. Đại Tướng mới gọi anh đây. Cưng cứ biết vậy thôi nghe -
Tôi có biết chút ít về đường liên tỉnh số 7 này, từ đoạn Plei Ku
vào đến Cheo Reo và xuống đến Cung Sơn. Vi cuối năm 1955 -lúc bấy giờ
tôi đang là Thiếu Úy, Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoan Khinh Quân 510-
toan bộ Tiểu Đoan chúng tôi cung với Tiểu Đoan Khinh Quân 507 va 527, di
chuyển từ Vỉnh Long len Cao Nguyen va đồn trú tại Cheo Reo, để thanh
lập Trung Đoan 35 Bộ Binh trong hệ thống tổ chức Sư Đoan Khinh Chiến 12.
Bộ Tư Lệnh Sư Đoan đồn trú tại Plei Ku. Các Tiểu Đoan được cấp phien
hiệu như sau: Tiểu Đoan 507 thanh Tiểu Đoan 1/35, Tiểu Đoan 510 chúng
tôi thanh Tiểu Đoan 2/35, va Tiểu Đoan 527 thanh Tiểu Đoan 3/35.
Vì các đơn vị yểm trợ tiếp liệu và hành chánh tài chánh đồn trú ở
Plei Ku, nên chúng tôi thường xuyên đi lại giữa Cheo Reo với Plei Ku
bằng đường lien tỉnh số 7 va một đoạn quốc lộ 14. Sở dĩ đoạn đường từ
nga ba quốc lộ 14 với lien tỉnh lộ 7 -ten địa phương la Mỹ Thạch- vao
đến Cheo Reo con sử dụng được, la vi trong chiến tranh giữa thực dân
Pháp với cộng sản 1945-1954 (lúc đó cộng sản núp dưới ten Việt Minh),
Cheo Reo la cứ điểm quân sự của Pháp, nen đường nay được tu bổ vi nó
la "con đường huyết mạch" của cứ điểm. Con đoạn từ Cheo Reo xuống Cung
Sơn va Tuy Hoa, quân đội Pháp không sử dụng nen không tu bổ gi cả. Khi
Trung Đoan chúng tôi đến Cheo Reo, thi xác những chiếc thiết giáp của
Pháp con ngổn ngang tại đó, con chiếc cầu bắc ngang Sông Ba thi tồi tệ
hơn bất cứ chiếc cầu tồi tệ nao. Thuở ấy "rất la hoa binh", nen chúng
tôi thường đi săn tren đường từ Cheo Reo xuống đến Cung Sơn, chỉ cần
thận trọng một chút thi xe jeep vẫn bo qua chiếc cầu tồi tệ ấy được.
Tren đoạn đường nay, chiếc xe jeep của chúng tôi chỉ gọi la "bo" chớ
không thể gọi la chạy được vi mặt đường giữa vung rừng gia heo hút nay
hầu như không con gi để gọi la con đường nữa.
Giữa năm 1969, lúc ấy tôi là Đại Tá, tháp tùng Trung Tướng Nguyễn
Văn La, đến thăm các đơn vị tại Cheo Reo và các quận lân cận, con đường
ben kia Sông Ba được tu bổ đôi chút. Va nếu đoạn đường tiếp nối xuống
Cung Sơn để ra Tuy Hoa (tỉnh Phú Yen) không được tu bổ thường xuyen, ma
Quân Đoan II quyết định sử dụng cho đoan quân hơn 10.000 người cung với
tren dưới 2.000 quân xa, dân xa, va chiến xa hạng nặng triệt thoái, quả
la tạo được bất ngờ đối với địch, nhưng phải nói la quá liều lĩnh! Bất
ngờ, nhưng con đường có sử dụng được hay không, lại la vấn đề trước mặt
của Quân Đoan II nói chung, va của bộ chỉ huy hanh quân cuộc hanh quân
lui binh nay nói rieng.
Chiều tối hôm sau thì Trung Tướng Đồng Văn Khuyên từ Tokyo (Nhật
Bản) về đến. Sau khi nghe chúng tôi trình bày về tình hình từ ngay ông
vắng mặt đến nay, ông nói sáng mai sẽ trinh diện Tổng Thống với Đại
Tướng (Tổng Tham Mưu Trưởng), chắc la sẽ có tin tức ro rang hơn.
Va đây là những tin tức đó:
"Sau khi mất Ban Mê Thuột, áp lực của quân cộng sản rất mạnh. Tổng
Thống nhận định là không đủ khả năng bảo vệ toan bộ Cao Nguyen trong
khi Ban Me Thuột cần giữ hơn la Plei ku với Kon Tum, vi vậy ma Tổng
Thống trong buổi họp tại Cam Ranh, đa quyết định rút bỏ Plei Ku, Kon
Tum, Phú Bổn, để đem lực lượng về phản công lấy lại Ban Me Thuột. Tổng
Thống giao cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoan II, nhiệm vụ
thực hiện cuộc hanh quân triệt thoái khỏi 3 tỉnh đó, nhưng phải giữ bí
mật tối đa va bảo vệ toan vẹn lực lượng (có lẽ vi bảo mật tối đa ma Tổng
Cục Tiếp Vận chúng tôi không được cho biết gi cả). Thiếu Tướng Phú
trinh kế hoạch la rút theo đường lien tỉnh số 7, du rằng con đường nay
không sử dụng từ lâu nhưng đạt được yếu tố bất ngờ đối với lực lượng
cộng sản. Thiếu Tướng Phú đề nghị Tổng Thống thăng cấp Chuẩn Tướng cho
Đại Tá Phạm Duy Tất, va Chuẩn Tướng Tất sẽ la Chỉ Huy Trưởng cuộc hanh
quân lui binh nay. Lời đề nghị được Tổng Thống chấp thuận tại chổ".
Lúc bấy giờ, Đại Tá Phạm Duy Tất đang là Chỉ Huy Trưởng Biệt Động
Quân/Quân Đoàn II.
Hết giờ buổi chiều khá lâu, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận chỉ con
nhân vien trực hoạt động. Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn phàng (ông
ngồi ở văn phong Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, tren toa nha chánh),
va ông đưa tôi xem một xấp không ảnh (ảnh chụp từ tren phi cơ) đa được
giải đoán đầy đủ. Toan bộ xấp không ảnh cho thấy đoan xe không phải theo
một hinh dai ma la một hinh gần như tron, vi khi phần đi đầu bị kẹt thi
những chiếc sau cứ lấn qua ben trái hay ben phải với hy vọng tim được
lối đi, nhưng cang lấn vao rừng thi cang không lối thoát, va cứ như thế
ma cả đoan xe quá nhiều đó đa tạo nen dáng như vậy. Ghi chú ben cạnh
những khoanh tron bằng ngoi bút của chuyen vien giải đoán không ảnh, có
gần 800 xe đa bị thieu hủy. Nếu như giải đoán vien không ảnh chính xác
hay ít ra cũng gần như vậy, thi chỉ mới 4 ngay dấn thân vao đường lien
tỉnh số 7 ma số xe bị tổn thất tren dưới 1/3 trong tổng số xe các loại,
quả la rất nặng. Trong số tổn thất đó có Tiểu Đoan Pháo Binh 175 ly cơ
động va Trung Đoan Chiến Xa hạng nặng M48". Đây la hai loại vũ khí mới
được Hoa Kỳ viện trợ năm 1973 bằng cách các đơn vị pháo binh va xe tăng
của họ chỉ rút người về nước va để toan bộ chiến cụ đó lại cho quân đội
chúng ta.
Những bai học chiến thuật trong trường Vo Bị cũng như trường Đại
Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương của Pháp va
la tiền thân của trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp) đều thừa nhận rằng,
trong các cuộc hanh quân thi hanh quân rút lui (hay triệt thoái, hay lui
binh) la nhiều hiểm nguy hơn các cuộc hanh quân khác, vi đơn vị "đưa
lưng" về phía địch. Khi tấn công thi trước mặt la địch va sau lưng la
hậu tuyến, con trong rút lui thi trước mặt lại la hậu tuyến ma sau lưng
trở thanh tiền tuyến. Nguy hiểm la vậy. Nguyen tắc căn bản của bai học
"lui binh" la phải có một lực lượng hanh quân giao tiếp để bảo đảm an
toan phía trước mặt (hậu tuyến), con lực lượng lui binh thi tự bảo vệ
phía sau lưng (tiền tuyến), ngoai ra phải được Không Quân quan sát va
yểm trợ hỏa lực nữa.
Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hoà lên, đoàn quân
triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vi bị
quân Việt cộng lien tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoa thi tổn
thất đến nỗi không con khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại
Ban Me Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém
số thương vong của quân đội. Chết vi súng đạn, chết vi xe cộ tranh gianh
lối đi ma gây tai nạn bừa bai, chết vi tranh nhau miếng ăn nước uống,
chết vi cướp giật, ..v..v..
Rút bỏ 3 tỉnh Cao Nguyên là Pleiku, Kon Tum, và Phú Bổn, những
tưởng bảo toàn được lực lượng gồm một phần của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, các
Liên Đoan Biệt Động Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh, Truyền Tin,
va các nganh khác, để phản công chiếm lại thủ phủ Ban Me Thuột, nhưng
rồi toan bộ Cao Nguyen miền Trung bỗng dưng rơi vao tay quân cộng sản
một cách nhẹ nhang. Tôi nói "bỗng dưng", vi rút bỏ Plei Ku từ đem thứ
bảy 16 rạng ngay chủ nhật 17/3, ma đến 3 giờ 15 phút chiều thứ tư
20/3/75 tín hiệu của Truyền Tin tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoan II mới ngưng
hoạt động. Đại Tá Cục Trưởng Cục Truyền Tin nói với tôi như vậy. Điều
nay có thể la lúc đó quân cộng sản mới tiến đến va phá hủy máy móc hoặc
tắt máy, cũng có thể la quân cộng sản chưa chiếm nhưng vi máy phát điện
hết nhien liệu nen cả hệ thống đều ngưng hoạt động. Cho du ở vao trường
hợp nao đi nữa, thi ro rang la quân cộng sản ma minh tưởng nó bao vây
hay sắp sửa bao vây Plei Ku, nhưng thật ra chúng con ở tận đâu đâu nen
mai 4 ngay sau -đó la thời gian sớm nhất- chúng mới vao chiếm Bộ Tư Lệnh
Quân Đoan, trong khi những Sư Đoan của chúng ở cang xa Plei Ku về hướng
Nam va Đông Nam thi khoảng cách cang gần với đoan quân triệt thoái hơn,
do dó ma thiệt hại của đoan quân nặng nề chưa từng thấy trong hơn 20
năm chiến tranh! Một thất bại vô cung đau đớn cho những người cầm súng,
nhất la những người cầm súng dưới quyền chỉ huy của vị Tư Lệnh đa từng
xông pha trận mạc. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, khi con la sĩ quan cấp Úy
cấp Tá trong hang ngũ quân đội Lien Hiệp Pháp lẫn trong quân lực Việt
Nam Cộng Hoa, đa có tiếng la cấp chỉ huy can đam, không lui bước bất kể
chiến trận gay go nghieng nga như thế nao. Nay, với chức vụ Tư Lệnh
Quân Đoan II, liệu có phải la hơi quá tầm lanh đạo chỉ huy của ông
không? Hay la quyền lực hoặc khả năng của ông bị điều gi đó giới hạn?
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đa tự tử ngay sau ngay 30/4/1975. Tôi đến chua
Vĩnh Nghiem (Sai Gon) vao ngay 2/5/1975 va chao tiễn biệt ông vao coi
vĩnh hằng giữa hoan cảnh đau thương của đất nước, dân tộc!
Năm 1960, trong thời gian tôi học
tại Trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghien Cứu Quân Sự của
Quân Đội Viễn Chinh Pháp), tôi đọc được một tập tai liệu, có nhận định
rằng: "Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm giữ được Cao Nguyen miền
Trung thi người dó sẽ nắm phần chiến thắng". Chắc chắn rằng, những vị
Tướng của chúng ta đang nắm quyền lanh đạo quốc gia va lanh đạo quân đội
đều biết tai liệu đó, nhưng có thể các vị bị chính trị đẩy Cao Nguyen
ra khỏi tầm tay chăng?
Ngược dong thời gian, thượng tuần tháng 5/1954, Điện Biên Phủ do
13.000 quân của Pháp trấn giữ, đa thất thủ làm rúng động toàn bộ quân
viển chinh Pháp tại Đông Dương va rúng động cả nước Pháp. Va hiển nhien
la sự thất trận nay đa đưa nước Pháp đến tinh trạng mất toan bộ Đông
Dương gồm Việt Nam, Cam Bốt, va Lao. Hơn 20 năm sau -tháng 3/1975- toan
bộ Cao Nguyen miền Trung vao tay quân cộng sản, lam rúng động toan quân
va toan dân Việt Nam Cộng Hoa. Va liệu sự thất bại nay có phải la
nguyen nhân dẫn đến toan bộ Việt Nam Cộng Hoa vao tay quân cộng sản từ
ngay cuối tháng 4/1975 không? Du gi đi nữa thi sự thể đa la như vậy rồi!
Tinh trạng hỗn loạn bi đát trong cuộc hành quân lui binh
tr&eciec;n đường liên tỉnh số 7, nếu chưa phải la nguyen nhân chính,
cũng là khởi đầu cho sự hỗn loạn trong các cuộc hanh quân lui binh của
các Sư đoan 1, 2, 3, 22, 23 Bộ Binh, Nhẩy Du, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt
Động Quân, Hải Quân, Không Quân, dọc các tỉnh duyen hải từ Quảng Trị ,
Huế, Đa Nẳng, đến Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngai, Binh Định, Phú Yen,
Khánh Hoa, Cam Ranh.
Trước ngay cuối tháng 3/1975, thi từ Quảng Trị đến Cam Ranh đều bỏ
ngỏ. Tôi nói "bỏ ngỏ" vi không có Tiểu Khu nao hay Trung Đoàn, Sư Đoàn,
Quân Đoàn nào, phong thủ chống lại quân cộng sản, hoặc nếu có chống trả
như Sư Đoan 3 Bộ Binh tại sườn Tây Đa Nẳng cũng chỉ trong thời gian
ngắn ngủi la rút lui, con lại la rút đi trước khi quân cộng sản đến!
Trong số những vị Tướng Tư Lệnh đại đơn vị thuộc Quân Đoàn I và
Quân Đoàn II rút khỏi khu trách nhiệm của những vị đó, tôi luôn tự hỏi
về thái độ của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoan I/Quân
khu I. Tôi được tiếp xúc với ông qua những công tác "chống đảo chánh" từ
năm 1965 khi ông la Tư Lệnh Phó Sư Đoan Nhẩy Du. Chính vi hiểu ông ma
tôi tự hỏi như vậy. Bởi trong cuộc tấn công của quân cộng sản hồi Tết
Mậu Thân đầu năm 1968, Huế va nhất la trong khuôn vien thanh nội, nơi có
bản doanh cung một số đơn vị của Sư Đoan 1 Bộ Binh đồn trú, đa bị chúng
chiếm giữ trong 3 tuần lễ. Lúc bấy giờ, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng
(cấp bậc lúc ấy) la Tư Lệnh Sư Đoan nay. Cuộc phản công chiếm lại từng
khu vực trong thanh nội Huế rất cam go với tổn thất đáng kể, Chuẩn Tướng
Trưởng đa chứng tỏ quyết tâm tieu diệt quân cộng sản hay ít nhất cũng
phải đánh bật chúng ra khỏi Huế trong thời gian ngắn nhất, khi ông đứng
nghiem chỉnh ở chân cột cờ với lễ phục va huy chương biểu tượng cho các
chiến công của ông, Chuẩn Tướng Trưởng đa keu gọi quyết tâm của quân sĩ
dưới quyền ông hay vi danh dự va trách nhiệm đối với tổ quốc dân tộc.
Qua lời keu gọi đầy trách nhiệm cung với nhiệt tâm của ông, chính la
quyết tâm của vị Tư Lệnh cung quân sĩ chiến đấu, đa thúc đẩy cuộc phản
công của Sư Đoan đến chiến thắng vẻ vang. Đanh rằng trong cuộc hanh quân
phản công nay, có sự chiến đấu yểm trợ của quân lực Hoa Kỳ, nhưng Sư
Đoan 1 Bộ Binh Việt Nam vẫn la lực lượng chính.
‘Muà Hê Đỏ Lửa’ năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (đa thăng
cấp) đang là Tư Lệnh Quân Đoan IV/Quân khu IV vung đồng bằng Cửu Long,
được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoan I/Quân
Khu I va tức tốc len phi cơ ra Đa Nẳng nhận chức. Một vị Tướng như thế,
tôi nghĩ, ông không thể để Đa Nẳng vao tay quân cộng sản gần như em
thắm như vậy! Xin nhớ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng gốc la binh chủng
Nhẩy Du, va binh chủng nay la một trong những binh chủng rất li với
chiến trận. Nhưng sự thể đa diễn ra như vậy, ắt phải có điều gi đằng sau
quyết định rút bỏ thanh phố cảng quan trọng của miền Trung. Va chỉ có
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng mới có thể hiểu đến tận cung điều ấy ma
thôi.
Ngày 14/1/1995, tôi gặp anh Nguyễn Thanh Trí trong chợ Hong Kong ở
Houston, bạn tôi. Anh là cựu Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoan Thủy Quân Lục
Chiến, và Sư Đoàn này đặt dưới quyền sử dụng dai hạn của Quân Đoan I từ
sau trận chiến Mua He Đỏ Lửa năm 1972. Dưới đây la lời thuật của cựu Đại
Tá Trí về những ngay cuối tháng 3/1975, trong lúc anh va bộ chỉ huy
hanh quân Sư Đoan Thủy Quân Lục Chiến ở khu vực Non Nước, Đa Nẳng:
‘’Khoảng 5 giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân cộng sản tấn
công vào Sư Đoan 3 Bộ Binh ở sườn Tây Đa Nẳng, và chỉ vài giờ chống trả
là Sư Đoan rút lui, tạo khoảng trống ben sườn của Thủy Quân Lục Chiến,
va các đơn vị co về bản doanh Sư Đoan (Thủy Quân Lục Chiến). Thieu Tướng
Bui Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoan Thủy Quân Lục Chiến, đa rời khỏi Sư Đoan
va len chiến hạm của Hải Quân (Việt Nam) từ lúc chiều. Nhưng trước khi
đi ông có đến gặp Trung Tuóng Ngô Quang Trưởng xin quyết định vi tinh
hinh rất nghiem trọng, nhưng Trung Tướng Trưởng không nói gi cả. Lúc nay
ben cạnh Thiếu Tướng Bui Thế Lân có ông Tổng Lanh Sự Hoa Kỳ tại Đa
Nẳng, ông ta có mang theo máy vô tuyến cầm tay loại nhỏ va chốc chốc ông
ta nói vị trí của ông với ai ở đâu đó tôi (tức cựu Đại Tá Trí) không
ro. Thiếu Tướng Bui Thế Lân nói với tôi rằng: Ông Tổng Lanh Sự khuyen
ổng (tức Thiếu Tướng Lân) nen bảo toan lực lượng, nhưng Thiếu Tướng Lân
không nói điều nay với Trung Tướng Trưởng.
‘’Khoảng nửa đem 28 rạng 29/3/1975, có tiếng động cơ trực thăng
xuống bai đáp ben cạnh, sĩ quan trực chạy ra đón va hướng dẫn phái đoàn
vào bộ chỉ huy hanh quân Sư Đoan Thủy Quân Lục Chiến, gồm các vị: Trung
Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Khánh (tôi không biết họ) Tư Lệnh Sư
Đoan 1 Không Quân (đồn trú tại Đa Nẳng), Đại Tá Phước (cũng không biết
họ) Không Đoan Trưởng Không Đoan 51/Sư Đoan 1 Không Quân, Đại Tá Nguyễn
Hữu Duệ, Tỉnh/Thị Trưởng Thừa Thien/Huế, va Đại Úy sĩ quan tuy vien của
Trung Tướng Trưởng. Vao bộ chỉ huy, sau khi Trung Tướng Trưởng lien lạc
với các đơn vị va được biết đa rút lui an toan (tức bỏ Đa Nẳng), Trung
Tướng Trưởng nói với các sĩ quan cung đi theo ông:
- Bây giờ thì các anh hay tự thoát, còn tôi, tôi đi theo Thủy Quân
Lục Chiến-
‘’Trung Tướng Trưởng vừa nói xong thi gần như cung một lúc, Chuẩn
Tướng Khánh, Đại Tá Phước, Đại Tá Duệ, cung cho Trung Tướng Trưởng và
lên trực thăng cất cánh ngay. Khoảng 6 giờ sáng ngay 29/3/1975, sĩ quan
vao trinh tôi la chiến hạm đang tiến vao để đón các đơn vị Thủy Quân Lục
Chiến. Tôi đến trinh Trung Tướng Trưởng:
- Thưa Trung Tướng, tôi không biết do lệnh từ đâu mà chiến hạm
đang chờ đón tôi va các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Vậy Trung Tướng nên
đi với chúng tôi ngay bây giờ, thưa Trung Tướng-
‘’Sau một lúc chần chừ như có ý không muốn rời Đa Nẳng, ông đứng
dậy cung đi với tôi. Nhưng vì chiến hạm không vào sát bờ được, cũng
không có tàu nhỏ để từ bờ ra chiến hạm, nen tất cả đều lội nước, va khi
mực nước len đến ngực cũng la lúc treo len tau. Sau khi mọi người len
chiến hạm, lúc ấy tôi trông thấy Đại Tá Hường (Nguyễn Xuân Hường), Tư
Lệnh Lữ Đoan 1 Kỵ Binh đa có mặt tren tau. Chiến hạm lui ra khơi nhưng
chưa chạy, có vẻ như chờ lệnh hay chờ ai đó.
‘’Vai tiếng đồng hồ sau, chiếc trực thăng chở các sĩ quan rời khỏi
bộ chỉ huy hành quân Sư Đoan Thủy Quân Lục Chiến lúc nửa đem qua, đa
quay trở lại, không ro la do thời tiết xấu hay vi lý do gi đó, va cả ba
vị la Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, với Đại Tá Duệ, cung lội nước ra
chiến hạm. Vẫn la chiến hạm đang có Trung Tướng Trưởng tren đó. Tôi thấy
sự chia tay đem qua sao ma thản nhien quá, thản nhien đến mức không có
vẻ gi có chút tinh cảm đọng lại trong giây phút chia tay đó lam tôi cảm
thấy khó chịu. (lời của Phạm Bá Hoa: thuật chuyện đến đây đôi mắt anh
Trí đỏ hoe, chực phát khóc! Ro rang la anh đang xúc động!)
Sau phút im lặng vì xúc động, cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí thuật
tiếp:
‘’Tôi nhờ ông Hạm Trưởng để 3 sĩ quan này ở phía trước hầu tránh
cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trông thấy e không đẹp long nhau. Mai
đến quá trưa, chiến hạm mới rời vung biển Đa Nẳng va trực chỉ Cam Ranh.
Giữa chiến hạm với Bộ Tư Lệnh Hải Quân giữ lien lạc vô tuyến chặt chẻ,
nen khi chiến hạm vừa đến vịnh Cam Ranh thi nhận được công điện của Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu. Theo đó thi Tổng Thống ra lệnh cho tất cả len
bờ, chỉ rieng Trung Tướng Trưởng vẫn ở tren chiến hạm va về Sai Gon
ngay. Tôi thắc mắc nếu muốn Trung Tướng Trưởng về Sai Gon ngay thi tại
sao Tổng Thống hay Bộ Tổng Tham Mưu không cho phi cơ ra Cam Ranh đón ma
lại bảo đi bằng tau? Lúc đó Trung Tướng Trưởng nói la ông đi theo Thủy
Quân Lục Chiến chớ không về Sai Gon. Đến khi Thiếu Tướng Phạm Văn Phú,
Tư Lệnh Quân Đoan II một đại đơn vị hầu như đa tan ra sau cuộc hanh quân
lui binh thảm bại, ông từ Nha Trang vao Cam Ranh khuyen Trung Tướng
Trưởng nen về Sai Gon theo lệnh Tổng Thống. Va Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoan I đa theo chiến hạm về Sai Gon’’.
Đến đây là hết lời thuật của cựu Đại Tá Nguyễn Thanh Trí, Tư Lệnh
Phó Sư Đoan Thủy Quân Lục Chiến.
Với lời thuật trên đây của cựu Đại Tá Trí, tôi nghĩ rằng: rất có
thể la các vị Tư Lệnh tại Quân Đoàn I từ binh chủng Bộ Binh, Nhẩy Du,
Thủy Quân Lục Chiến, đến quân chủng Hải Quân, Không Quân, và cũng có thể
ngay cả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoan I, đa nhận được
lời khuyen ‘bảo toan lực lượng’ như Thiếu Tướng Bui Thế Lân đa nhận của
ông Tổng Lanh Sự Hoa Kỳ tại Đa Nẳng cũng nen? Không chừng chiến hạm vao
gần bờ để đón Thủy Quân Lục Chiến cũng từ ‘lời khuyen’ của ông Tổng
Lanh Sự nữa chăng! Vi ro rang la cựu Đại Tá Trí không hề biết lệnh xuất
phát từ đâu ma. Va phải chăng với ‘lời khuyen’ đó đa dẫn đến các vị có
quân có quyền trong tay lần lượt rời khỏi đơn vị hoặc chỉ huy đơn vị
triệt thoái? Điều nay tôi không ro, nhưng có điều quí vị đều ro la Bộ Tư
Lệnh Quân Đoan I va Đa Nẳng vao tay quân cộng sản quá dễ như khi vao Bộ
Tư Lệnh Quân Đoan II ở Plei Ku vậy!
Tối ngày 6/9/2003, khi vợ chồng tôi dự tiệc cưới tại Washington
DC, chúng tôi ngồi chung ban với cựu Trung Tướng Ngô Quan Trưởng, va cựu
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi có ý định hỏi Trung Tướng Trưởng về
điều thắc mắc của tôi, nhưng vi cựu Phó Đề Đốc Thoại lại đưa vấn đề cuộc
đảo chánh ngay 1/11/1963 hỏi tôi nen tôi mai nóí chuyện với ông, để rồi
cuối cung không con thi giờ xin lời tâm sự từ cựu Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng.
Bây giờ xin mời quí vị quay nhìn vào số lượng đồng bao chạy loạn
được các loại tau chở từ Huế và Đa Nẳng xuôi Nam và đưa ra đảo Phú Quốc
tạm trú. Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang mà tỉnh lỵ la Rạch Giá, nằm
ngay cửa ngỏ vao vịnh Thái Lan. Số đồng bao chạy loạn nay do Bộ Xa Hội
phụ trách nuôi ăn trong khi chờ biện pháp giải quyết chung. Bộ Xa Hội
yeu cầu Tổng Cục Tiếp Vận giúp họ tiếp tế mỗi ngay 20.000 phần cơm va
phi cơ đưa ra Phú Quốc cung cấp cho đồng bao. Trung Tướng Đồng Văn
Khuyen bảo tôi lo giúp Bộ Xa Hội. Tôi điện thoại len Trung Tâm Huấn
Luyện Quang Trung, xin tiếp chuyện với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Chỉ Huy
Trưởng Trung Tâm nay:
- Hoa đây Anh. Có việc nay xin nhờ Anh và hi vọng Anh tiếp tay
được- Xin lỗi quí vị, tôi xưng hô như vậy với Thiếu Tướng Trần Bá Di, vi
chúng tôi thân nhau từ lâu.
- Việc gi mà coi bộ quan trọng vậy anh?
- Tại Phú Quốc hiện có khoảng 20.000 đồng bao của các tỉnh miền
Trung chạy vao tạm trú, bên Bộ Xa Hội nhờ quân đội nấu cơm , vắt lại
từng vắt, và dung phi cơ quân sự đưa ra Phú Quốc cho đồng bao. Chuyện
nay la chuyện hằng ngay nghe Anh. Gạo thi Bộ Xa Hội cung cấp. Anh liệu
Trung Tâm có thể giúp được không?
- Được chớ. Chuyện chung mà. Nhưng chừng nào thì tụi tôi nấu?
- Ngày hôm nay. để mai là chuyến tiếp tế đầu tiên do quân đội nhận
giúp. Vậy Anh cho mượn gạo hôm nay nghe, và mai chúng tôi chở gạo đến
Anh đủ một tuần, sau đó tính tiếp.
- Được. Tôi cho nấu ngay. Khi xong, tôi cho anh hay.
- Xin cám ơn Anh -
- Cái gì mà anh cám ơn. Mỗi người mỗi đơn vị phải góp phần trách nhiệm của minh chớ anh -
Thế là từ hôm ấy, cơm vắt được đưa ra Phú Quốc bằng phi cơ phi cơ
tiếp tế cho đồng bao tạm trú tại đó. Nhưng rồi tinh hinh ngày
c*agrave;ng xấu thêm ./.
* * * * *
Houston, cuối Đông 2003-2004
Bài viết này trích từ quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ ấn hành năm 1994, 1995,
1998, và tôi đang chuẩn bị để nhà xuất bản ấn hành lần 4 vao mua he 2004
nay, sau khi bổ túc do những điều ma cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và
cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết thêm
Phạm Bá Hoa .
