Cà Kê Dê Ngỗng
Thông cáo chung Việt-Trung gây nghi ngại
BẮC KINH (NV) - Việt Nam và Trung Quốc vừa công bố một “thông cáo chung” nhân dịp ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN thăm Trung Quốc. “Thông cáo chung” này có nhiều điểm gây nghi ngại.
BẮC KINH (NV) - Việt Nam và Trung Quốc vừa công bố một “thông cáo
chung” nhân dịp ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN thăm Trung
Quốc. “Thông cáo chung” này có nhiều điểm gây nghi ngại.
Thời gian vừa qua, trước các tuyên bố và hành động hung hăng của Trung
Quốc trên biển Ðông, chính quyền Việt Nam đã tìm mọi cách để thiết lập
và siết chặt quan hệ với Philippines, Nhật, Hoa Kỳ, Ấn, Úc,... nhằm có
thêm sự hậu thuẫn trong việc bảo vệ chủ quyền.
Ông Tập Cận Bình, tổng bí thư đảng Cộng Sản Trung Quốc và ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư ÐCSVN. (Hình: Tuổi Trẻ)
Trong bối cảnh Trung Quốc tìm mọi cánh để cản trở “quốc tế hóa” các
tranh chấp biển Ðông vì hi vọng có thể bắt chẹt những quốc gia có liên
quan đến tranh chấp trong các cuộc thương thuyết song phương thì mới
đây, “Thông cáo chung Việt-Trung” nhấn mạnh, hai bên sẽ “kiên trì thông
qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu
dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được.”
Người ta chưa rõ tại sao Việt Nam có thể “kiên trì” khi Trung Quốc đang
đẩy mạnh hoạt động bồi đắp các bãi đá ở biển Ðông thành đảo nhân tạo,
xây dựng các đảo nhân tạo thành những căn cứ quân sự để khống chế toàn
bộ biển Ðông?
Cách nay đúng một tháng, hôm 8 tháng 3, 2015, ông Vương Nghị, ngoại
trưởng Trung Quốc, từng khẳng định “biển Ðông là nhà và là sân riêng của
Trung Quốc.” Trung Quốc có quyền làm tất cả những gì mình muốn trong
khu vực thuộc về mình.
Lúc đó, tuyên bố của ông Vương Nghị khiến nhiều giới sửng sốt. Ông
Thayer - một chuyên gia về Châu Á, làm việc tại Học Viện Quốc Phòng Úc,
nhận định, đây có lẽ là lần đầu tiên Trung Quốc mô tả các thực thể địa
lý ở biển Ðông như là “nhà” và “sân riêng” của mình. Ông Thayer bảo
rằng, tuyên bố vừa kể của ngoại trưởng Trung Quốc, vừa thô bạo, ngạo
mạn, vừa sai với lịch sử. Trong quá khứ, chính Trung Quốc mới là phía
chiếm “nhà” và “sân” của người khác.
Thực tế đó cho thấy “hiệp thương và đàm phán hữu nghị” Việt-Trung không
đem lại “giải pháp cơ bản và lâu dài” nào “mà hai bên đều có thể chấp
nhận được” nhưng đáng ngạc nhiên là Việt Nam vẫn thản nhiên lựa chọn.
Cũng vì vậy, việc đại diện chính quyền Việt Nam và chính quyền Trung
Quốc xác định trong “thông cáo chung” rằng, hai bên sẽ “tích cực nghiên
cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ
trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp
tác cùng phát triển” trở thành khó hiểu.
Lần này, nhân dịp ông Trọng sang thăm Trung Quốc, Việt Nam và Trung Quốc
đã đạt được một thỏa thuận về việc thành lập “Nhóm công tác về hợp tác
hạ tầng” và “Nhóm Công tác về hợp tác tiền tệ.” “Hạ tầng” và “tiền tệ”
vốn là hai lĩnh vực đáng ngại nhất trong quan hệ Việt-Trung.
