Thân Hữu Tiếp Tay...
Thời sinh viên ở Sài Gòn
                Các anh các chị, có thể không phải là thủ phạm nhưng không thể phủ nhận là những người đã góp phần gây ra những điêu tàn đổ nát hôm nay. Xin đừng im lặng nữa. Nếu không đủ sức để hành động, hãy viết, hãy nói, hãy kể lại cho các thế hệ trẻ những bài học dù thất bại, những ước mơ dù bị phản bội, những kinh nghiệm dù được đổi bằng xương máu của mình. 
            
                 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
            
        Thời sinh viên ở Sài Gòn
Trần Trung Đạo - Các  anh các chị, có thể không phải là thủ phạm nhưng không thể phủ nhận là  những người đã góp phần gây ra những điêu tàn đổ nát hôm nay. Xin đừng  im lặng nữa. Nếu không đủ sức để hành động, hãy viết, hãy nói, hãy kể  lại cho các thế hệ trẻ những bài học dù thất bại, những ước mơ dù bị  phản bội, những kinh nghiệm dù được đổi bằng xương máu của mình. Là  những người có lương tâm, hôm nay, không có tòa án nào kết án các anh  chị nặng bằng tòa án lương tâm của chính các anh chị. Là những người vốn  nặng tình cảm, hôm nay, không có tình cảm nào cấu xé các anh chị bằng  tình cảm các anh chị đã từng dành cho đất nước. Xã hội Việt Nam băng  hoại, trụy lạc, tha hóa ngày nay là chiếc gương, các anh chị hãy soi vào  đó để thấy lại chính mình...
 *
 Nhân dịp đọc bài viết của Hoàng Thanh Trúc trên Dân Làm Báo và qua đó đọc thêm các bài viết khác Không hổ thẹn về một thời trai trẻ của một nhóm tác giả và Cuộc họp mặt “có một không hai”  của Huỳnh Tấn Mẫm trên báo Tuổi Trẻ sau buổi hội thảo “tầm vóc và ý  nghĩa của phong trào đấu tranh của sinh viên – học sinh trí thức, văn  nghệ sĩ… tại các đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975” được tổ chức tại  Đại học Duy Tân (Đà Nẵng) trong hai ngày 19 và 20-5-2012, tôi chợt nhớ  lại một bài thơ tôi viết từ lâu lắm cũng có nhắc đến các anh chị này. 
 Bài thơ Đêm cuối đi qua trường Luật viết ra trong những ngày mới  đến Mỹ nhưng bắt nguồn từ những ý hiện lên trong một đêm mưa tháng Sáu  1981 ở Sài Gòn. Tôi không ghi lại ngày tháng viết bài thơ nhưng có in  trong tập thơ đầu tay ở Mỹ năm 1991. Bài thơ khá dài, dưới đây là một  đoạn có liên quan đến bài viết này:
 Trời Sài Gòn tháng Sáu mưa đêm
 Như từng nhát dao chém xuống đời vội vã
 Tôi ra đi dặn lòng quên tất cả
 Những hẹn thề toan tính thuở hoa niên
 Bốn phương trời lưu lạc một bầy chim
 Đã lạc lối về sông Dương Tử
 Tổ quốc Việt Nam
 Bốn nghìn năm lịch sử
 Còn lại hôm nay là những tang thương
 Tấm bảng Hội Liên Hiệp Sinh Viên
 Vẫn còn đong đưa trên vách
 Chợt nhớ ra tên các chị các anh
 Những Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đình Ban
 Những Nguyễn Hoàng Trúc, Võ Như Lanh
 Các anh, các chị
 Giờ nầy chắc vẫn còn đang thức
 Để viết xong bài tự kiểm trước nhân dân
 Nhớ viết thật nhiều về những chiến công
 Đã đốt bao nhiêu xe Mỹ Ngụy
 Đã bán đứng bao nhiêu bè bạn anh em
 Đã cắm được bao nhiêu cờ mặt trận
 Tôi không hề trách các anh
 Vì chẳng bao giờ ai trách
 Những tên cầm cờ, khiêng kiệu
 Hãy cố cong lưng và thu mình thật nhỏ
 Hãy biết dại khờ và biết ngây ngô
 “Độc lập, Hòa Bình, Thống Nhất, Tự Do”
 Phải nhớ luôn luôn là tất yếu
 Kể cả chuyện tình yêu trai gái
 Cũng phải học thuộc lòng
 Định nghĩa mới hôm nay
 Đừng bao giờ nhắc những chuyện không may
 Như những Ủy Ban Đòi Quyền Sống
 Những Phong Trào Dân Chủ Tự Do
 Dân Việt Nam bây giờ
 Không có gì đáng để lo
 Hơn những chuyện cháo rau, khoai sắn
 Và không có một chút quyền
 Dù chỉ là quyền để than thân trách phận. 
 Tôi từ Đà Nẵng vào Sài Gòn cuối tháng Tám 1972. Nơi tôi ghi danh học đầu  tiên là trường Luật. Có thể nói tôi là một trong những tân sinh viên  nộp đơn vào năm thứ nhất niên khóa 1972-1973 trễ nhất. Ghi danh vào  trường Luật không cần phải thi, chỉ cần trình bằng tốt nghiệp Tú Tài  phần hai là đủ. Phòng ghi danh là một khu nhà lụp xụp phía sau trường  chung một hàng rào với đại học Kiến Trúc. Tôi được phát một thẻ sinh  viên tạm. Số sinh viên của tôi dài tới năm số. Tôi không nhớ chính xác  nhưng hai số thứ tự đầu đã lên đến trên mười ngàn. Trường Luật, được  chính thức thành lập dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa, là một trong những  trường già nua về cả hình thức lẫn chiều dài lịch sử, trong số các  trường đại học thuộc Viện Đại Học Sài Gòn. Trường không có nhiều đất  trống ngoại trừ khoảng sân không mấy rộng giữa trường. Cổng trường còn  lại những viên ngói đỏ rêu phong từ khi mới thành lập. Giảng đường chỉ  là những phòng học dài nối nhau. So với các trường trung học như Gia  Long, Petrus Ký, trường đại học Luật Khoa Sài Gòn nhỏ hẹp và chật chội  hơn nhiều. Vì số thẻ sinh viên của tôi cao trên mười ngàn nên có lần tôi  viết câu thơ mô tả trường Luật “mười ngàn sinh viên trong giảng đường vài trăm chỗ / học suốt năm không thấy mặt thầy”. 
 Công việc đầu tiên của một tân sinh viên sau khi ghi danh, nhận lớp, là  đi mua “cua” tức sách giáo khoa giảng dạy của các thầy, từ dân luật,  hình luật đến cổ luật. Vì hiếm khi gặp mặt thầy, không có “cua” là rớt.  Sau khi ghi danh ở Luật, tôi sang ghi danh Ban Kinh Tế khoa Khoa Học Xã  Hội ở đại học Vạn Hạnh. Khoa Khoa Học Xã Hội ở Vạn Hạnh phải thi vào  nhưng cũng chỉ thi cho đúng thủ tục vì tôi không nghe ai thi rớt vào  khoa Khoa Học Xã Hội ở đại học Vạn Hạnh bao giờ. 
