Tham Khảo
Thế nào là một chính quyền của giới đầu cơ? - Nam Nguyên, phóng viên RFA
Kinh tế tài chính VN đang gặp nguy hiểm?
TS Vũ Quang Việt, chuyên gia kinh tế gốc Việt vừa cảnh báo là Việt Nam đang trong tình trạng bấp bênh, mức tăng GDP không đủ để trả lãi nợ vay của toàn bộ nền kinh tế.
Trong bài viết được tờ Thời báo Kinh tế Saigon Online đưa lên mạng ngày 29/1/2015, TS Vũ Quang Việt nguyên Vụ trưởng Vụ tài khoản Quốc gia Cục Thống kê Liên Hiệp Quốc kêu gọi Việt Nam cấp bách đổi mới thể chế, nhằm bảo đảm sự lành mạnh cho nền tài chính quốc gia. Theo lời TS Vũ Quang Việt, hiện nay nền tài chính bị nhóm lợi ích tài chính sử dụng nhằm mục đích chính là đầu cơ tài sản từ địa ốc, chứng khoán và đến cả điều gọi là sản xuất ảo. Lạm phát, nợ tăng quá mức, nợ xấu là hệ quả, đưa đến tình trạng một số người giàu nhanh chóng còn đại đa số vẫn khó khăn.
TS Vũ Quang Việt đưa ra một thí dụ đơn giản, trong một nền kinh tế không có lạm phát, nếu nợ là 100% ngang bằng với GDP với lãi suất là 5% thì GDP tăng 5% chỉ đủ để trả lãi. Hiện nay tỷ lệ nợ của Việt Nam tức nợ của toàn bộ nền kinh tế đã bằng 164% GDP thì GDP tăng 5% chỉ đủ để trả 60% lãi, như thế phải tăng GDP đến 8% thì mới có thể trả được lãi.
Theo đánh giá của TS Vũ Quang Việt trên Saigon Times Online, toàn bộ nợ của nền kinh tế Việt Nam cho đến năm 2014 là 303 tỉ đô la, tương đương 164% GDP, số nợ tăng rất mạnh sau năm 2006, lúc đó chỉ bằng 98% GDP. Riêng về nợ công tức nợ của khu vực kinh tế nhà nước nếu gộp cả nợ của doanh nghiệp nhà nước, thì tính đến năm 2013 là 143,6 tỉ đô la chứ không phải 90 tỉ đô la như cách tính của chính phủ. Như vậy theo TS Vũ Quang Việt nợ của khu vực kinh tế nhà nước tương đương 53% tổng nợ của cả nền kinh tế. Trong khi đó khu vực kinh tế nhà nước chỉ sản xuất ra 32% GDP.
Đáp câu hỏi của chúng tôi là phải chăng tình hình kinh tế tài chính Việt Nam đang gặp nguy hiểm? Chuyên gia kinh tế Phó Giáo sư Ngô Trí Long từ Hà Nội nhận định:
“Theo tôi nghĩ là một tình trạng báo động, với tư cách chuyên gia tôi nghĩ là tỷ lệ nợ công theo GDP là căn cứ rất quan trọng. Nhưng quan trọng hơn nữa là xem việc sử dụng cái nguồn để trả nợ cũng như hiệu quả hoạt động nền kinh tế vấn đề sử dụng đồng tiền đó như thế nào. Chứ còn giả sử nợ công mặc dầu có dưới trần cho phép, nhưng hoạt động không hiệu quả, làm ít ăn nhiều làm không hiệu quả không có thặng dư thì chắc chắn sẽ nguy hiểm. Trong bối cảnh Việt Nam cả hai vấn đề đó cần phải xem xét, thứ nhất nợ công theo cách tính toán của một số chuyên gia theo thông lệ quốc tế thì có thể không phải như chính phủ công bố mà cao hơn, đặc biệt nguồn chi trả của nó thì không có khả năng đáp ứng. Bởi lẽ ngân sách luôn luôn thâm thủng bội chi mà bội chi ngân sách của Việt Nam là một căn bệnh trầm kha bởi năng suất chất lượng hiệu quả luôn luôn là thấp.”