*********************************
NHÌN LẠI TRẬN ĐÁNH BAN MÊ THUỘT
Đại Tá Nguyễn Trọng Luật
******************************
Chủ Nhật 9/3/75
- Trinh Đại tá, Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn 2 sẽ đến Bộ Tư lệnh Sư
đoan 23 vao lúc 10 giờ hôm nay để duyệt tinh hinh. Trung úy Dzi, sĩ quan
tuy vien, sau khi đứng nghiem chao tôi va nói với tôi như vậy, khi tôi
con ngồi tại tư dinh để xem công văn công điện cung ký những giấy tờ cần
thiết cho một ngay lam việc. Không phân biệt ngay cuối tuần, ngay nao
cũng la ngay thứ Hai, ma người Mỹ thường nói tren cửa miệng. Với trọng
trách Tỉnh trưởng kiem Tiểu khu trưởng Darlac, ngay lại ngay tôi rất
bận, về hanh quân, đi thanh tra, đôn đốc, kiểm soát các chi khu, phân
chi khụ Đó la chưa kể danh thi giờ tiếp đón các phái đoan từ Saigon ra
hay từ Quân đoan xuống. Nen chỉ con ban đem va những giờ sáng sớm để xe
công văn giấy tờ. Tôi hỏi lại:
- Xe sẵn sang chưả
- Dạ, thưa sẵn sang
- OK, thôi chúng ta đi
Khi tới phi trường Phụng Dực, lòng tôi như lửa đốt. Phần vì đêm qua mất
ngủ, phần lo số phận của hang trăm sinh linh đang chiến đấu tại Đức Lập
ma VC đa tấn công tối quạ Hiện mất lien lạc không biết con hay mất. Tâm
hồn tôi như đang gắn liền với các chi khu, các binh lính dưới quyền
minh. Lam sao cho họ an toan giữa cuộc chiến cang ngay cang tan khốc naỵ
Hang đem vừa chợp mắt la thấy những lo lắng không đâu chợt đến với giấc
ngủ muộn mang... Du quận Đức Lập không phải la vung trách nhiệm của
minh nhưng tien liệu cho kế hoạch phong thủ Darlac vẫn la trọng tâm của
tôi trong lúc nay
Tôi có một cái nhìn rõ ràng, mất Thuần Mẫn, mất Đức Lập thi việc tiến
chiếm Ban Me Thuột chỉ con la vấn đề thời gian. Nhưng tiếng nói của tôi
có ai nghe trong khi tôi chỉ la một Tiểu khu trưởng trong tay có mấy
tiểu đoan Địa phương quân, mấy Trung đôi Nghĩa quân, Cảnh sát, Nhân dân
tự vệ. Tư lệnh chiến trường lại do Đại tá Quang đảm trách, tôi chỉ la
cấp thừa hanh. Tôi sinh ra trong binh chủng Thiết giáp; nếu tấn công thi
rất thích hợp cho binh chủng nay, con phong thủ thi thiết giáp chỉ la
bia đỡ đạn cho những tro chới của súng chống chiến xạ Tôi cang suy nghĩ
bao nhieu, lại cang nhin thấy sự bất lực của minh. Con ngựa sắt của tôi
đâu, hay bây giờ chỉ con những tay súng tai tử đối chọi với những kẻ
gian hung đang đien khung xông vao lửa đỏ chẳng khác gi những con thieu
thân? Chợt phía Tây, h+ớng về phía Đông, một chiếc Dakota 47 lu lu đang
tiến tới va đáp xuống phi trường
Máy bay mở cửa, tôi dứng nghiêm chào Tướng Phạm Văn Phú và phái đoan.
Tướng Phú tiến đến bắt tay tôi va ngồi len xe của Toa Hanh chánh đi về
Ban Me Thuột. Ngồi cạnh Tướng Phú, tôi thấy ông có vẻ đăm chieụ Ông
không hỏi tôi điều chi, cũng như tôi vẫn giữ im lặng, trông chờ một hy
vọng. Hinh như, Tướng Phú đang lo nghĩ về quận Đức Lập, đến bay giờ con
hay mất?
Đoàn xe trực chỉ Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Tướng Le Trung Tường,
Đại tá Vũ Thế Quang đa chờ sẵn để hướng dẫn phái đoan vao Trung tâm Hanh
quân Sư đoan. Tại đây, đa có sự hiện diện của Đại tá Nghin, Tỉnh trưởng
kiem Tiểu khu trưởng Quảng Đức để thuyết trinh về tinh hinh quận Đức
Lập len Tướng Phú va phái đoan. Nhin tren bản đồ hanh quân, sau mấy câu
mở đầu chiếu lệ, Đại tá Nghin ngậm ngui:
- Cộng quân đa pháo kích và tấn công vào quận Đức Lập vào lúc 5 giờ
sáng, rất nặng va thiệt hại đáng kể. Bộ chỉ huy Chi khu đa trúng nhiều
đạn pháo binh 130 ly, nên Chi khu trưởng đa đưa Bộ chỉ huy Chi khu rời
khỏi quận va hiện giờ vẫn con đang chiến đấu...
(Sau này, tôi được gặp lại Trung tá Nguyễn Cao Vực, Quận trưởng Đức Lập
tại trại tu Vĩnh Phú, Tân Lập. Trung tá Vực đa kể cho tôi biết trận đánh
vào Chi khu như sau: Khi tấn công vào Chi khu, VC đã dung pháo binh 130
ly và SKZ 82 ly — súng không giựt 82 ly — bắn vào Chi khu và Chi đoàn
Chiến xạ Với đạn SKZ 82 ly bắn trực xạ, địch đa lam te liệt các chiến xa
của ta, nen không con được xử dụng ngay từ phút đầụ Chi khu cầm cự cho
đến sáng, khi mặt trời bắt đầu len thi thất thủ)
Sau đó Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 BB, kiêm Tư lệnh Mạt
trận Ban Mê Thuột, lên trinh bày kế hoạch phong thủ của Trung đoàn 53 BB
do Trung tá Vo Văn Ân làm Trung đoàn trưởng. Nói là Trung đoàn, nhưng
cấp số chỉ con Bộ chỉ huy Trung đoàn và một Tiểu đoàn ma thôi, cộng them
một Trung đội Pháo binh 105 ly để lam lực lượng tiếp ứng cho Darlac va
Quảng Đức khi bị tấn công
Đại tá Quang trình bày kế tiếp về kế hoạch phong thủ của thị xã Ban Mê
Thuột. Thị xa Ban Mê Thuột được phong thủ với tất cả các đơn vị trú đóng
như sau:
- Phía Bắc có Trung tâm Huấn luyện Sư đoàn 23 BB
- Phía Nam có Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 BB
- Phía Đông có Bộ chỉ huy Chi khu Ban Mê Thuột
- Phiá Tây, vùng nguy hiểm nhất, có hậu cứ của Thiết đoàn 3 Thiết giáp va Kho đạn Mai Hắc Đế.
- Trừ bị cho thị trấn Ban Mê Thuột là Trung đoàn 53 trừ bị, đóng tại phi trường Phụng Dực
Nghe xong phần trình bày của Đại tá Vũ Thế Quang, Tướng Phú có vẻ hài
lòng và không chê trách cũng như cho những chỉ thị đặc biệt. Lúc bấy giờ
đa quá trưa, tôi cho dọn cơm ra mời Tướng Phú, Tướng Tường, Đại tá
Nghin cùng phái đoan ăn tại chỗ. Đây la bữa cơm rất dạm bạc. Tất cả đều
dung cơm đĩa, uống nước ngọt hay biạ Tướng Phú ăn rất nhanh để con kịp
trở về Pleiku theo doi tinh hinh chung của Quân đoan 2. Tôi cũng không
ngờ, đây la bữa ăn cuối cung giữa tôi va Tướng Phú, cấp chỉ huy trực
tiếp của tôị
Ăn xong, chính tôi đích thân đưa tiễn Tướng Phú ra phi trường Phụng Dực
để về Pleikụ Khi bắt tay tạm biệt, Tương Phú đa vỗ vai tôi nhỏ nhẹ:”Chú
mầy cẩn thận coi chừng chúng nó đánh nghe”. Đây chỉ là câu nói thông
thường ma cuộc đời binh nghiệp đa dạy cho tôi, nghĩa la hầu hết các cấp
chỉ huy đi thăm các đồn bót, hay đơn vị tiếp giáp với địch đều dặn do
với thuộc cấp của minh bằng câu nói tren. Nói khác hơn, không có tính
cách khẩn cấp, nguy ngập. Nếu nghiem trọng, các cấp chỉ huy sẽ chỉ thị
một cách tỉ mỉ hơn nhiều
Khi về đến Ban Mê Thuột tôi lại phải đến nha Tướng Tường để đưa Tướng
nay về Pleiku bằng trực thăng. Bước vào nhà tôi thấy Tướng Tường đang
nói chuyện với gia đinh va sau đó ông ra phi trường L19 cũng là phi
trường trực thăng. Trong lúc chờ đợi phi công trực thăng đến, có ông
Paul Struharick, la đại diện cho Tổng lanh sựMyẠ tại Nha Trang đến hỏi
Tướng Tường về tinh hinh VC xung quanh Ban Me Thuột ra saọ Tướng Tường
cười hí hí, có vẻ tự tin tự đắc, cầm cây gậy tướng đánh vao mông đít
minh bộp bộp, rồi trả lời bằng tiếng Anh:”Don't worry about that”. Ông
Paul cụt hứng nen không hỏi them va Tướng Tường cũng len trực thăng bay
về Pleikụ
Việc đầu tien trở về Bộ chỉ huy Tiểu khu là tôi triệu tập ngay Bộ tham
mưu, các đơn vị trưởng quân đội tại thị xa và các ty sở thuộc Toa hanh
chánh cũng như các Ty trưởng chuyen môn. Tôi trinh bay tinh hinh quân
sự. Quận Thuần Mẫn đa bị mất. Quốc lộ 14 nối liền Pleiku - Ban Me Thuột
đa bị cắt. Quốc lộ 21 từ Ban Me Thuột - Nha Trang qua quận Khánh Dương
đa gián đoạn va sáng nay quận Đức Lập đa bị CS tấn chiếm, va như vậy
Quốc lộ từ Quảng Đức - Ban Me Thuột coi như không xử dụng được nữạ Không
cần phải la nha quân sự, mọi người cũng đủ hiểu, Mặt trận Ban Me Thuột
coi như bị bao vây tứ phía, va cần đặt câu hỏi về sự kiện hoạt dộng quân
sự của địch va thấy ro ý đồ của địch. Rieng phía Tây thị xa con dồn Ban
Đon, cách xa Ban Me Thuột khoảng 40 km
Cuối cùng việc cấm trại 100% từ quân nhân đến công chức là điều bắt buộc
trong thời gian nghiêm trọng nay và tôi ra lệnh:”Sẵn sang ứng chiến!”
Để tăng cường cho Ban Mê Thuột, tôi quyết định nhanh chóng rút ngay Tiểu
đoàn 204 Địa phương quân đang đóng tại Ban Don về thị xa. Việc di
chuyển nay không phải là dễ dang vi phải trưng dụng hết tất cả các xe
GMC của các đơn vị đóng tại Ban Me Thuột mới đủ chuyen chở cả một Tiểu
đoan. Trước khi trở về tư dinh, tôi đa cẩn thận đi quan sát tất cả những
yếu điểm phong thủ của thị xa va cho họ những chỉ thị cần thiết. Có một
điều tôi hơi an tâm một chút la các đơn vị như Địa phương quân, Nghĩa
quân, Cảnh sát va Nhân dân tự vệ đều thi hanh nghiem chỉnh lệnh cắm trại
100% va báo động
Chẳng cần tắm rửa và du người nha đa dọn cơm sẵn, tôi vẫn đi thẳng vào
nơi làm việc của tôi với bản đồ hanh quân. Tôi như muốn suy nghĩ về tình
hình và ý đồ của địch. Du cấp nhỏ, nhưng tôi vẫn cố gắng phân tích theo
nhan quan của tôi để mình con nước con tát trong việc giữ Ban Me Thuột,
vung trách nhiệm của minh bằng mọi giá. Nhin qua những mũi ten va những
đơn vị của Cộng quân, theo như bản phối trí của Quân đoan: các Sư đoan
320, F10, 316 của Cộng quân vẫn con ở phía Tay Pleiku va Kontum. Những
tin tức các sư đoan nay đa về Ban Me Thuột vẫn chưa được Quân đoan xác
nhận, vẫn con phải theo doi va kiểm chứng, nói theo Phong 2 của Quân
đoan
Tôi đa tiên đoán, Ban Mê Thuột sẽ là nơi thử lửa đầu tiên cho việc tiến
chiếm miền Nam. Bằng chứng là VC đa chặt tay chân của Ban Me Thuột rồi
bằng cách nhổ 2 cứ điểm Thuần Mẫn và Đức Lập, Khánh Dương coi như đứt
đoạn. Vì vậy, tôi đa nhiều lần xin Tướng Phú tăng cường quân chính qui
bằng cách đưa Trung đoan 45 BB về phong thủ Ban Me Thuột
Với nhiều lần xin quân viện, mai đến ngay 4/3/75, Tướng Phú mới bằng
lòng cho Trung đoaàn về Ban Mê Thuột. Lệnh di chuyển đa được ban hành. 2
giờ chiều cùng ngày, toàn thể đơn vị thuộc Trung đoàn 45 đa ngồi len xe
GMC để chờ lệnh Tướng Tường la xe chuyển bánh. Không ngờ vừa lúc đó,
pháo kích của Cộng quân rót vao thị xa Pleiku, cũng Bộ Tư lịnh Quân đoan
2. Tướng Phú đang ở Nha Trang được báo cáo của Tham mưu trưởng Quân
đoan 2 về việc pháo kích nay, đa không ngần ngại hét vao máy:”Tôi ra
lệnh cho Trung đoan 45 BB không di chuyển về Ban Me Thuột nữa, ở lại
Pleiku vi Mặt trận Pleiku đa bung nổ rồi”
Qua ngày hôm sau, tức ngày 5/3/96, Chi khu Thuần Mẫn thuộc tỉnh Phú Bổn,
nằm ngay Quốc lộ 14, lại bị Cộng quân đánh chiếm. Sự kiện này càng củng
cố ước đoán của Tướng Phú:”CS sẽ tấn công Pleiku” là đúng
Cho dù ngày 7/3/95, chi khu Khánh Dương thuộc tỉnh Khánh Hoà nằm trên
trục lộ Ban Mê Thuột - Nha Trang bị mất ma Tướng Phú vẫn chưa nghĩ đến
việc CS sẽ tấn chiếm Ban Mê Thuột. Rồi đến sáng ngay 9/3/75, Tỉnh Quảng
Đức đa báo cáo cung Tướng Phú về tinh hinh rất bi đát của Quảng Đức, các
chi khu đang giao tranh với cấp số đáng kể của Cộng quân. Tôi như người
có miệng phải câm, nhin đồi núi chập chung của Cao nguyen ma long héo
hắt. Vận mệnh của cả đất nước đang bị cấp chỉ huy lượng giá sai va chiến
thắng sẽ đến của CS chỉ la may mắn
Tôi phải đương đầu với thử thách này đến bao giờ??? Nghĩ đến câu dặn do
của Tướng Phú để dối long:”Hay coi chừng tụi nó đánh nghe”, như một câu
nói thôn thường. Rồi “Don't worry about that” của Tướng Tường nói một
cách kieu hanh với ông Paul. Cộng them lời tường trinh của Trung tá
Trưởng Phong 2 Quân đoan: Cộng quân vẫn con luẩn quẩn tại Pleiku,
Kontum, kể cả những đơn vị thiết giáp, lam tôi cũng bớt lo âu phần naọ
Va tự an ủi minh, nếu Cộng quân có tiến chiếm Ban Me Thuột, minh con cầm
cự được đôi ba ngaỵ Khó khăn lắm tôi mới chợp mắt qua đem, với những lo
âu...
TRẬN ĐÁNH MỞ MAN: Ngày 10/3/75
Khoảng 2 giờ sáng, khi Ban Mê Thuột con đang trong giấc điệp, bỗng bị
đánh thức dậy bằng tiếng pháo kích inh tai, rợn óc của Cộng quân. Tôi
rất binh tĩnh vi đa nếm mui hỏa tiễn của Cộng quân ở những trận đánh
trước Tết Mậu Thân tại Kontum, tại Quảng Ngai, Đa Nẵng va cả trận đánh
Hạ Lao, v.v... Từ lầu hai tôi chạy xuống hầm chỉ huy ma những vị Tiểu
khu trưởng tiền nhiệm đa xây cất. Đây la một hầm rất kie cố, lam bằng be
tông cốt sắt, có thể chống được pháo kích. Trong hầm trang bị đầy đủ
máy móc truyền tin để lien lạc tới các đơn vị trực thuộc cũng như lien
lạc với cấp tren, hay cấp trung ương rất dễ dang. Tôi lien lạc ngay với
Thiếu tá Hy, Trưởng Phong 3 Tiểu khu dưới hầm TOC của Tiểu khu:
- Pháo kích từ hướng naỏ
- Dạ thưa, Cộng quân bắn từ phía Tây tớị
- Bắn vao vị trí naỏ
- Trinh Đại tá, bắn vào Bộ chỉ huy Tiểu khu, Đai truyền tin ở sân bay L19, Bộ tư lệnh Sư đoan 23 BB va Kho đạn Mai Hắc Đế.
- Anh hay gọi ngay Pháo binh của mình cũng như Pháo binh Sư đoàn 23 BB tai Phụng Dực phản pháọ
Tiếng pháo kích vang rền thị xa Ban Mê Thuột cho đến 4 giờ sáng. Chúng
dung chiến thật tiền pháo hậu xung va tấn chiếm kho đạn Mai Hắc Đế ở
phía Tây, bằng mũi dui thật manh liệt. Đơn vị đồn trú đa chống trả một
cách anh dũng va kho đạn vẫn vững vang. Về phía Bắc, Đai Truyền tin của
Không quân cũng bị tấn công...
Với chiến thuật biển người (Human Wave) va đánh sát lá cà, chỉ cần nửa
tiếng đồng hồ sau, Cộng quân đa tiến tới sát miệng hầm và dung lựu đạn
tung vao miệng hầm. Một số sĩ quan va binh sĩ ta bị tử thương va bị
thương. Và chỉ 15 phút sau, TOC đa báo cáo với tôi, Đai Truyền tin đa
lọt vao tay giặc. Về phía trại Mai Hắc Đế, với những tay súng can trường
ta da bẻ gẫy nhiều đợt tấn công của Cộng quân. Khoảng 5 giờ sáng,
TOC/TK báo cáo Đại úy Chỉ huy trưởng bị thương nặng. Kho đạn như rắn mất
đầu va chỉ cầm cự đến 5 giờ 30 thi kho đạn bị tran ngập. Như vậy mặt
trận về phía Bắc va Tây đa bỏ ngo, bây giờ chỉ con trông chờ vao những
đơn vị phía Nam va Đông.
Đạn pháo kích 130 ly vẫn rót đều vào thị xa. Lý do dễ hiểu la pháo binh
của ta tại phi trường Phụng Dực phản pháo với đạn 105 ly đâu có tầm xa
như đạn 130 ly của CS, đang đặt tuốt phía Tâỵ Vi vậy sự phản pháo trở
nen vô vọng, không thể khóa họng những khẩu đại pháo của địch. Nhất la
pháo binh của ta không có L19 hướng dẫn, chỉ điểm, điều chỉnh chính xác.
Đến 7 giờ sáng, địch ngưng pháo kích và cũng ngay lúc nay Thiếu tá Trưởng ty Cảnh sát Darlac báo cáo thẳng với tôi:
- Thưa Đại tá, chiến xa CS đa tiến vào thị xa va hiện đang bố trí xung
quanh nha thờ thị xa. (Cũng nen ghi nhận là nhà thờ Công giáo này nằm ở
trung tâm thanh phố).
Lúc bấy giờ, vi Tiểu khu nằm dưới hệ thống chỉ huy của Sư đoan 23 BB va
để tiện phối hợp, ban bạc kế hoạch chóng trả nhanh chóng. Tôi liề báo
cáo va xin Tướng Phú được qua chung với Đại tá Vũ Thế Quang, tại Trung
tâm Hành quân Sư đoan 23 BB. Tướng Phú chấp thuận.
Mối lo ngại lớn lao của Đại tá Quang và tôi là chiến xa CS đa lọt vao
giữa thị xa. Với kinh nghiệm của một sĩ quan kỵ binh tôi hiểu rất ro hỏa
lực tấn công của những con ngựa sắt naỵ
Tia hy vọng tới, khi trên bầu trời Ban Mê Thuột, đa xuất hiện L19 của
Quân đoàn 2 gởi tớị Những chiếc phản lực cơ chiến đấu đa vần vũ trong
vung giao tranh để yểm trợ cho Tiểu khu Darlac va Sư đoàn 23 BB. Tinh
thần chiến đấu của quân cán chính len rất caọ Những đoan chiến xa CS từ
hướgn Bắc tiến về phía Nam đa bị các đơn vị Điạ phương quân của Tiểu khu
đánh chặn lạị Sư tiến quân của CS rất chậm chạp.
9 giờ tin vui đem tớị Ta hạ được 2 chiến xa T54 địch và đang bốc cháy
trước Câu lạc bộ Sĩ quan trên đường Thống Nhất. Sự chênh lệch về lực
lượng ta va địch quá ro. Địa phương quân phải so tai với quân chính qui
Bắc Việt, với sự yểm trợ chiến xa va pháo binh. Con ben ta, đội pháo
binh tại Phụng Dực, cũng như phi pháo không thể yểm trợ vi dân chúng
chưa được di tản. Cộng them, hỏa lực phong không của địch rất day đặc,
lam phản lực cơ A37 của ta cũng không thể xuống thấp để thả bom cho
chính xác được.
12 giờ 45, Thiếu tá Hy, Trưởng phòng 3 Tiểu khu báo cáo: BCH/TK đa bị
pháo kích nặng nề. Một trái đa đánh trúng hầm TOC/TK lam nhiều người
chết và bị thương. Trong số đó có Trung úy Năm, Trưởng phong 5/TK đa đền
nợ nước. Hệ thống va máy truyền tin chỉ huy bị hư hại nặng. Thiếu tá Hy
xin phép được di chuyển Bộ Tham mưu ra khỏi vị trí. Tôi chấp nhận ngaỵ
13 giờ 30, Thiếu tá Hy báo cáo, địch quân đa tập trung pháo binh bắn vào
Bộ Chỉ huy, sau đó chiến xa va bộ binh đang tran ngập vao hệ thống
phong thủ.
14:00 giờ, BCH/TK coi như thất thủ hoàn toàn. Tôi liền báo cáo cho Tướng
Phú. Tướng Phú ra lệnh cho trực thăng vận Liên đoàn 21 Biệt động quân
xuống Ban Me Thuột để tái chiếm BCH/TK.
Mai đến 16 giờ chiều, tôi mới nhận tin của Quân đoàn 2 rằng Liên đoàn
21/BDQ đang được trực thăng vận xuống Ban Me Thuột để chiếm lại BCH/TK.
17:00 giờ, đoàn trực thăng đa đến gần thị xa nhưng không đáp xuống được
vì phong không CS bắn quá rát. Đến mai 18 giờ, Quân đoan 2 mới quyết
định cho thả Lien đoan 21 BDQ xuống BCH/Chi khu Buôn Hô rồi đi bộ tiến
vao thị xa Ban Me Thuột. Tôi lien lạc với Trung tá Dậu, Chỉ huy trưởng
Lien đoan 21 BDQ, hối thúc Trung tá Dậu phải cho tiến quân nhanh vao thị
xa để tái chiếm lại BCH/TK. Mai đến 11 giờ khuya, Trung tá Dậu cho biết
rằng đa tới ven thị xa Ban Me Thuột ma không tiến vao được vi bị VC
chặn đánh.
Tướng Phú ra lệnh cho Trung tá Dậu, với bất cứ giá nào đêm nay Liên đoàn BDQ phải tái chiếm BCH/TK.
Sau khi CS chiếm được BCH/TK/DL xong là tiếng súng pháo binh cũng như súng trường đều được im lặng khắp mọi nơị
Tôi báo cáo len Tướng Phú kết quả trong ngày là Tiểu khu bắn cháy 7
chiến xa T54 CS và rất nhiều xác VC. Tướgn Phú rất vui khen ngợi TK/DL
(Darlac).
Tôi theo doi cuộc tiến quân của Liên đoàn 21 BDQ từng phút, cứ 15-20
phút là tôi liên lạc với Trung tá Dậu hỏi coi đa tiến tới đâu rồị Vẫn
những câu trả lời ngắn gọn:”Đang tiến nhưng gặp nhiều ổ kháng cự. Ở
trong hầm TOC/SD/23 BB suốt đem, tôi va Đại tá Vũ Thế Quang không nghe
một tiếng súng nổ nao của bạn va địch cả.
Tôi ra lệnh cho ông Phó Tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Vỵ và Trung úy Dzi hiện
là tuỳ viên của tôi, nhưng trước la sĩ quan Chiến tranh Chánh trị của
Tiểu khu, viết bài keu gọi dân chúng yên tâm, ngay mai Quân đoan 2 sẽ
chiếm lại Bộ Chỉ huy Tiểu khu .
Tôi đọc ghi vao băng và phát ra cho dân trong thị xa Ban Mê Thuột nghe lúc 1 giờ sáng ngày 11/3/75.
Trong đem, Phòng 3 Bộ Tổng tham mưu liên lạc với tôi bằng điện thoại
nhiều lần, hỏi về tiAh hinh thị xa như thế naọ Tôi báo cáo: BCH/TK đa
mất, Kho đạn Mai Hắc Đế, phi trường L19 đa bị CS chiếm từ sáng. Tôi va
Đại tá Quang đang ở BTL/SD cố thủ, chờ quân viện của Quân đoan 2. Tinh
thần anh em sĩ quan va binh sĩ rất cao, không có gi nao núng.
Lực lượng trừ bị của Tiểu khu là Trung đoàn 53 với 1 Tiểu đoàn và 1
Trung đội pháo binh cũng bị CS tấn công từ sáng nên không thể tiếp cứu,
giúp đỡ gi được. cho Tiểu khu Darlac.
Tôi chờ đợi Liên đoàn 21 BDQ tiến vào thị xa, 2 giờ sáng ngày 11/3, rồi 3
giờ, rồi 4 giờ cho đến hừng sáng Liên đoàn 21 BDQ cũng không tiến vào
được.
Đúng 7 giờ sáng ngày 11/3/75, CS Bắc Việt bắt đầu na pháo binh vào Bộ Tư
lịnh Sư đoan 23, chiếc xe Jeep của tôi đậu gần TOC cũng bị trúng pháo
nổ tung rạ Tôi đoán chắc rằng CSBV đang cho pháo binh bắn vao vị trí
BTL/SD 23 để chuẩn bị tấn công. Tôi nói với Đại tá Vũ Thế Quang, lúc nay
la lúc nguy ngập, sắp cận chiến, nếu không có cấp chỉ huy đứng ben cạnh
binh sĩ để chỉ huy, thi binh sĩ sẽ bỏ chạy khi địch quân xung phong.
Đại tá Quang đồng ý. Tôi nói với Đại tá Quang — Vi ở trước cổng BTL/SD
(Bộ Tư lịnh Sư đoan) có 1 chiếc M113, nen để tôi trấn giữ mặt đó, con
Đại tá Quang thi trấn giữ phía Tây Nam.
Lúc nay khoảng 7 giờ 30 sáng. Tôi liền đi thẳng ra cửa BTL/SĐ đến chiếc
thiết quân vận M113 đang bố trí tại cổng, dưới các loạt pháo kích 130 ly
của CSBV gây nên một vùng khói lửa mịt mu.
Tôi nhảy len chiếc thiết quân vận để quan sát thi thấy ngay ngoài cổng
BTL khoảng cách độ 300 m đầy chiến xa T54 đa bao xung quang BTL. Đồng
thời trong lúc nay, Trung úy Hoành đặc trách phong thủ dinh Tỉnh trưởng
với 1 Trung đội Địa phương quân, báo cáo tư dinh, đang bị chiến xa tấn
công va bắn trực xạ vao lầu tư dinh, đa bị sụp đổ. Trung đội phong thủ
đa hạ được 2 chiến xa địch ngay trước cổng dinh bằng súng M72. Tôi hết
sức động vien khen ngợi Trung úy Hoanh cố gắng chống cự.
Tôi cũng biết CS tấn công xong tư dinh là tấn công BTL SĐ 23.
Các chiến xa T54 đậu xung quanh BTL ngạo nghễ coi thường đối phương,
không cần phải ẩn núp, ngụy trang chi cả, vi chúng nó biết bên ta không
có một chiến xa nào cả để đương đầu, có thể tiêu diệt chiến xa của
chúng.
Trung úy Hoành báo cáo chiến xa CS đa ủi sập cổng tư dinh và tấn công
vào phía trước. Trung úy Hoanh báo cáo vi có một số tử thương cung bị
thương, không thể chống giữ với đợt tấn công bằng chiến xa của địch, nên
binh sĩ rất nao núng va xin phép được rút ra khỏi tư dinh.
Tôi chấp thuận
(Trong khi chiến xa CS tấn công bắn trực xạ đại bác của chiến xa vào lầu
của tư dinh, 3 đứa con trai của tôi vẫn con ở trên lầu, có một đứa con
trai út bị sức ép của vien đạn đại bác nổ ra, nó bị hơi đẩy té từ lầu,
lăn xuống thang, rớt xuống đất bị thương ở ngực va chân).
Trung úy Hoành hướng dẫn Trung đội Điạ phương quân con lại thoát ra
ngoaị Con 3 dứa con trai của tôi thi được toán phục dịch trong nhà dẫn
theo Trung độị
Tôi biết, sau khi thanh toán tư dinh, thì bọn CS sẽ cho lệnh xung phong vào BTL/SĐ 23.
Giờ phút nguy ngập sắp đến, tôi sợ binh sĩ bỏ chạy, liền nhảy xuống M113
đi một vong theo hang rao phong thủ để kiểm soát binh sĩ và nhất là với
mục đích cho binh sĩ thấy mặt cấp chỉ huy của minh, cung trực tiếp tham
dự vào trận đánh, nên không dám bỏ chạỵ Tôi nói với binh sĩ hay can đảm
chống giữ BTL vi lực lượng của Quân đoan 2 sắp tớị Kiểm soát va ra lệnh
xong, tôi liền nhanh chân trở lại chiếc M113 va nhảy phóc len tren,
quan sát lại thi thấy các chiến xa T54 vẫn con ở vị trí cũ.