 Trường Luật chật hẹp mà sinh viên lại quá đông, chúng tôi thường la cà  trong những quán cốc. Nhiều nhất là chung quanh công trường Quốc Tế,  thường gọi là Hồ Con Rùa, bên ngoài trụ sở “Tổng Hội Sinh Viên” số 4 Duy  Tân hay góc Thư Viện Quốc Gia trên đường Gia Long. Các quán cà phê  thường không có tên. Ngoài quán cà phê Bà Vú bên ngoài đại học Vạn Hạnh,  phần lớn các quán chung quanh trường Luật do sinh viên tự đặt tên bằng  địa điểm để dễ hẹn nhau. Số sinh viên ghi danh vào Luật cao nhưng bỏ  trường ra đi sớm rất đông và thi rớt cũng nhiều. Trong số những người bỏ  cuộc có tôi. Tôi học cả hai trường và vì kỳ thi cuối khóa cùng ngày nên  tôi không theo đuổi việc học Luật hết năm thứ nhất. Bạn bè tôi phần  đông học Luật nên mỗi tuần tôi đều trở lại trường. Ở đó, dưới những gốc  me, vỉa phố, bên những ly cà phê đen, cà phê sữa, trên những ghế thấp,  cạnh những chiếc bàn vuông, chúng tôi để cho những thao thức về chiến  tranh và số phận đất nước có dịp tuôn trào. Tuổi đời còn rất trẻ nhưng  chiến tranh đã làm chúng tôi già sớm hơn tuổi mười tám của mình. 
 Khi sang Vạn Hạnh tôi có dịp học với thầy Trần Văn Tuyên môn Chính Trị  Quốc Nội và thầy Vũ Quốc Thông môn Luật Hiến Pháp Đối Chiếu. Đây là hai  môn học tôi thích nhất. Luật Sư Trần Văn Tuyên không mang theo sách vở  hay tài liệu giảng dạy gì và những bài giảng của thầy là kinh nghiệm  sống trong thời hoạt động chính trị. Vì thầy dạy không theo giáo khoa  nên giảng đường lúc nào cũng đông. Sinh viên phải có mặt để ghi lời thầy  giảng. Tôi thường tìm cách gần gũi thầy Trần Văn Tuyên để hỏi những  chuyện đất nước trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954. Thầy Trần Văn  Tuyên đơn giản, tóc cắt cao và thường mặc áo sơ-mi trắng ngắn tay. Thầy  Vũ Quốc Thông thì khác, lúc nào cũng đường bệ, chuẩn bị kỹ càng và luôn  đến lớp với một cặp-táp (le cartable) đầy tài liệu giảng dạy. Tôi hay  thắc mắc với thầy Vũ Quốc Thông về cách dùng chữ. Ví dụ thầy dùng chữ  “Chủ nghĩa Tập Sản” thay cho “Chủ nghĩa Cộng Sản”. Tôi cho rằng khái  niệm “Chủ nghĩa Tập Sản” hay “Chủ nghĩa Bình Sản” được nhắc đến nhiều  trước năm 1975, chỉ là một phạm trù thuần kinh tế, nghĩa hẹp nhiều so  với chủ nghĩa Cộng Sản vốn là cả một hệ thống triết học giải thích toàn  bộ đời sống con người, xã hội và vũ trụ. Thầy chăm chú lắng nghe ý kiến  nhưng không thay đổi cách gọi “tập sản” của mình. Thầy Vũ Quốc Thông dạy  tận tụy và trích dẫn nhiều từ các sách Pháp, trong đó có cả Tuyển tập  Marx-Engel. Thầy chúng tôi, Giáo sư Trần Văn Tuyên chết trong tù Cộng  Sản năm 1976 và Giáo sư Vũ Quốc Thông chết năm 1987, chỉ một thời gian  ngắn sau khi ra khỏi nhà tù. Tình nghĩa thầy trò ở miền Nam, dù tiểu  học, trung học hay cả đại học đều thắm thiết, thân thương, đáng kính,  đáng yêu và đáng nhớ. Tôi cố gắng rất nhiều nhưng không phải là người tự  học. Kiến thức của tôi là của các thầy cô trao lại. Đứa sinh viên năm  thứ nhất ngày xưa không còn trẻ nữa nhưng mỗi khi nghĩ đến các thầy cô  tự nhiên thấy mình nhỏ lại thật nhiều. 
 Thời gian từ năm 1973 đến năm 1975 là thời gian yên tĩnh. Chương trình  bình định đại học khá thành công. Mùa hè năm 1973, một nhóm sinh viên  chúng tôi đại diện cho trường tham dự trại hè sinh viên toàn quốc do Bộ  Giáo Dục và Thanh Niên tổ chức ở Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Đông  sinh viên du học cũng về tham dự trại. Dĩ nhiên không có “lãnh tụ sinh  viên” đường phố nào. Đó là những ngày vui nhất của mùa hè. Không chỉ  sinh viên Sài Gòn, Vạn Hạnh, Minh Đức mà cả Huế, Cần Thơ, Đà Lạt và các  trường đại học tư mới thành lập cũng cử phái đoàn tham dự. Buổi tối  chúng tôi quây quần trong sân cờ của trường Thiếu Sinh Quân trao đổi  kinh nghiệm học hành, chuyện đất nước và hát nhạc Du Ca như có lần tôi  đã kể lại trong bài viết Khi bài hát trở về. Ngoại trừ các nhóm chống  chính phủ bốn mùa của các bà Ni Sư Khất Sĩ Huỳnh Liên, Phong Trào Phụ Nữ  Đòi Quyền Sống của bà Ngô Bá Thành, năm 1973, các phong trào sinh viên  tranh đấu ở Sài Gòn do Cộng Sản tổ chức phần lớn đã được dập tắt. Các  “lãnh tụ sinh viên học sinh” mặt nổi như Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đình Ban,  Trần Thị Lan, Lê Văn Nuôi, Võ Như Lanh, Nguyễn Xuân Lập v.v... đã bị kết  án và vừa được trao trả tù binh. 
 Nhắc đến chuyện trao trả tù binh không thể quên tác phẩm Tù Binh và Hòa  Bình của nhà văn Phan Nhật Nam, trong đó anh dành trọn một chương để  viết về những người mà anh gọi là “Những người lỡ làng”. Hôm đó, buổi  chiều ngày 27-3-1973, những “lãnh tụ sinh viên” sắp được trao trả về  phía Cộng Sản đang tụm nhau ngồi trong một chiếc lều để chờ được nhận.  Những bài hát của Phạm Thế Mỹ, Trịnh Công Sơn được cất lên từ chiếc lều  nhỏ. Họ gồm Võ như Lanh, Trịnh đình Ban, Cao thị quế Hương, Trần thị  Lan, Trần thị Huệ, Nguyễn thành Công. Không ai biết họ hát để nung cao  khí thế hay hát để che đi sự lo âu trước tương lai mờ mịt núi rừng đang  chờ đợi họ. Trong quan điểm đấu tranh giai cấp, dù các anh chị là đảng  viên Cộng Sản cũng chỉ là đảng viên thành phố, gốc tiểu tư sản, vừa gia  nhập và không được tin tưởng hoàn toàn. Nhà văn Phan Nhật Nam tả cảnh  anh Nguyễn Thành Công khi tiếp xúc với viên Đại Tá Hungary trong “đôi  mắt có vẻ lạc thần, giọng nói đã đượm màu mệt mỏi”. Anh Phan Nhật Nam  viết đoạn đó thật cảm động. Anh không giận hay trách móc những tù binh  gốc sinh viên anh sắp sửa trao trả mà cảm thông cho sự bồng bột tuổi trẻ  của họ nhiều hơn: 
 “Phải, tôi hiểu rằng nhóm sinh viên đang ngồi ở dưới tàn cây cao su,  đang gảy nên những âm thanh trầm lắng với tiếng hát nhiệt thành trong  sáng kia quả tình không thể nào là những người cộng sản được. Họ không  thể nào là những người cộng sản chuyên chính, dù cho họ đã vào khu học  tập, dù đã là cán bộ nội thành làm nhiệm vụ sinh viên vận theo đường lối  và kỹ thuật đấu tranh phát xuất từ Cục R, kiểm soát và điều hành bởi ủy  viên thanh niên thuộc thành ủy Sài Gòn-Chợ Lớn. Họ cũng không phải là  cộng sản dù có chứng minh thư xác nhận là thành viên của đảng lao động,  hoặc thành viên của đoàn thanh niên trong mặt trận giải phóng… Vì tiếng  hát, điệu đàn, nét mặt và lời nói tất cả vẫn là phản ảnh của một hoài  bão, hoài bão bất diệt của tuổi trẻ. Muốn thoát khỏi hoàn cảnh bít bùng  của đời sống hiện tại, đấu tranh và xây dựng một quê hương rạng rỡ tốt  đẹp hơn. Và chính phát xuất từ ý định đẹp đẽ mơ tưởng này, hoài bão của  họ đã được đồng hóa với mục tiêu chiến thuật đoản kỳ của cộng sản. Và họ  trở thành loại cán bộ tiền phong đắc lực thực hiện những mục tiêu hạn  chế trong đường phố Sài Gòn, nơi Giảng Đường, trong lòng cộng đồng tuổi  trẻ Việt Nam.” 