Cùng một câu hỏi phải chăng tình trạng hiểm nguy đang đối diện nền kinh tế tài chính Việt Nam, TS Kinh tế Phạm Chí Dũng một nhà phản biện độc lập ở Saigon nhận định:
“Người ta đã nói khá nhiều về khả năng vỡ nợ của Việt Nam giống Argentina năm 2001 và năm trước chính phủ Việt Nam đề cập việc vay 1 tỉ đô la đã là khó khăn. Tôi không biết 1 tỉ đô la phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam như là một thành tích vào cuối năm trước là ai mua; mà cũng có khá nhiều người tỏ ra nghi ngờ rằng, đã có những Tập đoàn Nhà nước ở hải ngoại đứng ra mua trái phiếu chứ không phải là một quốc gia uy tín nào, hoặc là những doanh nghiệp uy tín nào của quốc tế. Thành thử tình trạng hiện nay rất nguy hiểm và điều đó có thể nhìn thấy qua một ý kiến ‘phơn phớt’ của ông Bùi Quang Vinh Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư, hay ý kiến thẳng thắn hơn nhiều của ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, thì nhìn vào tình trạng nợ công nợ xấu, thị trường bất động sản, vấn đề thất nghiệp và gần nhất là vấn đề tiền thưởng Tết của các doanh nghiệp hiện nay. Chúng tôi vừa nhận được tin là 620 cán bộ công nhân viên của Bệnh viện đa khoa Lâm Đồng năm nay không có tiền thưởng Tết. Đó là một bi kịch chưa từng thấy đối với nền kinh tế.”
Chính quyền đẩy lạm phát là chính quyền của giới đầu cơ
Trở lại bài viết của chuyên gia kinh tế tài chính TS Vũ Quang Việt trên Saigon Times Online, ông cho rằng lạm phát chính là biện pháp hay chính sách để người vay không phải trả nợ vì giá trị thật của nợ giảm… Và một chính quyền cổ vũ cho tăng tín dụng, đẩy lạm phát là một chính quyền của giới đầu cơ.
Trong câu chuyện với chúng tôi chuyên gia kinh tế Phó Giáo sư Ngô Trí Long nhận định:
“Tôi nghĩ cách nói của ông Việt rất là tế nhị, ông không nói thẳng là Việt Nam nhưng chúng ta thấy rằng thực chất nó là bản chất của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Đặc biệt ông Việt là một Việt kiều, nhiều khi người ta nói là thuốc đắng thì dã tật, sự thật thì mất lòng. Nói thẳng vấn đề ra thì nhiều khi người ta cũng cảm thấy là không dễ chịu cho nên cách của ông dùng hình tượng đó nhưng nếu mình hiểu đúng bản chất của nền kinh tế Việt Nam thì thực chất là nói đến nền kinh tế Việt Nam.”
Trong bài viết của mình trên Saigon Times Online, TS Vũ Quang Việt nhấn mạnh tới nguyên nhân gây ra nợ công lớn không chỉ vì chính sách xây dựng hạ tầng cơ sở mà còn vì chính sách chi tiêu cho Tập đoàn Doanh nghiệp Nhà nước, tưởng là có thể đẩy mạnh tốc độ tăng GDP và khi chúng thiếu hiệu quả gây khủng hoảng kinh tế, thì lại có cớ tăng chi kích cầu. Kết quả là nợ nhà nước phình to, chiếm tỷ lệ rất lớn của GDP nhưng cuối cùng chỉ là giúp tìm việc cho nhóm lợi ích và giúp cho giới đầu cơ làm giàu.
Cùng về vấn đề này, TS Kinh tế Phạm Chí Dũng trình bày cách nhìn của ông:
“Vào năm 2009 khoảng 143.000 tỉ đồng đã được tung ra tương đương 8,5 tỉ đô la vào thời điểm đó và đã làm lợi cho hai thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Thị trường chứng khoán tăng gấp ba lần, thị trường bất động sản Hà Nội cũng tăng giá gấp ba lần và tạo ra một cơn điên. Việc này chỉ có lợi cho bất động sản và chứng khoán và sau đó tính chất đầu cơ mạnh mẽ đến mức Quốc hội cũng phải lên tiếng. Nhưng mà cho tới giờ Quốc hội cũng chưa có điều kiện hoặc là không dám có điều kiện để kiểm chứng lại hiệu quả của gói kích cầu chính phủ tung ra vào năm 2009 là như thế nào.”
