Văn Học & Nghệ Thuật
Trần Doãn Nho - Một khía cạnh khác trong “Phong Trào Dù” ở Hồng Kông: ngôn ngữ.
Báo chí quốc tế vẫn thường gọi các cuộc biểu tình của sinh viên Hồng Kông là “Phong Trào Dù” (Umbrella Movement).
http://www.diendantheky.net/2014/11/bao-chi-quoc-te-van-thuong-goi-cac.html
Báo chí quốc tế vẫn thường gọi các cuộc
biểu tình của sinh viên Hồng Kông là “Phong Trào Dù” (Umbrella Movement). Thực
ra, tên đầu tiên họ dùng là “Cách Mạng Dù” (Umbrella Revolution) do sinh
viên Adam Cotton đặt ra trên Twitter vào
ngày 26/9. Tên này sau đó được đổi ra thành “Umbrella Movement” vì một số thành
viên trong phong trào cảm thấy rằng “cách mạng” là một từ nhạy cảm, có thể khiến
nhà cầm quyền Bắc Kinh lo sợ và hiểu lầm rằng sinh viên muốn làm một cuộc “cách
mạng màu” để lật đổ chính quyền độc tài như tại một số nước khác. Lester Shum,
lãnh tụ của “Liên Đoàn Sinh Viên Hồng Kông” (Hong Kong Federation of Students)
phát biểu: “Đây không phải là một cuộc
cách mạng màu. Đây là cuộc đấu tranh của công dân cho một nền dân chủ.” Tuy thế,
hiện nay hai nhóm từ này vẫn được sử dụng xen kẽ lẫn nhau.
Các cuộc
biểu tình lần này là sự nối tiếp cuộc đấu tranh liên tục nhiều năm qua của nhân
dân Hồng Kông, nhưng diễn ra một cách quy mô nhất, dài ngày nhất và quyết liệt
nhất sau khi nhà cầm quyền Bắc Kinh, vào cuối tháng 8/2014, quyết định chỉ định
ứng cử viên thay vì bầu cử một cách dân chủ Đặc Khu Trưởng Đặc Khu Hồng Kông
(Chief Executive of the Hong Kong Special Administrative Region). Trong tình
hình này, “Phong Trào Dù” hay “Cách Mạng Dù” trở thành cuộc đối đầu sinh tử giữa
một Hồng Kông trẻ khát khao dân chủ và một Bắc Kinh già gắn chặt với độc tài.
Thắng hay bại trong cuộc đối dầu này sẽ có ảnh hưởng lâu dài không những đối với
nhân dân Hồng Kông và Trung Quốc mà còn đối với cao trào dân chủ trên toàn thế
giới.
Động lực thúc đẩy Phong Trào Dù, ngoài nhu
cầu được tự do chọn lựa người lãnh đạo qua một cuộc bầu cử dân chủ, còn tiềm ẩn
những nguyên nhân tâm lý và xã hội sâu xa khác. Một trong những nguyên nhân đó
là vấn đề ngôn ngữ.
Vũ Tán Cách Mệnh
và Già Đả Cách Mệnh
Trong mấy tấm bích chương trên, danh
xưng “Cách Mạng Dù” được viết bằng hai cách khác nhau. Tấm bên phải là
“Già Đả
Cách Mệnh” (遮打革命); tấm bên trái là “Vũ Tán Cách Mệnh” ( 雨傘革命). “Vũ tán”
(雨傘) là dù che mưa được viết theo tiếng Quan thoại (Mandarin), là thứ
ngôn ngữ các sinh viên học sinh học ở nhà trường và sử dụng trên báo
chí. Trong
lúc đó, hai chữ “già đả” (遮打)
cũng là cây dù nhưng được
viết theo tiếng Quảng (Cantonese), thứ tiếng được sử dụng hầu như khắp
nơi ở Hồng
Kông.
