Di Sản Hồ Chí Minh
Tất Cả Cũng Từ Di Sản HCM: Nước lã ra sông
Buồn trước hết là nghe ông Bộ trưởng nói việc dạy, học và thi ngoại ngữ ở nước ta: “chúng tôi đã tổ chức những đợt khảo sát các môn học, bậc học có tiếng Anh và ngoại ngữ thì thấy rằng cách dạy, cách học, cách thi ngoại ngữ hiện na
Nghe các quan chức Bộ Giáo dục trả lời chất vấn trước Quốc hội mà buồn.
Đủ thứ buồn, nhưng nay chỉ nói chuyện dạy và học ngoại ngữ.
Buồn trước hết là nghe ông Bộ trưởng nói việc dạy, học và thi ngoại ngữ ở
nước ta: “chúng tôi đã tổ chức những đợt khảo sát các môn học, bậc học
có tiếng Anh và ngoại ngữ thì thấy rằng cách dạy, cách học, cách thi
ngoại ngữ hiện nay của chúng ta không giống ai trên thế giới. Chúng ta
dạy và học chủ yếu là ngữ pháp nên học hết phổ thông cũng không nói
được, người ta nói không hiểu”. (trích dẫn theo báo Thanh niên)
Giáo dục dưới chế độ ta thực hiện việc giảng dạy ngoại ngữ từ năm 1955,
sau kháng chiến chống Pháp, cho tới nay là gần 60 năm. Thế hóa ra suốt
hơn nửa thế kỷ, việc giảng dạy và học tập ngoại ngữ đã lạc điệu với toàn
thế giới. Trước đó nhiều năm, các nhà trường thời Pháp thuộc đã rất
thành công trong việc mở mang dân trí nói chung và giảng dạy ngoại ngữ
nói riêng. Những dịch giả nổi tiếng của nhóm Lê Quý Đôn như Đỗ Đức Hiểu,
Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn, … đều chưa có bằng đại học nhưng đã dịch nhiều
tác phẩm nổi tiếng của văn học Pháp sang tiếng Việt, cho đến nay vẫn
chưa có bản dịch nào vượt qua; những người đã học qua bậc tiểu học, tới
thành chung (tương đương trung học cơ sở ngày nay) đều có thể sử dụng
tiếng Pháp trong khi điều kiện giảng dạy và học tập hết sức thô sơ. Vậy
sao ta không học ngay chương trình và phương pháp giảng dạy của họ để
đến nỗi đeo đẳng suốt 60 năm mà cuối cùng vẫn “nước lã ra sông”, nay
phải làm lại từ đầu?
Từ những năm 80 của thế kỷ trước, đã có những lần ta được sự giúp đỡ của
Liên Xô để biên soạn chương trình, sách giáo khoa, kể cả in ấn hiện
đại, đĩa nhựa ghi âm cho môn Tiếng Nga, các chuyên gia nước ta đã tu
nghiệp ở Nga nhiều năm, các giáo viên Tiếng Nga cũng đã lần lượt được
tập huấn từ 3 tới 9 tháng ở Liên Xô. Chương trình đã tốn kém không ít
tiền bạc (tất nhiên trong số tiền viện trợ giúp đỡ Việt Nam của nước
bạn), chẳng lẽ ngần ấy năm trời không đủ cho ta kinh nghiệm để vận dụng
vào giảng dạy và học tập tiếng Anh để đến nay cũng vẫn chỉ “nước lã ra
sông”?
Từ khoảng những năm 90 trở lại đây, đã có bao lần chương trình và sách
giáo khoa Tiếng Anh được biên soạn, được cải tiến với biết bao tiền của
do các nước giúp đỡ hoặc tiền từ ngân sách nhà nước. Rồi còn số tiền gấp
bội để trang bị biết bao phòng “lap” và đủ loại phương tiện tiên tiến
khác. Dù đã nhận được không ít những lời cảnh báo của những người có
kinh nghiệm trong và ngoài nước, Bộ Giáo dục vẫn phớt lờ, im lặng tiến
hành. Chẳng lẽ bao tiền bạc và công sức trong suốt hơn hai chục năm đến
nay cũng lại “nước lã ra sông”?
