Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Tản mạn về chính sách chiêu hồi
Chỉ nghe một câu ngắn ngủi này thôi là người dân miền Nam ngày trước ai cũng biết và nghĩ ngay tới chương trình Chiêu hồi của chính phủ Việt Nam Cộng hòa trước 75.
Trần
Việt Trình
Sinh Tồn chuyển
Tản mạn về chính sách chiêu hồi
Tung
cánh chim tìm về tổ ấm
Chỉ
nghe một câu ngắn ngủi này thôi là người dân miền Nam ngày trước ai cũng biết và nghĩ
ngay tới chương trình Chiêu hồi của chính phủ Việt Nam Cộng hòa trước 75.
Tung cánh chim tìm về tổ ấm
nơi sống bao
ngày giờ đằm thắm
nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi
luyến tiếc bao
ngày xanh
Đó
là 4 câu đầu của bài hát Ngày về của Hoàng Giác mà người
miền Nam
ngày trước ai cũng nằm lòng.
Ngày
về là một bài hát nổi tiếng, tiêu biểu của loại nhạc tiền chiến do nhạc sĩ
Hoàng Giác sáng tác năm 1947.
Hoàng
Giác sinh năm 1924, gốc làng Chèm, xã Thụy Phương, Từ Liêm, Hà Nội. Hoàng Giác
được theo học ở Trường Bưởi, một ngôi trường rất nổi tiếng thời đó. Bạn học
cùng lớp với ông nhiều người sau này trở thành những nhạc sĩ nổi tiếng như
Dzoãn Mẫn, Ngọc Bích và Đoàn Chuẩn. Họ đều thuộc dòng nhạc tình lãng mạn, sáng
tác không nhiều, nhưng lại được nhiều người biết đến. Đó là những nghệ nhân tài
hoa thực sự trong làng âm nhạc VN nửa đầu thế kỷ 20 và đã có công rất lớn tạo
nên nền tân nhạc nước nhà. Họ đều để lại những ca khúc bất hủ, vượt thời gian
mà bất cứ ai yêu nhạc cũng đều biết đến.
Đầu
năm 1945, khi mới 21 tuổi, Hoàng Giác viết bài hát đầu tiên, bài Mơ hoa.
Đây là bài hát được nhiều người biết đến và yêu thích nhất trong những sáng tác
của ông. Nhưng bài mà ông tâm đắc nhất là bài Ngày về. Cũng năm 1945 đó, Cách
mạng tháng Tám chống Pháp bùng nổ, cũng như những người yêu nước chống ngoại
xâm lúc ấy, Hoàng Giác hăng hái tham gia. Đến khi toàn quốc kháng chiến, ông
tham gia Đoàn Tuyên truyền xung phong và tuyệt phẩm Ngày Về được ra
đời sau đó, vào những ngày cuối năm 1946. Hoàng Giác đã làm bài này trên đường
trở về thăm gia đình sau những chuyến đi công tác xa nhà.
Mượn
hình ảnh con chim lạc đàn, tác giả bộc lộ nỗi nhớ nhung gia đình, quê hương,
bạn bè và người thương: “Tung cánh chim tìm về tổ ấm, nơi sống bao ngày giờ đằm
thắm, nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi, luyến tiếc bao ngày xanh”. Nội
dung bài hát xoáy vào nỗi đau của người tình bị thất hẹn và kết thúc bằng lời
than thở, ví số phận cô đơn của mình “như bóng con đò lạc bến, lờ lững trôi qua
cùng ngày tháng phôi pha”.
Tác
phẩm của Hoàng Giác không chỉ có Mơ hoa và Ngày về mà còn
có Lỡ cung đàn, Quê hương, Hương lúa đồng quê, Bóng ngày
qua,... và ba ca khúc hợp soạn với nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ là Tiếng hát
biên thùy, Qua bến năm xưa và Trên đường về.