Trước hết là cách phát âm. Chữ “vũ tán”
được những người nói tiếng Quan thoại phát âm là yusan, nhưng những người nói tiếng Quảng phát âm dài hơn là jyusaan. Về mặt ngữ nghĩa, những người
chỉ biết tiếng Quan thoại không hiểu nghĩa của hai chữ “già đả”. Tách riêng ra
từng chữ, cả hai đều là động từ: “già” nghĩa là che phủ (cover), “đả” nghĩa là đánh hay đấu (hit). Do đó, Phong Trào Dù, nếu dịch từng chữ một theo nghĩa
đen thành ra Phong Trào Che-Đánh (Cover-Hit Movement), là một nhóm từ hoàn toàn
vô nghĩa. Tuy nhiên, đối với cư dân Hồng Kông, hai chữ này khi phát âm theo tiếng
phổ thông là zhe da lại có thêm một
nghĩa hoàn toàn khác. Đó là phiên âm tên Chater, một trong những con đường ở
trung tâm Hồng Kông, nơi những người biểu
tình hiện đang chiếm giữ: Cha-ter= Già Đả. 遮 打 運 動 đọc
là “Già Đả Phong Trào”, tức là Chater (Road) Movement.
Mặt khác, người nói tiếng Quảng tránh
dùng chữ “vũ tán”, vì chữ“tán” (傘) đồng âm với một chữ “tán” khác (散) có nghĩa là giải
tán hay phân tán. Họ ngại chữ “tán” này sẽ gây ra cảm giác tiêu cực cho phong
trào. Riêng chữ “đả”, theo bà Hà Lệ Mai, giáo sư văn chương tại “Hong Kong
Baptist University”, trong đầu người nói tiếng Quảng, còn có nghĩa là “tấn
công” hay “đánh ngã”. Hiểu theo tình hình của phong trào trong thời điểm hiện
nay, “đả” có nghĩa là lật đổ Lương Chấn Anh (Leung Chun-Ying, gọi tắt là CY
Leung) đương kim đặc khu trưởng Hồng Kông. Như thế, “Phong Trào Dù” bao hàm một ý nghĩa ngầm là “Phong Trào Tranh Đấu
Dù” (Umbrella Fight Movement) hay nói một
cách đầy ẩn ý khác là “Phong Trào Dù Tranh Đấu Chống CY Leung” (Umbrella
Fight-Against-CY Leung Movement).
(Bảng
giải thích cách dùng chữ mà Phong Trào Dù sử dụng trong cuộc tranh đấu)
Tiếng
Quan và tiếng Quảng
Sự phân biệt hai thứ tiếng thoạt nghe
qua chẳng có mấy ý nghĩa, nhưng rất quan trọng đối với cuộc tranh đấu hiện nay
của Phong Trào Dù. Cách dùng cố ý, thường xuyên chữ
“già” và những nhóm từ tiếng Quảng khác
trong các khẩu hiệu của Phong Trào Dù biểu trưng không chỉ cho sự chống đối các
chính sách của Đảng Cộng Sản nhưng còn để bảo vệ căn cước văn hóa riêng biệt,
cũng như lịch sử của những người Hồng Kông đang tranh đấu để bảo vệ sự tồn tại
của nó. Mặt khác, về phương diện ngôn ngữ, điều này nêu lên quyết tâm của cư
dân Hồng Kông chống
lại chính sách triệt tiêu tiếng Quảng của nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Trung Quốc có rất nhiều phương ngữ,
trong số đó, bảy phương ngữ chính là Mandarin
(Quan thoại), Xiang (Sương ngữ), Gan (Cống ngữ), Wu (Ngô ngữ), Yue (Việt
ngữ), Min (Mân ngữ), and Hakka/Kejia (Khách gia ngữ). Cả bảy
phương ngữ này đều xuất phát từ tiếng Hán cổ, cùng dùng chung một hệ thống chữ
viết, nhưng phát âm khác nhau. Theo Wikipedia, hiện nay, tiếng Quan thoại có số
người sử dụng nhiều nhất, gần 850 triệu; kế đó là Ngô ngữ, trên 77 triệu; Mân
ngữ, gần 72 triệu; Quảng Châu thoại, 60 triệu; Sương ngữ, 36 triệu… Hai ngôn ngữ
quan trọng nhất liên quan đến bài viết này là Quan thoại và Việt ngữ.
- Quan thoại (官話), có nghĩa là“tiếng
của giới quan lại”, thứ tiếng trước đây được giới quan lại ở Bắc Kinh sử dụng. Còn
được gọi là “Phổ thông thoại”/Putonghua(普通話). Nói cho gọn là tiếng Quan.