Dù sao, cái công bố của ông Bộ trưởng nhiệm kỳ này cũng thật sự may mắn
cho nền giáo dục nước nhà giống như ông đã từng nói đại ý: bằng thật mà
học giả chỉ có thể sử dụng để vào làm ở các cơ quan và doanh nghiệp nhà
nước. (tôi chắc nhiều người có trách nhiệm trong ngành giáo dục đã biết
điều này từ lâu nhưng họ chỉ “ngậm miệng” vì những lý do cá nhân). Hóa
ra từ bao lâu nay, gọi là hội nhập, là học hỏi, là tiếp cận với thế giới
nhưng việc giảng dạy và học tập ngoại ngữ ở nước ta vẫn chỉ là “một
mình một chợ”, “chẳng giống ai”mặc dù công việc này hoàn toàn không gặp
những trở ngại, những cấm kỵ, những “nhạy cảm” như một số môn học khác
như Văn hay Sử. Vậy trách nhiệm của các vị Bộ trưởng trước đây ra sao
khi biết bao thế hệ học sinh trong suốt 60 năm tốn bao tiền của và công
sức học hành, biết bao thế hệ các bậc làm cha mẹ “đổ mồ hôi sôi nước
mắt” vắt kiệt sức nuôi nấng con cái mà cuối cùng vẫn “nước lã ra sông”,
học ngoại ngữ 7 năm, thậm chí hơn chục năm mà vẫn không nghe, không nói
được?
Tình trạng học ngoại ngữ mà “không nói được, người ta nói không hiểu
được” theo tôi không chỉ dừng lại ở bậc học phổ thông như ông Bộ trưởng
thừa nhận. Ngay sinh viên các trường đại học, kể cả các trường đại học
chuyên ngoại ngữ cũng không phải ai cũng có thể sử dụng thành thạo được
ngôn ngữ đã học sau khi tốt nghiệp. Cứ xem trình độ của giáo viên dạy
ngoại ngữ ở các trường Phổ thông trung học hiện nay là đủ biết. (Tôi
không nói tới số giáo viên dạy ngoại ngữ ở các trường Phổ thông cơ sở
thường chỉ tốt nghiệp các trường cao đẳng). Các trường đại học chuyên
ngoại ngữ cũng đã đào tạo được một số sinh viên có trình độ chuẩn hoặc
gần đạt chuẩn, nhưng hình như số người này sau khi tốt nghiệp thường tìm
công ăn việc làm ở những nơi khác chứ không tình nguyện làm giáo viên
cho ngành giáo dục do đồng lương không đủ đảm bảo đời sống tối thiểu và
ít cơ hội thăng tiến. Chỉ số lượng không nhỏ những người không đạt
chuẩn tối thiểu, không sử dụng được ngoại ngữ vừa học sau 4, 5 năm mới
“chịu” trở thành giáo viên trong các trường Phổ thông. Vì thế học sinh
phổ thông ngoài việc học theo chương trình trên lớp, muốn có thể sử dụng
được ngoại ngữ phải bỏ nhiều tiền bạc và công sức học thêm ở các trường
dạy ngoại ngữ ngoài hệ thống của giáo dụcnhà nước. Bộ Giáo dục cần làm
ngay một cuộc điều tra để khảo sát trình độ của giáo viên ngoại ngữ
trong các trường Phổ thông hiện nay trước khi bắt tay vào cải cách hay
đổi mới việc giảng dạy và học tập ngoại ngữ. Bao nhiêu phần trăm giáo
viên có khả năng giao tiếp bằng thứ tiếng họ đang giảng dạy? Bao nhiêu
phần trăm giáo viên đã từng đọc hết một cuốn sách bằng thứ tiếng đó?
Những kết quả có được chắc sẽ khiến Bộ phải bất ngờ.
Tình trạng học mà không có kết quả, đầu óc vẫn rỗng tuếch không phải chỉ
có ở môn ngoại ngữ, chỉ có điều nó chưa được dịp bộc lộ ở các môn khác.
Cho nên, nếu không thay đổi cách đào tạo theo số lượng hiện nay để có
thành tích, để tăng thu nhập cho các trường đại học với tên gọi mỹ miều
“xã hội hóa” chất lượng giáo dục ở đại học sẽ còn tiếp tục tồi tệ và hậu
quả giáo dục phổ thông phải gánh chịu. Bao nhiêu gia đình học sinh
những tưởng con em mình được “học hành đến nơi đến chốn” ai ngờ mất tiền
oan!