 Trong bài viết Những người đi tìm tổ quốc trên talawas năm 2006, tôi cũng viết về các anh chị đó: 
 “Thời sôi nổi trong giảng đường đại học, trên đường phố Sài Gòn đã là  dĩ vãng, giữa rừng cao su Lộc Ninh họ là những thanh niên thành phố  đang bước vào một cuộc đời mới ở một nơi hoàn toàn xa lạ. Như những con  cá bị vớt khỏi sông và bỏ vào trong chậu, ngơ ngác, rụt rè, sợ hãi. Họ  không còn là bè bạn của nhau, không còn gọi nhau bằng tên, bằng thứ mà  sẽ là đồng chí. Đồng chí cũng đồng nghĩa với nghi ngờ, kiếm soát và dò  xét lẫn nhau. Họ hối hận không? Họ thật sự có phải là Cộng sản không? Họ  có phân biệt được, dù chỉ là căn bản, những điểm khác nhau giữa xã hội  mà họ vừa bỏ lại và xã hội mà họ đang tìm đến không? Không ai hỏi và họ  cũng sẽ không trả lời thật với lòng. Có những tâm sự, sống giữ kín chết  mang theo, chứ không bao giờ chia sẻ với ai. Hồi xưa tôi cũng có cái  nhìn khắt khe về những người bỏ đi. Các anh có quyền biểu tình, có quyền  chống độc tài, chống tham nhũng, chống độc diễn nhưng khi bỏ đi sang  hàng ngũ của những người ném lựu đạn vào quán ăn, pháo kích vào trường  học, đặt mìn trên quốc lộ, các anh đã phản bội quyền sống trong hoà bình  của nhân dân miền Nam. Giống như những đứa con lớn lên trong một gia  đình nghèo, có bà mẹ bịnh tật, có người cha say rượu hay đánh đập con  cái và còn một bầy em nhỏ dại. Thay vì khuyên răn người cha, săn sóc  người mẹ, che chở cho đám em khờ, các anh lại bỏ đi, và chẳng những đã  bỏ đi mà còn dắt kẻ gian về đốt phá nhà mình.” 
 Ngày nay, các tài liệu của Đảng đều xác nhận hoạt động của các phong  trào chống đối chính quyền VNCH chẳng phải là tự phát chống bất công,  độc tài, độc diễn gì mà đều được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thành  Đoàn Thanh Niên Cộng Sản trực thuộc Thành ủy Sài Gòn Gia Định nhắm vào  mục tiêu duy nhất là đánh sụp chế độ Cộng Hòa non trẻ ở miền Nam và áp  đặt chế độ Cộng Sản độc tài toàn trị trên phạm vi cả nước. Tất cả tổ  chức, phong trào, tôn giáo, đoàn thể đều được Đảng khai thác, vận dụng  một cách tinh vi để phục vụ cho mục đích cuối cùng của đảng Cộng Sản. 
 Những tên tuổi, hình ảnh được báo chí đối lập và thân Cộng ở Sài Gòn  đánh bóng mà nhà văn Phan Nhật Nam nhắc đến chỉ là những khuôn mặt đấu  tranh công khai trên đường phố Sài Gòn. Họ không biết những đảng viên  Cộng Sản nòng cốt thực sự điều khiển phong trào từ bóng tối là ai. Những  kẻ mài dao giết người thường trốn kỹ trong rừng. Những kẻ trao lựu đạn  cho sinh viên để ném vào nhà hàng, trường học, chợ búa thường giấu mặt.  Họ không gọi nhau bằng tên thật, bằng mày tao thân tình trong quán cà  phê bên ngoài khuôn viên đại học Văn Khoa, Luật Khoa mà gọi bằng bí  danh, bằng thứ tự. 
 Những “anh ba”, “chị năm” đó bây giờ đang sống trong những biệt thự cao  sang, có kẻ hầu người hạ và những chàng sinh viên một thời bồng bột nay  chỉ là những “kẻ lạ của hoàng hôn” “lặng nghe những dư âm sâu lắng của  quá khứ đọng lại, rồi trôi theo những món ăn với một vị đắng đắng” như  anh Hạ Đình Nguyên, một trong những “lãnh tụ phong trào sinh viên” đã  viết trong bài Về một vị đắng sau buổi họp mặt kỷ niệm “Phong trào Đấu tranh của Thanh niên-Sinh viên-Học sinh Sài gòn” năm ngoái. 
 Khi tôi vào năm thứ nhất, nhiều trong số anh chị tham gia xuống đường  vài năm trước vẫn còn học năm thứ ba, thứ tư, và qua họ tôi biết con số  sinh viên tham gia biểu tình không đông như báo chí thân Cộng mô tả và  cũng không mang tầm vóc “quốc tế” chỉ với vài chàng thanh niên phản  chiến Mỹ như bài ký thổi phồng của anh Huỳnh Tấn Mẫm. So với nhiều chục  ngàn sinh viên liên khoa thuộc đại học Sài Gòn và các đại học tư tại  miền Nam thời đó, vài trăm anh chị bị xúi dục xuống đường chỉ là con số  nhỏ. Thành thật mà nói, phần đông những sinh viên đi biểu tình là những  người nặng tình cảm dành cho đất nước nhưng vô cùng nông nỗi. Các anh  chị bất mãn trước các bất công trong xã hội và phẩn uất khi nhìn cảnh  điêu tàn đổ nát do cuộc chiến gây ra nhưng không nhận thức đúng nguyên  nhân sâu xa của thực trạng bi thảm đang diễn ra trên đất nước và không  đủ trưởng thành để cân nhắc trước một chọn lựa sinh tử của đời mình. 
 Tuổi trẻ ở đâu cũng thế, nhiệt tình, phản kháng, cương trực, vô tư,  nhưng như tôi có lần đã viết, tại Việt Nam những đặc tính đó của tuổi  trẻ bị Đảng Cộng sản lợi dụng tận cùng, không chỉ tiếng hát lời ca, mà  còn cả thịt xương và từng giọt máu. 