- Việt
ngữ (粵語). Chữ Việt đây chỉ hai tỉnh
Quảng Đông và Quảng Tây. Hai tỉnh này nguyên
trước là đất của Bách Việt (百粵), nên được gọi là tỉnh Việt; nó khác với chữ Việt (越) chỉ nước Việt Nam (越南). Tên thường dùng là Quảng
Châu thoại (廣州話), tức là Cantonese
(Canton là từ tiếng Anh chỉ Quảng Châu), vì Quảng Châu, thủ phủ của tỉnh Quảng
Đông, là nơi xuất phát thứ ngôn ngữ này. Nói cho gọn là tiếng Quảng.
(Bản đồ chỉ các vùng ngôn ngữ ở Trung Quốc: Mandarin (Quan thoại), Xiang (Sương ngữ), Gan (Cống ngữ), Wu (Ngô
ngữ), Yue (Việt ngữ), Min (Mân ngữ) và Hakka/Kejia (Khách gia ngữ),
Hui (Huy ngữ), Jin (Tấn ngữ), Ping (Bình ngữ).
Sau khi chiếm được toàn thể lục địa từ
năm 1949, chính quyền Cộng Sản chủ trương Trung Quốc chỉ nên có một ngôn ngữ
duy nhất thì mới bảo đảm được sự thống nhất quốc gia. Họ chọn tiếng Quan. Theo
họ, tiếng Quan đã được các nhà cầm quyền
Trung Hoa khác nhau khuyến khích sử dụng từ cả trăm năm nay và là ngôn ngữ
chính thức trong lúc tất cả các phương ngữ khác không phải là một ngôn ngữ thực
sự. Sử dụng tiếng Quan đối với Bắc Kinh là một phương tiện hữu hiệu để tạo ra
căn cước chung cho mọi cư dân trên toàn Trung Quốc, duy trì sự thống nhất đồng
thời làm suy yếu tinh thần địa phương, nhất là ở những vùng đất xa xôi như Tây Tạng
hay Tân Cương, nơi xu thế chống chính quyền trung ương thường rất mạnh. Thực
ra, theo Victor Mair - một nhà Trung Hoa học (sinologist) tại đại học
Pennsylvania -, ngoài mục đích chính là thống nhất ngôn ngữ, sự chọn lựa tiếng
Quan còn bao hàm ý muốn bảo đảm sự thống trị của ngôn ngữ miền Bắc đối với các
ngôn ngữ miền Nam như tiếng Quảng, tiếng Thượng Hải, tiếng Phúc Kiến, vân vân…Đến
năm 1992, chính quyền Bắc Kinh chính
thức ban hành lệnh cấm sử dụng tất cả các phương ngữ khác trên hệ thống truyền
thanh và truyền hình toàn quốc.
Tiếng Quảng
là
tiếng mẹ đẻ của đa số dân tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Riêng ở Quảng Châu, thủ
phủ của tỉnh Quảng Đông, thành phố lớn thứ ba và là trung tâm thương mại hàng đầu
của Trung Quốc, có đến một nửa số dân nói tiếng Quảng. So với tiếng Quan, tiếng
Quảng có lịch sử cả một
ngàn năm, lâu hơn tiếng Quan. Theo Lão Chấn Ngọc (Lao Zhenyu), nhà hoạt động bảo
vệ tiếng Quảng và biên tập viên một tờ báo
địa phương, tiếng
Quảng dồi dào từ vựng và có cách phát âm phong phú hơn tiếng Quan. Ông cho rằng
những bài thơ cổ, nếu đọc bằng tiếng Quảng
sẽ
nghe có nhiều vần điệu hơn và sống động hơn. Do đó, “Đối với người địa phương, tiếng Quảng không
chỉ là một phương ngữ, mà là một phần của căn cước của chúng tôi,” Lão Chấn Ngọc
kết luận.