Thà ít mà có chất lượng còn hơn số lượng rất lớn mà sau cả chục năm
“miệt mài đèn sách” con người vẫn không thoát khỏi tình trạng “vừa câm
vừa điếc”. Chẳng lẽ 60 năm chưa đủ để Bộ Giáo dục thấm thía điều này?
Trong nhiều nghìn tỷ đồng cho việc dạy và học ngoại ngữ, theo “Báo cáo
của Ban Quản lý Đề án 2020″, chỉ có phần mua sắm thiết bị là đã hoàn
thành. Tôi không bình luận gì thêm về điều này. Chỉ xin nhắc lại ý kiến
đã nói từ một bài trước: Nếu vội vàng bước vào một cuộc cải cách hay đổi
mới khi chưa chuẩn bị đầy đủ về con người, các đề án sẽ chỉ hoàn thành
được mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất và mua sắm thiết bị. Những cơ sở
vật chất này sẽ xuống cấp rất nhanh, những thiết bị này cũng sẽ lạc hậu
rất chóng. Và cuối cùng, tất cả lại “nước lã ra sông”.
Nước trong tự nhiên từ suối khe ngòi lạch chảy ra sông, rồi từ sông đổ
ra biển sẽ bốc hơi dưới ánh nắng mặt trời và trở lại trái đất theo quy
luật tuần hoàn của Tạo hóa. Nhưng những đồng tiền thuế của dân đóng góp
cho ngân sách, những đồng tiền cóp nhặt từ cuộc mưu sinh vất vả nộp cho
ngành giáo dục với hy vọng nuôi đứa con thành người đã mất đi sẽ không
bao giờ có hy vọng được lấy lại.
Chẳng biết, ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục có hay?
Dương Đình Giao
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Hiệu ứng nói phét!" - by Văn Quang / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Phiếm luận, chuyện Nhà Nước ta!!! _ Di Tĩnh Đắc ( Nguyễn Bá Chổi chuyển )
- Đánh trống, đánh chiêng học lại lịch sử Sài Gòn - by FB Nguyễn Gia Việt & Trần Văn Giang (ghi lại)
- Việt Cộng: Kế hoạch gửi tiền Quỹ vắc-xin COVID-19 để lấy lãi gây ra tranh cãi
- Ân xá Quốc tế gửi bằng chứng, đòi Việt Cộng điều tra về tin tặc tấn công giới bất đồng
Tất Cả Cũng Từ Di Sản HCM: Nước lã ra sông
Buồn trước hết là nghe ông Bộ trưởng nói việc dạy, học và thi ngoại ngữ ở nước ta: “chúng tôi đã tổ chức những đợt khảo sát các môn học, bậc học có tiếng Anh và ngoại ngữ thì thấy rằng cách dạy, cách học, cách thi ngoại ngữ hiện na
Nghe các quan chức Bộ Giáo dục trả lời chất vấn trước Quốc hội mà buồn.
Đủ thứ buồn, nhưng nay chỉ nói chuyện dạy và học ngoại ngữ.
Buồn trước hết là nghe ông Bộ trưởng nói việc dạy, học và thi ngoại ngữ ở
nước ta: “chúng tôi đã tổ chức những đợt khảo sát các môn học, bậc học
có tiếng Anh và ngoại ngữ thì thấy rằng cách dạy, cách học, cách thi
ngoại ngữ hiện nay của chúng ta không giống ai trên thế giới. Chúng ta
dạy và học chủ yếu là ngữ pháp nên học hết phổ thông cũng không nói
được, người ta nói không hiểu”. (trích dẫn theo báo Thanh niên)
Giáo dục dưới chế độ ta thực hiện việc giảng dạy ngoại ngữ từ năm 1955,
sau kháng chiến chống Pháp, cho tới nay là gần 60 năm. Thế hóa ra suốt
hơn nửa thế kỷ, việc giảng dạy và học tập ngoại ngữ đã lạc điệu với toàn
thế giới. Trước đó nhiều năm, các nhà trường thời Pháp thuộc đã rất
thành công trong việc mở mang dân trí nói chung và giảng dạy ngoại ngữ
nói riêng. Những dịch giả nổi tiếng của nhóm Lê Quý Đôn như Đỗ Đức Hiểu,
Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn, … đều chưa có bằng đại học nhưng đã dịch nhiều
tác phẩm nổi tiếng của văn học Pháp sang tiếng Việt, cho đến nay vẫn
chưa có bản dịch nào vượt qua; những người đã học qua bậc tiểu học, tới
thành chung (tương đương trung học cơ sở ngày nay) đều có thể sử dụng
tiếng Pháp trong khi điều kiện giảng dạy và học tập hết sức thô sơ. Vậy
sao ta không học ngay chương trình và phương pháp giảng dạy của họ để
đến nỗi đeo đẳng suốt 60 năm mà cuối cùng vẫn “nước lã ra sông”, nay
phải làm lại từ đầu?