 Bài hát quen thuộc trong giới sinh viên trước năm 1975 nói lên một mơ ước chân thành của thế hệ trẻ “Rồi hòa bình sẽ đến, đến cho dân tộc Việt, đôi bồ câu trắng rủ nhau về làng xưa…”,  nhưng sau năm 1975, đàn bồ câu đã biến thành bầy kiến gặm nhấm vết  thương dân tộc đang mưng mủ. Tiếng hát của các anh chị trên đường phố  được thay bằng những tiếng rên của những bà mẹ đang bán máu ở các nhà  thương. Lời ca của các anh chị sau được thay bằng là tiếng khóc của em  thơ trên các vùng kinh tế mới. Đất nước chìm đắm trong độc tài và đói  khát. Hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, chết trên biển cả, chết dưới  bàn tay hải tặc. 
 Các anh các chị, có thể không phải là thủ phạm nhưng không thể phủ nhận  là những người đã góp phần gây ra những điêu tàn đổ nát hôm nay. Xin  đừng im lặng nữa. Nếu không đủ sức để hành động, hãy viết, hãy nói, hãy  kể lại cho các thế hệ trẻ những bài học dù thất bại, những ước mơ dù bị  phản bội, những kinh nghiệm dù được đổi bằng xương máu của mình. Là  những người có lương tâm, hôm nay, không có tòa án nào kết án các anh  chị nặng bằng tòa án lương tâm của chính các anh chị. Là những người vốn  nặng tình cảm, hôm nay, không có tình cảm nào cấu xé các anh chị bằng  tình cảm các anh chị đã từng dành cho đất nước. Xã hội Việt Nam băng  hoại, trụy lạc, tha hóa ngày nay là chiếc gương, các anh chị hãy soi vào  đó để thấy lại chính mình. 
 Chế độ dân chủ non trẻ mà các anh chị góp phần đánh gục, đã quỵ xuống  sáng ngày 30-4-1975 nhưng không chết. Và tại Việt Nam hôm nay, các gía  trị dân chủ quý giá đó không chỉ là của miền Nam thôi, không chỉ là của  Việt Nam Cộng Hòa thôi mà đang là tài sản, hành trang và mục tiêu chung  của cả dân tộc. 
 Dân chủ là khúc khải hoàn ca đang được nhân loại cất vang trên mọi nơi  của quả địa cầu, từ Bắc Phi sang Đông Á nhưng không có nghĩa chỉ mới bắt  đầu vài năm qua mà từ nhiều ngàn năm trước. Có người bàn về dân chủ như  một mục đích đòi hỏi nhiều tiền đề và điều kiện. Điều đó không đúng.  Dân chủ không phải là hải đảo xa xôi phải cần ghe tàu, lương thực, thời  gian mới đạt tới nhưng là một thực tế gần gũi trước mắt và thậm chí có  thể nắm bắt trong tay. Dân chủ không phải món quà của ai ban cho khi đến  tuổi trưởng thành mà là quyền làm người bắt đầu từ trong bụng mẹ. 
 Quốc gia Mông Cổ, một quốc gia không có truyền thống dân chủ, là một ví  dụ. Nhiều người cho Mông Cổ khó có thể trở thành một nước dân chủ sau  một giai đoạn phong kiến hàng ngàn năm nối tiếp bằng một chế độ Cộng Sản  chuyên chính chư hầu Liên Xô suốt hơn bảy chục năm. Khi tôi viết bài  này, nhân dân Mông Cổ đánh dấu tròn 20 năm được sống dân chủ. Đôi cánh  thiên thần đó đã giúp đưa Mông Cổ từ một quốc gia cô lập, bất ổn cùng  hạng với Afghanistan, Nigeria và Somalia trở thành một trung tâm du lịch  an toàn và đầy hấp lực văn hóa. Hai mươi năm trước đường phố thủ đô  Ulaanbaatar gần như hoang vắng nhưng ngày nay tấp nập và phồn vinh. Theo  tạp chí Economist, dù kinh tế thế giới còn đầy khó khăn, mức phát triển  kinh tế của Mông Cổ trong ba tháng giữa 2011 đã tăng 21% so với cùng  thời kỳ trong năm trước đó. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế dự đoán kinh tế Mông Cổ  sẽ tăng trung bình 14% từ 2012 đến 2016. Là một quốc gia trong vị trí  trái độn với vỏn vẹn 2.5 triệu dân và không có chiều dày truyền thống  dân chủ như nhiều quốc gia khác, Mông Cổ sẽ còn gặp nhiều khó khăn nhưng  cơ chế chính trị mới giúp cho người dân sống yên tâm trong tự do, thanh  bình, no ấm và nỗ lực vì một tương lai tươi đẹp cho con cháu họ. 
 Việt Nam thì khác. 
 Sau 37 năm, tiếng súng đã vắng đi trên đất nước Việt Nam, non sông liền  một dãi nhưng người dân vẫn sống trong nỗi bất an lo sợ, hàng trăm ngàn  người con gái Việt phải rời bỏ quê hương đi ăn mày, làm điếm, ở đợ khắp  thế giới, phần lớn trong số hơn hai triệu người Việt hải ngoại vẫn còn  bị xem là “thành phần phản động bám theo chân đế quốc”, và trong nước,  những quyền căn bản như ngôn luận, đi lại, thờ phụng của người dân vẫn  chưa có được, hàng ngàn người yêu nước vẫn còn bị tù đày. Đó là sự thật,  không ai tuyên truyền ai, không ai xúi giục ai. 
 Sau 37 năm, mấy chục ngàn thân xác thanh niên làm bia đỡ đạn cho đảng  CSVN trong chiến tranh biên giới năm 1979, hàng ngàn xác thanh niên Việt  Nam bị đốt cháy thành than trong trận Lão Sơn 1984, hàng trăm xác thanh  niên Việt chìm sâu quanh bờ đảo Gạc Ma năm 1988, hàng trăm ngư dân  Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ngãi bị bắn thủng ngực, hai quần đảo Hoàng  Sa-Trường Sa thân yêu như đôi mắt Việt Nam bị đã bị kim Trung Quốc tẩm  thuốc độc đâm sâu và đang chảy máu. Đó là sự thật, không ai tuyên truyền  ai, không ai xúi giục ai. 
 Nhìn những gì đang xảy ra trên thế giới đã làm những người Việt đang  quan tâm đến vận mệnh đất nước không khỏi cảm thấy thẹn thùng. Dù ban  ngày vẫn phải sống bằng thái độ tích cực, trả lời phỏng vấn bằng ngôn  ngữ tự tin nhưng ban đêm thế nào cũng gác tay lên trán âm thầm tự hỏi  tại sao Liên Xô, Đông Âu cho tới Bắc Phi, Miến Điện nhưng viễn ảnh một  Việt Nam tự do, dân chủ, hùng mạnh vẫn còn là một mục tiêu chưa đến. Nỗi  lo lắng và niềm đau xót này không phải của riêng ai mà của tất cả người  Việt Nam còn biết xót xa, còn biết hổ thẹn trước sự lạc hậu của Việt  Nam so với đà tiến quá nhanh của nhân loại. 
 Một câu hát trong bài Tự Nguyện quen thuộc trong giới sinh viên trước năm 1975 “nếu là hoa, tôi sẽ làm một đóa Hướng Dương”,  chưa bao giờ hơn lúc này Việt Nam cần những người yêu nước biết vươn  cao, đứng thẳng như những cành Hướng Dương Dân Tộc. Con người đến và đi  nhưng lịch sử Việt Nam như dòng sông không ngừng chảy. Đất nước sẽ vượt  qua và lớn lên như đã từng vượt qua và lớn lên sau ngàn năm Bắc Thuộc. 