Những giây phút cuối cung của Bộ Tư lệnh SĐ 23 BB
Khoảng 10 giờ sáng, tiếng pháo địch im tiếng. Nếu ai đa ở trong binh
nghiệp thi đều hiểu ro tâm trạng của những phút giây im lặng naỵ Nó
hoang mang va lo sợ hơn nhiều khi bên tai minh có tiếng súng nổ. Người
ta cho là say súng. Mà thật vậy, khi đa lam quen với chiến trận, việc
nghe thấy tiếng nổ lam mọi người quen chính minh va chỉ con một cách duy
nhất la chiến đấụ Chiến đấu để sống con va ít ai con để ý đến thần chết
đang lảng vảng quanh minh. Tôi lại nhảy len pháo tháp quan sát va thấy
những chiếc xe đang chuyển bánh. Tôi nhảy vội xuống va la lớn:”Sẵn sang
ứng chiến!”. Tôi dứng cạnh trưởng xa va căn dặn chỉ được bắn khi chúng
tới gần 100 m nhé. Các anh em đều răm rắp tuân lệnh theo va chờ đợi khúc
phim nghẹt thở bắt đầụ
Chiến xa địch đầu chầm chậm tiến thẳng vào chiết vận xa M113. May ma
ngụy trang khéo léo nen chúng không thấỵ Tôi mừng quá va nói thầm trong
bụng:”May sẽ chết con ạ”... Khói đen từ ống thoát phun ra mu mịt, chiến
xa T54 địch, chiếc đầu chầm chậm tiến vaọ Chúng vẫn chưa biết có chiếc
M113 đang chờ đón nó vao cửa tử, vi được ngụy trang kỹ cang như đa nói
tren.
Tiếng máy keu ầm và các chiến xa đâm thẳng vào cổng Bộ Tư lệnh. Những
con cua sắt i ạch tiến gần cổng 250m, rồi 200m, rồi 100m. Thần kinh tôi
như gian rạ Tất cả anh em chúng tôi hồi hộp, giờ sinh tử bắt đầụ Tôi hét
lớn “Bắn!”. Thay vi chúng tôi phải nghe tiếng nổ thật lớn của vien đạn
vút ra khỏi nong súng, thi trái lại cây súng chỉ cho chúng tôi một tiếng
khô khan, lang xẹc:”Cóc!”.
Trong khi mắt mọi người và tôi dán chặt vào những con cua sắt. Tôi gào lên:
- Gi thế! Gi thế!
Xạ thủ trả lời:
- Trở ngại tác xạ, Đại tá!
- Mở “culasse” ra xem?
- Trinh Đại tá, “Percuteur” bị gẫy!
- Có “Percuteur” thay thế không?
- Thưa... không!
Tiếng “thưa không” làm tôi toát mồ hôi, vi đây là hy vọng cuối cung cho
sự cầm cự với Cộng quân để chờ viện binh tớị Cây súng đại bác 106 ly
không giựt này là phương tiện duy nhất chống trả với T54 của địch mà
thôị Các loại súng khác chỉ la tro đua với những con cua sắt naỵ
Bây giờ tiêu diệt chiến xa địch bằng phương tiện gi đâỷ Tôi biết tôi
phải rất binh tĩnh mới cứu được anh em và chính minh. A phải rồi, chúng
ta còn oanh tạc cơ đang bay lượn trên không. Những chiếc phản lực cơ A37
sẽ xơi tái chúng một cách dễ dang. Cũng nen biết từ ngay hôm qua cho
đến sáng nay, phi cơ của ta chỉ có thể thả bom ở các mục tieu xa ở ngoai
thị xa.
Trong thị xa còn 50,000 thường dân chưa được di tản, vi vậy tôi đa
trinh với Tướng Phú về việc nay và ông đa chấp nhận không oanh tạc vao
khu đông dân cự Cũng cần ghi nhận, từ trước tới giờ, chưa bao giờ thị xa
bị pháo kich của CS hoặc tấn công nen không gia đinh nao có hầm trú
ẩn...
br>
Nay thì chiến xa địch đa lọt vào thị xa thì các oanh tạc cơ cũng không
có cơ hội nhao xuống thấp để đánh trúng mục tiêu vì phong không của Cộng
quân quá mạnh. Cứ mỗi lần máy bay quan sát L19 hay oanh tạc cơ bay thấp
một chút là phòng không địch đa bắn len trời như cảnh đốt pháo bông
trong ngay Quốc Khánh.
Tôi liên lạc ngay với L19 và nói chấp nhận sự nguy hiểm để dung phản lực
cơ dội bom thẳng vào các chiến xa đang tiến vào Bộ Tư Lịnh Sư đoàn 23
BB, và như vậy mới chặn đứng cuộc xung phong của CS. Trong lúc chờ đợi
phi cơ lam thịt mấy con “cua sắt”, tôi đi lui đi tới kế cận các chiến sĩ
đang ghi tay súng chống trả lại địch quân. .
Thình lình, mọi người nghe một tiếng nổ “ầm” thật khủng khiếp vang dội
cả một góc trờị Cát, đá, bụi tung len cao cả hang trăm thước. Thôi hỡi
ơi! Trung tâm Hành quân Sư đoan (TOC), nơi đầu nào Mặt trận Ban Me Thuột
để chống lại địch quân đa bị Không quân ta đánh trúng. .
TOC bị sập và các phương tiện truyền tin thiết trí trong đó đều tieu
tung theo mây khóị Một số lớn sĩ quan, binh sĩ ở trong TOC bị chết và bị
thương. Ai cũng biết, trong trận mạc, truyền tin là huyết mạch chính.
Bây giờ không còn để lien lạc với cấp tren va thông tin cho cấp dưới nữạ
Không một chút suy nghĩ, tôi chạy về phía sau TOC để ban với Đại tá
Quang. Tôi nói nhanh với Đại tá Quang nhận định của tôi:
- Chúng ta không thể cố thủ được nữa vi đầu nao của chúng ta la Trung
tâm hanh quân nay đa sụp đổ. Không có truyền tin, không có chiến xa lam
sao chận đứng những chiến xa T54 và bộ binh CS đang tiến vào căn cứ.
Trong khi đó chúng ta không có viện binh. Tồi đề nghị chúng ta rút ra
khỏi vị trí phong thủ BTL Sư đoan ngay để bảo toan lưc lượng con lại .
Đại tá Quang đồng ý và ra lịnh rút quân. Chúng tôi vọt ra khỏi hang rào
va hướng về phía Tây tức là “Suối Ba Hoàng” - cách BTL Sư đoan 250m.
Cũng may mua nay là mua khô nên suối cạn. Đáy suối lại thấp hơn mặt đất
tới 15m nen rất dễ cho việc ẩn nấp. Anh em binh sĩ đi theo rất đông,
chừng 100 ngườị Xa xa tiếng phát thanh tuyen truyền của địch quân gần
Chua Phật giáo của Tỉnh hội Phật giáo Ban Mê Thuột kêu gọi các binh sĩ
ta đầu hàng.
Chúng tôi tiếp tục di chuyển về phía Tâỵ Nhin anh em binh sĩ, súng tren
vai va lầm lũi theo minh. Đến giờ phút nay tôi mới thấy tinh chiến hữu
bên nhau thắm thiết. Lòng tôi bỗng chung xuông. Không có bút nào tả cho
hết nỗi nhọc nhằn, buồn tủi của chúng tôi khi phải xa lià BLT Sư đoàn,
tượng trưng cho sự thách đố với địch quân. Tôi không dám ngoảnh mặt nhin
lại một lần cuối vi sợ không biết chính minh có đủ can đảm để không nhỏ
nước mắt cho số phận hẩm hiu, xui xẻo cho Ban Me Thuột, cho anh em binh
sĩ, cho chính mình không? Đừng oanh tạc lầm, thì bây giờ minh đâu đến
nỗi trở thanh kẻ chạy trốn như thế naỵ Ôi Ban Mê Thuột, xin tạm biệt mi
va hứa sẽ trở về ben mi suốt đời...
Hinh ảnh lê thê lếch thếch của đoàn quân ô hợp, như những khúc phim tren
màn bạc cho trận thế chiến II - trận Dunkerque năm 1940, mà lực lượng
đồng minh phải bỏ thanh phố vi bị Đức tran ngập. Lúc đó ho con thiết
giáp, nhưng thiết giáp của Đức tối tân hơn nen phải ra hàng. Họ chạy đến
bờ biển va đa kiếm bất cứ phương tiện nao như du thuyền, canô hay thung
phao để thoát.
Con tôi bây giờ còn gi đâỵ Sinh ra làm lính thiết giáp ma bây giờ di
chuyển như lính bộ binh. Tôi cũng không biết minh là ai bây giờ. Minh là
cấp chỉ huy hay chỉ la một binh sĩ tầm thường? Lo cho anh em ra sao đây
va chính minh sẽ ra sao đâỷ Trong những giây phút cuối cung của đời
binh nghiệp, chết hay sống là chuyện binh thường. Lúc vao lính, tôi đa
có lúc nghĩ đến lúc minh lam thân chiến bại hay một vien đạn xuyen vao
lồng ngực. Nhưng không ngờ trong cảnh huống nay nó lại sầu đau chất ngất
như lúc này, tủi nhục như bây giờ? Tôi chưa dám nghĩ quẩn vi ben cạnh
minh còn anh em đang trông chờ nơi minh. Chỉ một phút sai lầm, sẽ đem
anh em và minh xuống hố sâu vực thẩm. Tôi chỉ ban với Đại tá Quang. Minh
phải phân tán mỏng để tránh sư phát giác của địch quân.
Tôi đề nghị:”Toa” đi về một phía, “moa” một phía va cố gắng tìm về Nha
Trang nhé. Đại tá Quang gật đầu va chọn ngay cho minh một quyết định. Vị
Tư lịnh chiến trường Ban Mê Thuột nói với tôi:”Moa sẽ đi về hướng Nam,
đến gần cầu khoảng cách 14km là tim đường về Nha Trang”. Con tôi không
con chọn lựa nao khác hơn la đi về hướng Tây, nằm về khu ca phe của
Trung tướng Hoang va chờ trời tối sẽ bọc lên phía Bắc Ban Me Thuột va từ
đó tim về Nha Trang. Thật là đau thương, khi lam việc có nhau, và giữa
phút nghiem trọng nay chúng tôi cần có nhau hơn. Nhưng hoan cảnh lại
không cho phép như vậỵ Đanh chia tay nhau và may ra con cứu được lấy
định mệnh riêng của mình.
Trước khi chia tay, chúng tôi bên tập trung anh em binh sĩ lại và tôi
tuyên bố:
- Tôi xin thay mặt cho chính phủ và quân đội tuyen dương công trạng của
anh em - những chiến sĩ anh hùng, can trường đa chống trả manh liệt với
bọn CS xâm lược miền Nam với một tinh thần hy sinh cao độ. Từ 2 giờ sáng
ngay hôm qua cho đến cho đến giờ nay các anh em đa làm tron nhiệm vụ mà
đất nước giao phó cho du địch quân có đông gấp mười chúng tạ 2 quả bom
rơi nhầm vào Trung tâm Hành quân đa đưa chúng ta tới nông nỗi naỵ Bây
giờ anh em phân tán mỏng đừng dể địch quân phát giác và tim cách trở về
Nha Trang. Hy vọng lúc đó chúng ta sẽ tập họp lại để tiếp tục chiến
đấu... Toàn dân ghi công anh em. Tổ quốc VN ghi công anh em. Xin tạm
biệt.
Với nét buồn vô tận, anh em đa nghe tôi nói như lời biệt ly sầu thảm.
Nhiều anh em đa bật khóc, khiến tôi không dám nhin thẳng vao mặt họ và
lặng lẽ giơ tay chao anh em. Nhin anh em binh sĩ, Đại tá Quang và tôi
còn nguyên vẹn bộ đồ tác chiến, giây ba chạc, áo giáp, nót sắt. Nhìn
chiếc hoa mai bạc trên ngực Đại tá Quang, tôi đề nghị nên dấu nó đi để
dễ bề ngụy trang trong khi di chuyển. Chúng tôi chia tay nhau mà ai cũng
như muốn khóc. Đi theo con suối Ba Hoang ma long tôi như bị cắt từng
đoạn ruột, chúng tôi len lỏi qua các bụi lau sậy, những tảng đá lớn va
những nha choi ma người dân cất lam chỗ tạm thời che nắng đụt mưa khi
làm việc cả ngay ngoai đồng áng. Đi khoảng 100m tôi ngó lại vẫn con
chừng 20 người theo tôị Trong đó có ông Phó Tỉnh trưởng Ban Me Thuột,
Nguyễn Ngọc Vy, một người kỳ cựu của vùng Darlac và nhất la thị xã Ban
Mê Thuột.
Tôi liền hỏi ông Vy:
- Anh có biết dồn điền ca phe của Trung tướng Thái Quang Hoàng ở đâu không?
Ông Vy chỉ tay về hướng đằng trước mặt:
- Thưa Đại tá tôi biết. Xin Đại tá cứ tiếp tục đi về phía Tây la sẽ tới .
- Vậy khi nào đi ngang qua anh cho biết nhé. Chúng ta sẽ vao đó ẩn núp
cho đến tốị Lợi dụng bóng đem chúng ta sẽ bọc về phía Bắc rồi tim đường
về Nha Trang.
Ông Vy gật đầu và chúng tôi âm thầm tiếp tục di chuyển. Việc tôi chọn
đồn điền của Trung tướng Thái Quang Hoàng vì đồn điền nay đa có từ lâu
tất nhiên cây cỏ đa cao và rậm rạp rất dễ ngụy trang... Những phút cuối
cung của đời binh nghiệp
Chúng tôi tiếp tục đi khoảng 300m, anh Nguyễn Ngọc Vy nói với tôi:
- Trình Đại tá, chúng ta đa tới ngang vườn cà phe của Trung tướng Hoàng rồi đâỵ
Tôi nói ngay:
- Bây giờ chúng ta phân tán mỏng và cẩn thận bo từ con suối này lên vườn
cà phê và mỗi người hay chọn một chỗ ẩn núp và rồi chờ đến tối chúng ta
sẽ tim đường thoát thân về Nha Trang.
Tuân theo lời nói của tôi tất cả đều giăng hang ngang và từ từ bo len bờ
suốị Sự hồi hộp đến với mọi người vi phải bo băng qua một thửa đất bằng
lộ thien - không có cây cối nào để ngụy trang, ẩn núp được. Nhin toán
người theo tôi, tôi rất lo ngạị Phần vi, có hơn phân nửa la quân nhân,
con kỳ dư la nhân vien hanh chánh với những chiếc sơ mi áo trắng rất dễ
dang cho địch quân phát giác. Tôi rất ngao ngán cho việc vượt thoát naỵ
Nhưng không con một con đường nào khác. Chúng tôi bo tiến lên ngang mặt
đất. Vưa lúc đó hang loạt súng cộng đồng nổ vang và nhắm vao đoàn người
chúng tôị Đạn cay xới lên đất làm tung bụi mịt mu. Phản ứng tự nhien của
mọi người la chạy ao len vườn ca phe để ẩn núp. Bây giờ tôi mới thấm
thía câu “đạn tránh người chớ không phải người tránh đạn”.
Nhiều người trúng đạn đa lăn ra chết hoặc rên là vì bị thương. Dưới hỏa
lực vũ bao, tôi vẫn bo như người lính trong quân trường. Nhìn sang bên
cạnh có Thiếu úy Phương, tùy viên của tôi vẫn bám sát lấy tôị Tôi rất
cảm phục người sĩ quan tuy vien nay, du đến phút nay tinh thần kỹ luật
vẫn con giương cao va vẫn lam tron nhiệm vụ của một quân nhân gương mẫụ
Tiếng đại lien, tiếng gao thét của chiến xa đang tiến về chúng tôi như
cuộc bủa vây đang thắt chặt. Tôi biết chúng tôi không thể nao thoát
trước một thế trận đường cung naỵ
Tôi bèn bàn với Thiếu úy Phương là chúng ta nên đầu hàng. Như hiểu ý
tôi, Thiếu úy Phương cởi áo lót trắng và lấy cây đưa len cao phẩy qua
phẩy lại để ra dấu hiệu đầu hàng. Lập tức súng đại lien ngưng bắn va
chiến xa tiến sát về phía chúng tôị Chúng ngừng cách chúng tôi khoảng
10m, một cán binh CS nhảy ra khỏi chiến xa, với khẩu AK47 chĩa thẳng vao
chúng tôi va quát lớn:
- Tất cả hay giơ tay lên! Giơ tay lên!
Mọi người đều tuân lệnh hắn. Nó hỏi tôi:
Tụi bây chức vụ gi và cấp bậc gi??
Như cái máy, tôi trả lời:
- Tôi la Đại tá Tỉnh trưởng.
Hắn tron xoe mắt lại và nghi ngờ:
- Thật không? Thật không?
Tôi gật đầu và hắn hỏi tiếp:
- Tên gi nói mau
Tôi không ngần ngại:
- Nguyễn Trọng Luật!
- Thật không?
- Thật.
Khi biết tôi là sĩ quan cao cấp, hắn sững người và rất đỗi ngạc nhiên.
Hắn càng ghim tay súng vao đầu tôi va nói hay đứng yen va giơ tay cao
khỏi đầu, va hắn tiếp tục hỏi Thiếu úy Phương như vậỵ Một cán binh khác
nhảy từ tren xe đến lột hết quần áo chúng tôị Tren người tôi va Thiếu úy
Phương chỉ con chiếc áo lót va chiếc quần treillis. Chúng lấy hết súng
lục, áo giáp, nón sắt, giầy boots va luôn cả vớ. Chúng nhanh tay lấy
giây trói chặt tay chúng tôi ra đằng sau va đẩy chúng tôi mỗi người vao
một hố cá nhân. Chừng nửa giờ sau, từ phía Tây một chiến xa khác tớị Một
cán binh người mập mạp, mặt mũi sáng sủa nhảy ra khỏi chiến xa va tiến
tới tôi chất vấn:
- Anh có thật là Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Darlac không?
- Đúng.
- Thôi anh ngồi chờ, chốc lát sẽ có xe đưa anh đi.
Khoảng 4 giờ chiều, cũng từ phía Tây một chiến xa xuất hiện va bốc một
minh tôi len xẹ Cửa xe đóng lại tối thui va xe bắt đầu di chuyển. Tôi có
thể đoán chắc là chúng đi về hướng Tây để đến Bộ Chỉ huy của chúng. Đến
lúc nay, tôi thật binh tĩnh va coi nhẹ những sự việc xảy ra cho minh.
“Sinh nghề tử nghiệp. Tôi la sĩ quan thuộc binh chủng Thiết giáp va bây
giờ bị bắt bởi chính đoan quân kỵ ma naỵ Dầu sao, tôi vẫn con những tia
hy vọng rọi xuống tâm hồn khô héo của tôi lúc nay la tiếng súng vẫn còn
vang động khắp chiến trường Ban Mê Thuột. Phản lực cơ của quân đội ta
vẫn vần vũ tren không phận thân quí Cao nguyen. Du tôi có bị bắt, nhưng
hy vọng của tôi vẫn la Ban Me Thuột vẫn như thanh đồng trụ sắt. Quân
tiếp viện sẽ tới va những con manh hổ sẽ lam tron nhiệm vụ của người
lính VNCH ngan đời uy danh. Ban Me Thuột vẫn ngạo nghễ thách đố với mọi
hoan cảnh...
Nhin lại trận đánh Ban Me Thuột
Bây giờ với đời sống thật sự thanh thản, binh tâm mà nhìn lại, nghĩ lại
tôi thấy vai điều cần được xét lạị Tất nhiên không phải để phe phán, hay
gỡ tội hoặc giả để lẩn tránh trách nhiệm, lẩn tránh sự thật. Nhin lại,
nghĩ lại chỉ có mục đích duy nhất la chia sẻ với những người con sống về
một biến cố trọng đại đầu tien đa dẫn tới sự sụp đổ của chính thể va
chế độ VNCH tại miền Nam nước Việt.
1. Mất tỉnh, Tỉnh trưởng phải chịu trách nhiệm?
Đây là câu nói thông thường của những người thiếu hiểu biết. Nhiệm vụ
của Tỉnh trưởng chỉ là trách vụ về hành chánh, kinh tế, chính trị,
v.v...ma thôị Về an ninh quân sự lại nằm trong tay Tiểu khu trưởng.
Nhiệm vụ của Tiểu khu trưởng là giữ an ninh các cơ sở, đường xá, cầu
cống, tim kiếm tin tức tình báo để báo cáo lên cấp trên, cũng như truy
lung, tieu diệt du kích và những cán bộ CS xâm nhập vao vung trách nhiệm
của minh. Tiểu khu trưởng chỉ có trong tay những Tiểu đoan Địa phương
quân, Nghĩa quân, Cảnh sát va tổ chức Nhân dân Tự vệ... Vi vậy, các đơn
vị nay không có khả năng đương đầu với quân chính qui của địch.
Nhin lại trận đánh Ban Mê Thuột, Tiểu khu Darlac đa nhiều lần báo cáo có
những dấu hiệu về sự xuất hiện hoạt động của quân chính qui CS. Bằng
chứng la tại phía Tây, Ban 2 Tiểu khu Darlac đa phát hiện ống dẫn dầu
của quân Bắc Việt hay những dấu xích chiến xa để lại ở phía Tây Ban Don
va Ia Sup. Đặc biệt ngay 7/3/75, Tiểu khu Darlac hanh quân đa bắt được
một tu binh thuộc Sư đoan 320/BV đang giăng giây điện thoạị Tin tức nay
cũng không thuyết phục nổi Tướng Phú va Tướng Tường để cho Trung đoàn 45
BB trở lại Ban Me Thuột. 2 ông nay vẫn con ám ảnh về CS sẽ đánh Kontum
hay Pleikụ Chưa bao giờ các ông cho rằng Ban Me Thuột sẽ bị tấn công.
2. Tại sao Tiểu khu lại không biết chiến xa địch tiến vào Ban Mê Thuột?
Câu hỏi nay lam tôi thắc mắc mai và muốn tim câu trả lời cho chính mình.
Khi ngồi trong tu, tôi có đọc “Đại Thắng Mua Xuân” của Văn Tiến Dũng
tôi mới vỡ lẽ. Các chiến xa của CS đa được bố trí cách thị xa Ban Mê
Thuột tren hang trăm km về phía Tây Bắc, trong rừng núi trung trung điệp
điệp của Cao nguyen.
Nhìn trên bản đồ, Phong 2 hay cấp chỉ huy bao giờ cũng tiên đoán ngay
và cho rằng nếu chiến xa địch, nếu có tấn công đem nay, thi chỉ có khả
năng tấn công Pleiku chứ không thể là Ban Me Thuột. Vi xung quanh Ban Mê
Thuột, hay phía Tây, du Tây Bắc hoặc Tây Nam đều la day rừng gia với
cây cối cao lớn. Qua con mắt của một sĩ quan kỵ binh như tôi, việc tấn
công Ban Me Thuột bằng chiến xa khó có thể thực hiện nổị Trái lại,
Pleiku với những đồi thoai thoải, trống trải, không có cây cối la địa
ban lý tưởng cho chiến xạ Nhưng, đây la chữ nhưng to tướng, nghĩa la CS
đa cho công binh dọn đường trước, bằng cách cho cưa tất cả các cây lớn
ma chiến xa không ủi nga được.
Bọn CS đa không cưa đứt hẳn để cây đổ xuống làm phi cơ quan sát được,
ma chỉ cưa 2/3 cây thôị Trên máy bay do thám của ta luôn luôn thấy cây
cối um tum như thường, không có con đường nao băng qua rừng cả. Đến khi
mặt trời lặn chiến xa cứ việc trực chỉ Ban Me Thuột, va khi gặp những
thân cây lớn, chiến xa cứ ủi xập những cây ma công binh đa cưa sẳn 2/3.
cây lớn đều nằm rạp xuống va chiến xa cứ thế ma tiến len dễ dang. Khi
gần tới thị xa, CS đa cho pháo kích vao thị xa để che lấp tiếng động cơ
của các chiến xa đang di chuyển...
3. Lam sao Địa phương quân có thể tiêu diệt chiến xa
Tôi la sĩ quan kỵ binh được giao trọng trách chỉ huy trưởng Tiểu khu
Darlac, ngoài ý muốn của tôị Kinh nghiệm về Thiết giáp vẫn là sở trường
của tôị Khi tôi nhậ nhiệm vụ lẽ tất nhien tôi đa để &yacite; nhiều
về những con ngựa sắt naỵ Tất cả thiết giáp của ta đều được điều dộng về
Pleiku hết. Ban Me Thuột chỉ co có 2 chiếc Commando car để tuần tiểu,
hộ tống cho các đoan công voa hay các cấp chỉ huỵ Trong đầu tôi bao giờ
cũng đặt ra câu hỏi, liệu CS tấn công các chi khu hay đồn bót bằng chiến
xa thi saỏ Vi vậy, việc đầu tien nghĩ đến la loại súng M72, loại chống
chiến xa ma Quân đội Hoa Kỳ cung cấp.
Tôi ben xin BTL Quân đoàn 2 cho trang bị loại súng trên cho Tiểu khụ
Không có toán, tiểu đội, trung đội, đại đội nao thuộc Địa hương quân của
Tiểu khu Darlac la không có trang bị M72. Ngay cả những Trung đội Nghĩa
quân nữạ Tôi chỉ thị cho các sĩ quan va binh sĩ đều phải sử dụng M72
một cách nhanh nhẹn va chính xác. Tôi con luôn luôn kiểm soát chặt chẽ
va khi tôi thanh tra bất cứ một đơn vị thuộc Tiểu khu Darlac, bất cứ
đâu, từ sĩ quan đến binh sĩ đều lưu lại khảo hạch va chờ biểu diễn cách
sử dụng M72 chống chiến xa, cũng như ân cần nhắc nhở mọi người lam sao
tăng hiệu năng của của súng va bắn cho chính xác.
Trong trận đánh Ban Me Thuột, 9 chiến xa CS nằm ụ trên đường Thống Nhất
hoặc trước mặt BCH Tiểu khu và Dinh Tỉnh trưởng đều la công đầu của các
chiến sĩ Điạ phương quân Tiểu khu Darlac. Ai cũng biết, các oanh tạc cơ
của ta không được thả bom vao thị xa ma chỉ được đánh bom vao các mục
tieu ven thị xa ma thôị Oanh tạc cơ của ta chỉ có một lần đánh vao chiến
xa địch trước mặt BTL Sư đoan 23 BB với 2 quả bom. Nhưng thảm thương
thay lại đánh trúng Trung tâm Hanh quân của Mặt trận Ban Mê Thuột. Tôi
cũng cần minh xác, tôi viết ra đây những sự kiện nay, không phải la kể
công cho Tiểu khu Darlac hay phiền trách Không quân, ma la những lời nói
danh dự của một sĩ quan QLVNCH biết tự trọng, liem sỉ va sự trung thực
gởi đến các chiến hữu đa sát cánh ben nhau trong những ngay lửa đạn va
các bạn.
Tôi cũng xin kể them, năm 1984, trong hời gian tôi ở trại tu Nam Hà — Hà
Nam Ninh. Một buổi sáng tôi đang gánh nước tưới rau, vì tôi thuộc trung
đội trồng rau cho trạị Tinh cờ tôi gặp một thanh niên trạc ngoài 30
tuổi, lại chào tôi:
- Chao Đại tá.
- Thôi cứ gọi nhau bằng anh em đi, vi nước mất nhà tan rồi, con đâu la tá với tướng.
- Không! Rieng với Đại tá, tôi vẫn tôn kính là Đại tá. Tôi phục Đại tá
là chưa có Địa phương quân của Tiểu khu nào mà bắn cháy được chiến xa CS
được. Riêng chỉ có Địa phương quân Darlac là tiêu diệt được T54 của
địch. Tôi con nhớ ngay 11/3/75, tôi la người đi dọc theo đường Thống
Nhất để lấy tin tức về báo cáo cho Đại đội 23 Thám sát của tôị Tôi đa
đếm được 10 chiến xa bị bắn cháy.. Sự thán phục ấy đến nay tôi mới gặp
Đại tá để bay tỏ nỗi niềm cũng như chào kính và thăm hỏi Đại tá.
- Vậy anh la ai va ở đâu
- Tôi ten la Chí trước thuộc Đại đội Thám báo Sư đoàn 23 BB. Hiện nay tồi con bị tu ở đây cùng với Đại tá nhưng ở khu khác.
- Cám ơn anh về những lời khen cho Địa phương quân Tiểu khu Darlac. Xin
anh một điều la từ bây giờ chúng ta cứ gọi là anh em thôị Vì như tôi đa
nói lúc này, đất nước đa mất rồi, chúng ta chỉ còn tình nghĩa để đối với
nhau mà thôi .
- Dạ nếu như Đại tá cho phép thi tôi vâng.
Long tôi dâng len một niềm vui sướng cho buổi gặp gỡ ngắn gọn ấỵ Thứ
nhất là dù trong hoàn cảnh tu đay anh em vẫn tôn kính nhau và họ nhận ra
tôi đa không lam điều sai quấy khi con tại chức. Đây cũng là phần
thưởng cho tôi vì trong tù anh em thường hay nói với nhau:”Khi ở tu rồi
mới biết ai la tướng tá thật, ai la tướng tá giả — đáng kính hay đáng
khinh...
Thứ hai la anh Chí đa xác nhận số chiến xa bị bắn cháy mà do Thiếu tá
Trưởng Phong 3 báo cáo cùng tôi là 9 chiếc mà bây giờ là 10 chiếc.
4. Tướng Phạm Văn Phú là tướng giỏi hay dở?
Tướng Phú hoàn toàn bị địch đánh lừa và ít ra không có kinh nghiệm chiến
trường Cao nguyên. Trước kia, khi con Quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại
VN, tin tức tình báo chiến lược hay tin tức lien quan đến các đơn vị lớn
của VC đều do Mỹ cung cấp. Nhưng sau Hiệp định Paris,
nguồn tin từ Mỹ đều chấm dứt va Phong 2 của ta chỉ con khả năng lấy tin
tức các đơn vị chính qui Bắc Việt bằng cách tim điện đai của địch. Vi
biết được yếu điểm nay của QLVNCH, nen CS vẫn cho điện đai phát thanh
hàng ngay như thường lệ va tuyệt đối im lặng truyền tin trong khi di
chuyển về phía Nam. Vi vậy Tướng Phú cứ đinh ninh la các Sư đoan Bắc
Việt vẫn con ở phía Tây Pleiku va Kontum.
5. Tổng Thống va Tổng Tham mưu Trưởng
Nếu qui trách nhiệm cho Tướng Phú làm mất Ban Mê Thuột vi dở la quá saị
Vì kế hoạch hành quân hay bố trí các đơn vị để phong thủ các Vùng đều
được Tổng Tham Mưu Trưởng va Tổng Thống (Tổng Tư Lệnh) duyệt xét và chấp
thuận mới được thi hanh. Quân đoan 2 va Tướng Phú được sự chỉ huy trực
tiếp của Tổng TMT va TT.