Từ những năm 80 của thế kỷ trước, đã có những lần ta được sự giúp đỡ của
Liên Xô để biên soạn chương trình, sách giáo khoa, kể cả in ấn hiện
đại, đĩa nhựa ghi âm cho môn Tiếng Nga, các chuyên gia nước ta đã tu
nghiệp ở Nga nhiều năm, các giáo viên Tiếng Nga cũng đã lần lượt được
tập huấn từ 3 tới 9 tháng ở Liên Xô. Chương trình đã tốn kém không ít
tiền bạc (tất nhiên trong số tiền viện trợ giúp đỡ Việt Nam của nước
bạn), chẳng lẽ ngần ấy năm trời không đủ cho ta kinh nghiệm để vận dụng
vào giảng dạy và học tập tiếng Anh để đến nay cũng vẫn chỉ “nước lã ra
sông”?
Từ khoảng những năm 90 trở lại đây, đã có bao lần chương trình và sách
giáo khoa Tiếng Anh được biên soạn, được cải tiến với biết bao tiền của
do các nước giúp đỡ hoặc tiền từ ngân sách nhà nước. Rồi còn số tiền gấp
bội để trang bị biết bao phòng “lap” và đủ loại phương tiện tiên tiến
khác. Dù đã nhận được không ít những lời cảnh báo của những người có
kinh nghiệm trong và ngoài nước, Bộ Giáo dục vẫn phớt lờ, im lặng tiến
hành. Chẳng lẽ bao tiền bạc và công sức trong suốt hơn hai chục năm đến
nay cũng lại “nước lã ra sông”?
Dù sao, cái công bố của ông Bộ trưởng nhiệm kỳ này cũng thật sự may mắn
cho nền giáo dục nước nhà giống như ông đã từng nói đại ý: bằng thật mà
học giả chỉ có thể sử dụng để vào làm ở các cơ quan và doanh nghiệp nhà
nước. (tôi chắc nhiều người có trách nhiệm trong ngành giáo dục đã biết
điều này từ lâu nhưng họ chỉ “ngậm miệng” vì những lý do cá nhân). Hóa
ra từ bao lâu nay, gọi là hội nhập, là học hỏi, là tiếp cận với thế giới
nhưng việc giảng dạy và học tập ngoại ngữ ở nước ta vẫn chỉ là “một
mình một chợ”, “chẳng giống ai”mặc dù công việc này hoàn toàn không gặp
những trở ngại, những cấm kỵ, những “nhạy cảm” như một số môn học khác
như Văn hay Sử. Vậy trách nhiệm của các vị Bộ trưởng trước đây ra sao
khi biết bao thế hệ học sinh trong suốt 60 năm tốn bao tiền của và công
sức học hành, biết bao thế hệ các bậc làm cha mẹ “đổ mồ hôi sôi nước
mắt” vắt kiệt sức nuôi nấng con cái mà cuối cùng vẫn “nước lã ra sông”,
học ngoại ngữ 7 năm, thậm chí hơn chục năm mà vẫn không nghe, không nói
được?