Từ khi tiếng Quan trở thành ngôn ngữ
chính thức của quốc gia, tiếng Quảng, cũng như các phương ngữ khác, đều
bị đẩy
qua bên lề. Để bảo đảm ưu thế của tiếng Quan, các trường học ở Quảng
Châu ra thông báo nêu rõ rằng nói tiếng Quảng là không văn minh và không
ai hiểu. Các giáo viên
khuyến khích học sinh đừng bao giờ nói thứ tiếng này trong lớp học; học
sinh
nào không tuân theo sẽ bị phạt hay trừ điểm học. Có trường còn cấm hẳn
nói tiếng
Quảng cả khi ở ngoài lớp hay trong giờ nghỉ. Hậu quả là, sau một thời
gian,
trong nhiều gia đình, cha mẹ thì nói tiếng Quảng nhưng con cái chỉ nói
biết nói
tiếng Quan. (Chẳng khác gì tình trạng của nhiều gia đình di dân Việt Nam
ở Mỹ:
cha mẹ nói tiếng Việt, con cái chỉ biết tiếng Anh. Chỉ có một điều khác,
người
Việt đang sống lưu vong ở một nước khác, còn người Quảng Châu sống lưu
vong
ngay tại nơi chôn nhau cắt rốn của mình). Đã thế, làn sóng di dân từ
khắp nơi
trong xứ sở đổ về đây khiến cho số người không nói tiếng Quảng trong
cộng đồng
dân cư càng ngày càng tăng thêm. Những cư dân mới này không những không
học tiếng
nói địa phương mà còn chê bai, châm biếm thứ ngôn ngữ mà họ cho là quê
mùa này.
Điều này khiến cho những người nói tiếng Quảng càng thêm tức giận.
(Những
người ủng hộ tiếng Quảng biểu tình ở Quảng Châu tháng 7, năm 2010)
Sự tức giận này có dịp bùng nổ vào năm
2010. Nhân Á Vận Hội (Asian Game) được tổ chức ở Quảng Châu vào cuối năm đó, lấy
lý do là khách từ khắp các nơi trên thế giới đến chỉ biết tiếng Quan là ngôn ngữ
chính thức của Trung Quốc, hệ thống truyền hình thành phố đưa ra đề nghị ngưng
các chương trình phát bằng tiếng Quảng đồng thời gỡ bỏ tất các bảng hiệu nào
còn dùng tiếng Quảng ra khỏi các nơi công cộng. Như
giọt nước làm tràn ly, những người nói tiếng Quảng
ở
Quảng Châu tổ chức một cuộc biểu tình phản đối đề nghị này vào ngày 25/7/2010,
quy tụ đến cả 10 ngàn người. Một cuộc biểu tình tương tự cũng diễn ra ở Hồng
Kông nhằm ủng hộ dân nói tiếng Quảng ở Quảng Châu. Trước áp lực của quần chúng,
đề nghị đó được rút lui.
Tuy thế, vì nhu cầu học vấn và công ăn
việc làm, cha mẹ vẫn phải cho con cái họ học tiếng Quan. Đó là lý do khiến con
số những người nói tiếng Quảng càng ngày càng giảm đi. Tình trạng này cũng diễn
ra tại tỉnh Quảng Tây kế cận, nơi tiếng Quảng cũng là ngôn ngữ chính của dân địa
phương. Có tin cho hay rằng bắt đầu từ tháng 9 năm nay (2014), hầu hết các
chương trình truyền hình ở Quảng Đông đã lặng lẽ chuyển sang tiếng Quan. Rốt cuộc
tiếng Quảng chỉ còn được sử dụng nơi những người lớn tuổi.
Dẫu vậy, theo tường trình của Bộ Giáo Dục
Trung Quốc năm 2013, vẫn còn đến 400 triệu người – tức 30% dân số - không nói
được tiếng Quan.
Đại lục hóa và
chống đại lục hóa
Chính sách thống nhất ngôn ngữ, do lối
cai trị độc tài và toàn trị, tất nhiên là đạt được nhiều thành công ở lục địa. Tuy
nhiên, trong lúc một số phương ngữ khác như tiếng Thượng Hải hay Phúc Kiến chẳng
hạn, càng ngày càng ít người sử dụng và có thể biến mất trong một tương lại gần,
thì tiếng Quảng may mắn hơn. Nó được hỗ trợ bởi một nơi không phải là quê hương
của nó: Hồng Kông. Nếu không có Hồng Kông thì “tiếng Quảng đã không còn hiện hữu
như một sức mạnh ngôn ngữ có ý nghĩa,” theo Victor Mair.