Cũng
như một số nhạc sĩ cùng thời như Đoàn Chuẩn, Đặng Thế Phong, Doãn Mẫn,... gia
tài âm nhạc của Hoàng Giác không vĩ đại nhưng ông đã chứng minh một điều là
trong nghệ thuật, số lượng tác phẩm không hẳn là yếu tố quyết định. Hoàng Giác
có khoảng 20 bài hát, mỗi bài hát gắn liền với những kỷ niệm, là những cảm xúc
chân thật của con người ông về cuộc đời, điều mà ông cho là quan trọng nhất khi
sáng tác. Mơ hoa là một cuộc tình nhỏ, trong sáng của người thanh
niên vừa bước vào đời; Quê hương là cảm xúc khi đi qua những vùng quê
trong kháng chiến chống Pháp; Ngày về là nỗi lòng của kẻ đi xa nhớ về
tổ ấm gia đình. Tất cả đều là những nỗi niềm tâm sự của ông với cuộc đời. Mỗi
bài hát có một số phận và nhạc sĩ Hoàng Giác vẫn luôn thấy say mê, hạnh phúc
bởi những mảnh đời đó. Ông như một cánh chim bạt gió, luôn khao khát được trở
về với trời xanh.
Định
mệnh đã đưa đến cho nhạc sĩ Hoàng Giác một người vợ tuyệt vời để đồng cam cộng
khổ, để làm điểm tựa tinh thần cho ông trong giai đoạn lao đao nhất của đời
ông.
Năm
1951, song thân của Hoàng Giác cậy nhờ mai mối đi hỏi cô Kim Châu cho con trai
họ. Cũng có người can ngăn bố mẹ nàng không nên gả con gái cho “thằng nghệ sĩ
nghèo rớt mồng tơi”. Thế nhưng có ai biết được ước mơ của nàng, và nàng đã hân
hoan chấp nhận lời cầu hôn. Thế là người đẹp Kim Châu trở thành bà Hoàng Giác
năm 19 tuổi. Cả Hà Nội xôn xao. Bao nhiêu chàng trai thất vọng.
Nói
về sắc đẹp, bà Kim Châu được tôn vào hàng giai nhân đất Hà thành. Biết bao
chàng công tử phong lưu cầu cạnh được kề cận bên người đẹp, thế nhưng bà Kim
Châu đã rũ bỏ tất cả để về nâng khăn sửa túi cho chàng nhạc sĩ tuy nghèo nhưng
rất mực tài hoa, đúng như ước nguyện của mình.
Cuộc
sống êm đềm của đôi vợ chồng Hoàng Giác kéo dài được khoảng hơn 15 năm thì tai
họa ập xuống. Tuyệt phẩm Ngày về là niềm hạnh phúc và cũng là tai
ương cho tác giả.
Lý
do chỉ vì ngày ấy chính quyền miền Nam chọn bài Ngày về của
ông làm nhạc hiệu cho chương trình “Tiếng chim gọi đàn”, chương trình
Chiêu hồi của chính phủ VNCH. Nhà cầm quyền miền Bắc dị ứng với chuyện này nên
đã không những chỉ gây cho tác giả nhiều khó khăn mà cả gia đình của ông cũng
chịu nhiều hệ lụy.
Chúng
ta hãy chỉ cần căn cứ vào những lời sau đây của báo chí trong nước gần
đây hé lộ ra chuyện này là cũng đoán được tai họa đã giáng xuống cho gia đình
ông nặng nề cỡ nào: “Tai họa này đã biến bà Kim Châu từ một người vợ yếu
đuối đã tự gắng gượng và trở thành lao động chính, một mình bà phải chạy vạy,
lo toan chuyện cơm áo để nuôi sống chồng con. Đằng đẳng suốt bao nhiêu năm trời
bà cặm cụi may vá, đan len thuê kể cả phết hồ dán bao bì. Bà không từ chối bất
cứ việc gì, cho dù là nhỏ nhặt hoặc lao nhọc, miễn sao đem lại cho bà chút tiền
để khả dĩ mua được thức ăn nuôi sống gia đình. Cực khổ như thế nhưng đó cũng là
thời gian bà cảm thấy rất hạnh phúc, vì bà không chỉ được chia sẻ hoạn nạn với
ông mà còn thấy... ông che mặt khóc khi chứng kiến vợ mình quá cơ cực”.