Chuyên gia Vũ Quang Việt sau khi vạch rõ nguyên nhân dẫn đến căn bệnh trầm kha của nền kinh tế Việt Nam hiện nay đã đề nghị sự cải cách cơ bản là “Viết lại Luật Tín dụng và Luật Doanh nghiệp”. Trên Saigon Times Online ông cho rằng, chỉ nói cơ cấu lại nền kinh tế như tăng chỗ này giảm chỗ kia thì không có nhiều ý nghĩa. Vấn đề cơ bản là xây dựng được một nền tài chính lành mạnh làm cơ sở để nền kinh tế phát triển lành mạnh. Theo quan điểm của ông Vũ Quang Việt, viết lại Luật Tín dụng là yêu cầu cơ bản và điều quan trọng là việc viết lại này không đòi hỏi phải thay đổi Hiến pháp hiện hành.
Theo TS Vũ Quang Việt, Luật các tổ chức tín dụng hiện hành cho phép sở hữu chéo, giữa các ngân hàng và giữa ngân hàng với công ty tài chính và doanh nghiệp phi tài chính. Chính điều này đã tạo ra cơ sở để tư bản thân hữu nảy nở. Viết lại Luật Tín dụng theo hướng triệt tiêu tất cả những sự cho phép đó, chấm dứt mọi hình thức lạm dụng tài chính quốc gia.
TS Vũ Quang Việt đề nghị viết rõ trong Luật Tín dụng và cả Luật Ngân hàng Nhà nước đòi hỏi mọi doanh nghiệp dù công hay tư phải báo cáo tài chính có kiểm toán hàng quí và hàng năm. Theo ông, lành mạnh hóa nền tài chính bằng cách viết lại luật chỉ là một điều kiện cần để kinh tế có thể hoạt động hữu hiệu. Các điều kiện khác vẫn là nền kinh tế phải có tính cạnh tranh, không ưu tiên do đó cần xóa bỏ dần Doanh nghiệp Nhà nước. Đối với các Doanh nghiệp Nhà nước độc quyền như sản xuất điện, cần nghiêm cấm đầu tư ngoài hoạt động mà Doanh nghiệp Nhà nước được độc quyền.
Trong bài viết trên Saigon Times Online, TS Vũ Quang Việt đề nghị công khai minh bạch về các khoản nợ. Thực hiện luật phá sản đối với ngân hàng và doanh nghiệp đã ngập sâu trong nợ nần, không thể cứu nếu không chi một lượng tiền quá lớn.
Đáp câu hỏi của chúng tôi về khả năng khuyến nghị của TS Vũ Quang Việt được lắng nghe và thực hiện, Phó giáo sư Ngô Trí Long nhận định:
“Tôi nghĩ ý kiến và quan điểm của ông Việt hoàn toàn đúng và đúng với thông lệ quốc tế, đúng với qui luật của kinh tế thị trường. Tôi đã từng làm việc nhiều với ông Việt, ông là người có tư duy kinh tế thị trường thực sự và cũng am hiểu về Việt Nam rất là sâu, những ý kiến và đề nghị của ông Việt là hoàn toàn chuẩn xác. Nhưng việc vấn đề được đưa ra và thực hiện nó như thế nào là một vấn đề cần phải xem xét; trong bối cảnh tình hình Việt nam hiện nay, đã thấy được tình hình đó nhưng để xử lý giải quyết những vấn đề này một cách triệt để đúng theo như lời nói thì hoàn toàn rất là khó. Chính vì vậy nền kinh tế Việt Nam cũng vẫn có một sự trì trệ nhất định hay sự phát triển cũng chỉ có một mức độ nhất định, thì chính là do lời nói cũng như việc làm, chính sách chủ trương đưa ra và việc thực hiện nó không đồng nhất với nhau.”
Theo quan điểm và ý kiến của TS Phạm Chí Dũng, đề nghị của TS Vũ Quang Việt có tính khả thi chỉ riêng trong vấn đề thực hiện phá sản các tổ chức tín dụng ngập trong nợ nần nói chung. Tuy nhiên theo lời nhà phản biện độc lập này, sự công khai minh bạch không tồn tại ở Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay. Trong khi các đề nghị cải cách cơ bản của chuyên gia Vũ Quang Việt, đặc biệt trong xóa sở hữu chéo, trên thực tế đều cần phải có sự công khai minh bạch mới có thể trở thành hiện thực.