Cũng giống như phong trào phát huy tiếng
Bengali ở Bangladesh hay cuộc nổi dậy
ở Soweto chống lại sự áp đặt tiếng Afrikaans[1] (1) trong trường học Nam Phi thời còn
chế độ phân biệt chủng tộc (Apartheid), phong trào duy trì tiếng Quảng đóng vai trò rất quan trọng
trong cuộc phản kháng của dân Hồng Kông chống lại chính quyền trung ương Bắc
Kinh. Mặc dù cũng dùng chữ Hán, nhưng từ vựng và văn phạm tiếng Quảng có một hệ
thống chữ viết khác với tiếng Quan khiến cho hai người chỉ quen với tiếng Quan
hay tiếng Quảng không thể hiểu nhau khi nói chuyện. Robert Bauer, nhà chuyên
môn hàng đầu về tiếng Quảng tại đại học Hồng Kông, nhận xét: “Nếu bạn đưa cho một
người chỉ biết tiếng Quan một văn bản
thông tục viết bằng tiếng Quảng, anh/chị ta sẽ hoàn toàn không hiểu.
Chúng khác nhau như giữa tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Ý.”
Lợi dụng đặc điểm đó, dưới thời thuộc địa,
chính quyền Anh xem tiếng Quảng như là một dụng cụ hữu ích để tạo nên một Hồng
Kông riêng biệt, tách hẳn khỏi ảnh hưởng của chính quyền đại lục. Do đó, tiếng
Quảng vẫn được duy trì và phát triển ở Hồng Kông mà không bị tiếng Quan lấn lướt.
Cũng theo Bauer, tuy học tiếng Quan trong nhà trường, tiếng Quảng vẫn gắn bó với
người Hồng Kông như là căn cước văn hóa và xã hội riêng của họ. Từ năm 1997,
khi lấy lại Hồng Kông từ Anh, chính quyền Bắc Kinh bắt buộc phải loại bỏ hẳn tiếng
Quảng trong lớp học. Không những thế, một số trường còn cấm học sinh nói chuyện
với nhau bằng tiếng Quảng trong trường như ở Quảng Châu. Lý do được đưa ra là:
tiếng Quảng chỉ là một phương ngữ chứ không phải là quốc ngữ.
Điều này khiến dân Hồng Kông tức giận,
gây ra một cuộc tranh cãi kịch liệt trong xã hội Hồng Kông. George Chen, tác giả
cuốn “This is Hong Kong I Know” cho biết: “Nhiều người dân trẻ tuổi Hồng Kông
xem tiếng Quảng như là một ngôn ngữ, một dấu hiệu cho thấy các thể hệ trẻ coi
trọng căn cước Hồng Kông riêng của họ như thế nào.” Chẳng thế mà cư dân Hồng
Kông tự gọi mình là Hongkongers và
xem người đại lục là người Trung Quốc (Chinese) hay người Trung Quốc Đại Lục
(Mainland Chinese). Blogger “Free
Hong Kong” khẳng định rằng “giống màu da và màu tóc với người Trung Quốc không
có nghĩa người Hồng Kông cũng là người Trung Quốc.” Một blogger khác tên là Alain
còn dứt khoát hơn: “Hồng Kông là của người Hồng Kông. Chúng tôi nói tiếng
Quảng và tiếng Anh.”
Ngôn ngữ chỉ là một yếu tố nằm trong một
chủ trương lâu dài được mệnh danh là chính sách “Đại lục hóa” (mainlandization)
Hồng Kông của chính quyền Bắc Kinh. Hai chữ “đại lục” (大陸) chỉ lục địa
Trung Quốc (Mainland). Người ở đại lục gọi là “đại lục nhân” (大陸人), tiếng Anh là
mainlander. Đại lục hóa là chính sách hội nhập toàn diện Hồng Kông vào Trung Quốc
hay nói một cách khác, là ép buộc người Kông Kông phải thừa nhận những giá trị
và tiêu phạm phổ biến ở đại lục. Đối với người Hồng Kông, nó cũng có nghĩa là
xóa dần tự do, tinh thần đa nguyên, sự tôn trọng nhân quyền và pháp luật vốn là
những giá trị cốt lõi của Đặc Khu Hồng
Kông. Nói thẳng thừng ra là cộng sản hóa Hồng Kông. Chính quyền Bắc Kinh lập đi
lập lại rằng người Hồng Kông phải nhìn nhận họ như là người Trung Quốc trước,
chứ không phải là những Hongkonger.