Đó
là một phần đời chao đảo của người nghệ sĩ già khá trầm lặng này. Ông bà Hoàng
Giác năm nay đã 88 tuổi, vẫn còn sống ở VN và vẫn sống thầm lặng từ đó đến giờ.
Phải chăng ông mang nặng một tâm sự bấy lâu nay và đang nuối tiếc một điều gì
đó?
Trong
thời chiến, bài hát Ngày về thường được phát trên loa phóng thanh,
trên trực thăng, trên thuyền bè nhằm kêu gọi những người lầm đường lạc lối hồi
chánh, trở về với chính nghĩa, với dân tộc. Lời và nhạc của bài hát thật mượt
mà và lai láng tình cảm, dễ xúc động lòng người.
Chiêu
hồi là một chương trình do chính phủ VNCH đề ra để kêu gọi các thành phần của
Mặt trận Giải phóng miền Nam
và bộ đội miền Bắc buông súng quay về với chính phủ VNCH để hợp tác hoặc trở về
với gia đình để làm ăn sinh sống trong chính thể Tự Do của miền Nam.
Tổng
thống Ngô Đình Diệm đã ra Bản tuyên cáo vào ngày 17 tháng 4 năm 1963 mở đầu
chiến dịch Chiêu hồi.
Chương
trình này thời gian đầu trực thuộc Bộ Công dân vụ và một thời mang tên “Phong
trào Chiêu tập Kháng chiến Lầm Đường”. Sau năm 1963, phân ban Chiêu hồi đổi qua
trực thuộc Phủ Thủ tướng. Năm 1965, chuyển sang Bộ Thông tin. Sang thời Đệ nhị
Cộng hòa thì chính phủ nâng Phủ Đặc ủy Dân vận Chiêu hồi thành Bộ Chiêu hồi
riêng để điều hành hệ thống Chiêu hồi trên khắp 44 tỉnh thành của bốn vùng
chiến thuật. Mỗi tỉnh thì có một Ty Chiêu hồi.
Phương
tiện để thực hiện chương trình nầy bao gồm phát thanh, rải truyền đơn bằng phi
cơ hoặc nhồi truyền đơn trong đạn pháo để bắn vào vị trí trú ẩn của VC, cũng
như thành lập các đội võ trang tuyên truyền. Ngoài ra, chính phủ còn tìm cách
thả dù xuống mật khu VC các radio nhỏ để bắt nghe chương trình phát thanh chiêu
hồi, giúp người nghe hiểu rõ chính sách của chính phủ, khuyến khích họ mạnh dạn
chọn con đường hồi chánh.
Năm
1967 chính phủ miền Nam
đưa ra chính sách “Đại đoàn kết”. Theo đó, các thành phần hồi chánh không
những được đoàn tụ cùng gia đình, được giúp đỡ để tái định cư mà còn được trưng
dụng tài năng tương xứng với công việc ở bên này chiến tuyến. Chính sách này
còn mới mẻ, chưa mấy tác dụng thì miền Bắc tung ra cuộc tổng tấn công Tết Mậu
Thân năm 1968. Sự kiện này làm gián đoạn chương trình Chiêu hồi vì tình hình an
ninh bất ổn, nhưng đến năm sau thì số lượng hồi chánh lại tăng, đạt đến con số
47,023 người cho năm 1969.
Người
hồi chánh được đưa vào các trại để học tập chính trị trong thời gian từ bốn đến
sáu tuần. Họ được phát quần áo và cung cấp thức ăn, đến khi xuất trại thì được
trả về nguyên quán hoặc định cư ở những vùng ấn định. Một số tùy theo khả năng
chuyên môn thì được kết nạp vào Cục Tâm lý chiến.