Thời sinh viên ở Sài Gòn
                Các anh các chị, có thể không phải là thủ phạm nhưng không thể phủ nhận là những người đã góp phần gây ra những điêu tàn đổ nát hôm nay. Xin đừng im lặng nữa. Nếu không đủ sức để hành động, hãy viết, hãy nói, hãy kể lại cho các thế hệ trẻ những bài học dù thất bại, những ước mơ dù bị phản bội, những kinh nghiệm dù được đổi bằng xương máu của mình. 
            
            Thời sinh viên ở Sài Gòn
Trần Trung Đạo - Các  anh các chị, có thể không phải là thủ phạm nhưng không thể phủ nhận là  những người đã góp phần gây ra những điêu tàn đổ nát hôm nay. Xin đừng  im lặng nữa. Nếu không đủ sức để hành động, hãy viết, hãy nói, hãy kể  lại cho các thế hệ trẻ những bài học dù thất bại, những ước mơ dù bị  phản bội, những kinh nghiệm dù được đổi bằng xương máu của mình. Là  những người có lương tâm, hôm nay, không có tòa án nào kết án các anh  chị nặng bằng tòa án lương tâm của chính các anh chị. Là những người vốn  nặng tình cảm, hôm nay, không có tình cảm nào cấu xé các anh chị bằng  tình cảm các anh chị đã từng dành cho đất nước. Xã hội Việt Nam băng  hoại, trụy lạc, tha hóa ngày nay là chiếc gương, các anh chị hãy soi vào  đó để thấy lại chính mình...
 *
 Nhân dịp đọc bài viết của Hoàng Thanh Trúc trên Dân Làm Báo và qua đó đọc thêm các bài viết khác Không hổ thẹn về một thời trai trẻ của một nhóm tác giả và Cuộc họp mặt “có một không hai”  của Huỳnh Tấn Mẫm trên báo Tuổi Trẻ sau buổi hội thảo “tầm vóc và ý  nghĩa của phong trào đấu tranh của sinh viên – học sinh trí thức, văn  nghệ sĩ… tại các đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975” được tổ chức tại  Đại học Duy Tân (Đà Nẵng) trong hai ngày 19 và 20-5-2012, tôi chợt nhớ  lại một bài thơ tôi viết từ lâu lắm cũng có nhắc đến các anh chị này. 
 Bài thơ Đêm cuối đi qua trường Luật viết ra trong những ngày mới  đến Mỹ nhưng bắt nguồn từ những ý hiện lên trong một đêm mưa tháng Sáu  1981 ở Sài Gòn. Tôi không ghi lại ngày tháng viết bài thơ nhưng có in  trong tập thơ đầu tay ở Mỹ năm 1991. Bài thơ khá dài, dưới đây là một  đoạn có liên quan đến bài viết này:
 Trời Sài Gòn tháng Sáu mưa đêm
 Như từng nhát dao chém xuống đời vội vã
 Tôi ra đi dặn lòng quên tất cả
 Những hẹn thề toan tính thuở hoa niên
 Bốn phương trời lưu lạc một bầy chim
 Đã lạc lối về sông Dương Tử
 Tổ quốc Việt Nam
 Bốn nghìn năm lịch sử
 Còn lại hôm nay là những tang thương
 Tấm bảng Hội Liên Hiệp Sinh Viên
 Vẫn còn đong đưa trên vách
 Chợt nhớ ra tên các chị các anh
 Những Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đình Ban
 Những Nguyễn Hoàng Trúc, Võ Như Lanh
 Các anh, các chị
 Giờ nầy chắc vẫn còn đang thức
 Để viết xong bài tự kiểm trước nhân dân
 Nhớ viết thật nhiều về những chiến công
 Đã đốt bao nhiêu xe Mỹ Ngụy
 Đã bán đứng bao nhiêu bè bạn anh em
 Đã cắm được bao nhiêu cờ mặt trận
 Tôi không hề trách các anh
 Vì chẳng bao giờ ai trách
 Những tên cầm cờ, khiêng kiệu
 Hãy cố cong lưng và thu mình thật nhỏ
 Hãy biết dại khờ và biết ngây ngô
 “Độc lập, Hòa Bình, Thống Nhất, Tự Do”
 Phải nhớ luôn luôn là tất yếu
 Kể cả chuyện tình yêu trai gái
 Cũng phải học thuộc lòng
 Định nghĩa mới hôm nay
 Đừng bao giờ nhắc những chuyện không may
 Như những Ủy Ban Đòi Quyền Sống
 Những Phong Trào Dân Chủ Tự Do
 Dân Việt Nam bây giờ
 Không có gì đáng để lo
 Hơn những chuyện cháo rau, khoai sắn
 Và không có một chút quyền
 Dù chỉ là quyền để than thân trách phận. 
 Tôi từ Đà Nẵng vào Sài Gòn cuối tháng Tám 1972. Nơi tôi ghi danh học đầu  tiên là trường Luật. Có thể nói tôi là một trong những tân sinh viên  nộp đơn vào năm thứ nhất niên khóa 1972-1973 trễ nhất. Ghi danh vào  trường Luật không cần phải thi, chỉ cần trình bằng tốt nghiệp Tú Tài  phần hai là đủ. Phòng ghi danh là một khu nhà lụp xụp phía sau trường  chung một hàng rào với đại học Kiến Trúc. Tôi được phát một thẻ sinh  viên tạm. Số sinh viên của tôi dài tới năm số. Tôi không nhớ chính xác  nhưng hai số thứ tự đầu đã lên đến trên mười ngàn. Trường Luật, được  chính thức thành lập dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa, là một trong những  trường già nua về cả hình thức lẫn chiều dài lịch sử, trong số các  trường đại học thuộc Viện Đại Học Sài Gòn. Trường không có nhiều đất  trống ngoại trừ khoảng sân không mấy rộng giữa trường. Cổng trường còn  lại những viên ngói đỏ rêu phong từ khi mới thành lập. Giảng đường chỉ  là những phòng học dài nối nhau. So với các trường trung học như Gia  Long, Petrus Ký, trường đại học Luật Khoa Sài Gòn nhỏ hẹp và chật chội  hơn nhiều. Vì số thẻ sinh viên của tôi cao trên mười ngàn nên có lần tôi  viết câu thơ mô tả trường Luật “mười ngàn sinh viên trong giảng đường vài trăm chỗ / học suốt năm không thấy mặt thầy”. 
 Công việc đầu tiên của một tân sinh viên sau khi ghi danh, nhận lớp, là  đi mua “cua” tức sách giáo khoa giảng dạy của các thầy, từ dân luật,  hình luật đến cổ luật. Vì hiếm khi gặp mặt thầy, không có “cua” là rớt.  Sau khi ghi danh ở Luật, tôi sang ghi danh Ban Kinh Tế khoa Khoa Học Xã  Hội ở đại học Vạn Hạnh. Khoa Khoa Học Xã Hội ở Vạn Hạnh phải thi vào  nhưng cũng chỉ thi cho đúng thủ tục vì tôi không nghe ai thi rớt vào  khoa Khoa Học Xã Hội ở đại học Vạn Hạnh bao giờ. 