Trong quan hệ Việt-Trung, sự tham gia của nhà thầu Trung Quốc vào các dự
án phát triển hạ tầng tại Việt Nam đã từng được nhiều chuyên gia xác
định là một vấn nạn nghiêm trọng về nhiều mặt.
Do các nhà thầu Trung Quốc nắm giữ tới 90% dự án tổng thầu EPC (cách gói
tắt các gói thầu tư vấn, thiết kế-cung cấp thiết bị-xây lắp, vận hành
hoặc còn được gọi là phương thức “chìa khóa trao tay”), có giá trị nhiều
tỷ đô la trong các lĩnh vực dầu khí, hóa chất, điện, dệt kim,... nên
các nhà thầu Trung Quốc có cơ hội đưa công nhân Trung Quốc tràn vào Việt
Nam để thực hiện các dự án mà họ nhận thầu.
Các dự án mà nhà thầu Trung Quốc thực hiện tại Việt Nam còn là những con
đường để rót máy móc, thiết bị, vật liệu vào Việt Nam, bóp chết ngành
công nghiệp Việt Nam vì không tiêu thụ được sản phẩm và khiến nhập siêu
từ Trung Quốc tăng vọt.
Chưa kể theo các chuyên gia, Việt Nam phải gánh chịu vô số thiệt hại về
kinh tế - xã hội do nhà thầu Trung Quốc không hoàn tất dự án đúng hạn
hay bỏ dở. Khi hoàn thành thì vì công nghệ và thiết bị tồi, công trình
không thể vận hành như thiết kế ban đầu, thành ra cơ sở hạ tầng không
bền vững.
Với bối cảnh như thế, thỏa thuận cùng Trung Quốc thành lập “Nhóm công
tác về hợp tác hạ tầng” trở thành điều vừa khó hiểu, vừa đáng ngại.
Việc chính thức thành lập “Nhóm Công tác về hợp tác tiền tệ” cũng khó hiểu và đáng ngại y hệt như vậy.
Hồi đầu năm nay, sau khi Hiệp Hội Doanh Nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam
và Ngân Hàng Công Thương của Trung Quốc đề nghị Việt Nam cho phép sử
dụng Yuan (Nhân dân tệ của Trung Quốc) trong các giao dịch tại Việt Nam,
ông Cao Sỹ Kiêm, cựu thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, khuyến cáo,
chính quyền Việt Nam phải hết sức thận trọng với kiến nghị vừa kể.
Do ở thế yếu trong quan hệ thương mại, chắc chắn Việt Nam sẽ không có đủ
Yuan để thanh toán các hợp đồng nhập cảng và chì còn cách vay Yuan của
các doanh nghiệp Trung Quốc. Cũng vì vậy, nợ nần sẽ tăng theo đà tăng
giá của Yuan. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ lệ thuộc Trung Quốc cả về hàng
hóa lẫn tín dụng.
Có đến bốn ủy viên Bộ Chính Trị của Ðảng CSVN là Ðinh Thế Huynh (trưởng
Ban Tuyên Giáo của Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng CSVN), Nguyễn Thị Kim
Ngân (phó chủ tịch Quốc hội Việt Nam), Phùng Quang Thanh (bộ trưởng Quốc
Phòng), Trần Ðại Quang (bộ trưởng Công An), tháp tùng ông Trọng sang
thăm Trung Quốc.
Bên cạnh việc ca ngợi ông Trọng thăm Trung Quốc, cơ quan truyền thông
của chính quyền Trung Quốc bình luận thêm như thế này: “Một số người ở
bên ngoài, vì lý do cá nhân đang khai thác các sự kiện để gây bất hòa
giữa hai bên, cùng lúc đó một nhúm người trong chính quyền Việt Nam đã
bị những lời đường mật từ bên ngoài dụ dỗ và trở thành đồng phạm.” (G.Ð)
(Người Việt)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Thông cáo chung Việt-Trung gây nghi ngại
BẮC KINH (NV) - Việt Nam và Trung Quốc vừa công bố một “thông cáo chung” nhân dịp ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN thăm Trung Quốc. “Thông cáo chung” này có nhiều điểm gây nghi ngại.