Theo
tài liệu của Bộ Chiêu Hồi thì trong thời gian từ năm 1963 đến 1973 chương trình
này đã thâu nhận hơn 194,000 người hồi chánh. Điều này cũng có nghĩa là loại
được bấy nhiêu quân đối phương ra khỏi chiến trường.
Những
bộ đội về với chính phủ VNCH, trở về với đường ngay lẽ phải, thì gọi là Hồi
chánh. Vậy thì những người miền Nam
lội ngược ra Bắc, nếu có, thì gọi bằng gì? Hồi tà ư? Đúng vậy! Thử hỏi
trong chiến tranh VN, có bao nhiêu người từ bỏ miền Nam tự do để lội ngược ra Bắc?
Có
ai dám quả quyết nước VN bây giờ vẫn còn là tổ ấm không? Nếu là tổ ấm thì tại
sao đàn chim cả triệu con đã tất tả rời tổ cách đây 39 năm, hàng triệu con liều
chết bỏ tổ tha phương khắp nơi những năm dài sau đó và cho đến ngày giờ này,
bằng cách này hay cách khác, vô số vẫn lìa tổ để kiếm ăn và tìm kiếm bến lành
để đậu? Ngày nay, không những những con chim non (du học sinh) túa ra khắp mọi
nơi trên thế giới để học hỏi và để tìm nơi nương nấu, mà những con kênh-kênh,
đà điểu và đại bàng (các quan lớn của chế độ) cũng đang âm mưu lập tổ cho riêng
mình ở những phương trời xa hầu mong cao bay xa chạy một khi “tổ ấm” VN bị
động, không còn bay nhảy múa may được nữa. Người chánh thì ca “Tung cánh
chim tìm về tổ ấm”. Người tà thì ca “Tung cánh chim rời xa tổ ấm”.
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Tản mạn về chính sách chiêu hồi
Chỉ nghe một câu ngắn ngủi này thôi là người dân miền Nam ngày trước ai cũng biết và nghĩ ngay tới chương trình Chiêu hồi của chính phủ Việt Nam Cộng hòa trước 75.
Tản mạn về chính sách chiêu hồi
Tung
cánh chim tìm về tổ ấm
Chỉ
nghe một câu ngắn ngủi này thôi là người dân miền Nam ngày trước ai cũng biết và nghĩ
ngay tới chương trình Chiêu hồi của chính phủ Việt Nam Cộng hòa trước 75.
Tung cánh chim tìm về tổ ấm
nơi sống bao
ngày giờ đằm thắm
nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi
luyến tiếc bao
ngày xanh
Đó
là 4 câu đầu của bài hát Ngày về của Hoàng Giác mà người
miền Nam
ngày trước ai cũng nằm lòng.
Ngày
về là một bài hát nổi tiếng, tiêu biểu của loại nhạc tiền chiến do nhạc sĩ
Hoàng Giác sáng tác năm 1947.
Hoàng
Giác sinh năm 1924, gốc làng Chèm, xã Thụy Phương, Từ Liêm, Hà Nội. Hoàng Giác
được theo học ở Trường Bưởi, một ngôi trường rất nổi tiếng thời đó. Bạn học
cùng lớp với ông nhiều người sau này trở thành những nhạc sĩ nổi tiếng như
Dzoãn Mẫn, Ngọc Bích và Đoàn Chuẩn. Họ đều thuộc dòng nhạc tình lãng mạn, sáng
tác không nhiều, nhưng lại được nhiều người biết đến. Đó là những nghệ nhân tài
hoa thực sự trong làng âm nhạc VN nửa đầu thế kỷ 20 và đã có công rất lớn tạo
nên nền tân nhạc nước nhà. Họ đều để lại những ca khúc bất hủ, vượt thời gian
mà bất cứ ai yêu nhạc cũng đều biết đến.