Mất Ban Me Thuột đâu phải trách nhiệm riêng gi của Tướng Phú mà chính
là Tổng TMT và TT. Các đơn vị chia sẻ trách nhiệm như Phòng 2 Bộ Tổng
Tham Mưu, Cục An ninh Quân đội, Đơn vị 101/TTM. Tất cả các cơ quan trên
làm gì, để các đại đơn vị Bắc Việt di chuyển về phía Nam, để đánh vao
thị xa Ban Me Thuột? Ai la người dám công khai lanh nhận trách nhiệm?
Cho đến nay, trong chiến tranh VN mới chỉ có thấy ông cựu Bộ trưởng Quốc
phong McNamara la dám nói len lỗi lầm của ông ấy ma thôị Bằng một cuốn
sách, McNamara nhận trách nhiệm. Còn ai nữả Hay tất cả chỉ cầu mong thời
gian khỏa lấp vao “cuối trời lang quen” hay la viết hồi ký để rửa tay
kiểu quan Phi-la-tô trong Thánh kinh khi trao Đức chúa Giesu cho dân
chúng muốn lam gi thi lam, muốn giết chúng may cứ việc giết, tao không
có trách nhiệm gi hết? Ngụy biện quá sức.
6. H&aatilde;y so sánh lực lượng đôi bên
a) Lực lượng Quân đoàn 2
- Sư đoàn 22 BB
- Sư đoan 23 BB
- 4 Lien đoan BDQ (bằng 1 sư đoàn)
- 1 Lữ đoàn Thiết giáp
- 1 Sư đoan Không quân (Sư đoàn 6 Không quân)
- 1 Trung đội Hoả tiển TOW
b) Lực lượng CS
- Sư đoàn 320 .
- Sư đoàn F10 .
- Sư đoàn Sao Vàng .
- Sư đoàn 968 .
- Pháo binh 130 .
- Pháo binh Phòng không (Sư đoàn) .
- Thiết giáp Lữ đoàn) .
- Các đơn vị Công binh .
- Các đơn vị Đặc công (2 Trung đoan) .
Nhin qua tương qua giữ ta và địch, với nhiệm vụ phòng thủ, ta có thể làm
tron nhiệm vụ một cách dễ dang. Trong binh pháp ai cũng biết, một lực
lượng tấn công, phải gấp 3 lần lực lượng phong thủ mới mong thắng trận
được. Mất Ban Me Thuột ta đa bị đánh lừa, vi ta không biết địch tấn công
ở đâu, cũng giống như tren ban cờ tướng, ta thua vi không biết nước
chiếu của đối thủ. .
7. Bài học của người Pháp.
Khi còn là Đại úy, tôi đa có dịp theo học một khóa tham mưu, trong đó
học chiến thuật, chiến lược. Người Pháp đa để lại một tai liệu nói về
Cao nguyen. Đại ý:”Muốn giữ Cao nguyen thi phải giữ Ban Me Thuột. Muốn
giữ miền Nam phải giữ Cao nguyen”. Phải chăng qua nhận dịnh đó, chúng ta
đa mắc tới 3 sai lầm: .
- Dời Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 về Pleiku.
- Tập trung quân giữ Kontum và Pleikụ .
- Bỏ Cao nguyên để giữ miền Nam? .
8. Những chuyện nghe được từ trong tù .
Tại trại tù Nam Hà (Hà Nam Ninh), tôi được biết đứa con út của tôi đa
chết tại xa Châu Sơn cách thị xa Ban Me Thuột chừng hơn 3km. Số la khi
CS tran ngập tư dinh Tỉnh trưởng Darlac, các con tôi đa theo chân những
binh lính trong dinh chạy trú ẩn tại nha cha Tâm, cha sở xa Châu Sơ, một
xa phần dông la người Công giáo từ Bắc di cư vao Nam năm 1954, nen có
tinh thần chống Cộng cao độ. CS đa na pháo kích như mưa vao lang, lam
trúng hầm trú ẩn gia đinh cha Tâm. .
Kết quả là đứa con út tôi và 2 đứa cháu của cha Tâm bị tử thương. Cũng
trong tu CS, tôi có gặp Đại tá Nguyễn Văn Của, Thiết giáp, Tỉnh trưởng
tỉnh Châu Đốc đa có dịp nói chuyện cho tôi biết: “Khi thị xa Ban Me
Thuột bị mất, TT Thiệu đa triệu các Tỉnh trưởng về họp tại Dinh Độc lập
va có phán một câu xanh rờn, “Thằng Luật trở về trinh diện, tôi sẽ xử
bắn ngay vi bỏ chạy ma không giữ được thị xa. Con các anh cũng vậy, ai
bỏ tỉnh ma chạy, tôi cũng bắn ngay”. .
Nghe lời kể của anh Của mà lòng tôi xót xạ Ở dời ai có hiểu minh và tôi
lại nhớ tới bai hát “Bay Đem” của Song Ngọc có câu “Ở đời ai hiểu ai...”
để an ủi chính minh trong đời lao tu không có ngay ra naỵ Them nữa,
cũng may cho tôi la tôi đa không có bỏ tỉnh, chạy trước khi địch quân
đến như ít vị Tỉnh trưởng khác va cũng may la tôi con ở lại cố thủ để bị
bắt tại chiến trường. Nếu không bị xui xẻo vi bị oanh tạc lầm vao TOC,
nếu quân tiếp viện đến kịp thời thi đâu đến nỗi bị bắt va ở tu tại miền
Bắc 13 năm, 5 tháng, 25 ngaỵ .
Để chấm dứt bài này, sau khi gia đình tôi đã được định cư tại Mỹ, qua
diện HỌ Vi chưa ổn định được đời sống nen tôi chưa có dịp diện kiến TT
Thiệu để thưa lại vị Tổng tư lịnh của tôi đôi điềụ Có một cảm nghĩ ma
tôi cứ suy nghĩ mai la các Tướng VNCH có đọc truyện Tau không, nhất la
Tướng Phú, để không bị CS đánh lừa ở vung 2. Vi nếu đọc truyện Tau đời
xưa, chúng ta đều biết trận đánh giữa Han Tín va Hạng Vo được gọi la
“Minh tu sạn đạo; ám độ trần thương”. .
Tá Nguyễn Trọng Luật
**************************************
Những Ngày Tháng 4-1975, Đẫm Máu Và Nước Mắt Tại Tiểu Khu Binh Thuận
Mường Giang
Kính nhớ tất cả những anh hùng đã vị quốc vong thân
Riêng tặng Phạm Ngọc Cưu, Dụng văn Đối, Mai Xuân Cúc, Huỳnh văn Quý, Lê Văn Thắng.
Bình Thuận nằm về cực nam của miền Trung nước Việt, đông la biển với
những đồi cát mông m&ecỉc;nh chạy dai từ Ca Ná tới tận Cu My, qua
những lang chai , xóm lưới Long Hương, Phan Rí Cửa, Mũi Né, Hàm Tân.
Nhiều nơi trước năm 1975, không hề có bước chân của người Phố Thị, ngoai
lính tráng.
Miền tây của tỉnh, cũng là phần đất cuối cùng của rặng Nam Trường Sơn,
nên có nhiều núi cao sông rộng, tuy nhiên người Phan Thiết , dù là ai
chăng nửa cũng không bao giờ quên được hai địa danh Ta Dôn-Ta Cú, nằm
sát trên con đường quan lộ số 1, trước đây không bao giờ thiếu mìn
chông, bom đạn. Ngoài khơi có đảo Phú Quý, đông đúc, nhiều thắng cảnh
đẹp, dân chúng giau có nhờ ngư nghiệp..
Trước năm 1975, Bình Thuận có chừng 25 vạn người, với đủ sắc dân, Kinh,
Chàm, Nùng, Hoa, Thượng, sống chung đụng khắp nơi trong tỉnh. Rieng Thị
xã Phan Thiết có 50.000 người. Ngay từ thời Pháp thuộc, Bình Thuận nổi
tiếng khắp nước, là chốn " Rừng tiền, biển bạc" và là vựa cá mắm của
Đông Dương, còn thóc gạo đủ nuôi sống dân trong tỉnh, nên trong trận đói
năm Ất Dậu 1945, địa phương vẫn không bị ảnh hưởng. .
Về chiến thuật, Bình Thuận nằm án ngữ, trên con đường sắt xuyên việt Hà
Nội-Sai Gon va quốc lội số 1. La phân nhánh của đường mon HCM, từ Đa
Lạt, Lâm Đồng , tới các mật khu Nam Sơn, Le Hồng Phong, Ba Hon, Ca Ná,
Vĩnh Hảo..vao tới Rừng Lá, Cu Mi xuống tận các cửa ngỏ tiếp tế từ biển
của VC tại La Gan, Hon Rơm, Mũi Điện. Do các yếu tố tren, từ khi Quốc Tế
Cộng Sản xâm nhập VN vao thập niên 30, cho tới ngày kết thúc cuộc chiến
Đông Dương lần thứ 2 (1945-1975), luôn nuôi mộng cưỡng chiếm cho bằng
được vùng đất thép của Chính Phủ Quốc Gia, ma giặc luôn gọi la thanh
đồng cách mạng, ngang cỡ Củ Chi, Mo Cầy, Ba Tơ, Dầu Tiếng..
Nhưng người Bình Thuận tuy hiền hoa, chỉ biết làm lũ làm ăn nhưng đa số
la con cháu của dân Ngũ Quảng, vốn có bản chất lời ngay nói thật. Bởi
vậy ngoai một số trí thức khoa bảng no cơm ấm cật, thụ hưởng tiền bạc
của tổ tiến, nen không biết lam gi, ngoai việ chạy theo gót giặc để được
nổi tiếng xấu, hay có một số đồng bao sống trong vung xôi đậu, bắt buộc
phải theo VC, con hầu hết dân bản địa, có cơm ăn áo mặc va hít thở được
không khí tự do, đều tin tưởng vao Quốc Gia. .
Cho nên sự kiện, tỉnh Bình Thuận bị VC tấn công ba lần vào dịp Tết Mậu
Thân 1968 nhưng vẫn giữ vẹn thanh phố. Ngoai ra, đây cũng la tỉnh duy
nhất ở Trung Phần, vao những ngay cuối tháng 4-1975, đa quyết tâm, ngăn
chống giặc Bắc xâm lăng, cho tới khi không con chịu nổi, trước sự tấn
công biển người, với xe tăng, đại pháo, mới đanh bỏ que hương ma đi
trong ngấn lệ..
Tháng 8-2004, John Pilger một nhà làm phim người Úc, đa thực hiện bộ
phim " trận đánh cuối cung", nói về chiến tranh VN, theo óc tưởng tượng
Tây Phương , cung đơn đặt hang của Hollywood va VC. Ai cũng biết, lịch
sử nao cũng đẫm máu va nước mắt, chứ không phải chỉ rieng có lịch sử
chiến tranh VN. Điều đáng chú ý la con người, không thể nao sống ngoai
lịch sử của nước minh, cho nen dẩu ta có la nạn nhân của lịch sử, cũng
phải biết quen khổ đau của chính minh, để chia chung niềm tự hao của
những anh hung dân tộc, đa xem nhẹ cái chết vào những giờ phút tử thần. .
Ngoai ra,ai cũng biết lịch sử của cọng sản, là toàn cảnh chủ nghĩa hiếu
chiến va đấu tranh giai cấp, nen đừng có lạ khi được xem qua bộ phim
tren, với nội dung " kẻ nao không đứng chung với ta đưới một mau cờ, đều
la kẻ thu thua trận "..
Tóm lại, lịch sử không phải là văn chương, nên không thể ngồi một chỗ
để hư cấu, ma la những trang kể về các anh hung va tiểu nhân có thật,
được viết bằng máu va nước mắt của chính nhân vật trong cuộc, để chấp
nhận phe phán theo quan niệm đạo lý cung với chính nghĩa. Nhưng văn
chương, xét cho cùng từ khởi thủy cho tới chung cuộc, vẫn la tiếng ren
nghẹn của thân phận con người. Con lịch sử thì trái lại muôn đời không
dời đổi, giống như chuyện dai về các đế quốc, triều đại xưa nay, trong
đó có đế quốc Việt Cộng..
Chắc chắn người Bình Thuận dù ở trong thế hệ nào chăng nữa, qua hơn 300
thanh lập, cũng đều tự hao về những trang sử vẻ vang của que hương
minh, từ lúc khởi đầu, cho đến những ngày cuối cung tháng 4-1975, đẫm
đầy máu lệ, cang đọc cang thắm thiết va trân trọng, cho tất cả những
quân dân đa một thời bỏ minh vi nước..
1- Phan Thiết, Những Ngày cuối Tháng 4-1975.
Theo sử liệu, Chưởng Cơ Nguyễn Hửu Cảnh, một tướng lanh tai danh của
Đang Trong, thời Chúa Nguyễn Phúc Chu, đa chỉ huy đạo quân Đại Việt đầu
tien, tiến vao miền Thủy Chân Lạp bằng đường bộ,sau khi Châu Panduranga
cuối c&ung của
Vương quốc Chiem Thanh mất vao năm Quý Dậu 1693. Đoàn quân khi qua sông
Mai Nương, thuộc xứ Pan Rang, bắt đầu tiến dọc vao vung gió cát ven
biển lúc đó, hầu như không có bao nhieu lang xóm, sự sống, mà chỉ có
hàng hàng lớp lớp cát đụn, xương rồng mọc suốt bờ biển phía đông Binh
Thuận , từ Cà Ná chạy vao tới Phù M&yatlde;, giáp ranh với Ba Rịa.
Cuộc hanh quân đường bộ dài trên 150km, đa góp phần tạo nên những thị
trấn tru phú sau nay như Long Vĩnh trong vịnh Ron, Phan Rí ở cửa biển
Paric, Phố Hải tại vịnh Ba Giai va Hamulithít (Phan Thiết).
Cũng ở vùng này, từ thế kỷ thứ VIII sau TL, người Chàm trong vương
triều Panduranga I, đa hoan thanh nhóm đền tháp Pôshanư, thờ cúng các vị
thần thánh Ấn Độ giáo, tren đồi Ba Nai cách Phan Thiết về phía nam
chừng 7 km. Từ thế kỷ XVII về sau, các thị trấn miền đông Binh Thuận như
Long Hương, Phan Rí Cửa, Mũi Né, Phú Hai va La Gi.. cang lúc cang trở
nen trú phú va quan trọng, du từ đầu thế kỷ XX, tỉnh lỵ đa dời từ Hoa Đa
về Phan Thiết, chỉ là một Xóm Biển, nằm ngay tren cửa sông Mường Mán,
chẳng mấy chốc, đa chiếm lĩnh địa vị số 1 của Phố Hải suốt mấy thế kỷ
qua. Trước năm 1975, Mũi Né la thủ phủ của quận Hải Long, giống như La
Gan,Ba Hon, Cu Mi..những cửa ngo để Ha Nội tiếp tế mọi thứ bằng đường
biển cho bộ đội Bắc Việt, trong mật khu Le Hồng Phong. .
Vùng này chạy từ Hon Hồng,Bai Xếp, Ốc,Ghềnh, Dơi thuộc Binh Nhơn,Hoa
Thắng đối diện với Hon Nghệ ngoai biển, về hướng bắc Thạch Long, Khánh
Thiện cũng như Vùng Rạng, Thiện Nghiệp. .
Những ngày cuối cùng cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975), theo
các sử gia trong va ngoai nước cận đại, thi Binh Thuận la tỉnh duy nhất
của miền Trung,từ lính cho tới công chức, kể cả dân chúng, không bỏ
chạy và họ đa chiến đấu với cộng sản Hà Nội tới ngay cuối cung vao sáng
19-4-1975, cũng như đa thực hiện được các cuộc lui quân về Nam an toan
bằng đường bộ lẫn đường biển. Rieng tại mặt trận miền đông Phan Thiết,
trong vung chiến thuật thuộc chi khu Hải Long, bao gồm quận lỵ Mũi Né,
các phân chi khu Thện Nghiệp, Thiện Khánh,An Hải,Phước Thiệu Xuân va
Thanh Hải..theo báo chí VC, mai tới 5 giờ sáng ngay 19-4-1975, khi
QLVNCH được lệnh di tản chiến thuật khỏi tỉnh Binh Thuật,mới có một đại
đội thuộc C/482 VC, tới tiếp thu Hải Long đa bỏ ngỏ. Sau nay nhân có một
vai cấp sĩ quan tại Binh Thuận đa rời chức vụ trước khi giặc tới như
Thiếu Tá Le Văn Thông, quận trưởngThiện Giáo, hay Thiếu Tá Vo Đạm, Chỉ
Huy Trưởng Quân Y Viện Đoan Manh Hoạch, bỏ chạy về SaiGon từ đầu tháng
4-1975,tạo cớ cho một vai người, mặc du mang tiếng la lính, nhưng chưa
hề phục vụ tại TK.Binh Thuận, qua đây viết báo, chỉ trích về một trận
đánh nao đo, không ten tuổi,u vao giờ thứ 25 của chiến cuộc, la không có
đại bang, lúc ma các trụ đen vi không có chân va những tu nhân đang bị
giam, nen không thể chạy. Con hầu như mọi người kể cả một vai tướng
lanh, các sĩ quan cao cấp, công chức, sư ni cha cố, đại trí thức, ca sĩ,
đĩ điếm,me Mẽo, thương gia cho tới hang mệnh phụ, tiểu thư đa dám thí
cái trinh tiết ngan vang cho cả lính Mỹ da đen, chỉ để xin một chổ ra
khỏi nước, hầu giữ mạng trước biển giặc. Sự thật thi tới lúc đó, các đại
bang lớn nhỏ gần như đều có mặt, va có một vai đơn vị Nghĩa Quân đóng
tại Xa Phước Thiệu Xuân, Kim Ngọc, du được lệnh di tản, vẫn nhất định ở
lại. Chính Họ đa bắn cháy vai chiếc T54 của Bắc Việt tren QL1, nen Cọng
Sản phải chia lam hai cánh quân, một tiến theo đường công hương qua Phú
Hai về Phan Thiết. Toán kia theo QL1. .
Nhưng thôi lích sử vẫn là lịch sử , nhất là các thẩm quyền lúc đó của
Tiểu Khu, như Đại Tá Tỉnh Trưởng Ngô Tấn Nghĩa, Phó TT. Phạm Ngọc Cửu va
những Sĩ Quan chỉ huy chiến trường như Thiếu Tá Dụng Văn Đối,Thiếu Tá
Lê Văn Trung, Thiếu Tá Phạm Minh, Thiếu Tá Phan Sang, Đại Uý Huỳnh Văn
Quý, Đại Uý Huỳnh văn Hoang, Đại Uý Le Bá Hung, Đại Uý Bác Sĩ Le Bá
Dũng, Đại Uý Đặng Vũ Đang, Đại Uý Mai Xuân Cúc, Tỉnh Đoan Trưởng XDNT.
Le Minh Giang, Thiếu Úy Le văn Thắng.....
Sau nhiều năm tu tại Miền Bắc, đều có mặt ở Hoa Kỳ qua diện HO. Chính họ
mới la nhân chứng thật sự, có tư cách , để xác nhận củng như phê phán
trước quân sử VNCH, rằng cho tới trọn ngay 19-4-1975, các mặt trận tại
Binh Thuận, gần như có đại bang và binh sĩ các cấp tham dự, trong biển
máu địa ngục, giữa tuyệt vọng vi phải đối mặt với hằng chục ngan quân
xâm lăng Bắc Việt , có đầy đủ tăng, pháo va sự tiếp tay của lũ ăn chén
đá bát, cung bọn nhân danh đủ thứ để có cớ đâm sau lưng người lính tận
tuyệt, khiến cho miền nam VN phải mất, dân tộc VN bị nhuộm đỏ va đất
nước mai đắm chim trong nhục nha đói ngheo giữa thien đang xa nghĩa,
được tạo bởi một phần công quả của một đám người được ưu tien hậu hỹ
suốt 20 năm tại VNCH....
2-Tiểu Khu Bình Thuận, Trước Tháng 4-1975 :.
Ngay 20-12-1960 theo tình thần nghị quyết số 15 của trung ương đảng tại
Ha Nội, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, cánh tay nối dai của Quốc Tế Cọng
Sản ra đời, mở man cho cuộc xâm lăng của Bắc Việt. Tại Bình Thuận, bọn
nằm vung như Nguyễn quý Đôn, Nguyễn Như, Năm Tra, Song Ma,Hồ ngọc Lầu,
Nguyễn Thị Kim Lien, Trần Thiện Bật, Ngô Đinh Cường, Nguyễn Phong
Đạm..vẫn bám trụ trong nội thanh va không ngớt bay binh bố trận, từ
khủng bố bằng quân sự cho tới việc xuí dục các học sinh trung học trong
tỉnh , nhân danh tôn giáo , tiếp tay với chúng phá hoại đời sống an lanh
của người dân hiền hoa miền biển mặn. Sau ngay binh biến 1-11-1963,
tinh hinh chiến sự tại miền nam VN trở nen tồi tệ vi ba năm xáo trộn
chính trị do bọn kieu tăng loạn tướng gây ra, tạo diều kiện cho VC hồi
sinh va phá hoại dữ dội khắp nơi. Binh Thuận cũng không tránh khỏi nạn
kiếp tren, một mặt thi học sinh biểu tinh, tuyệt thực,do chính Nguyễn
Văn Minh, bí thư của Chi Bộ Cộng Sản tại Trường TH.Phan Bội Châu, năm
1966 (đa chết trước năm 1975), vạch ngực lấy máu..bắt chính quyền phải
hoa hợp mời bắc bộ phủ về cầm quyền. .
Mặc khác đem 25-12-1964, C430VC tấn công dồn cảnh sát cổng chử Y, cung
lúc C480VC tấn công các ấp chiến lược ven bien thị xa Phan Thiết, mở man
cho những bửa tiệc máu người dân vô tội, cho tới khi Đại Tá Ngô Tấn
Nghĩa, nguyên Trưởng Phong 2/Quân Đoàn II về nhậm chức tỉnh trưởng vao
mua thu năm 1969, mới van hồi được an ninh khắp tỉnh va thị xa Phan
Thiết , cho tới ngay tan cuộc 19-4-1975. .
Tại Tiểu khu Bình Thuận, năm 1966 tỉnh trưởng là Trung Tá Đinh văn Đệ,
khoá 1 sĩ quan trừ bị Nam Định, về sau la dân biểu QHVNCH, giữ chức vụ
chủ tịch uỷ ban QP.Ha viện vao năm 1969, nhưng lại la một điệp vien của
Hà Nội, lộ mặt sau tháng 5-1975. Về tổ chức, thi thiếu tá Trần văn Cha
lam tiểu khu phó kiem Phó TT.Nội An., về sau TT.Cha len Trung Tá va lam
Trung đoan trưởng Trung đoan 53/SD23BB. Đại Úy Le Trung Hưng lam Tham
Mưu Trưởng TK. Trung Úy Lữ Tây Tựu, người Phan Thiết, một sĩ quan tai
giỏi va can trường, từ SD23BB được biệt phái về giữ chức Trưởng phong
2.TK. Cũng năm đó, trưởng phong 3/TK la trung úy Nguyễn văn Trị. Rieng
đại uý Le văn Trạch la quận trưởng Ham Thuận, đại uý Trọng QT.Thiện
Giáo, đại uý Kiều văn Út QT.Hải Long, thiếu tá Woang sắn Cảnh, Q/T.Hải
Ninh, đại uý Lương Vặng,QT.Phan Lý Cham, đại uý Nguyễn quang Mẫn,QT.Hoa
Đa, Thiếu tá Bui quang Huỳnh QT.Tuy Phong. Về quân sự, thuở đó cấp đại
đội DPQ la đơn vị cao nhất trong tỉnh. Về phía bắc có Trung tâm
HL.ÐPQ-NQ Sông Mao do Trung Tá Thanh làm chỉ huy trưởng, con Thiếu tá
Woang văn Thông thi lam CHT/BCH bắc BT bao gồm 4 quận HD,TP,PLC va HN. .
Rieng CHT/ÐÐPQ-NQ tỉnh là thiếu tá Lê văn Thông, đóng chung với Quân vụ
thi trấn va đồn quân cảnh trong T/K củ đối diện với vườn hoa va Ty ngân
khố, cạnh trường nử TH. Về chủ lực quân biệt phái, chỉ có TD2/44/SD23
của Thiếu tá Xứng bao vùng khắp lanh thổ. Cuối năm 1967, Trung Tá Nguyễn
khắc Tuân thuộc tổng cục quân huấn/BTTM về lam tỉnh trưởng BT thay
trung tá Đinh văn Đệ, Trung Tá Tuân ở lại VN đi tu va chết tại Bắc Việt.
Giữa năm 1968, Đại Tá Đang thiện Ngôn về làm tỉnh trưởng BT thay thế
Trung Tá Tuân, con Thiếu tá Hồ ứng Phung làm tiểu khu pho va đại uý Le
văn Anh làm Tham mưu trưởng. Muà thu năm 1969, ĐT Nghĩa thay ĐT Ngôn làm
TT, Trung Tá Vương Đăng Phong, TKP và Trung Tá Mai Lang Luông TMT. Các
phòng sở cũng được thay đổi như sau : Phó Tỉnh Trưởng HC. Phạm Ngọc Cửu,
Chánh Văn Phong Cát Ngọc Giao. ThT Nguyễn văn Mầng (K17SQTD), trưởng
phong Tổng Quản Trị. Đại Uý Nguyễn văn Hiển (K19SQTD) trường phong 1.
Đại Uý Đặng Vũ Đan (K19SQ/DPQ) trưởng phong 2. ThT Nguyễn Văn Trị,
trưởng phong 3. ThT Trần Hoạt (chết tại Honolulu), trưởng phong 4. ThT
Phạm Minh (K16VBDL) Trung tâm trưởng TTTV. Th/T Trực,trưởng phong Truyền
Tin.Trung Tá Phan Trần Bảo, Trưởng Ty CSQG. Từ năm 1970 về sau, trong
đa cải tiến QLVNCH, cơ cấu BCH.TK thay đổi, TrungTá Trí, TKP kiem TMT,
Trung Tá Mai Lang Luông, TTT Binh Định phát triển nông thôn nhưng Le
Minh Giang vẫn Tỉnh Đoan Trưởng TD.XDNT. Thiếu Tá Nguyễn văn Trí, Trưởng
Ty ANQD. Th/T Nguyễn Văn Hồng, trưởng khối CTCT. Trung Tá Nguyễn Hoa,
chủ tịch Hội Đồng Tỉnh..
Các Quận Trưởng cũng được hoán chuyển từ cuối năm 1974 : Quận Tuy Phong,
Th/T Ha Văn Thanh, Hoa Đa Trung Tá Kiều Văn Út, Phan Lý Cham ThT Đặng
Chánh Anh, Hải Ninh Trung Tá Diep Sắng Cảnh, Thiện Giáo Th/T Le Văn
Thông, Ham Thuận ThT Dụng Văn Đối, Hải Long Th/T Hang Phong Cao, Xa
Trưởng Phan Thiết ThT Nguyễn Thanh Hải, Yếu Khu Châu Thanh ThT Cư va
CHT.QYV Đoan Mạnh Hoạch, ThT bác sĩ Vo Đạm. .
ÐÐ/ÐPQ được nâng cấp, có 8 Tiểu Đoan, một Liên Đội Đặc Nhiệm Nông Trường Sao Đỏ va nhiều DD/Biệt Lập, được phối trí như sau : -.
ÐÐ206/ÐPQ Trinh sát , do Đ/U Lê văn Tro (khóa 19.SQ/ÐPQ) làm ÐÐT.
ĐĐ290 Biệt lập của Đ/U Sâm, đóng tại Hải Long. ÐÐ283 biệt lập của DU
Nguyễn văn Ba, đóng tại Tuỳ Hoa,Thiện Giáo, kiem Yếu Khu trưởng Phú
Long. Ở Hàm Thuận có 2 ÐÐ/ÐPQ biệt lập 127 và 887..
Tại Bắc Binh Thuận có TĐ248/ÐPQ của Thiếu Tá Lê văn Trung tại Tuy Phong,
sau là Th/T Xuân làm TÐT., TD212ÐPQ của Thiếu tá Quân cọi Lương Sơn,
Sông Lũy.TD 229/DPQ của Th/T Tiến, đóng tại Phan Rí. Sau khi Bắc BT thất
thủ, TÐ nay về giữ mặt nam Thị Xã Phan Thiết..
Nam Bình Thuận có 5 TÐ/ÐPQ : TĐ249 ÐPQ của Thiếu tá Phan Sang, BCH đóng
tại núi Tà Dôn, hoạt động tại Long Hiệp, Hoa Vinh,Tuỳ Hoa., những ngay
cuối cung do DY.Huỳnh văn Quý lam TÐT thế Th/T Sang. TD202DPQ của Thiếu
Tá Lương văn Bính hoạt động tại Cây Táo,Long Thạnh., sau Ð/U.Huỳnh văn
Hoang XLTV.TDT thế Th/T Bính. TÐ275 /ÐPQ của Thiếu tá Nguyễn Tư, có 1 DD
của Trung Uý Lợi, đóng tren núi Ta Dôn, bảo vệ Khẩu đội Pháo Binh., một
DD của DU.Nguyễn Đinh Úy đóng tại Hoa Vinh, thanh phần con lại của TD
đóng ở Kim Ngọc. TD230DPQ của Thiếu tá Thổ Them, hoạt động tại Thiện
Giáo, sau giao cho DU Mai Vi Thanh XLTV.TDT va DU Trần Đăng Thiệt TDP.
TD274DPQ của Thiếu tá Trịnh văn Binh hoạt động tại Bầu Gia,Phú Hội.,
Thiếu Tá Binh chết tại trại tu ở Bắc Việt..
Tại Bắc BT, BCH quân sự bai bỏ nhưng thay vào đó là BCH.Liên đoàn ÐPQ do
Đại Tá Lại văn Khuy, nguyên Trung đoan Trưởng TRD42/SD22BB về lam CHT.