 Trường Luật chật hẹp mà sinh viên lại quá đông, chúng tôi thường la cà  trong những quán cốc. Nhiều nhất là chung quanh công trường Quốc Tế,  thường gọi là Hồ Con Rùa, bên ngoài trụ sở “Tổng Hội Sinh Viên” số 4 Duy  Tân hay góc Thư Viện Quốc Gia trên đường Gia Long. Các quán cà phê  thường không có tên. Ngoài quán cà phê Bà Vú bên ngoài đại học Vạn Hạnh,  phần lớn các quán chung quanh trường Luật do sinh viên tự đặt tên bằng  địa điểm để dễ hẹn nhau. Số sinh viên ghi danh vào Luật cao nhưng bỏ  trường ra đi sớm rất đông và thi rớt cũng nhiều. Trong số những người bỏ  cuộc có tôi. Tôi học cả hai trường và vì kỳ thi cuối khóa cùng ngày nên  tôi không theo đuổi việc học Luật hết năm thứ nhất. Bạn bè tôi phần  đông học Luật nên mỗi tuần tôi đều trở lại trường. Ở đó, dưới những gốc  me, vỉa phố, bên những ly cà phê đen, cà phê sữa, trên những ghế thấp,  cạnh những chiếc bàn vuông, chúng tôi để cho những thao thức về chiến  tranh và số phận đất nước có dịp tuôn trào. Tuổi đời còn rất trẻ nhưng  chiến tranh đã làm chúng tôi già sớm hơn tuổi mười tám của mình. 
 Khi sang Vạn Hạnh tôi có dịp học với thầy Trần Văn Tuyên môn Chính Trị  Quốc Nội và thầy Vũ Quốc Thông môn Luật Hiến Pháp Đối Chiếu. Đây là hai  môn học tôi thích nhất. Luật Sư Trần Văn Tuyên không mang theo sách vở  hay tài liệu giảng dạy gì và những bài giảng của thầy là kinh nghiệm  sống trong thời hoạt động chính trị. Vì thầy dạy không theo giáo khoa  nên giảng đường lúc nào cũng đông. Sinh viên phải có mặt để ghi lời thầy  giảng. Tôi thường tìm cách gần gũi thầy Trần Văn Tuyên để hỏi những  chuyện đất nước trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954. Thầy Trần Văn  Tuyên đơn giản, tóc cắt cao và thường mặc áo sơ-mi trắng ngắn tay. Thầy  Vũ Quốc Thông thì khác, lúc nào cũng đường bệ, chuẩn bị kỹ càng và luôn  đến lớp với một cặp-táp (le cartable) đầy tài liệu giảng dạy. Tôi hay  thắc mắc với thầy Vũ Quốc Thông về cách dùng chữ. Ví dụ thầy dùng chữ  “Chủ nghĩa Tập Sản” thay cho “Chủ nghĩa Cộng Sản”. Tôi cho rằng khái  niệm “Chủ nghĩa Tập Sản” hay “Chủ nghĩa Bình Sản” được nhắc đến nhiều  trước năm 1975, chỉ là một phạm trù thuần kinh tế, nghĩa hẹp nhiều so  với chủ nghĩa Cộng Sản vốn là cả một hệ thống triết học giải thích toàn  bộ đời sống con người, xã hội và vũ trụ. Thầy chăm chú lắng nghe ý kiến  nhưng không thay đổi cách gọi “tập sản” của mình. Thầy Vũ Quốc Thông dạy  tận tụy và trích dẫn nhiều từ các sách Pháp, trong đó có cả Tuyển tập  Marx-Engel. Thầy chúng tôi, Giáo sư Trần Văn Tuyên chết trong tù Cộng  Sản năm 1976 và Giáo sư Vũ Quốc Thông chết năm 1987, chỉ một thời gian  ngắn sau khi ra khỏi nhà tù. Tình nghĩa thầy trò ở miền Nam, dù tiểu  học, trung học hay cả đại học đều thắm thiết, thân thương, đáng kính,  đáng yêu và đáng nhớ. Tôi cố gắng rất nhiều nhưng không phải là người tự  học. Kiến thức của tôi là của các thầy cô trao lại. Đứa sinh viên năm  thứ nhất ngày xưa không còn trẻ nữa nhưng mỗi khi nghĩ đến các thầy cô  tự nhiên thấy mình nhỏ lại thật nhiều. 
 Thời gian từ năm 1973 đến năm 1975 là thời gian yên tĩnh. Chương trình  bình định đại học khá thành công. Mùa hè năm 1973, một nhóm sinh viên  chúng tôi đại diện cho trường tham dự trại hè sinh viên toàn quốc do Bộ  Giáo Dục và Thanh Niên tổ chức ở Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Đông  sinh viên du học cũng về tham dự trại. Dĩ nhiên không có “lãnh tụ sinh  viên” đường phố nào. Đó là những ngày vui nhất của mùa hè. Không chỉ  sinh viên Sài Gòn, Vạn Hạnh, Minh Đức mà cả Huế, Cần Thơ, Đà Lạt và các  trường đại học tư mới thành lập cũng cử phái đoàn tham dự. Buổi tối  chúng tôi quây quần trong sân cờ của trường Thiếu Sinh Quân trao đổi  kinh nghiệm học hành, chuyện đất nước và hát nhạc Du Ca như có lần tôi  đã kể lại trong bài viết Khi bài hát trở về. Ngoại trừ các nhóm chống  chính phủ bốn mùa của các bà Ni Sư Khất Sĩ Huỳnh Liên, Phong Trào Phụ Nữ  Đòi Quyền Sống của bà Ngô Bá Thành, năm 1973, các phong trào sinh viên  tranh đấu ở Sài Gòn do Cộng Sản tổ chức phần lớn đã được dập tắt. Các  “lãnh tụ sinh viên học sinh” mặt nổi như Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đình Ban,  Trần Thị Lan, Lê Văn Nuôi, Võ Như Lanh, Nguyễn Xuân Lập v.v... đã bị kết  án và vừa được trao trả tù binh. 
 Nhắc đến chuyện trao trả tù binh không thể quên tác phẩm Tù Binh và Hòa  Bình của nhà văn Phan Nhật Nam, trong đó anh dành trọn một chương để  viết về những người mà anh gọi là “Những người lỡ làng”. Hôm đó, buổi  chiều ngày 27-3-1973, những “lãnh tụ sinh viên” sắp được trao trả về  phía Cộng Sản đang tụm nhau ngồi trong một chiếc lều để chờ được nhận.  Những bài hát của Phạm Thế Mỹ, Trịnh Công Sơn được cất lên từ chiếc lều  nhỏ. Họ gồm Võ như Lanh, Trịnh đình Ban, Cao thị quế Hương, Trần thị  Lan, Trần thị Huệ, Nguyễn thành Công. Không ai biết họ hát để nung cao  khí thế hay hát để che đi sự lo âu trước tương lai mờ mịt núi rừng đang  chờ đợi họ. Trong quan điểm đấu tranh giai cấp, dù các anh chị là đảng  viên Cộng Sản cũng chỉ là đảng viên thành phố, gốc tiểu tư sản, vừa gia  nhập và không được tin tưởng hoàn toàn. Nhà văn Phan Nhật Nam tả cảnh  anh Nguyễn Thành Công khi tiếp xúc với viên Đại Tá Hungary trong “đôi  mắt có vẻ lạc thần, giọng nói đã đượm màu mệt mỏi”. Anh Phan Nhật Nam  viết đoạn đó thật cảm động. Anh không giận hay trách móc những tù binh  gốc sinh viên anh sắp sửa trao trả mà cảm thông cho sự bồng bột tuổi trẻ  của họ nhiều hơn: 
 “Phải, tôi hiểu rằng nhóm sinh viên đang ngồi ở dưới tàn cây cao su,  đang gảy nên những âm thanh trầm lắng với tiếng hát nhiệt thành trong  sáng kia quả tình không thể nào là những người cộng sản được. Họ không  thể nào là những người cộng sản chuyên chính, dù cho họ đã vào khu học  tập, dù đã là cán bộ nội thành làm nhiệm vụ sinh viên vận theo đường lối  và kỹ thuật đấu tranh phát xuất từ Cục R, kiểm soát và điều hành bởi ủy  viên thanh niên thuộc thành ủy Sài Gòn-Chợ Lớn. Họ cũng không phải là  cộng sản dù có chứng minh thư xác nhận là thành viên của đảng lao động,  hoặc thành viên của đoàn thanh niên trong mặt trận giải phóng… Vì tiếng  hát, điệu đàn, nét mặt và lời nói tất cả vẫn là phản ảnh của một hoài  bão, hoài bão bất diệt của tuổi trẻ. Muốn thoát khỏi hoàn cảnh bít bùng  của đời sống hiện tại, đấu tranh và xây dựng một quê hương rạng rỡ tốt  đẹp hơn. Và chính phát xuất từ ý định đẹp đẽ mơ tưởng này, hoài bão của  họ đã được đồng hóa với mục tiêu chiến thuật đoản kỳ của cộng sản. Và họ  trở thành loại cán bộ tiền phong đắc lực thực hiện những mục tiêu hạn  chế trong đường phố Sài Gòn, nơi Giảng Đường, trong lòng cộng đồng tuổi  trẻ Việt Nam.” 