BẮC KINH (NV) - Việt Nam và Trung Quốc vừa công bố một “thông cáo
chung” nhân dịp ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN thăm Trung
Quốc. “Thông cáo chung” này có nhiều điểm gây nghi ngại.
Thời gian vừa qua, trước các tuyên bố và hành động hung hăng của Trung
Quốc trên biển Ðông, chính quyền Việt Nam đã tìm mọi cách để thiết lập
và siết chặt quan hệ với Philippines, Nhật, Hoa Kỳ, Ấn, Úc,... nhằm có
thêm sự hậu thuẫn trong việc bảo vệ chủ quyền.
Ông Tập Cận Bình, tổng bí thư đảng Cộng Sản Trung Quốc và ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư ÐCSVN. (Hình: Tuổi Trẻ)
Trong bối cảnh Trung Quốc tìm mọi cánh để cản trở “quốc tế hóa” các
tranh chấp biển Ðông vì hi vọng có thể bắt chẹt những quốc gia có liên
quan đến tranh chấp trong các cuộc thương thuyết song phương thì mới
đây, “Thông cáo chung Việt-Trung” nhấn mạnh, hai bên sẽ “kiên trì thông
qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu
dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được.”
Người ta chưa rõ tại sao Việt Nam có thể “kiên trì” khi Trung Quốc đang
đẩy mạnh hoạt động bồi đắp các bãi đá ở biển Ðông thành đảo nhân tạo,
xây dựng các đảo nhân tạo thành những căn cứ quân sự để khống chế toàn
bộ biển Ðông?
Cách nay đúng một tháng, hôm 8 tháng 3, 2015, ông Vương Nghị, ngoại
trưởng Trung Quốc, từng khẳng định “biển Ðông là nhà và là sân riêng của
Trung Quốc.” Trung Quốc có quyền làm tất cả những gì mình muốn trong
khu vực thuộc về mình.
Lúc đó, tuyên bố của ông Vương Nghị khiến nhiều giới sửng sốt. Ông
Thayer - một chuyên gia về Châu Á, làm việc tại Học Viện Quốc Phòng Úc,
nhận định, đây có lẽ là lần đầu tiên Trung Quốc mô tả các thực thể địa
lý ở biển Ðông như là “nhà” và “sân riêng” của mình. Ông Thayer bảo
rằng, tuyên bố vừa kể của ngoại trưởng Trung Quốc, vừa thô bạo, ngạo
mạn, vừa sai với lịch sử. Trong quá khứ, chính Trung Quốc mới là phía
chiếm “nhà” và “sân” của người khác.
Thực tế đó cho thấy “hiệp thương và đàm phán hữu nghị” Việt-Trung không
đem lại “giải pháp cơ bản và lâu dài” nào “mà hai bên đều có thể chấp
nhận được” nhưng đáng ngạc nhiên là Việt Nam vẫn thản nhiên lựa chọn.
Cũng vì vậy, việc đại diện chính quyền Việt Nam và chính quyền Trung
Quốc xác định trong “thông cáo chung” rằng, hai bên sẽ “tích cực nghiên
cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ
trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp
tác cùng phát triển” trở thành khó hiểu.
Lần này, nhân dịp ông Trọng sang thăm Trung Quốc, Việt Nam và Trung Quốc
đã đạt được một thỏa thuận về việc thành lập “Nhóm công tác về hợp tác
hạ tầng” và “Nhóm Công tác về hợp tác tiền tệ.” “Hạ tầng” và “tiền tệ”
vốn là hai lĩnh vực đáng ngại nhất trong quan hệ Việt-Trung.