BCH Lien đoan đóng tại xa Lương Sơn, đối diện với mật khu Le Hồng Phong,
gồm 2 TÐ229 và 212 ÐPQ, hành quân tại 4 quận miền bắc. Từ tháng 3/1975,
Binh Thuận không con Trung Đoan 44/SD23 va Chi đoan 3/8/Thiết kỵ tăng
phái, vi những đơn vị chủ lực quân nay đa di chuyển hết len cao nguyen
năm 1972. .
Để bảo vệ an ninh cho thị xã Phan Thiết, từ năm 1970 lập them Yếu khu
châu thành hay BCH/LD/DPQ/PT đóng tại trại Đinh công Tráng, trước sân
vận động Quang Trung, kế trường trung học Bạch Vân, do thiếu tá Nguyễn
văn Cư làm CHT. Phía Nam Phi Trường Phan Thiết, có Lien Đội DPQ.Đặc
Nhiệm Công Trường Sao Đỏ, do DU Huỳnh văn Quý chỉ huy, hoạt động tới Phú
Khánh-Ba Hon. Về đơn vị Đồng Minh, quan trọng nhất vẫn la Bộ chỉ huy
MACV/TKBT đóng tại khách sạn Hồng Hưng, đối diện với trường Tiến Đức,
tức la PBC củ tren đại lộ Trần Hưng Đạo. Để góp phần giải tỏa an ninh
cho bốn quận miền bắc, cũng như lộ trinh đường bộ trên QL1, từ Hoa Vinh
tới Phan Rí, ngang qua mật khu Le Hồng Phong dối diện vói các xạ Long
Phú,Lương Son,Sông Lủy, Chợ Lầu,Tịnh Mỹ,Hiệp An, Hiệp Hoa....cơ quan
MACV đa phối hợp với TK.Binh Thuận, thanh lập lực lượng Dân Sự Chiến
Đấu, BCH đóng tại trại Phi Long ở xa Lương Sơn, trại Phi Ma ở xa Phan Rí
Thanh cạnh Chi khu Hoa Đa, trại Phi Hổ ở ấp Tịnh Mỹ, xa Chợ Lầu, đồn
Mara ở Sông Lũy..Tất cả doanh trại Lực lượng DSCD đều có bai đáp trực
thăng, con các SQ,HSQ chỉ huy đều thuộc các toán A/LLDB VN va SQ-HSQ
/LLDB Hoa Kỳ lam cố vấn., chính họ đa vô hiệu hóa cái gọi la mật khu
thanh cây vách cát Le Hồng Phong của VC, nơi trú ẩn của các tiểu đoan
địa phương 482 va 840 VC, cũng như Trung đoan chính quy 812 Bắc Việt của
quân khu 7 VC tăng phái. Năm 1970, các trại LLDB tại Binh Thuận đóng
cửa nen Biệt kích Mỹ hay LL/DSCH cũng giải thể để thanh lập các DD/DPQ.,
các cấp chỉ huy được mang quân ham Thiếu úy, con danh hiệu la
DD700,710,720,730/ DPQ/BT, sau đó nhập chung thanh Lien Đội 2/32/DPQ/BT
do Thiếu Tá Nguyễn thanh Xuân chỉ huy, trách nhiệm bao vung tư Lương
Sơn, Sông Lũy , tới ngả ba Chợ Lầu-Sông Mao. Sau năm 1972, LD2/32/DPQ
lại cải danh thanh tiểu đoan 2/212 do thiếu tá Quận chỉ huy cho tới lúc
tan cuộc. Về các đơn vị tăng phái, có Duyen Đoan 28 Hải thuyền, hoạt
động bảo vệ vung duyen hải Binh Thuận, từ mủi Đá Chẹt ở bắc Tuy Phong,
vao tới Mũi Đen Nam Binh Thuận, chỉ huy Duyen Đoan từ đầu có Thiếu úy
hải quân Nguyễn văn Thuận, cựu HS/PBC 1955-1962, đa chết trong lúc di
tản. Duyen đoan trưởng cuói cung la HQ.Thiếu tá Việt va Duyen đoan phó,
Đại Uý HQ.Cat. Ngoai ra con có Biệt đội quan sát L.19, thuộc Phi Đoan
quan sát 215, SD2 Không quân từ Nha Trang tăng phái cho TK/BT giúp
P2,3/TK bay quan sát bao vung hanh quân, mở đường va hướng dẫn pháo binh
tác xạ. Về thiết kỵ, trước năm 1973 có các chi đoan 2 va 3/8 thuộc SD23
tăng phái.. Tết Mậu Thân 1968 trung úy Hang phong Cao lam chi đoan
trưởng 2/8 giải tỏa Phan Thiết, sau biệt phái về lam Quận Trưởng Ham
Thuận từ thời Đại Tá Ngô tấn Nghĩa. Rieng Chi Đoan 2/8 giao cho Đại Uý
Đệ, nguyen DDT 948 DPQ, lúc đó hoạt động tại Tuỳ Hoa va Phú Long. Đại
đội nay về sau di chuyển ra Hoa Đa va giao cho Đại uý .Mai xuân Cúc,
nguyen trưởng ban 2/ quận Hoa Đa của Quận Đối lam Đại Đội Trưởng va
những ngay cuối cung la đơn vị đóng trong thị xa Phan Thiết cho tới sáng
19-4-1975, Binh Thuận hoan toan thất thủ, mới xuống tau HQ tại Kim Hải,
di tản về Ba Rịa-Vũng Tau..
3- Những Ngày Chiến Đấu Cuối Cùng .
Của T/K Bình Thuận, Vào Cuối Tháng 4-1975 :.
Theo VC, từ sau năm 1970 qua chương trìh binh định của Đại Tá Nghĩa, đa
khiến các cơ sở nằm vung cũng như bộ đội trong tỉnh lâm vao tinh trạng
gần như bế tắc và bị tổn thất nặng nề , trong đó phần lớn do min
Claymore gây ra. Từ sau Phước Long thất thủ vào đầu năm 1975, tiếp theo
la Ban Me Thuột mất ngay 14-3-1975, VC Binh Thuận bắt đầu ngoi len va
phá hoại khắp, nơi như đốt các cây xăng số 6,8, tấn công đồn cảnh sát
Đức Long. Từ ngay 5-4-1975, Chi Khu Thiện Giáo di tản chiến thuật tren
Lien tỉnh lộ 8 ..
Nhân dịp nay, thiếu tá quận trưởng Lê văn Thông và Chi khu phó là Ð/U.Lê
văn Tuân, đa trốn về Sai Gon nhưng TD.230/DPQ của DU Mai Vi Thanh va
Các DD/DPQ biệt lập của Quận, vẫn không ra ngủ. Phan Thiết, Hải Long lúc
đó gần như trân ngập người tị nạn khắp miền Trung đổ xô về bằng đủ mọi
phương tiện, đường bộ, tau thuyền..va được Ty Xa Hội trợ cấp giúp đở tận
tinh.
Để giải toả bớt căng thẳng trong thị xa, từ ngày 13-4-1975 Tỉnh cho
thanh lập tại Thiện Khánh va Thiện Nghiệp các trung tâm tiếp cư tạm thời
dưới các rặng dừa va sân vận động, để chờ tau HQ vào di tản họ tới Vũng
Tau. Do tren tinh hinh tại Hải Long them phức tạp, một phần từ những
phần tử xấu như đao binh, đặc công tra trộn gây rối loạn, cũng như công
khai cướp bốc tai sản của dân chúng tại địa phương. Mặt khác, bọn VC nằm
vung thừa cơ hội dậu chưa đổ, nhưng bim đa leo khắp nơi với sự ra đời
của cái gọi la ủy ban khởi nghĩa, may sẳn cờ, khẩu hiệu..va các đội tự
vệ vo trang em bé quang khăn đỏ...
Từ ngay 15-4-1975, tinh hinh Hải Long cang them nặng nề vi có nhiều đơn vi từ QD1 va 2 ngoai Trung đến đây bằng đường biển. .
Riêng các xóm đạo của người Bắc di cư, tại Thanh Hải, Cầu Ké, Vĩnh Thủy,
Vĩnh Phú đa kéo tau thuyền chạy về Long Hải, Vũng Tau. Tuy nhien, tinh
hinh mặt trận miền đông va Phan Thiết, vẫn chưa có gi nguy ngập, tới
ngay 17-4-1975 Chi Khu Hải Long chưa loan va tất cả các đại bang kể cả
quận trưởng Hang phong Cao vẫn có mặt , trong các vị trí phong thủ gần
như 24/24. .
A- TỬ THỦ PHÚ LONG :.
Ngày 16-4-1975 phòng tuyến Phan Rang vở, trước sự tấn công của mấy sư
đoan Bắc Việt, với xe tăng, đại pháo tối tân của Lien Xô, Trung Cộng ca
cả khối cọng sản quốc tế. Trong lúc VNCH gần như kiệt quệ về nhân lực
cũng như trang bị, vi người Mỹ phản bội, thất hứa. Gần hết Bộ Tư Lệnh
Tiền Phương của Quân Đoan III, trong đó có Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi,
cũng như Tư Lệnh Sư Đoan 6 KQ la Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Lữ Đoan
Trưởng LD2/ND la Đại Tá Nguyễn Thu Lương va nhiều Sĩ Quan cao cấp khác,
đều lọt vao tay giặc tại Phan Rang..
Cũng trong ngày đó, các lộ quân Bắc Việt, từ Nha Trang, Đa Lạt, ồ ạt
theo QL1 tiến vao Binh Thuận. Cho nen trách sao được bốn chi khu Tuy
Phong Hoa Đa, Phan Lý Cham, Hải Ninh với quân số chưa tới 3 Tiểu Đoàn,
mà chỉ toàn DPQ + NQ, thi lấy chi chọi với tăng pháo va biển người..
Cũng nhờ có nhiều chiến hạm của BTL. Vung 2 Duyen Hải , đa bất chấp pháo
địch, ghé sát bờ , vớt được nhiều đơn vị đa tham chiến tại Phan Rang,
cũng như các Chi Khu của bốn quận miền Bắc. Nói chung tất cả quân các
cảnh tại đây, kể luôn Tiểu Đoan 274 DPQ của ThT Xuân, lúc đó đang đóng
tại cầu Đá Chẹt, giáp ranh với Ca Ná, cũng di tản được tới Vũng Tau bằng
ghe đánh cá , tại Long Hương va Cửa Phan Rí ..
Như vậy từ đó, ranh giới của tỉnh Bình Thuận với giặc Hồ là thị trấn Phú
Long, tren QL1, cách Phan Thiết khoảng 10 km, về phía bắc. Ở mặt trận
miền đông, Chi Khu Hải Long vẫn con và BCH.Tiền phương của TK.Binh
Thuận, do Đại Tá Tỉnh Truởng , Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, vẫn đóng tren Lầu
Ông Hoang. Trong thị xa, con có 2 BCH khác, một do Trung Tá Trí, Tham
Mưu Trưởng Tiểu Khu Trưởng kiem Chỉ Huy Trưởng DPQ+NQ, đóng tại Căn Cứ
của Duyen Đoan 28 tại của biển Thương Chánh. Con BCH.Hanh Chánh Tỉnh thi
do Phó Tỉnh Trưởng la Phạm Ngọc Cửu, cung với các Trung Tá Hoa, Luông,
ThT Huỳnh văn Việt (Trưởng Ty CCB/BT) chỉ huy, đóng ngay trong Toa Hanh
Chánh, lúc đó coi như lanh đạn pháo kích của VC hằng giờ..
Chiều ngày 12/4/1974, Đại Uý Huỳnh Văn Quý, lúc đó đang la Lien Đội
Trưởng Lien Đội Đặc Biệt, đang bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ, ở phía nam phi
trường Phan Thiết, thuộc Ấp Binh Tú, xa Kim Binh, quận Ham Thuận, nơi
có mấy ngan Viet Kiều hồi hương từ Kampuchia về. Ông được chỉ đinh lam
Tiểu Đoan Trưởng , TĐ 249 DPQ, lúc đó do ThT.Phan Sang chỉ huy. Việc ban
giao đơn vị được thực hiện ngay lúc 7 giờ tối cung ngay, với nhiệm vụ
TD249 phải tái chiếm lại Phú Long, đa mất từ mấy ngay qua. Vi quân số
quá hao hụt, nen TK biệt phái them cho TD, Đại Đội 283 Biệt Lập của Đại
Uý Nguyễn Văn Ba, một sĩ quan LLDB rất gan dạ và tai giỏi. Ngoài ra Đại
Uý Nguyễn Văn Hạnh, cũng được chỉ định lam Tiểu Đoan Phó/249 thay Đ/U
Huỳnh Đắc Hoá. .
Ngày 13-4, sau khi hết nhiệm vụ, Thiếu Tá Phan Sang được TK.Binh Thuận,
trả về đơn vị gốc la SD21BB. Lúc 4 giờ chiều ngay 13-4-75, xe chở TD249
va DD283, từ Phan Thiết tới Phước Thiệu Xuân thi đổ quân va tái chiếm
Phú Long bằng ba cánh : - 1 do DD283 tăng phái của DU Ba va DD3/249 của
Trung Uý Thời, đánh từ Lo Vôi tới Chợ va Cầu Phú Long. Cánh 2, do
DD4/249 của Trung Uý Thanh va Trung Đội Thám Sát của TD, đánh từ Lo Vôi
tới Trụ Sở Xa Phú Long. Cánh 3, do DD1/249 của DU.Đáp, tấn công hướng
đông. Rieng DD2/249 của Đại Uý Nguyễn Chánh Trúc, lam lực lượng trừ bị
cho TD. .
Trận chiến rất khốc liệt, kể cả Trung Đoan 6/SD2BB biệt phái, mấy ngay
trước vẫn phải rút về Phước Thiệu Xuân, vi hỏa lực của giặc rất mạnh,
lại chiếm được nhiều cao ốc trên QL1, đặt súng Đại bác 57 ly va B40 bắn
từ tren cao xuống. Them vao đó la pháo 105 ly, ma giặc đa chiếm được ,
bắn lien tục từ Binh An sang, lam thương vong nhiều người, trong đó có
Trung Uý Thời (DDT) va Trung Uý Nhan (DDP) của DD2/249, tại Ấp Phú
Trường. Vi vậy tới ngay 14-4-75, Tiểu Đoan phải đánh cận chiến bằng lưu
đạn, cũng như tranh gianh từng thước đất khắp các vị trí, mới chiếm lại
được xa Phú Long, ngoại trừ các ngôi chua, không dám đụng tới vi sợ hư
hại chốn tôn nghiem, kể cả sự yểm trợ của Không Quân va Pháo Binh tác
xạ..
Coi như TD249 và ĐĐ283 biệt lập cố thủ tại Phú Long, cho tới ngay
18-4-1975, thi nhận được lệnh của TK/BT báo, la sẽ có Đơn Vị khác len
thay thế, cho TD đa quá mệt mỏi và tổn thương nhiều, trong mấy ngay tử
chiến. .
Vì Miền Bắc BT bỏ ngỏ từ khi Phan Rang thất thủ, nên Binh Đoan Bắc Việt
tiến vao Phan Thiết rất nhanh va sáng ngay 18-4-75, đa tới Ta Dôn. Bởi
vậy Đại Uý Quý., xin Đại Tá Nghĩa, tăng cường cho TD249, Chi Đoàn Thiết
Giáp của SD2BB, đóng tại Phước Thiệu Xuân, cùng với TrD 6/SD2BB nhưng TK
không đáp ứng, vi các Đơn Vị tăng phái nay, đang chuẩn bị rút về Nam,
khi biết tin quân Bắc Việt sắp tới Phú Long. ..
Khoảng 6 giờ chiều ngay 18-4, qua hệ thống truyền tin, Đại Uý Quý, biết
BCH.
Tiền Phương của Đại Tá Nghĩa, đóng trên Lầu Ông Hoàng, đa rút ra bờ
biển, theo đường Phú Hai về Phan Thiết. Du nhận lệnh cố thủ Phú Long,
nhưng Quý không thể chấp hành lệnh, khi tất cả các đơn vị,kể cả Thiết
Giáp đa rút. Lúc đó, coi như TD249 và Đ&3272;283/DPQ la đơn vị đoạn
hậu. Tuy nhien cuộc rút quân, chỉ thực hiện, khi biết xe tăng địch đa
tới Xa Tuỳ Hoà, vào lúc 7 giờ tối. .
Theo kế hoạch, DD4/249 đóng ở Cổng Bắc xa nhất, rút trước. Con DD2/249
là thành phần trừ bị, nen rút sau cung. Vi nghĩ rằng sẽ về tái chiếm lại
, nen DU Quý không cho phá Cầu Phú Long, ngang sông Cả, trên QL1, như
lệnh của TK/BT, mà chỉ gọi Hải pháo . Trong lúc TD249 rút quân, thì máy
của Thiết Giáp/SĐ2BB, lien lạc ngăn chận, bảo chờ gở min. .
Thật sự , Đơn Vị nay đa rút , nhưng muốn gạt DPQ ở lại đoạn hậu,cho an
toan. Tại Lầu Ông Hoang, lúc đó con có DD1/275DPQ của Đại Uý Nguyễn Đinh
Uý, từ Ta Dôn rút về. Còn ÐÐ290/ÐPQ biệt lập của Ð/U Sâm, thì từ lâu ở
đó, để bảo vệ BCH nhẹ của TK va Khẩu Đội Pháo Binh 105, đóng tại đây.
Cuối cung trong đem 18-4-1975, TD 249 va DD283 rút về Rạng va được
thuyền đánh cá, chở tới Vũng Tàu. Riêng ĐĐ1/275 của Đại Uý Uý và ĐĐ290
của Đ/U.Sâm, chỉ rút khỏi Lầu Ông Hoàng, khi xe tăng VC tấn công . Tại
QL số 1, du SD2/BB cũng như các TD249/DPQ va TD275/DPQ rút về Phan
Thiết, nhưng các Trung Đội Nghĩa Quân vẫn ở lại, du có lệnh di tản.
Chính Họ đa bắn cháy một T54 , trước Nha Thờ Kim Ngọc, trong khi Mặt
Trận Không Có Đại Bang, không phải vi Đại Bang khiếp nhược bỏ chạy, ma
vi " Thời Thế Thế Thời Thời Phải Thế "..
** Thiếu Uý Lê Văn Thắng, Ban 3/TD/249DPQ/BT viết lại trận Phú Long : .
Nhớ lại "những ngày tái chiếm và tử thủ Phú Long " Thiếu Uý Le văn
Thắng, Phụ Tá Trưởng Ban 3/TD249/DPQ, hiện tạm cư tại Úc, cũng viết gần
giống sử liệu :.
Sau khi xuất viện từ bệnh viện Cà Mau, tôi được sự vụ lệnh thuyền chuyển
về Binh Thuận, tháng 12/1974 .Tôi về lại Binh Thuận thân thương, nhin
lại trường cũ, thầy xưa, gặp lại bạn be năm nào trong vui sướng. Tuy
nhien, về lại Binh Thuận lần nay, tôi được đưa về Tiểu Đoan 249/ ĐPQ của
Thiếu Tá Phan Sang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoan đóng lưng chừng núi Ta Dôn,
cũng như ở Binh An va Binh Lâm, tren Lien Tỉnh Lộ 8 (Phan Thiết-Ma Lâm).
Vi vết thương con nhiều mủ, nen được lam phụ tá Ban 3 của Trung Úy Ba.
Tôi chưa quen nhiều người tại Phan Thiết., ngoai những sĩ quan trong
tiểu đoan, như Trung Úy Thời (người Lại An), Đại Uý Tập (Mũi Né), Thiếu
Úy Ba (bạn học cũ, PBC 72, Lại An), Thiếu Úy Quận (Y Sĩ Tiểu Đoan)..
Điều tôi thấy sung sướng la cấp số trong đơn vị đầy đủ. Tôi tự hao về
Binh Thuận. Theo chỗ tôi biết, mỗi đem ông anh em về nghỉ, va luân phien
hết người nọ đến người kia. Khi trở lại, có những anh em đem cá, mực
len nhậu chơi. Tinh thần nay đa khác biệt hoan toan với những đơn vị của
tôi tại Bạc Lieu. Tinh huynh đệ chi binh, tinh chiến hữu thật la đậm
đa..
Khi con đóng quân tại núi Tà Dôn, Trung Úy Ba đề cử tôi đi theo đoàn
khai quang của Công Binh vài ngày để tiếp ứng khi cần. Khai quang gần
Tuy Hoa. Ngay khai quang cuối cung, man đem buông xuống. Hai anh Công
Binh rủ tôi vào quán nhậu rồi đưa tôi về sau. Tôi không đi. Tôi gọi máy
về nhờ Tiểu Đoan cho người đến rước. Khi tôi được rước về Tiểu Đoan, vừa
bước xuống xe thi hay tin hai anh Công Binh khi nay đa bị VC bắn lật xe
chết rồi. Thế la tôi thoát chết trong gang tất..
Tháng 3/1975, mất Ban Mê Thuộc, "tàn quân" chạy trên quốc lộ 1. Tôi chỉ
nghe kể là chết chóc nhiều tren đường chạy loạn. Người giết người để
cướp vang, tiền. Xe hết xăng bị đẩy khỏi đường ..Về đến Phan Thiết,
những người nay đốt kho xăng, bắn vào các tiệm ở đường Gia Long, đốt chợ
Phan Thiết ... Sự thật thi tôi không nắm vững vi luôn luôn có mặt tại
trận tuyến. Chúng tôi không lanh lương trọn hai tháng 3 va 4/1975..
Đến đầu tháng 4/1974, Đại Úy Huỳnh Văn Quý thay thế Thiếu Tá Sang, làm
Tiểu Đoan Trưởng va tái chiếm Phú Long. Thị trấn nay đa bị VC chiếm hai
ben đường Quốc Lộ 1. Chúng tôi di chuyển lên từ hướng Phước Thiện Xuân,
cách VC đang cố thủ tại Quốc Lộ 1 khoảng 50 thước. Nhiệm vụ thật nặng
nề, vừa tái chiếm Phú Long, vừa bảo vệ tai sản va nha cửa dân..
Đối với chiến thuật chiến tranh trong thành phố mà chúng tôi học được
qua phim ảnh, gnười Mỹ đa dung lựu đạn va vũ khí để chiếm lại từng căn
nha. Khi chiếm được khu vực nào thì nhà cửa của khu vực đó coi như the
thảm. QLVNCH thi nghèo nàn hơn, không thể dung số lượng đạn dược như vậy
cho chiến tranh trong thanh phố. Vả lại, chúng ta cần bảo vệ cả tai sản
dân. .
Lúc này, dân Phú Long đã di tản hết. Tiểu Đoàn chúng tôi tiến từng bước
một, chậm, vi VC nằm trong bóng tối đâu đó trong khi minh di chuyển tren
hướng quan sát của địch. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đóng quân nới nào thì chỉ
trong vong 10 phút, VC pháo tới đó. Có lần, Đại Úy Quý đa đơn thân độc
ma ra quan sát chiến trường. VC bắn vao áo giáp của ông ma đầu đạn vẫn
con trong áo..
Sau vài ngày, chúng tôi cũng đa giải tỏa được khu vực ben này Quốc Lộ 1,
tiến đến được mặt đường, có chốt đóng ngay cầu Phú Long..
Tin đồn bắt đầu bất lợi là có nhiều đoàn xe VC tiến về Phan Thiết, Đại
tá Nghĩa đa dời BCH từ Lầu Ông Hoang ở Phú Hai, tới Bải Thương Chánh để
chỉ huy va sẵn sang rời bỏ Phan Thiết bất cứ giờ phút nào..
Trong tình trạng khẩn cấp, tôi được lệnh đi với một người xạ thủ súng
cối 81ly, đến đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân. Tại đây, tôi lam bảng tác
xạ, để kịp thời yểm trợ các vị trí khi được thông báothông báo, bằng
khẩu súng cối 81 ly, khá chính xác..
Thời gian không còn tác dụng trên chúng tôi hay nói đúng hơn, tôi không
còn biết đến ngày tháng nữa. Sau nay, tôi chỉ dựa vao sách để biết ngay
mất Phan Thiết chứ thật tinh tôi không biết la ngay 18, 19 hay 20/4/75..
Trong ngày cuối cùng, Trung Úy Ba gọi tôi lên đai quan sát coi VC đi về
hướng nào. Đai quan sát tuy cao nhung tôi không thể thấy được gi. Đem
ấy, tôi được lệnh bắn cối dồn dập nhưng chính xác về các tọa độ được
cho. Chúng tôi bắn đến viên đạn cuối cùng. Khi tôi báo cáo hết đạn 81,
tôi được lệnh xếp cang súng, bỏ sẵn tren xe va đợi lệnh . Trung Úy Ba
vừa cười vừa nói với tôi: " Thắng, may đừng có chạy trước nghen". Tôi
trả lời: " Tôi sẽ chờ Tiểu Đoan, có di thi cung đi, có chết thi cung
chết"..
Tôi theo dõi tình hình qua máy truyền tin của tôi. Một lát sau, có báo
cáo từ chốt cầu Phú Long là xe tăng VC đến cầu Phú Long. Họ chạm trán
nhưng không ben nao nổ súng, xin lệnh từ Tiểu Đoan. Đại Úy Quý gọi về
Tiểu Khu xin lệnh. Lệnh từ Tiểu Khu, Tiểu Đoan chúng tôi về "Ma Trái Bí"
chờ lệnh mới. Xe với súng cối chúng tôi chờ sản trước cổng đồn Nghĩa
Quân Phước Thiện Xuân. Tiểu Đoan chúng tôi di chuyển gần tới chỗ tôi..
Trưởng đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân mà tôi quen tên đa nói rằng:
"Tiểu Đoàn chạy kệ họ, minh phải tử thủ. Đứa nao chạy tao bắn bỏ mẹ".
Chính câu nói này làm tôi vẫn còn thấy nhục nha từ ngày cuối cùng của
Phú Long, của Phan Thiết. Sau ngay mất Phan Thiết, trong thâm tâm tôi,
tôi luôn luôn kính phục người trưởng đồn Nghĩa Quân này. Khi cải tạo ra,
tôi hỏi thăm tin tức về anh ta và nghe nói anh ấy vào rừng tiếp tục
chiến đấu. Tôi theo Tiểu Đoan di chuyển về Ma Trái Bí (mật ma của Lầu
Ông Hoang), nằm đó chờ lệnh. Khoảng nửa tiếng sau, chúng tôi lien lạc
được với Tiểu Khu va được lệnh về tăng phái cho Thiếu Tá Hang Phong Cao
(Hải Long). Tiểu Đoan di chuyển suốt đem về Mũi Né. Ai cũng mệt mỏi
nhưng không có lệnh nghỉ ngơi. Tới gần sáng, chúng tôi đến cuối Rạng,
gặp nhiều người lính bỏ ngủ, họ nói Thiếu Tá Cao (Chi Khu Trưởng Hải
Long) đa ra tau đi rồi. Vi Chi khu đả bỏ ngo, nen Đại Uý Quý phải tim
thuyền đánh cá, để đưa TĐ249/ĐPQ về Vũng Tau
B-TỬ CHIẾN TRONG THÀNH PHỐ PHAN THIẾT:
Trong ngày 18-4-75, tình hình Phan Thiết đa bắt đầu hỗn loạn, du giặc
vẫn còn ở rất xa, bên kia phong tuyến của các Đơn Vị Địa Phương Quân
Binh Thuận đang tử thủ tại Tường Phong, Đại Nẳm, Phú Hội, Phú Long va
Quận Hải Long. Từ 7 giờ đem 18-4, sau khi BCH Nhẹ của Đại Tá Nghĩa, đóng
tren Lầu Ông Hoang, rút về Phan Thiết ra biển, thi Trung Đoan 6/SĐ2BB
va Thiết Giáp, cung các Tiểu Đoan 249/ĐPQ, TĐ275/ĐPQ, ĐĐ283 va 290/DPQ
biệt lập cũng rút, cung lúc với Chi Khu Hải Long. Trong Thị Xa Phan
Thiết, lúc 9 giờ tối đem 18-4, xe tăng va bộ binh của Bắc Việt, đa chiếm
được Toa Hanh Chánh, nhưng khắp các vị trí, vẫn con nhiều Đơn Vị Địa
Phương Quân Binh Thuận chống trả như Đại Đội 206 Trinh Sát của Đại Uý
Le Văn Tro, ĐĐ954/ĐPQ của Đại Uý Mai Xuân Cúc, Tiểu Đoan 229/ĐPQ của
Thiếu Tá Tiến, Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận của Thiếu Tá Phạm Minh, Yếu
Khu Châu Thanh của Thiếu Tá Cư va Xa Châu Thanh Phan Thiết của Thiếu
Tá Hải. Nói chung, khắp thanh phố lửa đạn mịt mu, VC tuy vao được trong
thanh phố nhưng chỉ cố thủ trong các vị trí vừa chiếm được, chứ không
dám bung ra trong đem, vi chỗ nao cũng con quân ta chiến đấu , chứ không
tan hang như các địa phương khác. Trong lúc đó, máy truyền tin của ba
Bộ Chỉ Huy Binh Thuận vẫn hoạt động lien tục, ra lệnh cũng như hướng
dẫn các đơn vị , tới các vị trí an toan, chờ các chiến hạm của Bộ Tư
Lệnh Vung 2 Duyen Hải, vao vớt chở tới Vũng Tau.. .
Trong đêm 18-4, Đại Tá Nghĩa, sau khi được một tau đánh cá chở ra chiến
hạm, liền được một trực thăng của QD3, chở ngay về Vũng Tau, cung với
Đại Uý Đặng Vũ Đang, Trưởng Phong 2 Tiểu Khu, để chuẩn bị kế hoạch
phương tiện, tiếp đón các Đơn Vị ĐPQ+NQ/Binh Thuận , đang tren đường di
tản tới. Có la nhân chứng sống thực trong giờ thứ 25 của VNCH, mới biết
nao la thân phận của người lính Miền Nam. .
Gần nửa đem 18-4-75, Thiếu Tá Nguyễn Cư, Yếu Khu Trưởng YK Châu Thành,
nhận lệnh trực tiếp của Bộ Chỉ Huy .Tiểu Khu Binh Thuận ban lệnh cho
tất cả các Đơn Vị Địa Phương Quân đang chiến đấu, trong thanh phố, cố
gắng tập trung về Bến Tau Kim Hải, phía sau Phi Trường va Quân Y Viện .