Điều đó làm phát sinh xu hướng “chống đại
lục hóa” (anti-mainlandization) trong xã hội Hồng Kông. Sara Zhong Hua (Chung
Hoa), giáo sư tại “Chinese University of Hong Kong” cho biết “Xu hướng chống-Trung
Quốc hay chống-Đại Lục phản ảnh phong trào chính trị. Những người Hông Kông muốn
dân chủ. Chính phủ trung ương không muốn cho họ dân chủ.” Buộc toàn dân dùng tiếng
Quan là cách duy nhất để nhà cầm quyền Cộng Sản kiểm soát tư tưởng và hành động
của nhân dân. Như đã đề cập ở phần trên, ở đại lục, sự kiểm soát nghiêm ngặt
truyền thông và giáo dục khiến tiếng Quảng suy yếu dần ngay chính ở quê hương của
nó. Nhưng ở Hồng Kông thì khác. “Đây là lý do tại sao cuộc đấu tranh cho một
Hông Kông tự trị là rất quan trọng. Đó không chỉ là vấn đề chính trị, mà là vấn
đề văn hóa. Không có gì để bảo đảm cho một sự tự do tương đối nào đó, tiếng Quảng
và văn hóa Quảng sẽ nhanh chóng tàn lụi,” theo Victor Mair.
Bích chương Chống-Đại lục hóa đại học Hồng
Kông(反對本港大學大陸 化!
= Phản đối Bản Cảng (Hương Cảng) đại học đại lục hóa!)
Bởi vậy, một trong những hoạt động “chống
đại lục hóa” là đấu tranh bảo vệ tiếng Quảng. Hiện nay, tiếng Quảng vẫn còn được
sử dụng thoải mái và phát triển ở Hồng Kông phần lớn là nhờ các trang mạng xã hội.
Trước đây, người Hồng Kông ít có cơ hội viết tiếng Quảng. Bây giờ họ dùng tràn
lan trên Facebook, Twitter và các trang mạng khác. Nhờ thế mà càng lúc càng có
nhiều người Hồng Kông biết viết tiếng Quảng. Hiện tượng bùng nổ tiếng Quảng
trên mạng lưới góp phần tăng cường thêm
ý thức bảo vệ căn cước riêng của Hồng Kông. Và ý thức này trở nên mạnh mẽ, công
khai hơn trong các cuộc biểu tình của Phong Trào Dù, biểu hiện qua việc
sử
dụng hai chữ 遮打nói trên. Bà Hà
Lệ Minh, giáo sư Đại học Baptist Hồng Kông, cho biết thêm: một khẩu hiệu ủng hộ
dân chủ khác trên mạng xã hội là “Thiểu
dân chủ thiểu công bằng” (冇民主冇公義) = thiếu dân chủ
là thiếu công bằng. 冇 phát âm mou, là một chữ không có trong hệ thống chữ viết của tiếng Quan. Đối
với người Hồng Kông, nghĩa của chữ 冇 rất rõ ràng, là
“thiếu” (to lack).