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Thế nào là một chính quyền của giới đầu cơ? - Nam Nguyên, phóng viên RFA
Kinh tế tài chính VN đang gặp nguy hiểm?
TS Vũ Quang Việt, chuyên gia kinh tế gốc Việt vừa cảnh báo là Việt Nam đang trong tình trạng bấp bênh, mức tăng GDP không đủ để trả lãi nợ vay của toàn bộ nền kinh tế.
Trong bài viết được tờ Thời báo Kinh tế Saigon Online đưa lên mạng ngày 29/1/2015, TS Vũ Quang Việt nguyên Vụ trưởng Vụ tài khoản Quốc gia Cục Thống kê Liên Hiệp Quốc kêu gọi Việt Nam cấp bách đổi mới thể chế, nhằm bảo đảm sự lành mạnh cho nền tài chính quốc gia. Theo lời TS Vũ Quang Việt, hiện nay nền tài chính bị nhóm lợi ích tài chính sử dụng nhằm mục đích chính là đầu cơ tài sản từ địa ốc, chứng khoán và đến cả điều gọi là sản xuất ảo. Lạm phát, nợ tăng quá mức, nợ xấu là hệ quả, đưa đến tình trạng một số người giàu nhanh chóng còn đại đa số vẫn khó khăn.
TS Vũ Quang Việt đưa ra một thí dụ đơn giản, trong một nền kinh tế không có lạm phát, nếu nợ là 100% ngang bằng với GDP với lãi suất là 5% thì GDP tăng 5% chỉ đủ để trả lãi. Hiện nay tỷ lệ nợ của Việt Nam tức nợ của toàn bộ nền kinh tế đã bằng 164% GDP thì GDP tăng 5% chỉ đủ để trả 60% lãi, như thế phải tăng GDP đến 8% thì mới có thể trả được lãi.
Theo đánh giá của TS Vũ Quang Việt trên Saigon Times Online, toàn bộ nợ của nền kinh tế Việt Nam cho đến năm 2014 là 303 tỉ đô la, tương đương 164% GDP, số nợ tăng rất mạnh sau năm 2006, lúc đó chỉ bằng 98% GDP. Riêng về nợ công tức nợ của khu vực kinh tế nhà nước nếu gộp cả nợ của doanh nghiệp nhà nước, thì tính đến năm 2013 là 143,6 tỉ đô la chứ không phải 90 tỉ đô la như cách tính của chính phủ. Như vậy theo TS Vũ Quang Việt nợ của khu vực kinh tế nhà nước tương đương 53% tổng nợ của cả nền kinh tế. Trong khi đó khu vực kinh tế nhà nước chỉ sản xuất ra 32% GDP.
Đáp câu hỏi của chúng tôi là phải chăng tình hình kinh tế tài chính Việt Nam đang gặp nguy hiểm? Chuyên gia kinh tế Phó Giáo sư Ngô Trí Long từ Hà Nội nhận định:
“Theo tôi nghĩ là một tình trạng báo động, với tư cách chuyên gia tôi nghĩ là tỷ lệ nợ công theo GDP là căn cứ rất quan trọng. Nhưng quan trọng hơn nữa là xem việc sử dụng cái nguồn để trả nợ cũng như hiệu quả hoạt động nền kinh tế vấn đề sử dụng đồng tiền đó như thế nào. Chứ còn giả sử nợ công mặc dầu có dưới trần cho phép, nhưng hoạt động không hiệu quả, làm ít ăn nhiều làm không hiệu quả không có thặng dư thì chắc chắn sẽ nguy hiểm. Trong bối cảnh Việt Nam cả hai vấn đề đó cần phải xem xét, thứ nhất nợ công theo cách tính toán của một số chuyên gia theo thông lệ quốc tế thì có thể không phải như chính phủ công bố mà cao hơn, đặc biệt nguồn chi trả của nó thì không có khả năng đáp ứng. Bởi lẽ ngân sách luôn luôn thâm thủng bội chi mà bội chi ngân sách của Việt Nam là một căn bệnh trầm kha bởi năng suất chất lượng hiệu quả luôn luôn là thấp.”