 Trong bài viết Những người đi tìm tổ quốc trên talawas năm 2006, tôi cũng viết về các anh chị đó: 
 “Thời sôi nổi trong giảng đường đại học, trên đường phố Sài Gòn đã là  dĩ vãng, giữa rừng cao su Lộc Ninh họ là những thanh niên thành phố  đang bước vào một cuộc đời mới ở một nơi hoàn toàn xa lạ. Như những con  cá bị vớt khỏi sông và bỏ vào trong chậu, ngơ ngác, rụt rè, sợ hãi. Họ  không còn là bè bạn của nhau, không còn gọi nhau bằng tên, bằng thứ mà  sẽ là đồng chí. Đồng chí cũng đồng nghĩa với nghi ngờ, kiếm soát và dò  xét lẫn nhau. Họ hối hận không? Họ thật sự có phải là Cộng sản không? Họ  có phân biệt được, dù chỉ là căn bản, những điểm khác nhau giữa xã hội  mà họ vừa bỏ lại và xã hội mà họ đang tìm đến không? Không ai hỏi và họ  cũng sẽ không trả lời thật với lòng. Có những tâm sự, sống giữ kín chết  mang theo, chứ không bao giờ chia sẻ với ai. Hồi xưa tôi cũng có cái  nhìn khắt khe về những người bỏ đi. Các anh có quyền biểu tình, có quyền  chống độc tài, chống tham nhũng, chống độc diễn nhưng khi bỏ đi sang  hàng ngũ của những người ném lựu đạn vào quán ăn, pháo kích vào trường  học, đặt mìn trên quốc lộ, các anh đã phản bội quyền sống trong hoà bình  của nhân dân miền Nam. Giống như những đứa con lớn lên trong một gia  đình nghèo, có bà mẹ bịnh tật, có người cha say rượu hay đánh đập con  cái và còn một bầy em nhỏ dại. Thay vì khuyên răn người cha, săn sóc  người mẹ, che chở cho đám em khờ, các anh lại bỏ đi, và chẳng những đã  bỏ đi mà còn dắt kẻ gian về đốt phá nhà mình.” 
 Ngày nay, các tài liệu của Đảng đều xác nhận hoạt động của các phong  trào chống đối chính quyền VNCH chẳng phải là tự phát chống bất công,  độc tài, độc diễn gì mà đều được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thành  Đoàn Thanh Niên Cộng Sản trực thuộc Thành ủy Sài Gòn Gia Định nhắm vào  mục tiêu duy nhất là đánh sụp chế độ Cộng Hòa non trẻ ở miền Nam và áp  đặt chế độ Cộng Sản độc tài toàn trị trên phạm vi cả nước. Tất cả tổ  chức, phong trào, tôn giáo, đoàn thể đều được Đảng khai thác, vận dụng  một cách tinh vi để phục vụ cho mục đích cuối cùng của đảng Cộng Sản. 
 Những tên tuổi, hình ảnh được báo chí đối lập và thân Cộng ở Sài Gòn  đánh bóng mà nhà văn Phan Nhật Nam nhắc đến chỉ là những khuôn mặt đấu  tranh công khai trên đường phố Sài Gòn. Họ không biết những đảng viên  Cộng Sản nòng cốt thực sự điều khiển phong trào từ bóng tối là ai. Những  kẻ mài dao giết người thường trốn kỹ trong rừng. Những kẻ trao lựu đạn  cho sinh viên để ném vào nhà hàng, trường học, chợ búa thường giấu mặt.  Họ không gọi nhau bằng tên thật, bằng mày tao thân tình trong quán cà  phê bên ngoài khuôn viên đại học Văn Khoa, Luật Khoa mà gọi bằng bí  danh, bằng thứ tự. 
 Những “anh ba”, “chị năm” đó bây giờ đang sống trong những biệt thự cao  sang, có kẻ hầu người hạ và những chàng sinh viên một thời bồng bột nay  chỉ là những “kẻ lạ của hoàng hôn” “lặng nghe những dư âm sâu lắng của  quá khứ đọng lại, rồi trôi theo những món ăn với một vị đắng đắng” như  anh Hạ Đình Nguyên, một trong những “lãnh tụ phong trào sinh viên” đã  viết trong bài Về một vị đắng sau buổi họp mặt kỷ niệm “Phong trào Đấu tranh của Thanh niên-Sinh viên-Học sinh Sài gòn” năm ngoái. 
 Khi tôi vào năm thứ nhất, nhiều trong số anh chị tham gia xuống đường  vài năm trước vẫn còn học năm thứ ba, thứ tư, và qua họ tôi biết con số  sinh viên tham gia biểu tình không đông như báo chí thân Cộng mô tả và  cũng không mang tầm vóc “quốc tế” chỉ với vài chàng thanh niên phản  chiến Mỹ như bài ký thổi phồng của anh Huỳnh Tấn Mẫm. So với nhiều chục  ngàn sinh viên liên khoa thuộc đại học Sài Gòn và các đại học tư tại  miền Nam thời đó, vài trăm anh chị bị xúi dục xuống đường chỉ là con số  nhỏ. Thành thật mà nói, phần đông những sinh viên đi biểu tình là những  người nặng tình cảm dành cho đất nước nhưng vô cùng nông nỗi. Các anh  chị bất mãn trước các bất công trong xã hội và phẩn uất khi nhìn cảnh  điêu tàn đổ nát do cuộc chiến gây ra nhưng không nhận thức đúng nguyên  nhân sâu xa của thực trạng bi thảm đang diễn ra trên đất nước và không  đủ trưởng thành để cân nhắc trước một chọn lựa sinh tử của đời mình. 
 Tuổi trẻ ở đâu cũng thế, nhiệt tình, phản kháng, cương trực, vô tư,  nhưng như tôi có lần đã viết, tại Việt Nam những đặc tính đó của tuổi  trẻ bị Đảng Cộng sản lợi dụng tận cùng, không chỉ tiếng hát lời ca, mà  còn cả thịt xương và từng giọt máu. 