Đầu
năm 1945, khi mới 21 tuổi, Hoàng Giác viết bài hát đầu tiên, bài Mơ hoa.
Đây là bài hát được nhiều người biết đến và yêu thích nhất trong những sáng tác
của ông. Nhưng bài mà ông tâm đắc nhất là bài Ngày về. Cũng năm 1945 đó, Cách
mạng tháng Tám chống Pháp bùng nổ, cũng như những người yêu nước chống ngoại
xâm lúc ấy, Hoàng Giác hăng hái tham gia. Đến khi toàn quốc kháng chiến, ông
tham gia Đoàn Tuyên truyền xung phong và tuyệt phẩm Ngày Về được ra
đời sau đó, vào những ngày cuối năm 1946. Hoàng Giác đã làm bài này trên đường
trở về thăm gia đình sau những chuyến đi công tác xa nhà.
Mượn
hình ảnh con chim lạc đàn, tác giả bộc lộ nỗi nhớ nhung gia đình, quê hương,
bạn bè và người thương: “Tung cánh chim tìm về tổ ấm, nơi sống bao ngày giờ đằm
thắm, nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi, luyến tiếc bao ngày xanh”. Nội
dung bài hát xoáy vào nỗi đau của người tình bị thất hẹn và kết thúc bằng lời
than thở, ví số phận cô đơn của mình “như bóng con đò lạc bến, lờ lững trôi qua
cùng ngày tháng phôi pha”.
Tác
phẩm của Hoàng Giác không chỉ có Mơ hoa và Ngày về mà còn
có Lỡ cung đàn, Quê hương, Hương lúa đồng quê, Bóng ngày
qua,... và ba ca khúc hợp soạn với nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ là Tiếng hát
biên thùy, Qua bến năm xưa và Trên đường về.
Cũng
như một số nhạc sĩ cùng thời như Đoàn Chuẩn, Đặng Thế Phong, Doãn Mẫn,... gia
tài âm nhạc của Hoàng Giác không vĩ đại nhưng ông đã chứng minh một điều là
trong nghệ thuật, số lượng tác phẩm không hẳn là yếu tố quyết định. Hoàng Giác
có khoảng 20 bài hát, mỗi bài hát gắn liền với những kỷ niệm, là những cảm xúc
chân thật của con người ông về cuộc đời, điều mà ông cho là quan trọng nhất khi
sáng tác. Mơ hoa là một cuộc tình nhỏ, trong sáng của người thanh
niên vừa bước vào đời; Quê hương là cảm xúc khi đi qua những vùng quê
trong kháng chiến chống Pháp; Ngày về là nỗi lòng của kẻ đi xa nhớ về
tổ ấm gia đình. Tất cả đều là những nỗi niềm tâm sự của ông với cuộc đời. Mỗi
bài hát có một số phận và nhạc sĩ Hoàng Giác vẫn luôn thấy say mê, hạnh phúc
bởi những mảnh đời đó. Ông như một cánh chim bạt gió, luôn khao khát được trở
về với trời xanh.
Định
mệnh đã đưa đến cho nhạc sĩ Hoàng Giác một người vợ tuyệt vời để đồng cam cộng
khổ, để làm điểm tựa tinh thần cho ông trong giai đoạn lao đao nhất của đời
ông.
Năm
1951, song thân của Hoàng Giác cậy nhờ mai mối đi hỏi cô Kim Châu cho con trai
họ. Cũng có người can ngăn bố mẹ nàng không nên gả con gái cho “thằng nghệ sĩ
nghèo rớt mồng tơi”. Thế nhưng có ai biết được ước mơ của nàng, và nàng đã hân
hoan chấp nhận lời cầu hôn. Thế là người đẹp Kim Châu trở thành bà Hoàng Giác
năm 19 tuổi. Cả Hà Nội xôn xao. Bao nhiêu chàng trai thất vọng.