Cùng một câu hỏi phải chăng tình trạng hiểm nguy đang đối diện nền kinh tế tài chính Việt Nam, TS Kinh tế Phạm Chí Dũng một nhà phản biện độc lập ở Saigon nhận định:
“Người ta đã nói khá nhiều về khả năng vỡ nợ của Việt Nam giống Argentina năm 2001 và năm trước chính phủ Việt Nam đề cập việc vay 1 tỉ đô la đã là khó khăn. Tôi không biết 1 tỉ đô la phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam như là một thành tích vào cuối năm trước là ai mua; mà cũng có khá nhiều người tỏ ra nghi ngờ rằng, đã có những Tập đoàn Nhà nước ở hải ngoại đứng ra mua trái phiếu chứ không phải là một quốc gia uy tín nào, hoặc là những doanh nghiệp uy tín nào của quốc tế. Thành thử tình trạng hiện nay rất nguy hiểm và điều đó có thể nhìn thấy qua một ý kiến ‘phơn phớt’ của ông Bùi Quang Vinh Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư, hay ý kiến thẳng thắn hơn nhiều của ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, thì nhìn vào tình trạng nợ công nợ xấu, thị trường bất động sản, vấn đề thất nghiệp và gần nhất là vấn đề tiền thưởng Tết của các doanh nghiệp hiện nay. Chúng tôi vừa nhận được tin là 620 cán bộ công nhân viên của Bệnh viện đa khoa Lâm Đồng năm nay không có tiền thưởng Tết. Đó là một bi kịch chưa từng thấy đối với nền kinh tế.”
Chính quyền đẩy lạm phát là chính quyền của giới đầu cơ
Trở lại bài viết của chuyên gia kinh tế tài chính TS Vũ Quang Việt trên Saigon Times Online, ông cho rằng lạm phát chính là biện pháp hay chính sách để người vay không phải trả nợ vì giá trị thật của nợ giảm… Và một chính quyền cổ vũ cho tăng tín dụng, đẩy lạm phát là một chính quyền của giới đầu cơ.
Trong câu chuyện với chúng tôi chuyên gia kinh tế Phó Giáo sư Ngô Trí Long nhận định:
“Tôi nghĩ cách nói của ông Việt rất là tế nhị, ông không nói thẳng là Việt Nam nhưng chúng ta thấy rằng thực chất nó là bản chất của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Đặc biệt ông Việt là một Việt kiều, nhiều khi người ta nói là thuốc đắng thì dã tật, sự thật thì mất lòng. Nói thẳng vấn đề ra thì nhiều khi người ta cũng cảm thấy là không dễ chịu cho nên cách của ông dùng hình tượng đó nhưng nếu mình hiểu đúng bản chất của nền kinh tế Việt Nam thì thực chất là nói đến nền kinh tế Việt Nam.”
Trong bài viết của mình trên Saigon Times Online, TS Vũ Quang Việt nhấn mạnh tới nguyên nhân gây ra nợ công lớn không chỉ vì chính sách xây dựng hạ tầng cơ sở mà còn vì chính sách chi tiêu cho Tập đoàn Doanh nghiệp Nhà nước, tưởng là có thể đẩy mạnh tốc độ tăng GDP và khi chúng thiếu hiệu quả gây khủng hoảng kinh tế, thì lại có cớ tăng chi kích cầu. Kết quả là nợ nhà nước phình to, chiếm tỷ lệ rất lớn của GDP nhưng cuối cùng chỉ là giúp tìm việc cho nhóm lợi ích và giúp cho giới đầu cơ làm giàu.
Cùng về vấn đề này, TS Kinh tế Phạm Chí Dũng trình bày cách nhìn của ông:
“Vào năm 2009 khoảng 143.000 tỉ đồng đã được tung ra tương đương 8,5 tỉ đô la vào thời điểm đó và đã làm lợi cho hai thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Thị trường chứng khoán tăng gấp ba lần, thị trường bất động sản Hà Nội cũng tăng giá gấp ba lần và tạo ra một cơn điên. Việc này chỉ có lợi cho bất động sản và chứng khoán và sau đó tính chất đầu cơ mạnh mẽ đến mức Quốc hội cũng phải lên tiếng. Nhưng mà cho tới giờ Quốc hội cũng chưa có điều kiện hoặc là không dám có điều kiện để kiểm chứng lại hiệu quả của gói kích cầu chính phủ tung ra vào năm 2009 là như thế nào.”