 Bài hát quen thuộc trong giới sinh viên trước năm 1975 nói lên một mơ ước chân thành của thế hệ trẻ “Rồi hòa bình sẽ đến, đến cho dân tộc Việt, đôi bồ câu trắng rủ nhau về làng xưa…”,  nhưng sau năm 1975, đàn bồ câu đã biến thành bầy kiến gặm nhấm vết  thương dân tộc đang mưng mủ. Tiếng hát của các anh chị trên đường phố  được thay bằng những tiếng rên của những bà mẹ đang bán máu ở các nhà  thương. Lời ca của các anh chị sau được thay bằng là tiếng khóc của em  thơ trên các vùng kinh tế mới. Đất nước chìm đắm trong độc tài và đói  khát. Hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, chết trên biển cả, chết dưới  bàn tay hải tặc. 
 Các anh các chị, có thể không phải là thủ phạm nhưng không thể phủ nhận  là những người đã góp phần gây ra những điêu tàn đổ nát hôm nay. Xin  đừng im lặng nữa. Nếu không đủ sức để hành động, hãy viết, hãy nói, hãy  kể lại cho các thế hệ trẻ những bài học dù thất bại, những ước mơ dù bị  phản bội, những kinh nghiệm dù được đổi bằng xương máu của mình. Là  những người có lương tâm, hôm nay, không có tòa án nào kết án các anh  chị nặng bằng tòa án lương tâm của chính các anh chị. Là những người vốn  nặng tình cảm, hôm nay, không có tình cảm nào cấu xé các anh chị bằng  tình cảm các anh chị đã từng dành cho đất nước. Xã hội Việt Nam băng  hoại, trụy lạc, tha hóa ngày nay là chiếc gương, các anh chị hãy soi vào  đó để thấy lại chính mình. 
 Chế độ dân chủ non trẻ mà các anh chị góp phần đánh gục, đã quỵ xuống  sáng ngày 30-4-1975 nhưng không chết. Và tại Việt Nam hôm nay, các gía  trị dân chủ quý giá đó không chỉ là của miền Nam thôi, không chỉ là của  Việt Nam Cộng Hòa thôi mà đang là tài sản, hành trang và mục tiêu chung  của cả dân tộc. 
 Dân chủ là khúc khải hoàn ca đang được nhân loại cất vang trên mọi nơi  của quả địa cầu, từ Bắc Phi sang Đông Á nhưng không có nghĩa chỉ mới bắt  đầu vài năm qua mà từ nhiều ngàn năm trước. Có người bàn về dân chủ như  một mục đích đòi hỏi nhiều tiền đề và điều kiện. Điều đó không đúng.  Dân chủ không phải là hải đảo xa xôi phải cần ghe tàu, lương thực, thời  gian mới đạt tới nhưng là một thực tế gần gũi trước mắt và thậm chí có  thể nắm bắt trong tay. Dân chủ không phải món quà của ai ban cho khi đến  tuổi trưởng thành mà là quyền làm người bắt đầu từ trong bụng mẹ. 
 Quốc gia Mông Cổ, một quốc gia không có truyền thống dân chủ, là một ví  dụ. Nhiều người cho Mông Cổ khó có thể trở thành một nước dân chủ sau  một giai đoạn phong kiến hàng ngàn năm nối tiếp bằng một chế độ Cộng Sản  chuyên chính chư hầu Liên Xô suốt hơn bảy chục năm. Khi tôi viết bài  này, nhân dân Mông Cổ đánh dấu tròn 20 năm được sống dân chủ. Đôi cánh  thiên thần đó đã giúp đưa Mông Cổ từ một quốc gia cô lập, bất ổn cùng  hạng với Afghanistan, Nigeria và Somalia trở thành một trung tâm du lịch  an toàn và đầy hấp lực văn hóa. Hai mươi năm trước đường phố thủ đô  Ulaanbaatar gần như hoang vắng nhưng ngày nay tấp nập và phồn vinh. Theo  tạp chí Economist, dù kinh tế thế giới còn đầy khó khăn, mức phát triển  kinh tế của Mông Cổ trong ba tháng giữa 2011 đã tăng 21% so với cùng  thời kỳ trong năm trước đó. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế dự đoán kinh tế Mông Cổ  sẽ tăng trung bình 14% từ 2012 đến 2016. Là một quốc gia trong vị trí  trái độn với vỏn vẹn 2.5 triệu dân và không có chiều dày truyền thống  dân chủ như nhiều quốc gia khác, Mông Cổ sẽ còn gặp nhiều khó khăn nhưng  cơ chế chính trị mới giúp cho người dân sống yên tâm trong tự do, thanh  bình, no ấm và nỗ lực vì một tương lai tươi đẹp cho con cháu họ. 
 Việt Nam thì khác. 
 Sau 37 năm, tiếng súng đã vắng đi trên đất nước Việt Nam, non sông liền  một dãi nhưng người dân vẫn sống trong nỗi bất an lo sợ, hàng trăm ngàn  người con gái Việt phải rời bỏ quê hương đi ăn mày, làm điếm, ở đợ khắp  thế giới, phần lớn trong số hơn hai triệu người Việt hải ngoại vẫn còn  bị xem là “thành phần phản động bám theo chân đế quốc”, và trong nước,  những quyền căn bản như ngôn luận, đi lại, thờ phụng của người dân vẫn  chưa có được, hàng ngàn người yêu nước vẫn còn bị tù đày. Đó là sự thật,  không ai tuyên truyền ai, không ai xúi giục ai. 
 Sau 37 năm, mấy chục ngàn thân xác thanh niên làm bia đỡ đạn cho đảng  CSVN trong chiến tranh biên giới năm 1979, hàng ngàn xác thanh niên Việt  Nam bị đốt cháy thành than trong trận Lão Sơn 1984, hàng trăm xác thanh  niên Việt chìm sâu quanh bờ đảo Gạc Ma năm 1988, hàng trăm ngư dân  Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ngãi bị bắn thủng ngực, hai quần đảo Hoàng  Sa-Trường Sa thân yêu như đôi mắt Việt Nam bị đã bị kim Trung Quốc tẩm  thuốc độc đâm sâu và đang chảy máu. Đó là sự thật, không ai tuyên truyền  ai, không ai xúi giục ai. 
 Nhìn những gì đang xảy ra trên thế giới đã làm những người Việt đang  quan tâm đến vận mệnh đất nước không khỏi cảm thấy thẹn thùng. Dù ban  ngày vẫn phải sống bằng thái độ tích cực, trả lời phỏng vấn bằng ngôn  ngữ tự tin nhưng ban đêm thế nào cũng gác tay lên trán âm thầm tự hỏi  tại sao Liên Xô, Đông Âu cho tới Bắc Phi, Miến Điện nhưng viễn ảnh một  Việt Nam tự do, dân chủ, hùng mạnh vẫn còn là một mục tiêu chưa đến. Nỗi  lo lắng và niềm đau xót này không phải của riêng ai mà của tất cả người  Việt Nam còn biết xót xa, còn biết hổ thẹn trước sự lạc hậu của Việt  Nam so với đà tiến quá nhanh của nhân loại. 
 Một câu hát trong bài Tự Nguyện quen thuộc trong giới sinh viên trước năm 1975 “nếu là hoa, tôi sẽ làm một đóa Hướng Dương”,  chưa bao giờ hơn lúc này Việt Nam cần những người yêu nước biết vươn  cao, đứng thẳng như những cành Hướng Dương Dân Tộc. Con người đến và đi  nhưng lịch sử Việt Nam như dòng sông không ngừng chảy. Đất nước sẽ vượt  qua và lớn lên như đã từng vượt qua và lớn lên sau ngàn năm Bắc Thuộc. 
 
       

638973501519568371.jpg)





638973501519568371.jpg)




638972638875837638.jpg)
.638972558392097892.jpg)