Nói
về sắc đẹp, bà Kim Châu được tôn vào hàng giai nhân đất Hà thành. Biết bao
chàng công tử phong lưu cầu cạnh được kề cận bên người đẹp, thế nhưng bà Kim
Châu đã rũ bỏ tất cả để về nâng khăn sửa túi cho chàng nhạc sĩ tuy nghèo nhưng
rất mực tài hoa, đúng như ước nguyện của mình.
Cuộc
sống êm đềm của đôi vợ chồng Hoàng Giác kéo dài được khoảng hơn 15 năm thì tai
họa ập xuống. Tuyệt phẩm Ngày về là niềm hạnh phúc và cũng là tai
ương cho tác giả.
Lý
do chỉ vì ngày ấy chính quyền miền Nam chọn bài Ngày về của
ông làm nhạc hiệu cho chương trình “Tiếng chim gọi đàn”, chương trình
Chiêu hồi của chính phủ VNCH. Nhà cầm quyền miền Bắc dị ứng với chuyện này nên
đã không những chỉ gây cho tác giả nhiều khó khăn mà cả gia đình của ông cũng
chịu nhiều hệ lụy.
Chúng
ta hãy chỉ cần căn cứ vào những lời sau đây của báo chí trong nước gần
đây hé lộ ra chuyện này là cũng đoán được tai họa đã giáng xuống cho gia đình
ông nặng nề cỡ nào: “Tai họa này đã biến bà Kim Châu từ một người vợ yếu
đuối đã tự gắng gượng và trở thành lao động chính, một mình bà phải chạy vạy,
lo toan chuyện cơm áo để nuôi sống chồng con. Đằng đẳng suốt bao nhiêu năm trời
bà cặm cụi may vá, đan len thuê kể cả phết hồ dán bao bì. Bà không từ chối bất
cứ việc gì, cho dù là nhỏ nhặt hoặc lao nhọc, miễn sao đem lại cho bà chút tiền
để khả dĩ mua được thức ăn nuôi sống gia đình. Cực khổ như thế nhưng đó cũng là
thời gian bà cảm thấy rất hạnh phúc, vì bà không chỉ được chia sẻ hoạn nạn với
ông mà còn thấy... ông che mặt khóc khi chứng kiến vợ mình quá cơ cực”.
Đó
là một phần đời chao đảo của người nghệ sĩ già khá trầm lặng này. Ông bà Hoàng
Giác năm nay đã 88 tuổi, vẫn còn sống ở VN và vẫn sống thầm lặng từ đó đến giờ.
Phải chăng ông mang nặng một tâm sự bấy lâu nay và đang nuối tiếc một điều gì
đó?
Trong
thời chiến, bài hát Ngày về thường được phát trên loa phóng thanh,
trên trực thăng, trên thuyền bè nhằm kêu gọi những người lầm đường lạc lối hồi
chánh, trở về với chính nghĩa, với dân tộc. Lời và nhạc của bài hát thật mượt
mà và lai láng tình cảm, dễ xúc động lòng người.
Chiêu
hồi là một chương trình do chính phủ VNCH đề ra để kêu gọi các thành phần của
Mặt trận Giải phóng miền Nam
và bộ đội miền Bắc buông súng quay về với chính phủ VNCH để hợp tác hoặc trở về
với gia đình để làm ăn sinh sống trong chính thể Tự Do của miền Nam.
Tổng
thống Ngô Đình Diệm đã ra Bản tuyên cáo vào ngày 17 tháng 4 năm 1963 mở đầu
chiến dịch Chiêu hồi.