Chuyên gia Vũ Quang Việt sau khi vạch rõ nguyên nhân dẫn đến căn bệnh trầm kha của nền kinh tế Việt Nam hiện nay đã đề nghị sự cải cách cơ bản là “Viết lại Luật Tín dụng và Luật Doanh nghiệp”. Trên Saigon Times Online ông cho rằng, chỉ nói cơ cấu lại nền kinh tế như tăng chỗ này giảm chỗ kia thì không có nhiều ý nghĩa. Vấn đề cơ bản là xây dựng được một nền tài chính lành mạnh làm cơ sở để nền kinh tế phát triển lành mạnh. Theo quan điểm của ông Vũ Quang Việt, viết lại Luật Tín dụng là yêu cầu cơ bản và điều quan trọng là việc viết lại này không đòi hỏi phải thay đổi Hiến pháp hiện hành.
Theo TS Vũ Quang Việt, Luật các tổ chức tín dụng hiện hành cho phép sở hữu chéo, giữa các ngân hàng và giữa ngân hàng với công ty tài chính và doanh nghiệp phi tài chính. Chính điều này đã tạo ra cơ sở để tư bản thân hữu nảy nở. Viết lại Luật Tín dụng theo hướng triệt tiêu tất cả những sự cho phép đó, chấm dứt mọi hình thức lạm dụng tài chính quốc gia.
TS Vũ Quang Việt đề nghị viết rõ trong Luật Tín dụng và cả Luật Ngân hàng Nhà nước đòi hỏi mọi doanh nghiệp dù công hay tư phải báo cáo tài chính có kiểm toán hàng quí và hàng năm. Theo ông, lành mạnh hóa nền tài chính bằng cách viết lại luật chỉ là một điều kiện cần để kinh tế có thể hoạt động hữu hiệu. Các điều kiện khác vẫn là nền kinh tế phải có tính cạnh tranh, không ưu tiên do đó cần xóa bỏ dần Doanh nghiệp Nhà nước. Đối với các Doanh nghiệp Nhà nước độc quyền như sản xuất điện, cần nghiêm cấm đầu tư ngoài hoạt động mà Doanh nghiệp Nhà nước được độc quyền.
Trong bài viết trên Saigon Times Online, TS Vũ Quang Việt đề nghị công khai minh bạch về các khoản nợ. Thực hiện luật phá sản đối với ngân hàng và doanh nghiệp đã ngập sâu trong nợ nần, không thể cứu nếu không chi một lượng tiền quá lớn.
Đáp câu hỏi của chúng tôi về khả năng khuyến nghị của TS Vũ Quang Việt được lắng nghe và thực hiện, Phó giáo sư Ngô Trí Long nhận định:
“Tôi nghĩ ý kiến và quan điểm của ông Việt hoàn toàn đúng và đúng với thông lệ quốc tế, đúng với qui luật của kinh tế thị trường. Tôi đã từng làm việc nhiều với ông Việt, ông là người có tư duy kinh tế thị trường thực sự và cũng am hiểu về Việt Nam rất là sâu, những ý kiến và đề nghị của ông Việt là hoàn toàn chuẩn xác. Nhưng việc vấn đề được đưa ra và thực hiện nó như thế nào là một vấn đề cần phải xem xét; trong bối cảnh tình hình Việt nam hiện nay, đã thấy được tình hình đó nhưng để xử lý giải quyết những vấn đề này một cách triệt để đúng theo như lời nói thì hoàn toàn rất là khó. Chính vì vậy nền kinh tế Việt Nam cũng vẫn có một sự trì trệ nhất định hay sự phát triển cũng chỉ có một mức độ nhất định, thì chính là do lời nói cũng như việc làm, chính sách chủ trương đưa ra và việc thực hiện nó không đồng nhất với nhau.”
Theo quan điểm và ý kiến của TS Phạm Chí Dũng, đề nghị của TS Vũ Quang Việt có tính khả thi chỉ riêng trong vấn đề thực hiện phá sản các tổ chức tín dụng ngập trong nợ nần nói chung. Tuy nhiên theo lời nhà phản biện độc lập này, sự công khai minh bạch không tồn tại ở Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay. Trong khi các đề nghị cải cách cơ bản của chuyên gia Vũ Quang Việt, đặc biệt trong xóa sở hữu chéo, trên thực tế đều cần phải có sự công khai minh bạch mới có thể trở thành hiện thực.