Đoan Mạnh Hoạch Phan Thiết. Do đó, ngay trong đem, Đại Đội 954/ĐPQ của
Đ/U.Mai Xuân Cúc , chiến đấu tại Ấp Đại Hoa, đa phải vượt sông Ca Ti,
tới Quận Đường Ham Thuận ở Ngả Hai, rồi từ đó băng ngang qua Phú Khánh,
đến điểm tập trung Kim Hải..
Kính phục nhất là tại Quân Y Viện . Đoàn Mạnh Họach, trong lúc giặc gần
như đa chiếm trọn thanh phố, thi trong bệnh viện, ngoại trừ Chỉ Huy
Trưởng, Thiếu Tá Bác Sĩ Vo Đạm (Hiện có phong mạch tại Boston-Mỹ), khuân
vác tất cả đồ đạc va cong vợ con, trốn về Sai Gon, để kịp qua Mỹ, trước
khi giặc vao. Con đơn vị, từ các Y,Nha, Dược Sĩ cho tới quân nhân cơ
hữu các cấp , du biết giờ 25, vẫn miệt mai lam việc, cứu sống bao sinh
mệnh của thương binh va đồng bao chiến cuộc..
Do nhu cầu, Đại Úy Y Sĩ Lê Bá Dũng, khi vào Cục Quân Y tại Sai Gon lãnh
thuốc men và y cụ, đa được Chuẩn Tướng Phạm Ha Thanh, Cục trưởng Cục
Quân Y, bổ nhiệm lam Quyền Chỉ Huy Trưởng , đồng thời ban báo thị tầm
na, việc đao ngũ của Thiếu Tá Đạm. Ngay 8-4-75, Đề Đốc Chung Tấn Cang,
Tư Lenh Hải Quân có tới Phan Thiết họp với Đại Tá Nghĩa, để soạn thảo kế
hoạch di tản đường biển, nếu Binh Thuận bị nguy cấp. Dịp nay, TK đa cấp
cho QYV một máy truyền tin PRC25, nhờ vậy có thể cập nhật tin tức từng
giờ..
Trong ngày 18-4-75, dù Phú Long mịt mù lửa đạn, nhưng mặt trận Nam Phan
Thiết vẫn còn an ninh, vi đa có sự phong thủ của Lien Đoan địa Phương
Quân Ham Thuận của Thiếu Tá Dụng Văn Đối, Quận Trưởng. Ngoài ra khu vực
nay con có nhiều đơn vị khác hiện diện, như Lien Đội Đặc Nhiệm Nông
Trường Sao Đỏ va nhất la 2 TĐoan /BĐQ di tản từ Quảng Đức về chờ phương
tien vao Nam. Vi vậy Quân Y Viện Đoan Mạnh Hoạch rất an toan.
Chừng 7 giờ tối, VC đa vào Phan Thiết và ác chiến trong thanh phố, QYV
nhờ có máy PRC25, nen biết tin tức. Cung lúc, lại có một đơn vị của
Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận, do Thiếu Tá Phạm Minh hướng dẫn, tren đường
tới Bến Tàu Kim Hải, có lien lạc với Quân YViện cho biết tin tức chiến
sự. Theo Phó Tỉnh Trưởng Binh Thuận. Phạm Ngọc Cửu, lúc đó con đang ở
Phan Thiết, thi hai chiếc xe thiết giáp tắt đen chạy ngang qua đó, la
của quân ta, chứ VC tới trưa ngay 19-4-1975 mới dám len khu vực nay, sau
khi QLVNCH đa di tản hết..
11 giờ 30 khuya cùng ngày, Đại Úy Dũng mới nhận được lệnh di tản. Cũng
may, địa điểm của bệnh viện nằm sát bờ biển,lại đa lam sẳn con đường,
nên việc di chuyển thương bệnh binh ra tau Hải Quân, cũng không trở
ngại. Mặc du lúc đó chỉ con một phần quân nhân ở lại, nhưng cũng đa di
tản được 200 thương bệnh binh . .
Từ sáng ngày 19-4-1975, các đơn vị Địa Phương Quân Bình Thuận đa tập
trung rất đông tren bai biển Kim Hải, để chờ tau vao rước. Buổi sáng
nước thủy triều xuống, nên chiến hạm không thể vao sát bờ, nen phải thả
các loại tau há mồm LCM vào rước các đơn vị.
Loại tàu này có thể chở được tới 2 thiết vận xa M113. Công tác hoàn tất
lúc 12 giờ trưa nhưng các chiến hạm của Vung 2 Duyen Hải, vẫn đậu ở
ngoai khơi Phan Thiết chờ lệnh, tới 2 giờ trưa mới len đường và cập bến
Vũng Tàu lúc 2 giờ sáng, ngay 20-4-1975. Tại Bến Đinh, lúc đó có sự hiện
diện của Đại Tá Vũ Huy Tạo, Thị Trưởng Vũng Tau va Đại Tá Ngô Tấn
Nghĩa, Tỉnh Trwởng .Binh Thuận chực sẵn, đón các đơn vị, đưa về Trung
Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, tái trang bị va tiếp tục chiến đấu khắp lanh
thổ Phước Tuy, cho tới khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hang, mới ra ngủ.
Sau đó, tất cả các Sĩ Quan của TK.Binh Thuận, bị chở về Xuân Lộc va tập
trung trong doanh trại củ của Tiểu Đoan 1, Trung Đoan 43/SĐ18 BB va đi
cải tạo chung với Sĩ Quan của SĐ 5 BB, khắp các trại tu miền Bắc. Ngoai
ra, đem 18-4-1975, Thiếu Tá Dụng Văn Đối, Quận Trưỏng .Ham Thuận , đa
chỉ huy các Tiểu Đoan Địa Phương Quân , Lien Đội Nghĩa Quân , Cán Bộ Xây
Dựng Nông Thôn , Cảnh Sát, Vien Chức Xa Ấp thuộc Chi Khu, cung với Pháo
Binh va một Chi Đội Thiết Giáp V100, di tản bằng đường bộ vao tới Binh
Tuy. Sau đó được tau Hải Quân chở vao Vũng Tau va tăng phái cho Sư Đoan
22 Bộ Binh của Tướng Niệm, đang trấn giữ tại Cầu Bến Lức-Long An , cho
tới khi tan cuộc. .
20-4-1975, BT coi như đa lọt vào tay Hà Nội, VC lập ra ủy ban quân quản
thị xa, do thiếu tá VC Từ quảng Tuyen lam Chủ tịch, khắp nơi lập ra 16
địa điểm để các quân, công,cán,cảnh VNCH tới khai báo trình diện, để
cung nhau vào địa ngục trần gian tại Cà Tót, Huy Khiem,Sông Mao va mọi
nẽo đường tận tuyệt. .
Cuộc chiến đa qua nhưng không bao giờ xoá nhoà nổi vết tích trong tâm
trí người Việt. Vinh hay nhục thi nay đa được lịch sử xác nhận, nen
không cần phải ca ngợi hay biện minh về cái thua hay cái thắng, một công
việc thừa thải khi mặt thật của cộng sản Hà Nội được phơi bay suốt 30
năm qua., nen chỉ xin bạn be ai có dịp về thăm que hương miền biển măn,
đừng quen : .
'có xuống bến qua nghĩa địa
đừng quen mặc niệm những hồn oan
bỏ minh trên biển khi di tản
u uất bao năm nỗi hận hờn
đừng quen thăm lại Quân Y Viện
thắp một nén hương mộ bạn minh
lính trận dân lành chung buổi giổ
tháng Phan Thiết hận đào binh ..'
Xóm Cồn tháng 3-2005
Mường Giang
************************************
Sư Đoàn 18 Bộ Binh Và Những Ngày Tử Chiến Tại Xuân Lộc
Hồ Đinh - KBC 4424
Kính tặng SÐ18BB, riêng Trung Đoan 43BB
Và Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế (TDT/2/43)
Qua những tài liệu lịch sử đa bật mí, nên ngày nay ai cũng biết , trong
suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1960-1975),người Mỹ gần như cung
cấp cho VNCH, tất cả vũ khí, quân trang, tiền bạc va những hệ lụy của
cuộc đời mà bi thảm nhất là sự mất nước vao tạy cọng sản quốc tế. Theo
sự chỉ trích gay gắt của Đô đốc Sharp, trong cuốn ' Strategy for defear
', vị tư lệnh đầu tien của Đồng Minh tại Thái Binh Dương, thi sự thất
trận tại VN vao ngay 30-4-1975, ro rang la cố ý, do những ten đầu nảo
dân sự, ngồi tại Hoa Thịnh Đốn, tự trói một tay của quân lực Hoa Kỳ va
Nam VN, trong khi ho đang tử chiến với khối cọng sản đệ tam quốc tế, qua
tấm binh phong, mang ten Bắc Việt. Tren tạp chí Encounter tháng 8-1981,
ký giả người Mỹ Robert Elegant , cũng đa hai tội bọn trí thức, khoa
bảng va truyền thông Tây phương thien tả, đa dung vũng bun văn, báo,
truyền hinh của minh, để giúp cọng sản đánh bại nước Mỹ. Ông đa chua
chát nói thẳng với thế giới rằng :'o Bắc Việt đa thảm bại tren chiến
trường nhưng cuối cung ngay 30-4-1975, người Việt quốc gia, đa phải mất
nước tại Hoa Thịnh Đốn, Nữu Ước, Ba Le, Luân Đôn, Huế va Sai Gon , vi
trận giặc báo chí, từ những cái miệng thúi vô liem sỉ, chuyen bẻ cong
ngoi bút, dựng đứng câu chuyện, để hại người . '
Ngày nay ai cũng biết hết những thành tích của QLVNCH, qua thời gian tồn
tại suốt 20 năm máu hận (1955-1975) giữa biền thu trời lệ, giặc ngoai,
giặc trong, giặc đâm sau lưng chiến sĩ., ngay cả trong lời kinh tiếng kệ
va những ngón tay lần hạt đỏ, đen. Cũng nhờ người lính VNCH đa can
trường anh dũng, trong suốt cuộc chiến, cho tới giờ phút cuối cung tháng
4-1975, bị Dương văn Minh quyền tổng tư lệnh, dung kỷ luật quân đội,
bắt mọi người đầu hang giặc, mới phải buông súng tan hang. Nhờ vậy, ma
một thế hệ sau của VN ngay nay tại hải ngoại, mới có cơ hội ngẩn mặt
nhin trời, lấy lại sự hanh diện của cha anh trong cuộc sống lưu vong uất
hận trung hằng.
Tóm lại như bình luận của Luật sư Lawrence L.O'Brien trên The Wall
Street Journal vao ngay 25-1-1983, chứng minh la từ sau ngay ký hiệp
định ngưng bắn tháng 1-1973, nước Mỹ va quốc hội Hoa Ky,o do đảng dân
chủ phản chiến cầm chịch,kể cả cái gọi là Lien-Hiệp-Quốc, gần như ra mặt
bưng bợ cọng sản. Bởi vi phần lớn, họ đa bị Nixon, Kissinger va Việt
Cộng , du gạt, lừa bịp , dễ dang như lừa con nít, qua cái thủ đoạn xảo
quyệt, được tiếp tay công khai bởi bọn nhân danh, khoa bảng, trí thức ăn
hại, khôn nha dại chợ của miền Nam lúc đó Năm 1944, người Mỹ điều động
5000 quân xa, để chuyển Lộ quân 1 va 2 của Đồng Minh, xuyen nước Pháp,
đánh Đức. Lúc đó va về sau, người Mỹ khoe la thanh tích vĩ đại, để cho
ai cũng biết va khen ngợi. Nhưng tại chiến trường Đông Dương, từ
1960-1975, khối cọng sản quốc tế , đa dung 10.000 xe bộ đội, để đưa 20
sư đoan từ Bắc Việt vao xâm lăng Miền Nam VN, qua đường rừng Trường Sơn.
Rồi nhờ cái loa tuyen truyền của trí thức Miền Nam, đâm mu thế giới,
nen rốt cục ai cũng tin va bảo đó la lực lượng của quân cách mạng Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam. Tất cả đều la thực chất của một cuộc chiến vừa
đánh, vừa đam hay đúng hơn la hanh động con buôn chính trị của sieu
cường Mỹ, giờ chót bán đứng Đồng Minh VNCH cho kẻ thu, đổi lấy sự lien
kết chiến lược với Trung Cộng, gở lại lời vốn đa tieu phí tại chiến
trường nhiều trăm tỷ đô la va ngan ngan sinh mạng. Phải biết như vậy,
chúng ta mới đánh tan được cái huyền thoại, tại sao Miền Nam sụp đổ chỉ
có 55 ngay va cuối cung, xin thương xót cho thân phận những người đa cầm
súng chiến đấu tại miền Nam suốt 20 năm qua, quanh quanh chỉ la kẻ thu
va khung cảnh xa hội vô ơn bạc bẻo. Đời sống của lính va vợ con, nhất la
khi lính nằm xuống hay bị thương đui, que, tan phế, có thua gi kiếp
sống của gia cầm, vậy ma cứ bảo Lính minh đánh thue cho giặc Mỹ ?. Tồi
tệ hơn hết khi đi tim sự thật, la câu chuyện người Mỹ trong lúco tháo
chạy, đa dung cái thủ đoạn ' ăn không được phải phá nát bấy', khi đưa
cái ba vật chất an toan, lam mồi để dụ dỗ một số cấp chỉ huy của QLVNCH,
nhất la không quân, đao ngũ bỏ đơn vị, đem máy bay trả lại để được tới
Hoa Kỳ. Chính sự tồi tệ tren, đa góp phần phá hủy tinh thần chiến đấu
của quân lực VNCH, trong lúc nguy ngập. Sau rốt la việc sử dụng bom CBU
đâu có trái với qui ước chiến tranh đa ký kết. Theo hai ký gia người
Pháp thân cộng la Jean Lartégui va Pierre Darcourt, đa chứng kiến cảnh
quân Bắc Việt bị chết ngạt tại Xuân Lộc, vi bom nay, đa viết :' Miền Nam
sẽ không mất, nếu Mỹ thả tiếp vai chục trái CBU vao đoan quân xâm lược,
đang công khai di chuyển tren các quốc lộ, thế nhưng Hoa Kỳ đa không
làm '.
Mới đây, trong tác phẩm ' 55 days of the fall of South Vietnam', tác giả
Alan Dawson, có nhắc tới hai tiểu đoan con lại của Nam VN, chừng 600
người, giữa trung vây của Bắc Việt , sau khi QLVNCH được lệnh rút bỏ
Xuân Lộc. Chuyện có thật nhưng Alan viết sai dữ kiện, vi giờ chót rút
quân, không có một đơn vị nao, kể cả Nghĩa quân, bị buộc ở lại để bảo vệ
Xuân Lộc, lúc đó không con giá trị chiến lược, vi Bắc Việt đa tim đường
khác để tiến quân về Sai Gon. Đơn vị bị kẹt lại, đó la Tiểu Đoan 2,
Trung Đoan 43, SD 18BB, do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế lam Tiểu Đoan Trưởng.
Trong suốt những ngay tử chiến tháng 4-1975, TD2/43/18 có nhiệm vụ đóng
tren Núi Thi., ngoại ô thị xa Xuân Lộc, để bảo vệ dan pháo của Su Đoan.
Khi Tướng Le Minh Đảo, tư lệnh Mặt Trận Long Khánh, nhận lệnh của Bộ
Tổng Thanm Mưu QLVNCH, qua lệnh trực tiếp của Trung tướng Nguyễn Văn
Toan, Tư Lệnh Quân Đoan 3, ngay tại mặt trận, ' BỎ LONG KHÁNH' va triệt
thoái tất cả các đơn vị đang chiến đấu, gồm SD18BB, Tiểu Khu Long Khánh,
Lữ Đoan1 Nhảy Du, Biệt Động Quân..thi Tiểu Đoan 2/Trung Đoan 43/SD18BB
la đơn vị cuối cung, trong cuộc rút quân, vi con có nhiệm vụ đánh nghi
binh, chận đường, để giúp đại quân an toan trở về coi sống, nen bị thiệt
hại nặng nề. Con luật sư Nguyễn văn Chức thi dựa vao tai lieu của Hoang
Cơ Thụy va Frank Snepp, nen nói trực thăng tới bốc 4 tiểu đoan con lại
của SĐ18BB, trong đó có Tướng Tư Lệnh Le Minh Đảo, Đại Tá Trung Đoan
Trưởng TrĐ43/18 la Le Xuân Hiếu, đang bị 40.000 bộ đội Bắc Việt tran
ngập. Thật sự trong cuộc lui quân, từ tướng xuống tới hang binh sĩ,
không có ai được trực thăng tới bộc về, ma tất cả đều hanh quân bộ. Lúc
các cánh quân VNCH, hầu hết đa về gân như an toan tại Binh Giả, Phước
Tuy,thi TD2/43'18BB, chỉ một minh con trong biển giặc như Alan Dawson mô
tả. Sự thật la vậy đó, các nhân chứng như tướng Đảo, các Đại Tá Lược,
Lến, Hiếu. Dũng, Công..của SD18), Đại Tá Phạm Văn Phúc-Tỉnh Trưởng Long
Khánh, Đại Tá Đính , Lữ Đoan Trưởng Lữ Đoan 1 Nhảy Du, các Tiểu Đoan
Trưởng thuộc SD18BB, có tham dự tra65n đánh va cuộc lui quân như Nguyễn
Phúc Sông Hương, Ý Yen-Phan Tấn Mỹ, Đại Uý Le Sơn, Chi Đoan Trưởng Thiết
Đoan 5 Kỵ Binh, các Đại Uý Đặng Phúc (Biệt Đội Quân Báo), Ngô Gia Hậu
(Phóng Vien), Nguyễn Hao (Phong 3.SD)..va nhất la Thiếu Tá Nguyễn Hữu
Chế, Tiểu Đoan Trưởng Tiểu Đoan 2/TrD43/SD18BB, người từ coi chết trở
về, vao tu tại Bắc Việt va tới Mỹ qua diện HO..đều la những nhân chứng
sống, có đủ tư cách, để nói va viết những sự thật lịch sử.
Tóm lại, đến giờ nay, sự đau đớn nhất của người Lính Miền Nam, la thấy
cái thân phận bọt beo của chính minh, cứ bị đem ra mổ xẻ rao bán, bởi
những người không hề biết gi về thực chất của đời lính, du họ có là
lính. Nhưng lịch sử vẫn la lịch sử, câu chuyện sử gia số 1 của nước Mỹ
la giáo sư Joseph J.Ellis, tại Đại Học Mount Holyoke, vừa bị nha báo
Walter V. Robinson, lột mặt nạ trong bai báo ' Professors past in doubt
', đăng tren tờ Boston Globe ngay 18-6-2001, về những đề tai có lien
quan tới Chiến tranh VN va sự Ellis du ở trong quân đội Mỹ nhưng chỉ
ngồi dạy học ở Hoa Kỳ., nen đa mao tôn cương, khi viết trận đánh không
có đại bang. Mới đây la bai học thất cử của ứng cử vien tổng thống Mỹ,
thượng nghị sĩ John Kerry, cũng do chính khẩu nghiệp, đa lam hại thân
minh.Việt Cộng va những kẻ lừa đảo ngoi bút, đa đến lúc phải đối mặt với
những tra vấn của lương tâm, trong cuộc chiến VN vừa qua, vi cuộc chiến
đấu thần thánh của QLVNCH, trách nhiệm bảo vệ que hương, trong đó có
SD18BB,LD1Du,BDQ,DPQ va NQ Long Khánh..vao những ngay cuối tháng 4-1975,
la câu chuyện lịch sử , trong dong sinh mệnh của Dân Tộc Hồng Lạc, mien
viễn sẽ không bao giờ bị phủ nhận của bất cứ một ai, qua thời gian hay
miệng lưỡi nao, kể cả những lỗ miệng có gan có thép, nhổ ra nuốt vao của
bọn văn cộng giặc cộng.
1-THÂN PHẬN NGƯỜI LÍNH VNCH TRONG 20 NĂM CHINH CHIẾN (1955-1975)
Sau ngày 30-4-1975, que hương của người Việt quốc gia bị cọng sản quốc
tế dô hộ hoan toan từ nam ra bắc, mọi người mới sáng mắt thấy rằng,
không có một lanh tụ nao của đảng, từ Hồ Chi Minh xuống tới chang du
kích, biết coi trọng sinh mạng của người dân, bởi vi nguyen tắc thanh
công của cọng sản, la chỉ có thẳng tay bắn giết , thi mới có sự phục
tung. Rieng chuyện dai VN, vi chính người dân lúc trước tự xiềng xích
minh, để chui vao thien đang xa nghĩa, cho nen nay, cũng chỉ có người
dân, tuy thầm lặng đứng ben vệ đường thời gian, nhưng lại la động lực
chính, bẻ gay được khóa cổng thien đường mu, để trở về cuộc sống tự do
no ấm của con người.
Ngày nay, mỗi lần đọc lại lịch sử, cảm thấy ngui ngui va thương xót biết
bao cho dân tộc minh, bỗng dưng trở thanh nhược tiểu, vi cả nước mu
quáng nen bị Hồ Chí Minh, thắng một vụ lừa bịp bẩn thỉu nhất , trong
dong sử Việt, từ vụ cướp chính quyền tháng 8-1945, cho tời sự lanh đạo
của cọng sản trong chin năm kháng Pháp. Cũng từ đó, người Việt quốc gia
coi như đứng trước nga ba đường sinh mệnh va du có chọn lối nao chăng
nửa, rốt cục cũng chỉ dẫn tới địa ngục mà thôi.
Năn 1951, thống chế De Lattre de Tassigny sau khi chận đứng Việt Minh
tại Vĩnh Yen, Bắc Việt, đa len lớp người Việt lúc đó thụ động, hen nhát,
không chịu ra chiến trường để bảo vệ que hương minh. Trong cuộc chiến
Đông Dương lần 2 (1955-1975), thế giới ben ngoài, qua tuyen truyền từ
báo chí của VC va truyền thông Mỹ, Tây Phương, nen đa đánh lận cuộc xâm
lăng của cọng sản quốc tế, thanh một tấn tuồng chống ngoại xâm của Ha
Nội. Nữ ký giả Ý la Oriana Fallaci , trước trận mua he đỏ lửa 1972, khi
tới Ha Nội phỏng vấn, Vo Nguyen Giáp, mới biết Bắc Việt đa nướng tren
800.000 sinh mạng bộ đội tại Miền Nam, trong thời gian qua, trước khi
tiếp tục nướng trong trận he đỏ lửa 1972 va địa ngục Xuân Lộc tháng
4-1975. Điều nay cho thấy la Cọng Sản không bao giờ thiếu nhân lực, tiếp
tế lẫn tinh báo. Ngược lại thi mai mỉa biết bao, trong cách đối xử của
người dân ta đối với phe minh, nhất la những vung bị giặc tạm chiếm hay
la xôi đậu. Nói chung , Chính phủ VNCH trong suốt 20 năm, cố gắng gần
như tuyệt vọng, chỉ mong mang lại cơ hội sống tự do, no ấm cho người
dân, nhưng giống như ngay trước, vi quá khao khát độc lập, nen người dân
đa khoán trắng cho họ Hồ va đảng . Lần nữa, trong cuộc chiến, họ cũng
bỏ mất cơ hội cuối cung. Nói như vậy để mọi người thấy ro thân phận của
người Lính Miền Nam, qua tấm long hy sinh cao cả, trong gần một phần tư
thế kỷ, phải chiến đấu ở một chiến trường bất hạnh, thu nghịch, du rằng
những người Lính ấy, đa phải đem cái mạng sống cung với hạnh phúc của cá
nhân va gia đinh minh, bảo vệ lang xóm, chua nha thờ va sinh mạng của
người dân miền Nam, trong đó có nhiều kẻ đang chực chờ giết hại Lính. Du
vậy, bao nhieu xương máu của QLVNCH nói chung, đa hy sinh vô cung ý
nghĩa, phần nao đa mang đến no âm tự do cho mọi người, du chính quyền
quốc gia chưa được toan hảo trọn vẹn như mong muốn, trong thời gian
1955-1975.
Ra đời từ năm 1950 nhưng quân đội Quốc Gia VN, coi như chỉ được chính
thức nhin nhận bằng văn kiện hanh chánh, trong ngay Quân Lực 19-6-1965.
Sự nghịch lý nay, phần nao nói len những bất hạnh chồng chất, đa va sắp
tới với một quân đội mang đầy máu lệ, ngay từ ngay thanh lập. Sự lộng
hanh của báo chí va truyền thông Mỹ, gần như trong suốt cuộc chiến, đa
trút hết căm hờn len quân đội VNCH, lam tác hại ghe gớm đến tinh thần
chiến đấu của người lính, đến nỗi nha báo Mỹ la Robert Elegant phải ngao
ngán viết rằng, chiến tranh VN trước hết đa thua trong trận giặc miệng
va nước bọt tại hậu phương.
Ngày 17-4-1961, tổng thống Mỹ John F Kenedy, nghe xúi dại của CIA, dưa
1000 quân đổ bộ len đảo Cuba, lật đổ Trum Fidel Castro nhưng kế hoạch
Bay of Pigs hoan toan thất bại, lực lượng đổ bộ bị bắt sống gần hết va
Mỹ phải đem máy cầy cùng xe ủi đất, chuộc tu binh về. Thua me gỡ bai
cao, Kenedy đem con thieu thân Nam VN lam vật tế thần, gở thể diện. Sứ
mệnh nay, được giao cho Đại Tá Lansdale, mở cuộc chiến tranh bí mật (The
Secret War) tại miền bắc VN va Lao, nói nôm na la man đem con bỏ chợ.
Tiếp tới la sự ngây thơ của Mỹ, dại dột ký thỏa ước trung lập Lao, giúp
Bắc Việt mượn đường xăm lăng miền Nam. Cuối cung la gởi 12.000 cố vấn
sang Nam VN, sau khi bị Trum đỏ Lien Xô la Khrushchev nhục mạ tại ban
hội nghi thượng đỉnh. Tóm lại như Edward Weintal va CharleBarlett viết
trong ' Facing the Brink ', thi Kenedy đa nghĩ rằng đưa vai chục ngan cố
vấn vao VN, để buộc Ha Nội từ bỏ mộng cuồng xâm nhưng đó lại la sự đien
rồ, để cho giặc có cái cớ, gây chiến tranh xâm lược VNCH ma thôi. Máu
VN bắt đầu đổ từ đó, bởi sự ngông cuồng lếu láo của tổng thống Mỹ.
Với tổng thống Lyndon Johnson, thì tình trạng VN càng thê thảm hơn, vi
ro rang khi len thế chức tổng thống Hoa Kỳ, thay Kenedy bị ám sát,
Johnson chỉ vi rất sợ bị đảng Cộng Hoa buộc tội quá nhu nhưọc khi đương
đầu với cọng sản, nen đa đưa nước Mỹ va Miền Nam VN vao một cuộc chiến
tranh kỳ lạ nhất trong lịch sử , với sách lược ' không cho thắng '. Như
John Fisher, đô đốc của Anh đa viết :' thực chất của chiến tranh la tan
bạo, đánh giặc ma cầm chung la ngu xuẩn, nen muốn đạt chiến thắng, phải
đánh mạnh va đánh khắp nơi '. Theo các nha quân sử, trong chiến tranh
VN, Mỹ chỉ cần phong tỏa đường biển, oanh tạc bien giới Việt-Hoa-Lao va
cho lệnh QLVNCH tấn công trả đũa vao Bắc Việt, thi giặc đa yen từ lâu.
Nhưng Johnson thi lam ngược lại, hạn chế tối đa các mục tieu tren lanh
thổ Bắc Việt, với lý do sợi chọc giận Bắc Kinh. Tại Lao, các căn cứ của
Bắc Việt được coi la bất khả xâm phạm, cấm tấn công . Đồng thời Johnson
đưa đề nghị viện trợ kinh tế, dụ Việt Cộng chấm dứt xâm lăng Miền Nam,
nen đa bị giặc Cộng khinh bĩ xem thường, vi đa biết được con bai tẩy
'kém nhất' trong quân bai Domino, chính la sieu cường Hoa kỳ, ma khối
cọng sản lúc đó ngạo la con cọp giấy..
Với tổng thống đảng cọng hòa Richard Nixon , ngoai bệnh chủ quan, tự
tin, tự tôn của Kennedy, Johnson con la một tổng thống Mỹ lien hệ sâu
đậm nhất trong chiến tranh VN, bị kết tội la kẻ xảo quyệt, bội tín, bất
nhân, nen dân chúng Mỹ ghét nhất . Do thanh tích bán đứng Nam VN cho
cọng sản đệ tam quốc tế vao ngay 30-4-1975, cũng như tội đa lien kết với
trum đỏ Mao Trạch Đông năm 1972,vi lợi lộc của Mỹ ma phản bội thế giới
tự do, nhân quyền, nen sau 25 từ chức tổng thống , được các nha báo Mỹ
xếp hạng, chỉ đứng tren tổng thống trốn quân dịch la Bill Clinton.
Thành tích khôi hài nhất của cặp Nixon-Kissinger là chủ thuyết ' Nixon',
hay 'VN hóa chiến tranh', thực chất la cuộc chạy lang, bỏ bạn, vô liem
sỉ của một sieu cường số 1 lúc đó va ngay cả bây giờ. Nói ro hơn, Nixon
chỉ vi quyền lợi cá nhân, nen tuyen bố ' đơn phương' rút quân , trong
lúc đang hợp đồng chiến đấu với nhiều quốc gia khác. Đây la một sự lố
bịch va con tan nhẫn đối với sự sống chết của VNCH. Trước tin nay, Ha
Nội chỉ cần ngồi chờ để thừa cơ đánh lén. Rieng những man dội bom va
đánh vao mật khu Mo Vẹt tại Kampuchia năm 1970, Hạ Lao 719 cũng la những
tro bịp, dung máu xương của QLVNCH lót đường cho cặp Nixon-Kissinger ,
mua thời gian cho quân Mỹ về nước sớm hơn hai năm, trước khi Nixon tái
ứng cử vao năm 1972. Trong hồi ký ' A Sldier's Report ' của tư lệnh Mỹ
tại VN, tướng Westmoreland đa vô cung cảm phục va thương xót người lính
VNCH, tham dự trong chiến dịch Lam Sơn 719. Ông đánh giá cao QLVNCH, khi
cho biết, chính kế hoạch nay la của Kissinger, định dung 60.000 quân Mỹ
nhưng rồi thấy không chắc thắng trận, nen đa bỏ ý định va bắt ép tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu thi hanh. Theo sử liệu, trong trận nay, VNCH chỉ
có 17.000 quân va du bị tổn thất nặng, do Mỹ thất hứa không yểm trợ đủ
hỏa lực pháo va không yểm, nhưng Sư Đoan 1 Bộ Binh cũng đa đạt được mục
đích cuối cung, la đặt chân vao cứ điểm Tchepone như Nixon mong muốn.