Thực hiện chính sách đại lục hóa đại học,
chính quyền Trung Quốc tìm cách gửi người đến Hồng Kông học hành và định cư, tạo
cơ hội cho họ sớm trở thành Hongkongers,
nhằm gia tăng số lượng cử tri thân Trung Quốc trong các cuộc bầu cử tương lai. Do
đó, con số sinh viên từ đại lục đến học ở Hồng Kông càng ngày càng nhiều trong
lúc số chỗ dành cho sinh viên Hồng Kông vẫn
không tăng thêm. Những sinh viên đại lục này có thể trở thành công dân Hồng
Kông sau bảy năm và có được hộ chiếu Hồng Kông trong lúc vẫn giữ hộ chiếu Trung
Quốc. Theo blog “Free Hong Kong”, con số thống kê năm 2013 cho biết có đến 70%
các sinh viên cao học ở các đại học Hồng Kông là đến từ đại lục. Cơ quan điều hành
các trường đại học giải thích rằng tăng cường con số sinh viên “ngoại quốc” là
phương cách “quốc tế hóa” trường học. Thực ra, theo các sinh viên Hồng Kông, chẳng
có chuyện “quốc tế hóa” gì ở đây cả, vì các sinh viên này đến từ chỉ một “nước”
đó là “nước đại lục”. Họ cho rằng số sinh viên đại lục này mang “đầu óc Tàu
chay” (the traditionally Chinese mentality), không chịu hội nhập vào xã hội và
văn hóa bản địa. Họ chỉ muốn kiếm cho được cái hộ chiếu Hồng Kông để dễ di dân
sang nước khác. Trong cuộc vận động, các sinh viên Hồng Kông lưu ý rằng chi phí
dành cho các “du sinh” đại lục chỉ do chính quyền Hồng Kông tài trợ một phần, số
còn lại là do dân Hồng Kông phải nai lưng ra đóng thuế. Trong đầu óc những sinh
viên Hồng Kông chống đại lục hóa, rõ ràng là họ không xem các sinh viên đến từ
lục địa là đồng chủng mà là những người ngoại quốc không hơn không kém.
Cho nên, không lạ gì khi sinh viên Hồng
Kông phát động phong trào bảo vệ tiếng Quảng trong các đại học. Để có một chút ý
niệm về phong trào này, hãy theo dõi một câu chuyện do Badcanto viết trên blog của mình trích từ một bản tin đăng
trên tờ “Apple Daily”. Tháng 10 năm 2013, một số sinh viên Trung Quốc ghi danh
theo học một lớp tiếng Quảng tại “Hong Kong City University” đòi hỏi giảng viên
phải dùng tiếng Quan vì họ không hiểu tiếng Quảng. Giảng viên này không những đồng
ý mà còn tăng thêm giờ kèm cặp cho sinh viên. Cách cư xử thiên vị này khiến các
sinh viên Hồng Kông bất bình, đưa đến cãi cọ và tỏ thái độ chống báng sinh viên
đại lục. Họ đòi hỏi sinh viên đại lục phải biết nghe tiếng Quảng khi đến học ở
Hồng Kông. Cuộc tranh cãi lan rộng ra khắp nơi, gây nên náo loạn trong trường
kéo dài cho đến nhiều tiết học sau. Cuối
cùng, nhà trường phải đứng ra hòa giải. Kể từ đó, giảng viên khi dạy, phải dùng
tiếng Quảng nhưng đồng thời cũng phải nói tiếng Quan. Cứ nói vài ba câu tiếng
Quảng lại phải dịch ra tiếng Quan. Nói đùa bằng tiếng Quảng cũng phải dịch lại bằng tiếng Quan. Lớp học trở
thành một lớp song ngữ.
Từ đại học ra xã
hội
Cuộc đối đầu ngôn ngữ Quan-Quảng bên
trong đại học phản ảnh một cuộc đối đầu rộng lớn hơn, thường xuyên hơn diễn ra ngoài
xã hội. Đó là cuộc đối đầu giữa con người xã hội chủ nghĩa và con người xã hội
dân chủ.
Sau năm 1997, ngoài chuyện gửi sinh viên từ đại lục
đi du học, nhà cầm quyền Bắc Kinh còn khuyến khích dân chúng đại lục đầu tư,
làm việc, đi du lịch và định cư ở Hồng
Kông. Theo thống kê của Sở Du Lịch Hồng Kông, chỉ riêng năm 2013, có đến hơn 40
triệu người đại lục sang Hồng Kông du lịch, tăng gần 17% so với năm trước. Gấp
bảy lần dân số Hông Kông (7 triệu 2).