Tình trạng học ngoại ngữ mà “không nói được, người ta nói không hiểu
được” theo tôi không chỉ dừng lại ở bậc học phổ thông như ông Bộ trưởng
thừa nhận. Ngay sinh viên các trường đại học, kể cả các trường đại học
chuyên ngoại ngữ cũng không phải ai cũng có thể sử dụng thành thạo được
ngôn ngữ đã học sau khi tốt nghiệp. Cứ xem trình độ của giáo viên dạy
ngoại ngữ ở các trường Phổ thông trung học hiện nay là đủ biết. (Tôi
không nói tới số giáo viên dạy ngoại ngữ ở các trường Phổ thông cơ sở
thường chỉ tốt nghiệp các trường cao đẳng). Các trường đại học chuyên
ngoại ngữ cũng đã đào tạo được một số sinh viên có trình độ chuẩn hoặc
gần đạt chuẩn, nhưng hình như số người này sau khi tốt nghiệp thường tìm
công ăn việc làm ở những nơi khác chứ không tình nguyện làm giáo viên
cho ngành giáo dục do đồng lương không đủ đảm bảo đời sống tối thiểu và
ít cơ hội thăng tiến. Chỉ số lượng không nhỏ những người không đạt
chuẩn tối thiểu, không sử dụng được ngoại ngữ vừa học sau 4, 5 năm mới
“chịu” trở thành giáo viên trong các trường Phổ thông. Vì thế học sinh
phổ thông ngoài việc học theo chương trình trên lớp, muốn có thể sử dụng
được ngoại ngữ phải bỏ nhiều tiền bạc và công sức học thêm ở các trường
dạy ngoại ngữ ngoài hệ thống của giáo dụcnhà nước. Bộ Giáo dục cần làm
ngay một cuộc điều tra để khảo sát trình độ của giáo viên ngoại ngữ
trong các trường Phổ thông hiện nay trước khi bắt tay vào cải cách hay
đổi mới việc giảng dạy và học tập ngoại ngữ. Bao nhiêu phần trăm giáo
viên có khả năng giao tiếp bằng thứ tiếng họ đang giảng dạy? Bao nhiêu
phần trăm giáo viên đã từng đọc hết một cuốn sách bằng thứ tiếng đó?
Những kết quả có được chắc sẽ khiến Bộ phải bất ngờ.
Tình trạng học mà không có kết quả, đầu óc vẫn rỗng tuếch không phải chỉ
có ở môn ngoại ngữ, chỉ có điều nó chưa được dịp bộc lộ ở các môn khác.
Cho nên, nếu không thay đổi cách đào tạo theo số lượng hiện nay để có
thành tích, để tăng thu nhập cho các trường đại học với tên gọi mỹ miều
“xã hội hóa” chất lượng giáo dục ở đại học sẽ còn tiếp tục tồi tệ và hậu
quả giáo dục phổ thông phải gánh chịu. Bao nhiêu gia đình học sinh
những tưởng con em mình được “học hành đến nơi đến chốn” ai ngờ mất tiền
oan!
Thà ít mà có chất lượng còn hơn số lượng rất lớn mà sau cả chục năm
“miệt mài đèn sách” con người vẫn không thoát khỏi tình trạng “vừa câm
vừa điếc”. Chẳng lẽ 60 năm chưa đủ để Bộ Giáo dục thấm thía điều này?
Trong nhiều nghìn tỷ đồng cho việc dạy và học ngoại ngữ, theo “Báo cáo
của Ban Quản lý Đề án 2020″, chỉ có phần mua sắm thiết bị là đã hoàn
thành. Tôi không bình luận gì thêm về điều này. Chỉ xin nhắc lại ý kiến
đã nói từ một bài trước: Nếu vội vàng bước vào một cuộc cải cách hay đổi
mới khi chưa chuẩn bị đầy đủ về con người, các đề án sẽ chỉ hoàn thành
được mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất và mua sắm thiết bị. Những cơ sở
vật chất này sẽ xuống cấp rất nhanh, những thiết bị này cũng sẽ lạc hậu
rất chóng. Và cuối cùng, tất cả lại “nước lã ra sông”.
Nước trong tự nhiên từ suối khe ngòi lạch chảy ra sông, rồi từ sông đổ
ra biển sẽ bốc hơi dưới ánh nắng mặt trời và trở lại trái đất theo quy
luật tuần hoàn của Tạo hóa. Nhưng những đồng tiền thuế của dân đóng góp
cho ngân sách, những đồng tiền cóp nhặt từ cuộc mưu sinh vất vả nộp cho
ngành giáo dục với hy vọng nuôi đứa con thành người đã mất đi sẽ không
bao giờ có hy vọng được lấy lại.
Chẳng biết, ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục có hay?
Dương Đình Giao