Trong quan hệ Việt-Trung, sự tham gia của nhà thầu Trung Quốc vào các dự
án phát triển hạ tầng tại Việt Nam đã từng được nhiều chuyên gia xác
định là một vấn nạn nghiêm trọng về nhiều mặt.
Do các nhà thầu Trung Quốc nắm giữ tới 90% dự án tổng thầu EPC (cách gói
tắt các gói thầu tư vấn, thiết kế-cung cấp thiết bị-xây lắp, vận hành
hoặc còn được gọi là phương thức “chìa khóa trao tay”), có giá trị nhiều
tỷ đô la trong các lĩnh vực dầu khí, hóa chất, điện, dệt kim,... nên
các nhà thầu Trung Quốc có cơ hội đưa công nhân Trung Quốc tràn vào Việt
Nam để thực hiện các dự án mà họ nhận thầu.
Các dự án mà nhà thầu Trung Quốc thực hiện tại Việt Nam còn là những con
đường để rót máy móc, thiết bị, vật liệu vào Việt Nam, bóp chết ngành
công nghiệp Việt Nam vì không tiêu thụ được sản phẩm và khiến nhập siêu
từ Trung Quốc tăng vọt.
Chưa kể theo các chuyên gia, Việt Nam phải gánh chịu vô số thiệt hại về
kinh tế - xã hội do nhà thầu Trung Quốc không hoàn tất dự án đúng hạn
hay bỏ dở. Khi hoàn thành thì vì công nghệ và thiết bị tồi, công trình
không thể vận hành như thiết kế ban đầu, thành ra cơ sở hạ tầng không
bền vững.
Với bối cảnh như thế, thỏa thuận cùng Trung Quốc thành lập “Nhóm công
tác về hợp tác hạ tầng” trở thành điều vừa khó hiểu, vừa đáng ngại.
Việc chính thức thành lập “Nhóm Công tác về hợp tác tiền tệ” cũng khó hiểu và đáng ngại y hệt như vậy.
Hồi đầu năm nay, sau khi Hiệp Hội Doanh Nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam
và Ngân Hàng Công Thương của Trung Quốc đề nghị Việt Nam cho phép sử
dụng Yuan (Nhân dân tệ của Trung Quốc) trong các giao dịch tại Việt Nam,
ông Cao Sỹ Kiêm, cựu thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, khuyến cáo,
chính quyền Việt Nam phải hết sức thận trọng với kiến nghị vừa kể.
Do ở thế yếu trong quan hệ thương mại, chắc chắn Việt Nam sẽ không có đủ
Yuan để thanh toán các hợp đồng nhập cảng và chì còn cách vay Yuan của
các doanh nghiệp Trung Quốc. Cũng vì vậy, nợ nần sẽ tăng theo đà tăng
giá của Yuan. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ lệ thuộc Trung Quốc cả về hàng
hóa lẫn tín dụng.
Có đến bốn ủy viên Bộ Chính Trị của Ðảng CSVN là Ðinh Thế Huynh (trưởng
Ban Tuyên Giáo của Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng CSVN), Nguyễn Thị Kim
Ngân (phó chủ tịch Quốc hội Việt Nam), Phùng Quang Thanh (bộ trưởng Quốc
Phòng), Trần Ðại Quang (bộ trưởng Công An), tháp tùng ông Trọng sang
thăm Trung Quốc.
Bên cạnh việc ca ngợi ông Trọng thăm Trung Quốc, cơ quan truyền thông
của chính quyền Trung Quốc bình luận thêm như thế này: “Một số người ở
bên ngoài, vì lý do cá nhân đang khai thác các sự kiện để gây bất hòa
giữa hai bên, cùng lúc đó một nhúm người trong chính quyền Việt Nam đã
bị những lời đường mật từ bên ngoài dụ dỗ và trở thành đồng phạm.” (G.Ð)
(Người Việt)