Chương
trình này thời gian đầu trực thuộc Bộ Công dân vụ và một thời mang tên “Phong
trào Chiêu tập Kháng chiến Lầm Đường”. Sau năm 1963, phân ban Chiêu hồi đổi qua
trực thuộc Phủ Thủ tướng. Năm 1965, chuyển sang Bộ Thông tin. Sang thời Đệ nhị
Cộng hòa thì chính phủ nâng Phủ Đặc ủy Dân vận Chiêu hồi thành Bộ Chiêu hồi
riêng để điều hành hệ thống Chiêu hồi trên khắp 44 tỉnh thành của bốn vùng
chiến thuật. Mỗi tỉnh thì có một Ty Chiêu hồi.
Phương
tiện để thực hiện chương trình nầy bao gồm phát thanh, rải truyền đơn bằng phi
cơ hoặc nhồi truyền đơn trong đạn pháo để bắn vào vị trí trú ẩn của VC, cũng
như thành lập các đội võ trang tuyên truyền. Ngoài ra, chính phủ còn tìm cách
thả dù xuống mật khu VC các radio nhỏ để bắt nghe chương trình phát thanh chiêu
hồi, giúp người nghe hiểu rõ chính sách của chính phủ, khuyến khích họ mạnh dạn
chọn con đường hồi chánh.
Năm
1967 chính phủ miền Nam
đưa ra chính sách “Đại đoàn kết”. Theo đó, các thành phần hồi chánh không
những được đoàn tụ cùng gia đình, được giúp đỡ để tái định cư mà còn được trưng
dụng tài năng tương xứng với công việc ở bên này chiến tuyến. Chính sách này
còn mới mẻ, chưa mấy tác dụng thì miền Bắc tung ra cuộc tổng tấn công Tết Mậu
Thân năm 1968. Sự kiện này làm gián đoạn chương trình Chiêu hồi vì tình hình an
ninh bất ổn, nhưng đến năm sau thì số lượng hồi chánh lại tăng, đạt đến con số
47,023 người cho năm 1969.
Người
hồi chánh được đưa vào các trại để học tập chính trị trong thời gian từ bốn đến
sáu tuần. Họ được phát quần áo và cung cấp thức ăn, đến khi xuất trại thì được
trả về nguyên quán hoặc định cư ở những vùng ấn định. Một số tùy theo khả năng
chuyên môn thì được kết nạp vào Cục Tâm lý chiến.
Theo
tài liệu của Bộ Chiêu Hồi thì trong thời gian từ năm 1963 đến 1973 chương trình
này đã thâu nhận hơn 194,000 người hồi chánh. Điều này cũng có nghĩa là loại
được bấy nhiêu quân đối phương ra khỏi chiến trường.
Những
bộ đội về với chính phủ VNCH, trở về với đường ngay lẽ phải, thì gọi là Hồi
chánh. Vậy thì những người miền Nam
lội ngược ra Bắc, nếu có, thì gọi bằng gì? Hồi tà ư? Đúng vậy! Thử hỏi
trong chiến tranh VN, có bao nhiêu người từ bỏ miền Nam tự do để lội ngược ra Bắc?
Có
ai dám quả quyết nước VN bây giờ vẫn còn là tổ ấm không? Nếu là tổ ấm thì tại
sao đàn chim cả triệu con đã tất tả rời tổ cách đây 39 năm, hàng triệu con liều
chết bỏ tổ tha phương khắp nơi những năm dài sau đó và cho đến ngày giờ này,
bằng cách này hay cách khác, vô số vẫn lìa tổ để kiếm ăn và tìm kiếm bến lành
để đậu? Ngày nay, không những những con chim non (du học sinh) túa ra khắp mọi
nơi trên thế giới để học hỏi và để tìm nơi nương nấu, mà những con kênh-kênh,
đà điểu và đại bàng (các quan lớn của chế độ) cũng đang âm mưu lập tổ cho riêng
mình ở những phương trời xa hầu mong cao bay xa chạy một khi “tổ ấm” VN bị
động, không còn bay nhảy múa may được nữa. Người chánh thì ca “Tung cánh
chim tìm về tổ ấm”. Người tà thì ca “Tung cánh chim rời xa tổ ấm”.
Sinh Tồn chuyển