Tóm lại suốt cuộc chiến 1960-1975, người Mỹ lúc nào cũng muốn QLVNCH
chiến thắng cọng sản quốc tế, trong khi chính minh không lam được. Vô lý
hơn la bó buộc người lính Miền Nam phải chiến đấu, trong khi không cung
cấp đầy đủ vũ khí, quân dụng, kể cả việc ngăn cấm không cho tấn công
giặc. Chưa hết, chỉ vai ngay sau khi Nixon nhậm chức tổng thống lần 2,
thi quốc hội đảng dân chủ Hoa kỳ, đa cắt xén những hứa hẹn ma Nixon hứa
với Nam VN trước khi VN hóa. Tồi bại nhất la quốc hội của đảng dân chủ,
đoi Nixon phải tiết lộ bí mật quốc phong, để kịp báo cho Ha Nội , tấn
công VNCH. Cuối cung lý do ma Việt Cộng phải ký với Mỹ tại Ba Le tháng
1-1973, nói chung la không con chịu nổi những đợt oanh tạc khủng khiếp
va hang rao thủy lôi quanh hải cảng Hải Phong nhưng tren hết, theo tố
cáo của nhân chứng Stephen Young, vi cặp Nixon-Kissiger cam kết với VC,
la sẽ không đoi quân Bắc Việt rút về lại ben kia vỹ tuyến 17 như tinh
thần hiệp định Geneve 1954, nen Ha Nội mới ký THỎA HIỆP BỊP, con Mỷ thi
ký BẢN KHAI TỬ VNCH. Sau nay chính Stephen Young đích thân tới hỏi
Nixon, có biết Kissinger tự ý sửa ' Bản đề nghị ngưng bắn của đại sứ Mỹ ở
VN la Bunker không ', Nixon trả lời ' KHÔNG '. Một điều bí mật khác, la
Kissinger trong thời gian hanh sử chức vụ Tổng Trưởng Ngoại Giao va Cố
Vấn An Ninh Quốc Gia cho TT.Mỹ, đa hoan toan học theo đúng sach lược của
ten điệp vien Pháp thân cộng Jean Saintery ( đại diện phe De Gaulle năm
1945 ), một kẻ đa từng hợp tác với Hồ Chi Minh, để thực dân Pháp công
khai trở lại Bắc Việt năm 1946. Chính Saintery đa chỉ dậy bai bản , giúp
Kissiger bán đứng Nam VN cho Ha Nội, gián tiếp trả thu việc chính phủ
VNCH theo Mỹ, hất chân thực dân ra khỏi đất Việt.
Cũng liên quan tới Người Lính VNCH, qua tài liệu của MACV mới phổ biến,
cho biết, suốt cuộc chiến, Nam VN đa có nhiều binh sĩ đao ngũ nhưng đó
lại la một điều rất kỳ lạ, vi Lính đao ngũ không phải để đầu hang Việt
Cộng, m họ muốn trở về nguyen quán đầu quân vao các đơn vị địa phương,
để chiến đấu gần gia đinh minh. Tinh yeu que hương của người Việt la vậy
đó, chỉ khi nao không con con đường nao khác để lựa chọn, họ mới đanh
gạt lệ bỏ xứ ma trong đau khổ. Cho nen đâu lạ, năm 1954, chia đôi đất
nước, không rieng gi 300.000 binh sĩ va gia đinh của Quân đội Quốc Gia,
ma con cả triệu người dân binh thường khác, đứt ruột, lia nơi chôn nhao
cắt rún ở miền Bắc, để di cư vao Nam, vi họ không muốn sống chung với
cọng sản bạo tan. Con Dwight Owen cố vấn My,o thi nói QLVNCH không có
những thứ tối thiểu ma các quân đội nước khác có, từ lương bổng, khẩu
phần hanh quân, nghĩ phép..tới tinh thương lang xóm. Chính những điều
nay lam giảm sút tinh thần va hiệu năng chiến đấu. Nhưng tất cả cũng đều
la phép lạ, khiến cho người lính Miền Nam vẫn tiếp tục chiến đấu cho
đến giờ phút cuối cung tại Sai Gon, trong khi Quân Đoan 4 vẫn an toan va
chờ Chính phủ trung ương di chuyển tới, để lại tiếp tục chiến đấu, thi
có lệnh buông súng đầu hang giặc. Tổng thống Nixon những ngay cuối đời,
trong tác phẩm ' No more Vietnams ' nói rằng nếu tin vao báo chí Hoa kỳ,
thi VNCH không con tồn tại sau khi Mỹ rút quân hoặc khi Mỹ chưa tới
giúp. Điều nay cho thấy QLVNCH rất anh dũng, kieu hung va qua những bản
phân tích quân sự khách quan, thi lính miền nam giỏi gấp 10 lần bộ đội
miền bắc về mọi mặt, kể cả nhân cách va tinh người. Phân tích gia Allan
Goodman, năm 1983 trong cuộc hội thảo đề tai rút kinh nghiệm chiến tranh
VN, quy tụ 50 học giả, tại Smithsonian Hoa Kỳ, đa ca tụng tinh thần
chiến đấu anh dũng của người lính miền nam, họ đa tử trận tren 200.000
người va hơn nửa triệu thương binh. Nhưng có lẽ mai mỉa nhất la lời của
Lewis Walt, tướng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đa viết :
' Không phải ngồi biểu tinh, ăn chơi,trốn lính đi tu hay lam báo, viết
văn, lấy Mỹ tại Sai Gon-Huế, ma có một con số chết va bị thương như
vậy'.
2-SƯ ĐOÀN 18BB VÀ CÁC ĐƠN VỊ TĂNG VIỆN, TỬ CHIẾN VỚI CỌNG SẢN QUỐC TẾ
TẠI XUÂN LỘC THÁNG 4-1975 :
Sau ngày Saigon thất thủ, ngày 2-5-1975 Peter Kahn chủ bút Wall Street
Journal, giải báo chí Pulitzer, đa viết bai truy điệu Nam VN đăng tren
báo nay ' Quả thật sau cung, quân lực VNCH đa ra ngũ vi tuân theo lệnh
của tổng tư lệnh quân đội lúc đó, la tổng thống hai ngay Dương Văn Minh.
Nhưng đó không phải la một quân lực hen nhát hoặc vô dụng, vi có một
vai phần tử quan quyền đao ngũ chạy theo Mỹ. Sự thật , quân đội VNCH rất
vững mạnh va chiến đấu dũng cảm khắp các mặt trận, đăc biệt la từ mua
he đỏ lửa 1972 tại Quảng Trị, Kon Tum, Binh Định va An Lộc. Đó la một
quân đội xứng đáng được biết ơn, ca tụng vi đa giữi được từng mảnh đất
que hương, trước cuộc xâm lăng của cọng sản quốc tế, trong nhiều năm
qua. Va cuối cung vao những tuần lễ chót của tháng tư, khi người Mỹ đa
chấp nhận đầu hang giặc, thi người Lính VNCH vẫn tiếp tục chiến đấu khắp
nơi, va mặt trận XUÂN LỘC đa trở thanh mồ chôn tập thể của những kẻ xâm
lăng, bạo tan. Nhờ vậy, một số người , VN lẫn My,o mới có cơ hội trốn
chạy ra ngoại quốc, thoát được cảnh tu đầy địa ngục, chốn nhân gian cung
khốn tận tuyệt của coi đời, khi rợ Hồ từ miền Bắc vao Nam lam chủ. Một
số it nay, hiện nay, du đa cuối đời nhưng vẫn không giữ nổi khi phách va
danh phận của đấng trượng phu, tướng lanh, trí thức , khi đa quay lưng
phản bội dân tộc, bôi mặt hợp tác với giặc, đề dầy xéo them nỗi đau tận
tuyệt của đồng bao minh trong suốt 30 năm quốc hận, đối lấy chút hư danh
cặn thừa trong vũng bun ô uế xa nghĩa. Đây la những hinh nộm nói tiếng
người, hằng ngay được VC beu xấu tren báo chí, để miệng đời bôi bác rủa
tru, chẳng những rieng chúng, ma lây xấu tới con cái dong họ.
Tháng tư ở Long Khánh, trời thường đổ những cơn mưa rao như trút nước,
nhiều lúc lính đang hanh quân trong rừng, có cảm tưởng như minh đang
lenh đenh bơi trong biển khổ của cuộc đời.
Và tháng tư năm 1975, trời hinh như biết trước cơn bao táp của miền Nam,
nen đổ mưa rất sớm. Trong mưa có gió, nen khiến cho cả thị xa Xuân Lộc,
đỏ ối một mau vi xác hoa phượng vĩ ven đường, bị gió mưa dồn dập.
'..đem nay Xuân Lộc, vầng trăng khuyết
Như một vành tang trắng đất trời
Chân theo quân rút, hồn ta ở
nghe nước La Nga cuồn cuộn trôi
..em ơi tiếng tắc ke the thiết
gọi giữa đem dai quá lẽ loi
chân bước, nửa hồn chinh chiến dục
Nửa hồn Xuân Lộc, gọi quay lui..'
( thơ của Nguyễn Phúc Sông Hương).
Xuân Lộc là chiếc nôi đầu đời, ma người lính Tiểu Đoan 1, Trung Đoan 43
Biệt Lập, của Đại uý Ngô Văn Diệp, từ miền xa cao nguyen Di Linh, tới
hanh quân va tru đóng vao giữa tháng 4-1964, coi như la đơn vị tiền
phương thanh lập Sư Đoàn 10 bô binh vào ngay 16-5-1965, gồm ba Trung
Đoan biệt lập, kỳ cựu của quân lực VNCH la Trung Đoan 43, 48 va 52.
Trung Đoàn 43 bô binh thoát thai từ Trung Đoan 404 thanh lập tại Phan
Thiết ngay 1-8-1954, trước khi biệt lập, trực thuộc SD5 khinh chiến,
từng tham dự các chiến dịch Đinh Tien Hoang, Nguyễn Huệ..tại Nam Phần
vao năm 1955. Trung Đoan 48 bộ binh thoát thai từ Trung Đoan 203 bộ
binh, gồm các tiểu đoan 47, 702 va 52. Sau đó cải thanh Trung đoan 48 bộ
binh, thuộc Sư Đoan 16 khinh chiến, gồm các Trung Đoan 46, 47 va 48.
Năm 1958 qua đợt cải tổ, SD16 khinh chiến bị bai bỏ, các Trung Đoan
46,47 va 48 trở thanh biệt lập. Sau nay, Trung Đoan 47 bô binh cung với
Trung Đoan 43 qua nhiều lần hoán đổi đơn vị, để trực thuộc SD23 bộ binh,
cuối cung Trung Đoan 46 thuộc SD25BB, Trung Đoan 47 thuộc SD22 BB va
Trung Đoan 48 thuộc SD 18BB.
Riêng Trung Đoàn 52 được thanh lập ngày 1-12-1954 tại Đệ 1 Quân Khu, gồm
các Tiểu Đoan 54 BVN, 704 va 713. Về Trung Đoan nay, ngay 14-2-1968,
tướng Wheeler, chủ tịch Lien quân Mỹ,khi trả lời với báo chí,trong cuộc
điều trần trước Hạ Viện Mỹ, la sáng nay tướng Westmoreland có báo, la đa
tới thăm Trung Đoan 52 biệt lập, đóng ở phía nam Đa Nẳng, để chúc mừng
va tưởng thưởng cho Họ vi đa chận đứng được Sư Đoan 2 Bắc Việt , trong
mưu toan chiếm Đa Nẳng, vao Tết Mậu Thân. Hai tiểu đoan nổi tiếng nhất
của SD18/BB la TD2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế va TD1/52 của Đại Uý
Nguyễn Văn Út, nhiều lần được vinh danh trước quân đội, vi thiện chiến
va la đơn vị bắn cháy nhiều xe tăng của Bắc Việt tại trận địa. Năm 1974,
hai chiếc T54 va PT76 của Bắc Việt, bị hai đơn vị tren bắn cháy, được
kéo về lam kiểng trước sân Dinh Độc Lập, sau khi mất nước, mới bị VC phi
tang.
Sư Đoàn 10 BB sau đổi thanh SĐ18BB vào ngày 1-1-1967 qua đề nghị của Tư
lệnh lúc đó la Chuẩn tướng Đổ Kế Giai. SĐ mang phu hiệu Nỏ Thần, đang
lướt tren hai nền mau xanh da trời đậm va lợt, tượng trung cho bước chân
của lính trong coi mông mênh cung tận, ma Nguyễn Cộng Trứ khi đề cập
tới chí nam nhi, đa viết : ' tang bồng hồ thỉ nam nhi trái, lam cho bách
thế lưu phương, trước la sĩ sau la khanh tướng '. Từ năm 1965-1969 qua
các tư lệnh như Đại Tá Nguyễn Văn Mạnh (16/5/1965-10-8-1965), Chuẩn
Tướng Lữ Lan (10/8/1965-15/9/1966), Đại Tá Đổ Kế Giai (15/9/66-20/8/69),
trong giai đoạn nay, Sư Đoan 18BB bao vung Khu 31 Chiến Thuật, gồm các
tỉnh Binh Tuy, Long Khánh, Bien Hoa, Phước Tuy va Đặc Khu Vũng Tau,
thuộc Vung III Chiến Thuật. Từ ngay 20-8-1969 tới 4-4-1972,tư lệnh la
Thiếu tướng Lâm Quang Thơ, vi bị Quân Đoan III, chia chặt thanh từng
manh, tăng phái khắp nơi, dưới quyền của các SD5 va 25 BB, nen binh sĩ
có mặc cảm la đơn vị trừng giới, khiến cho SD18BB, bị xếp hạng chót
trong bảng xép hạng đơn vị thuộc QLVNCH.
.
Cá sống nhờ nước, lính chiến đấu giỏi khi gặp được cấp chỉ huy tai ba,
can trường, thương lính va tren hết phải biết lội với lính trước súng
đạn.. Ngay xưa, qua huyền thoại, điển tích va sách vở, ta biết giai nhân
cung danh sĩ, như có duyên nợ với nhau từ tiền kiếp. Dương Chí Hoán đời
Đường, nổi danh nhờ một ca kỹ hát bai Lương Châu Từ của minh. Tô Đông
Pha lam giúp một bai phú cho ca nhi Triệu Vân, ma lấy được một người vợ
tai hoa ý hợp nhưng cảm động hơn hết, có lẽ la Giang Châu Tư Ma-Bạch Cư
Dị (772-846), trong một đem mưa rơi tầm tả, tiễn bạn tren Bến Tầm Dương,
tinh cờ gặp lại người ca kỹ năm nao nổi danh tai sắc chốn Trường An,
qua một bản đan tuyệt diệu, Danh Sĩ đa cảm hứng viết Trường Ca ' Tỳ Ba
Hanh' cổ kim bất hủ.
Trong đời binh nghiệp cũng vậy,suốt cuộc chiến VN, những nguời lính nhảy
du, biệt kích, thủy quân lúc chiến, biệt động quân..được đồng bao miền
nam thân thương quen gọi la các thien thần, bởi vi hầu hết các đơn vị
trên đa có nhiều cấp chỉ huy tai ba can trường. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Đại
Tá Ngô Tấn Nghĩa..luôn hoa minh với thuộc cấp của minh tại các tiền đồn
hẻo lánh,ben những đơn vị nghĩa quân, cảnh sát da chiến,xây dựng nông
thôn va địa phương quân tại chiến trường.Nhờ vậy hai tỉnh Chương
Thiện-Binh Thuận, bị cọng sản quậy phá nhiều nhất, lại la hai địa phương
an ninh hạnh phúc cho tới 30-4-1975. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu
(1967-1975) du bị lịch sử phán xét thế nao cũng kệ nhưng ro rang nhất,
ông la một cấp lanh đạo can đảm, biết chia xẻ gian lao, máu lệ với người
chiến sĩ đang lăn xả trong bom đạn sa trường nguy hiểm nhất, ngay lúc
trận tuyến chưa im tiếng súng, tại Quảng Trị, KonTum, An Lộc, Binh
Định..Tương tự, những người lính Nỏ Thần Miền Đất Đỏ, đa tao phung-kỳ
ngộ với một cấp chỉ huy năng động, thích hợp với những lính biệt lập
43,48 va 52 đa từng bị đầy ải khắp mọi miền đất nước, đâu có khác gi các
Đơn Vị Biệt Động Quân Bien Phong, Biệt Lập, không biết ai la Cấp Chi
Huy tối cao của minh. Đây cũng la một trong những yếu tố then chốt, đa
vực dậy một Đại Đơn Vị sắp quỵ vi quá nản phiền.Nhờ đó ma SD18BB từ đội
đít, lần lần dọc ngang va cuối cung, đứng ưỡn ngực với các Đơn Vị khác
của Quân Lực trong bảng xếp hạng cuối đời.
Ngày 4-4-1972, Đại Tá Lê Minh Đảo làm Tư Lệnh SĐ18BB, thế Thiếu Tướng
Lâm Quang Thơ. Gọi la Sư Đoan Trưởng cho oai, chứ lúc đó quân số con lại
của SD18BB vỏn vẹn chỉ có DD18 Trinh Sát, DD48 Trinh Sát và 1 Tiểu Đoàn
của Trung Đoan 48BB. Tất cả lính của Sư Đoan từ Thiết Đoan 5 kỵ binh,
Trung Đoan 43, 48, 52 đều bị Quân Đoan III xử dụng, tận góc biển chân
mây, khiến cho Tư Lệnh SD18BB lúc đó, thật ra con thua Tiểu Đoan Trưởng,
vi trong tay không con một đơn vị nao thuộc về minh., để chỉ huy xử
dụng.
Khởi sự từ con số không, Tướng Đảo, một sĩ quan thường bị cười nhạo la
hanh chánh vi quẩn quanh chỉ lam quận trưởng, tỉnh trưởng. Nhưng đó la
một nhận xét có ác ý ganh tỵ, v&ihrave; qua kinh nghiệm lịch sử cận
đại VN, không thiếu gi những vị tá, tướng..một đời lăn xả ngoai trận
mạc, vẫn không được đời xưng tụng la tai giỏi. Để chứng minh người thật
việc thật, tri hanh phải hợp nhất, qua việc hanh sử lúc ban đầu, với số
đơn vị ít ỏi trong tay, đa biết khôn khéo, cũng như bỏ cái quan niệm '
lính chính quy-lính bảo an', trong việc phối hợp hanh quân cung các Đơn
Vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân va Binh Định Xây Dựng Nông Thôn, kể cả
Cảnh Sát Da Chiến (Lúc đó toan la chủ lực quân biệt phái hay thuyen
chuyển về gần nha).. tại các Tiểu Khu Long Khánh, Phước Tuy, nen chỉ một
thời gian ngắn đa binh định xong vung nay. Rồi thi lần lượt Quân Đoan
III, trả lại các Trung Đoan cơ hữu của SD18BB cho tướng Đảo. Lúc
đó,Trung Đoan 52BB, đang hanh quân tại Binh Long, Trung Đoan 48BB trách
nhiệm giữ nha, nen chỉ con Trung Đoan 43 của Trung Tá Le Xuân Hiếu, cung
tư lệnh la Đại Tá Đảo, xông pha hầu hết các miền đất dử của VC lúc bấy
giờ , dẹp tan chiến khu Cha Rầy, Trung Lập, Củ Chi để giải vây cho quận
Trảng Bang. Tiếp đến, Trung Đoan 43 va Tướng Đảo lại vao Bến Súc, Dầu
Tiếng, giải vây Đồn Điền Michelin, giữ được con đường huyết mạch từ Binh
Dương-Bến Cát, ma trong trận Mua he đỏ lửa 72, quân tiếp viện của ta sử
dụng để vao An Lộc.
Tới cuối tháng 6-1972, SD5BB của Tướng Le Văn Hưng, tuy vẫn giữ vững An
Lộc nhưng đa bị tổn thất nặng nề, nen được điều động ra khỏi trận địa.
Các đơn vị tăng phái của Vùng 4 CT như SD21BB, Trung Đoàn 15/SĐ9BB..cũng
được trả về bản địa. Do tren, Quân Đoan III, sau khi hoan lại đủ quân
số cho Tướng Đảo, đa điều động toan bộ SD18BB vao An Lộc, phối hợp với
Lien Đoan 5 Biệt Động Quân của Trung Tá Ngô Minh Hồng, chiếm lại toan
vẹn lanh thổ Binh Long. Tháng 12-1972, sắp đến ngay ký Hiệp Định Paris,
nen VC lại ồ ạt danh dân chiếm đất, vi vậy QDIII giao Binh Long-An Lộc
cho Biệt Động Quân va sử dụng SD18BB như một đơn vị Tổng Trừ Bị của Quân
Đoan. Thời Trung Tướng Phạm Quốc Thuần thay Tướng Nguyễn Văn Minh lam
Tư Lệnh QDIII, ngay 7-11-1973 đa cho tái lập lại Lực Lượng 3 Xung Kích,
trước sau vẫn do Chuẩn Tướng Kỵ Binh Trần Quang Khôi, la một trong những
tướng lanh tai ba, anh hung của QLVNCH chỉ huy. Đại đơn vị nay có bảng
cấp số tương đương với một sư đoan bộ binh nhưng về hỏa lực có phần hung
mạnh hơn vi được phối hợp tác chiến giữa bộ, thiết giáp va pháo binh.,
gồm 3 Chiến Đoan Thiết Giáp 315,318 va 322. Các Chiến Đoan đều tổ chức
giống nhau, gồm 1 Tiểu Đoan BDQ, 2 Chi Đoan Thiết Vận Xa 113, 1 Chi Đoan
Chiến Xa M48, 1 pháo đội cơ động 105 ly gắn tren xe M548 va 1 Trung Đội
Công Binh. Đây la đơn vị trừ bị thứ 2 của QDIII, sau ngay ký hiệp định
Ba Le năm 1973. Từ đó chiến cuộc càng ngày càng tan khốc, Bắc Việt ngoai
số bộ đội có sẵn được Mỹ cho ở lại, con có nhiều sư đoan khác cũng ao
ạt vao Nam, vi đường mon Hồ Chí Minh coi như đa bị bỏ ngo, tấn công khắp
mọi nơi nhưng dữ nhất vẫn là những địa danh sát nách SaiGon như Định
Quán, Củ Chi, Tam Giác Sắt, Phước Tuy..hầu hết những vung tren đều thuộc
trách nhiệm của SD18BB. Tóm lại, từ năm 1972 tới đầu năm 1975, SD18BB
dưới quyền của Tướng Le Minh Đảo, gần như xông pha trăm trận, nen đa hy
sinh rất nhiều quân nhân các cấp. Nhờ vậy ma người lính Nỏ Thần đa
trưởng thanh trong khói lửa, quân kỳ của Sư Đoan được gắn nhiều anh dũng
bội tinh, mang giây biểu dương mau quân công bội tinh, nhờ niềm hanh
diện đó, dân và lính miền đất đỏ, đa đánh một trận cuối cung với giặc
tại Xuân Lộc, vừa rửa hận cho Dân-Nước, vừa lưu danh ngan đời trong Việt
Sử, chống ngoại xâm do Bắc Việt mang từ Nga-Tàu về.
Tháng 4-1974, Thượng Viện Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ cho Nam VN. Tại chiến
trường, Bắc Việt xé bỏ hiệp ước vừa ký tại Ba Le năm 1973, tấn chiếm
Thường Đức va Trại Tống Le Chân. Ngay 9-8-1974, Nixon từ chức tổng thống
vi vụ Watergate mang theo hẹn hứa giúp VNCH xuống mồ, vi Ford len thay
không bao giờ đếm xỉa tới., hoặc có muốn giúp miền Nam, thi nói cũng
chẳng ai nghe, vi ông không phải la vị tổng thống do dân bầu len theo
luật định.
Trước tình hình hỗn độn chính trị tại Mỹ,Bắc Việt tấn công va chiếm tỉnh
Phước Long nhưng Hoa Kỳ vẫn im lặng, con Ford theo B.Paulmer trong '
The 25 th year war ' năm 1984, đa tuyen bố là Hoa Kỳ dứt khoát không can
thiệp vào chiến tranh VN. Thế là Hà Nội hồ hởi xâm lăng Miền Nam. Ngay
10-3-1975 đánh thanh phố Ban Me Thuột. Ngay 14-3-1975 rút bỏ cao nguyen
bằng Lien tỉnh lộ 7, Pleiku-Phú Bổn-Phú Yen. Ngay 20-3-1975 bỏ Huế,
Quảng Trị.
Nói chung hai cuộc lui quân, làm hang trăm ngàn đồng bao vô tội, gia
đinh binh sĩ , chết va bi thương thảm thiết vi hỏa lực của cọng sản, bắn
nhắm vao những người dân lánh nạn, trong đó phần lớn là người gia, đan
ba, trẻ thơ vô tội. Tổng thống Thiệu, Thủ Tướng Khiem, Đại Tướng Cao Văn
Vien..chỉ một phút quyết định ngắn ngủi tại Cam Ranh đa lam mất 2/3
lanh thổ, hủy diệt một nửa lực lượng quân lực tinh nhuệ của VNCH, trong
đó có các Đại đơn vị ưu tú như SĐ Du, Thủy Quân Lục Chiến, SD1,23 BB va
các Lien Đoan BDQ..Như vậy sau ngay 2-4-1975, Quân Đoan 1 mất hẳn, QD2
chỉ con Ninh Thuận-Binh Thuận, nen sáp nhập vao Quân Đoan III. Phan
Rang-Phan Thiết va Xuân Lộc, trở thanh vung hỏa tuyến, vi la cửa ngỏ (
quốc lộ 1 - 20), để Bắc Việt vao Sai Gon.
Để tấn công Long Khánh -Xuân Lộc, cọng sản quốc tế Bắc Việt, tung vao
chiến trường Quân Đoan 4, gồm 3 Sư Đoan 6, 7 va 341 va Sư Đoan 7 Việt
Cộng, do tướng Bắc Việt la Hoang Cầm và Hoàng Thế Thiệp chỉ huy. Về
VNCH, ngoài SĐ 18 BB với các Trung Đoàn 43 của Đại Tá Le Xuân Hiếu,
Trung Đoan 48 của Trung Tá Trần Minh Công, Trung Đoan 52 của Đại Tá Ngô
Kỳ Dũng, Thiết Đoan 5 của Trung Tá Nguyễn văn Nô, Tiểu Khu Long Khánh
của Đại Tá Phạm văn Phúc va các Đơn vị tăng phái như Lữ Đoan 1 Nhảy Du
của Đại Ta Nguyễn văn Đỉnh, đặc biệt la Tiểu Đoan 82 BDQ, thuộc LD24BDQ ,
của Thiếu Tá Vương Mộng Long, từ Quảng Đức, Lâm Đồng di tản về Xuân
Lộc..cung với các SD 3,4 va 5 Không Quân, kể luôn các đơn vị Truyền Tin,
Công Binh., đả đánh với quân xâm lăng cọng sản quốc tế, một trận để đời
, như các trận Chí Lăng, Bạch Đằng, Chương Dương, Xuân Kỹ Dậu, Rạch Gầm
Xoai Mút, ma tổ tien ta đa lưu lại nghin đời muôn kiếp cho con cháu sau
nay, trong dong sử Việt..
Ngay nay đọc những trang sử trong cũng như ngoai nước, từ người thương
cho đến kẻ thu Việt Cộng, kể cả bọn ăn cơm quốc gia thờ Hồ tặc, tất cả
đều hớn hở hoặc cúi mặt, kính chào và ngưỡng mộ, cuộc chiến đấu thần
thánh của người lính VNCH, trong lúc đất nước đa tận tuyệt, gần hết cấp
lanh đạo tối cao cong vợ con va vang bạc chạy theo Mỹ để cầu sinh, giữ
chức. Giữa giờ thứ 25, trong lúc ben ngoai thi Đồng Minh phản bội, ben
trong đầy rẩy bọn trí thức, cha-sư, đầu hang giặc Cộng, toa rập tru dập
va đâm sau lưng người lính trí mạng.
Trong ' Đại thắng muà xuân', Văn Tiến Dũng, tổng tư lệnh bộ đội cọng sản
Bắc Việt, đa thú nhận rằng ' Mặt trận Xuân Lộc vô cung ác liệt và đẫm
máu ngay từ ngày đầu tiên. Các sư đoàn 6,7,341 của ta, du đa tấn công
nhiều lần vao thanh phố Xuân Lộc, nhưng nhiều lần đều gặp phải sức kháng
cự manh liệt của Trung Đoan 43 địch, nen bị tổn thất nặng nề. Các đơn
vị pháo của ta, đa sử dụng nhiều hơn cơ số đạn dược dự tru. Số lớn tăng
va xe bọc thép bị bắn cháy..' , con D.Todd người ký giả Pháp thân cộng,
trong tác phẩm ' Cruel April, the fall of Sai Gon ', đa viết ' tinh thần
binh sĩ tại Xuân Lộc rất cao, hệ thống truyền tin rất tốt, các đơn vị
Du va BDQ đa đến, đường Sai Gon được thông. Các Sĩ quan QLVNCH đang gọi
pháo binh va không yểm rất chính xác va nhanh chóng. Tinh trạng chiến
đấu của họ, gần giống như lúc con quân đội Mỹ yểm trợ..'
Như vậy qua hai lời phê phán trên, ta biết mặt trận Xuân Lộc vô cùng ác
liệt và tinh thần chiến đấu của người lính VNCH dũng mãnh phi thường.
Được như vậy, trước hết theo lời của tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh Sư Đoan
18 BB cũng la Tư lệnh Mặt Trận Long Khánh -Xuân Lộc từ ngay 8-4-1975 tới
ngay 20-4-1975, đó la tinh thần của người lính quyết tâm chiến đấu tới
cung, vi từ tren xuống dưới không một ai đao ngũ hay bỏ theo giặc. Thứ
hai do ta chủ động trận địa va sau rốt la tinh thần binh sĩ ổn định, khi
thấy gia đinh minh đa được di tản về hậu phương an toan tại Bien Hoa.
* CHIẾN TRƯỜNG XUÂN LỘC *
Chiến trường Xuân Lộc gồm 3 mặt trận chính : Mặt trận Nga ba Túc Trưng,,
thanh phố Xuân Lộc và Khu vực Núi Chứa Chan-Gia Ray. Do nắm được tinh
hinh chính sự, biết chắc khi Phan Thiết-Lâm Đồng thất thủ, Bắc Việt sẽ
xuyen qua QL1 va 20 để về tấn chiếm Sai Gon. Do tren Xuân Lộc sẽ la
chiến địa đẫm máu. Biết như vậy, cho nen tướng Đảo sớm chuẩn bị trận địa
để chờ.
Trườc hết, khuyến khích dân chúng có phương tiện, nen về lánh nạn binh
lửa ở Bien Hoa hay Sai Gon. Đồng thời cho di chuyển trại gia binh, bệnh
viện, thương bệnh binh cùng các phong sở chuyên môn về hậu cứ tại Long
Binh, làm một đầu cầu tiếp vận từ Trung ương tới Chiến trường.
Tại Long Khánh, tướng Đảo cho sửa sang tất cả các phong tuyến trong
cũng như ngoai thị xa, đao giao thông hào khắp nơi, để chuẩn bị chiến
đấu lâu dai. Chiếm lại tất cả các vị trí cao quanh Xuân Lộc, để quan sát
địch từ mọi hướng. Đem tất cả pháo dấu trong các vị trí đao sẵn, một số
câu len núi Thị va giao cho TD2/43 cuả Thiếu Tá Nguyễn Hửu Chế bảo vệ,
chỉ để lại 2 khẩu cho Tiểu Khu Long Khánh va 2 khẩu khác cho Chiến Đoan
43 của Đại Tá Le Xuân Hiếu, trong thị xa Xuân Lộc sử dụng ma thôi. Lại
đặt ba bộ chỉ huy Sư Đoan, một tại Xuân Lộc, một tại Tân Phong va một
tren núi Thị có TD2/43 bảo vệ. Tất cả các Bộ Tư Lệnh Hanh Quân, đều
giống nhau, được thiết kế đầy đủ máy móc truyền tin kể cả đai sieu tầng
số.
Trong số nay, BTL/HQ trên núi Thị giao cho Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế,
TDT/TD2/43 trách nhiem, như một đai liên lạc giữa Tướng Đảo và Quân Đoàn
cũng như các cấp tại Trung Ương, nhờ máy móc siêu tần đặt tren núi cao
nen rất mạnh. Ngoài ra, nhờ có ba BTL/HQ nen tướng Đảo để di chuyển lien
tục, tránh phao địch. Về Truyền Tin của Ta cũng rất tai giỏi, nhờ thế
nen đa bắt va giải ma được tần số của giặc, gần như biết trước lệnh tấn
công của các đơn vị Bắc Việt, nen đa tránh được rất nhiều tổn thất.
Rieng bộ tham mưu của SD18BB lúc đó gồm có : Tướng Le Minh Đảo la tư
lệnh SD, Đại Tá Le Xuân Mai tư lệnh phó, Đại Tá Huỳnh Thao Lược - tham
mưu trường SĐ, Đại Tá Hứa Yến Lến - tham mưu phó hanh quân tiếp vận va
Đại Tá Dương Phun Sang - chánh thanh tra SĐ..
Theo tất cả các cấp chỉ huy thuộc SĐ18 BB con sống , hiện đang ở Mỹ, hầu
hết ai cũng xác nhận một sự thật rất quan trọng, đó là khi quân Bắc
Việt bắt đầu tấn công vào Xuân Lộc, thì Tướng Lê Minh Đảo đang có mặt
tại Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của SĐ18BB tại căn cứ Long Binh va chỉ một
vai giờ sau đa bay vao biển máu bom đạn va xác người tại trận địa Xuân
Lộc. Trong lúc đó, đại úy Nguyễn Khiem, trưởng ban ba của TrD43/18 vi
công vụ cũng có mặt tại Long Binh va chính Tướng Đảo đa ra lệnh cho phi
công chiếc C&C của TL, chở ông ta vao BTL/HQ tại Tân Phong.
Bốn ngày đầu chưa có Lữ Đoàn 1 Dù tăng viện nhưng Chiến Đoan 43 va các
Tiểu Đoàn Địa Phương Quân thiện chiến của TK Long Khánh, cung TD82 BDQ
vẫn giữ được Xuân Lộc. Từ ngày 12/4/75 , Lữ Đoàn 1 Nhảy Du của Đại Tá
Đỉnh tăng viện, đảm trách mặt trận Gia Ray-Chứa Chan, nen tướng Đảo đả
dung Trung Đoan 48 va Thiết Đoan 5 kỵ binh, lam lực lượng tiếp ứng khắp
nơi. Cũng theo tướng Đảo , trong trận Long Khánh, chỉ có cứ điểm Nga Ba
Túc Trưng, do Chiến Đoan 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng trấn giữ, la khó khăn
va ác hiểm nhất nhưng quân ta du lực lượng ít ỏi so với quân biển người
của Bắc Việt, vẩn anh dũng chống cự.
Oanh liệt nhất la trận Đồi Móng Ngựa, chỉ có hai đại đội của TD3/52 do
Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ, tức nhà văn nổi tiếng Ý Yen lam Tiểu Đoàn Trưởng,
đa giữ vững vị trí từ ngày 10-4 tới 15-4-75, qua nhiều đợt tấn công biển
người, cấp Trung Đoan của SĐ6 Bắc Việt. Trận tử chiến tren Đồi Móng
Ngựa cũng như hai trái bom con heo tại Dầu Giây -Túc Trưng, đều la những
huyền thoại đẹp nhất tren những trang cận sử vừa nở hoa vừa loang đỏ
máu, ma sau nay mỗi khi đọc tới, chắc ai cũng không thể ngăn nổi giọt
nước mắt muộn mang, để khóc tủi cho những người lính trận năm nao, đa vi
ai ma xả thân không tiếc hận.
Đánh mai không lấy được Xuân Lộc, Văn Tiến Dũng điều động Trần văn Tra
thay Hoàng Cầm nhưng chiến trường vẫn không thay đổi. Do trên Tra một
mặt để SD7 VC ở lại cầm chân SD18 BB và Dù tại Xuân Lộc, mặt khác tấn
công biển người vào các vị trí của Chiến Đoan 52, mở một đường máu từ
Túc Trưng xuyen qua Bien Hoa, đối mặt với các Đơn Vị phong thủ của Lực
Lượng 3 Xung Kích, của tướng Trần Quang Khôi. Rieng Chiến Đoan 52 của
Đại Tá Dũng, tuy bị tổn thất gần 1/2 quân số, nhưng cuối cung vẩn mở
được đường máu Từ ngảo ba Túc Trưng về Bien Hoa.
* HAI TRÁI BOM DAISY CUTTER VÀ CUỘC LUI QUÂN CỦA SD18 *
Trong ' Đứa con cầu tự ', ông Nguyễn Cao Kỳ nguyên Thiếu tướng QLVNCH,
cựu tư lệnh Không quân, cựu chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, cựu
phó tổng thống VNCH từ 1967-1971, có viết rằng chính ông ta là nhân vật
đa ra lệnh sử dụng bom con heo tại mặt trận Xuân Lộc. Ai cũng biết từ
sau năm 1972, ông Kỳ đa la một tướng lanh bị phế thải, ngồi chơi xơi
nước , trong tay ' không quân, không đơn vị ' . Cũng từ đó cho tới ngay
29-4-1975 bay trốn ra biển để tới Mỹ hưởng vinh hoa phú quý, tướng Kỳ
ngoai việc trồng khoai mi tại đồn điền rieng ở Khánh Dương-Khánh Hoa,
thi gần hết thời gian quý báu con lại của một tướng lanh, chỉ lăn vui
trong rượu che, mạt chược, đá ga …. Như vậy, sức nao để ra lệnh cho KQ
đánh bom , một sự kiện quan trọng bậc nhất của an ninh quốc phong quốc
gia VNCH, lúc đó chỉ có chính Tổng Thống, Thủ Tướng va Tổng Tham Mưu
Trưởng QLVNCH mới có thẩm quyền quyết định.
Bom Daisy Cutter , con được gọi là bom con heo hay tiểu nguyên tử, có
chiều dài và chiều cao gần tương đương với lòng chiếc vận tải cơ C130,
trọng lượng là 7 tấn, gồm vỏ bọc va khối thuốc nổ 15.000 cân Anh TNT.
Bom dung mở bai đáp cho cấp sư đoàn hay lộ quân trong bất cứ địa thế
nao. Với con người, bom có tầm sát hại trong vong bán kính 5 dặm Anh,
hút hết dưỡng khí, lam cho người bị chết ngạt. Những ngay cuối cung của
tháng 4-1975, Mỹ có để lại cho VNCH chừng 10 trái nhưng không có ngoi
nổ.
Trong trận Xuân Lộc, truyền tin của Bắc Việt gần như bị ta giải ma hết,
nen nhờ đó ma Bộ tư lệnh của SD18BB đều biết trước. Nhờ vậy đa kịp thời
xin không quân hay pháo binh, bắn hay giội bom vao các vị trí của địch
hay xe tăng một cách vô cung chính xác.
gay 15-4-75, khi tướng Đảo nhận tin vị trí của Chiến đoan 52 của Đại Tá
Ngô Kỳ Dũng, từ Nga ba Túc Trưng xuống tới Dầu Giây, bị hai sư đoan Bắc
Việt 6 va 341 tran ngập, nen đa xin tướng Nguyễn văn Toan, tư lệnh QD3,
trinh Bộ TTM, sử dụng bom con heo, để ngăn chận va giải cứu Chiến đoan
52. Do tren , trong ngay 15-4-1975, Bộ TTM đa dung vận tải cơ C130A thả 2
trái bom khổng lồ nay, xuống vị trí của Bắc Việt, từ Túc Trưng về tới
Dầu Giây, khiến cả một quân đoan Bắc Việt, gồm người, tăng, pháo như rối
loạn trong ba ngay liền vi có quá nhiều thương vong. Vi Ha Nội la lang,
Mỹ vi phạm hiệp định ngưng bắn, dung bom nguyen tử va trở lại VN, nen
Hoa Kỳ đa chở số bom con heo con lại về Mỹ.
Ngày 16-4-1975, phòng tuyến tại Phan Rang vỡ, các tướng lanh Nguyễn Vĩnh
Nghi, Pham Ngọc Sang, Đại Tá Nguyễn Thu Lương va hầu hết các sĩ quan
cao cấp trong Bộ tư lệnh tiền phương của QD3, vi đi bộ với lính (dù có
máy bay), và Đại Tá Lương, lúc đó đả cung với các tiểu đoan Du về tới Ca
Ná, nhưng ông cũng đa trở lại tim hai tướng Nghi-Sang, nen đa bị giặc
Cộng bắt giữa chốn ba quân. May mắn nhất vẫn la tướng Trần văn Nhựt ,Tư
lệnh SD2 BB đang tham chiến tại mặt trận, nhờ lanh lẹ, nen leo L19, chạy
kịp xuống tau hải quân, đậu trong vịnh Ninh Chữ, sau đo cũng la một
trong nhiều tướng lanh tới Mỹ sớm.
Đem 19-4-1975, Binh
Thuận-Phan Thiết mất va Binh Tuy ngay 20-4-1975. Như vậy các tuyến phong
thủ tren QL1 va 20, dẫn về Long Khánh gần như khai thông. Tướng Nguyễn
Văn Toan vi không muốn Xuân Lộc, lúc đó lại trở thanh một Điện Bien Phủ
hay Khe Sanh, giữa trung vây của hơn mấy vạn quân Bắc Việt như trước.
Hơn nửa, khi Trần Văn Tra thế Hoang Cầm, đa dung SD7 Bắc Việt cầm chân
quân ta, con Lộ quân 4 thi tim đường khác tại Nga ba Túc Trưng về Bien
Hoa. Ở đó, chỉ có Lực lượng 3 Xung Kích của tướng Khôi, cung Trung Đoan 8
/SD5BB tăng phái, nen không đủ quân chống giữa. Do tren tướng Toan đa
xin Bộ Tổng Tham Mưu, chấp thuận bỏ Xuân Lộc, rút toan bộ lực lượng đang
chiến đấu tại đây gồm SD18BB, TK Long Khánh, Lữ Đoan Du, BDQ về Phước
Tuy, giữ Bien Hoa-Sai Gon, va đa được chấp thuận, du lúc đó, quân ta con
đầy đủ đạn pháo va tinh thần chiến đấu. Tại Gia Ray-Chứa Chan, Lữ Đoan
Du-BDQ-Thiết Đoan 5 va Trung Đoan 48/18 đang gom SD7 Bắc Việt vao rọ, để
tieu diệt.
Theo tướng Đảo, thì vào lúc 9 giờ sáng ngày 20-4-1975, tướng Toàn thân
hành bay trực thăng vào BTL.SĐ18BB tại chiến trường Xuân Lộc, ban lệnh
RÚT QUÂN, BỎ LONG KHÁNH của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, tới Tướng Đảo và
CUỘC RÚT QUÂN hoàn toàn bằng đường bộ, không có ai được máy bay tới chở
về. Quan trọng hơn hết, tất cả đều đi, không có 600 quân nao của Trung
Đoan 43, do Đại Tá Le Xuân Hiếu tinh nguyện ở lại bán mạng, như một vai
người đả vin vao tai liệu Mỹ, viết sử. Cảm động vô cung, la khi Lữ Đoan 1
Du của Đại Tá Đỉnh rút quân, đồng bao công giáo ở các xa Bảo Định, Bảo
Toan, Bảo Hoa..đa đồng loạt rút theo, lam cho cánh quân nay vi phải bảo
vệ đồng nao tị nạn, nen bị thiệt hại nhiều nhất.
Ngày khi nhận được lệnh, trong ngày 20-4-1975, tướng Đảo ra lệnh cho Lữ
Đoan 1 Du, tấn công tới tấp SD7 VC để nghi binh. Trên núi Thị, rút hết
pháo, chỉ để lại 2 khẩu cho Tiểu Đoan 2/43 bắn cầm chừng, lam giặc không
biết đâu mà mò. Cuộc lui quân, bắt đầu, lúc 8 giờ đem 20-4-1975, bằng
Lien Tỉnh lộ 2, Tân Phong-Long Giao-Ba Rịa. Đây cũng la một quyết định
táo bạo, đồng thời cũng lamột yếu tố bất ngờ ma Bắc Việt không bao giờ
đoán nổi. Vi Lien tỉnh lộ 2 dai khỏng 40 km, từ khi quân Đồng Minh rút,
đường đa bị bỏ hoang va trở thanh căn cứ địa cuả các lực lượng Du kích
tỉnh cũng như Trung Đoàn 33 chính quy Bắc Việt.
Theo kế hoạch lui quân, Trung Đoàn 48 của Trung Tá Trần Minh Công mở
đường. Cánh 2 là đoàn cơ giới, pháo, chiến xa Thiết đoan 5 của Trung Tá
Nô. Đặc biệt tướng Đảo, đa mang trả lại cho QD3 hai khẩu đại pháo 175 ly
cho mượn, có tầm bắn xa trên 30 km, đặt trên xe xích . Tất cả lực lượng
này do Đại Tá Hứa Yến Lến, tham mưu phó hành quân SĐ18BB chỉ huy. Đơn
vị kế tiếp là DĐQ va NQ Long Khánh của Đại Tá BDQ. Phạm văn Phúc, Tỉnh
trưởng Long Khánh. Cánh quân này, trong lúc rút bị đụng nặng, làm Trung
Tá Tiểu Khu Phó tử thương. Con Đại Tá Phúc bị bắt va giải ngay ra Bắc,
chịu nhiều năm tu khôc hận như các cấp Sĩ quan/QLVNCH sau ngày
30-4-1975.
Tướng Đảo đi bộ với cánh quân Trung Đoan 43 của Đại Tá Le Xuân Hiếu,
hiện ở Oregon. Và cuối cùng là Lữ Đoàn 1 Du đoạn hậu. Theo kế hoạch lui
quân, Tiểu đoan 2/43 của Thiếu tá Chế từ Núi Thị xuống sẽ đi trước Lữ
Đoan Du, nhưng vi trục trặc chiến thuật, nên cuối cung lại trở thanh đơn
vị cuối khi rời Long Khánh. Tóm lại cuộc lui quân coi như thành công,
nhờ có tổ chức, kế hoạch và trên hết, chính tướng Đảo cũng như tất cả
các đơn vị trưởng từ Tỉnh Trưởng Phạm văn Phúc, Đại tá Đỉnh, Lữ Đoan
trưởng Du..đều đi bộ va tác chiến như lính. Thử hỏi sao không đạt được
chiến thắng ?.
* NGƯỜI VỀ TỪ ĐỊA NGỤC *
Tiểu Đoàn Trưởng TÐ/Trung Đoàn 43/SÐ18BB la Nguyễn Hữu Chế, xuất thân từ
khóa 13, sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Từ năm 1972 khi Đại Tá Đảo, về làm tư
lệnh SD18BB, thay tướng Thơ, lúc đó Trung Úý Nguyễn Hữu Chế ở TD2/43
nhưng sau những chiến công rền vang khắp các mặt trẩn từ Cha Rầy-Trung
Lập, tới Tam Giác Sắt-An Điềm, chỉ trong 1 năm, đa được vinh thăng ngay
tại mặt trận , Đại Uý rồiThiếu Tá va giữ TDT.TD2/43 la một đơn vị cung
với TD1/52 của Đại Uý Út, la hai đơn vị kiệt hiệt nhất của SD18BB.
Theo lời Thiếu Tá Chế, thì trong đem lui quân 20-4-1975, lệnh hành quân
ghi ro : kể từ 12 giờ đem, TĐ2/43 sẽ trở về hệ thống liên lạc của sư
đoan. Tiểu đoan sẽ di chuyẻn trước, sau đó la Lữ Đoan 1 Dù, theo lộ
trinh về hướng Đức Thanh-Ba Rịa. Lệnh la vậy nhưng thực tế vô cung khó
khăn, vi khi Lữ Đoan 1 Du, cho lệnh TD2/43 trở về với hệ thống của sư
đoan 18BB, thi lúc đó đa 3 giờ sáng. Tiểu đoan liền cho lệnh gom quân
các tiền đồn về, trong đó có Trung Đội Biệt Kích hoạt động tận núi Ma,
cho nen tới 5 giờ sáng mơi hoan tất việc thu quân.
Vi vậy khi xuống núi Thị, thi trời đa rạng đông. Tiểu đoan tiếp tục di
chuyển theo lộ trinh rút quân, gần tới Căn cứ Long Giao, lúc đó đa 7 giờ
sáng, thi Đại Tá Ngô Kỳ Dũng, Trung Đoan Trưởng Tr/Đ52/18 , bay tren
chiếc C&C của Tư Lệnh, chuyển lệnh của Tướng Đảo, ra lệnh cho TĐ2/43
phải hủy bỏ lộ trinh củ như lệnh hanh quân ban đầu va phải băng rừng,
chuyển hướng về Long Thanh, vi Bắc Việt đa phát giác SĐ18 BB lui quân,
ma đơn vị cuối cung la TĐ2/43 nen ra lệnh cho SD7 VC phải truy sát cho
tận tuyệt.Thật ra, lúc đo cũng con một vai toán Địa Phương Quân va Nghỉa
Quân, lạc đan chạy theo. Nhưng trong tinh cảnh hiểm nguy đó, lam sao
biết được ai la bạn hay thu, hoặc có thể VC đa theo kíp họ, nen TĐ 2/43
đa tim cách đổi hương, để giữ mạng.
Khi rời núi Thị, quân số của TĐ2/43, kể cả tăng phái trong đó có nhiều
SQ,HSQ, va binh sĩ Pháo Binh,hơn 600 người. Ngoai Hậu cứ của TĐ2/43 đa
di chuyển trước với cánh quân của Trung Đoan, Bộ Chỉ Huy TD ngoai TDT
Chế, con có TDP la Đại Uý Nguyễn Tấn Chi (Khóa 12 SQTB/TD), Trung Úy Vo
Kim Thạch (DDT/DDCH), Trung Uý Nguyễn Văn Hao (DDT/DD1), Trung Uý Vo Văn
Mười (DDT/DD2), Trung Uý Nguyễn Văn Hung (DDT/DD3), Trung Uý Ha Văn
Dương (DDT/DD4) cung các Sĩ quan truyền tin, ban 2, ban 3 , quân y , sĩ
quan tiền sát vien pháo binh..
Nhưng sau lần liên lạc được với Đại Tá Dũng, TĐ2/43 coi như lạc lỏng
trong rừng sâu từ giây phút đó. Vùng này bốn bề xưa nay đầy rẩy các căn
cứ cọng sản trong đó có mật khu Hắc Dịch nổi tiếng, đang có sự hiện diện
của SD341 Bắc Việt tân lập. Từ đó, TD2/43 không con ai lien lạc, chẳng
có pháo binh, không quân hay thiết kỵ nao yểm trợ, vi mọi đơn vị bạn đều
cách xa. Nhưng cũng may, từ khi được thanh lập tại Phan Rí, tỉnh Binh
Thuận vao năm 1955, qua danh xưng TD265, 84 sau đó la TD2/43 biệt lập
cho tới ngay nay. Hầu hết các vị Tiểu Đoan Trưởng như Đại Uý Nguyễn Văn
Hai, cố Trung Tá Hắc Long Đổ văn Tân, cố Trung Tá Hắc Long Nguyễn Văn
Thoại va cuối cung la Thiếu Tá Bảo Đinh Nguyễn Hữu Chế, tất cả đều la
những đơn vị trưởng tai giỏi, đầy kinh nghiệm hanh quân trong vung, biết
địa thế ro như long ban tay, ma không cần phải xem ban đồ., nhờ vậy mới
không bị biển người cọng sản tieu diệt.
Từ 9 giờ sáng, TĐ2/43 đa bắt đầu chạm địch ở phía tây căn cứ Long Giao.,
nhưng vi không có quân bạn yểm trợ, nen Thiếu Tá Chế đa cố gắng đoạn
chiến, đổi hướng nhiều lần lộ trinh, vi không muốn gây thương vong cho
đơn vị. Đến chiều cung ngay, khi TĐ2/43 vao tới bia của một khu rừng
rậm, sau khi nhĩ ngơi, Thiếu Tá Chế chia TĐ lam hai cánh, một do Đại Uý
Chi TDP chỉ huy, để hanh quân xuyen rừng về Long Thanh. Cũng từ đó, TD
chạm địch lien mien, đến đổi cánh quân do Thiếu Tá Chế chỉ huy, chỉ con
vỏn vẹn có 28 người. Cũng trong đem đó, toán người của Thiếu Tá Chế lại
bị lọt vao vong vây, nhưng nhờ trong số nay con có Trung Đội Biệt kích
thiện chiến nhất của TD, nen cuối cung anh em thoát được.
Đến ngay thứ tư, TĐ đến gần Long Thanh nhưng TT Chế vẫn không dám lien
lạc truyền tin vi sợ lộ mục tieu, du lúc đó tren bầu trời lúc nao cũng
có phi cơ của SD18BB bay tim kiếm TĐ2/43
.
Tại căn cứ Long Bình, tiền trạm của TÐ2/43 do Trung Uý Nguyễn Văn Thắng,
SQ ban 1 chỉ huy hậu cứ, điều động quân xa vao các bia rừng ven Long
Thanh để đón lính TĐ2/43., đa vượt thoát được vong vây, trở về coi sống.
Nói chung, cánh quân do Đại Uý Chi, TDP chỉ huy gần như con nguyen vẹn
khi ra tới Long Thanh. Nhưng trái lại, cánh quân của Thiếu Tá Chế lại
đụng độ rất nặng, nhưng nhiều quân nhân con sống sót, đa tim được đường
về điểm tap trung.
Du đa liên lạc được với Đại Tá Hiếu Trung Đoan Trưởng TrD43 vao buổi
chiều ngay 24/4/1975 nhưng tới 9 giờ sáng hôm sau, bốn chiếc trực thăng
của SD mới vào bốc người nhưng vẫn bị VC truy sát, không buông tha.
Tại căn cứ Long Bình, Tiểu Đoàn tập hợp lại, bổ sung và tiếp tục chiến
đấu, sau khi thoát chết, để cùng với SĐ18BB và tướng Đảo, cũng như tất
cả các đơn vị trưởng, chiến đấu cho tới ngay 30-4-1975, mới phải buông
súng, ra ngũ vi lệnh đầu hang của Dương Văn Minh. Rieng Tiểu Đoan Trưởng
TĐ 1/43 la Đại Uý Chu hiện ở Úc nhưng vao ngay 12-4-1975 được thay thế
bởi Thiếu Tá Tung. Thảm nhất la Tiểu Đoan Trưởng TĐ3/43, Đại Uý Du, ngay
tan hang về nha, thi bị giặc bất ngay, đem thủ tieu mất xác.
Trong ' Đại thắng mùa xuân', Văn Tiến Dũng, Tổng tư lệnh bộ đội miền
Bắc, đa lấy lý do vi không kịp vẽ bản đồ Long Khánh, nen đa bị bại trận
Xuân Lộc. Thật sự trong 12 ngày ác chiến, Bắc Việt đa tung vao chiến
trường sáu Sư Đoan , gồm 6,7,341,325,10 va 304 để chọi với SD18BB, Lữ
Đoan 1 Nhảy Du, TĐ82 BDQ va các TD.DPQ , Trung Đội NQ của tỉnh Long
Khánh. Kết quả có hơn 6000 cán binh bộ đội bị phơi thây tại chỗ va 37
chiến xa đủ loại bị bắn cháy.
Để tưởng thưởng những quân nhân có công trong trận Xuân Lộc, quyền Tổng
Tham Mưu Trưởng lúc đó la Trung Tướng Đồng Văn Khuyen, ban hanh SVVT ân
thưởng cho tất cả quân sự đa tham dự , được len một cấp. Riêng Chuẩn
tướng Le Minh Đảo, Tư lệnh Mặt Trận Long Khánh kiem Tư Lệnh .SĐ18BB,
được chính Tổng Thống Trần Văn Hương, vinh thăng Thiếu Tướng, đặc cách
tại Mặt Trận từ ngay 25-4-1975.
Ba mươi năm qua, cuộc chiến đa tan theo năm tháng nhưng hơn 80 triệu
đồng bao trong nước vẫn không có đủ tự do để thở, cũng như có cơm ăn áo
mặc., khiến cho đất nước càng ngày càng thảm the héo hận.
Ngay nay ai có dịp được xuôi ngược trên các nẻo đường que hương lửa khói
xa xưa, từ cổng bắc của Thị Trấn Hố Nai, qua Bầu Cá, Trảng Bom, Hưng
Lộc, Dầu Giây, len Kiệm Tân, Túc Trưng, Định Quán ..hay về Xuân Lộc, Tân
Phong, Long Giao, Gia Ray, không hiểu họ có con nhớ chăng những ngay bi
thảm tận tuyệt của đất nước vào cuối tháng 4-1975.
Cũng chính tại Xuân Lộc, người dân cũng như lính tráng của miền cao
su-đất đỏ, trước cuộc xâm lăng tan bạo của giặc cộng xâm lăng Bắc Việt,
đa phẩn nộ, tử chiến lần cuối cùng với rợ Hồ. Trong lúc tại Sai Gon
người ta tim đường trốn khỏi nước, thi tại Xuân Lộc, người lính từ quan
cho tới cấp binh nhi, binh sĩ quân dịch, từng giây lội trong hố máu, hầm
xương, con tren đầu thi đội bom hứng đạn, gianh nhau từng vách tường
cháy, đống gạch vụn, các công sự phong thủ để giữ mạng . Tội nhất la
những lính của TD2/43 đơn vị cuối cung, đói khát chết chóc trong rừng
sâu, giữa chốn ba quân, để tim đường về coi sống.
Bỗng dưng thấy thật u uất ngậm ngùi, khi vô tình đọc được bai cổ thi '
Lưỡng Tây Hanh' của Trần Đao thời Hậu Hán, nói len thảm trạng chiến
tranh, đến nỗi xác của những người lính tại sa trường, đa trở thanh '
đống xương vô định cao hơn đầu ', ma tại hậu phương những người thiếu
phụ vẫn cứ mai ben án trông chồng ngoai quan tái. Hỡi ơi mới đó ma đa ba
mươi năm đoạn trường máu lệ, tóc xanh thanh tóc bạc, bạn be thân thương
một con, chín mất, lưu lạc khắp ngan phương, khiến mất cứ mai ngóng
tim.
' ngày mai rồi có ngày nào,
theo chân voi trận, để vao Thăng Long ..'
Cái mộng năm xưa nay cũng còn là mộng, khiến giờ chỉ con biết :
' nghiêng bầu mà hỏi
thien hạ mang mang
ai người tri kỷ
l lại đây cùng ta cạn một hồ trường
hồ trường, hồ trường
ta biết rót về đâu ?
( thơ của Nguyễn Bá Trác)
Xóm Cồn tháng 3-2005
HỒ ĐINH
TĐ1/43/18BB- KBC 4424
THAM KHẢO :
-Chiến sử QLVNCH của Phạm Phong Dinh và Nguyễn Đức Phương.
-55 ngay cuối cung của Chánh Đạo
-Những ngay cuối cûng của VNCH, của Nguyễn Khắc Ngử
-Tôn vinh Người Lính VNCH của Phạm Kim Vinh
-Nhật báo Tiền Phong, KBC hải Ngoại
-Tai Liệu của Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh SĐ18BB va Thiếu Ta Nguyễn Hữu Chế,
TĐT/TĐ2/43/SĐ18BB
Sinh Tồn chuyển