Cảnh người Trung Quốc đại lục “chăm sóc”
con dại khi đi mua sắm ở Hồng Kông
(Ảnh: Badcanto/Spot the Mainlander/(https://badcanto.wordpress.com/spot-the-mainlander/)
Nhưng vấn
đề không nằm ở trong con số mà nằm ngay trong chính cách du lịch. Theo Michael
Chugani trên tờ South China Morning Post,
hầu hết những người đến từ đại lục không phải là những du khách thực sự. Họ chỉ
là những kẻ đi mua sắm. Hơn thế nữa, họ là những “con châu chấu đi mua sắm”
(locust shoppers).[2] (2) Hễ mua được là
mua, mua sạch, mua cho được. Một hình thức vơ vét hàng hóa mà không quan tâm đến
người khác. “Locust” là một từ có tính cách sỉ nhục để chỉ người đại lục, lần đầu
tiên được dùng trên một quảng cáo do một nhóm cư dân Hông Kông thuê bao đăng nguyên
trang (full page) trên một tờ báo khổ nhỏ (tabloid) nổi tiếng Hồng Kông vào đầu
năm 2012. Quảng cáo này yêu cầu chính quyền Hồng Kông cho chận đứng ngay sự
“xâm nhập vô giới hạn” của những người đại lục. Quảng cáo đưa ra những lời cảnh
báo nghiêm trọng:
- “Người
Hồng Kông đã chịu đựng đủ quá rồi!”
- “Thành
phố này đang hấp hối, quý vị có biết không?”
Đó cũng là một lời kêu cứu. Sự xuất hiện của
quảng cáo này là phản ứng mạnh mẽ của cư dân Hồng Kông đối với lời phát biểu
gây tranh cãi của một giáo sư Đại Học
Bắc Kinh, ông Khổng Khánh Đông (Kong Qingdong). Ông giáo sư này, khi phê phán hành động của những viên chức Hồng Kông đuổi
một cô gái đại lục xuống tàu hỏa vì cô đã ăn uống trên tàu trái với quy định,
đã gọi HongKongers là
những “đứa con hoang” (bastards), là “những con chó chạy rong” (running
dogs) của nhà cầm quyền Anh. Một lời lăng
nhục Hồng Kông thậm tệ! So với ngôn ngữ nặng nề này, lời lẽ trên bảng quảng cáo
như thế, vẫn còn quá lịch sự.
Không
chỉ là chuyện mua sắm, người đại lục còn đến Hồng Kông để…đẻ. Mang thai đại lục,
sinh đẻ Hồng Kông. Xuất phát từ đầu óc thực dụng đó, một làn sóng phụ nữ có
thai tràn vào Hồng Kông. Thế là các bệnh
viện Hồng Kông tràn ngập sản phụ lục địa. Riêng trong năm 2011, có đến 43.982 bà mẹ
đại lục đến sinh con tại Hồng Kông, theo tài liệu của Sở Y Tế địa phương (Peter Shadbolt, CNN, March 7, 2014). Dù muốn hay không, Hồng Kông cũng phải
đảm nhận gánh nặng này. Nhìn con số trên 40 ngàn đứa trẻ ra đời mà giật mình. Nó
cho thấy chính quyền Hồng Kông đã phải gồng mình lên gánh chịu thêm một khoảng
chi phí khổng lồ như thế nào.
Tại sao phải đến Hồng Kông đẻ? Rất giản
dị: đứa con ra đời trên đất Hồng Kông sẽ được hưởng tất cả những quyền lợi về y
tế và giáo dục của Hồng Kông. Chẳng thế mà đi du lịch để đẻ trở thành một phong
trào và hơn thế nữa, một kỹ nghệ: kỹ nghệ “du lịch đẻ” (birth-tourism
industry). Kỹ nghệ này không chỉ phát triển ở Hồng Kông mà tràn sang cả Hoa Kỳ.
Tờ tạp chí “Time” (Hoa Kỳ) cho biết, chỉ riêng năm 2013, có đến 10 ngàn trẻ em
Trung Quốc được sinh ra ở Hoa Kỳ xuyên qua loại kỹ nghệ mới mẻ này. Thiệt đúng
là đầu óc đầu tư thực dụng kiểu…Tàu! Nghe mà khiếp.
Chính sách đại-lục-hóa biến Hồng Kông từ
một thành phố văn minh thành một nơi giành giựt. Để sống còn, người Hồng Kông phải
giành giựt với người đại lục. Không chỉ là giành giựt những nhu cầu thiết yếu hàng
ngày mà còn là chỗ ngồi trên hệ thống vận chuyển công cộng, ở trong tiệm ăn,
trong các trung tâm mua sắm và xa hơn nữa là nhà ở, trường học, bệnh viện, vân
vân. Và cả môi trường. Đất hẹp, người đông. Mảnh đất chỉ rộng có 1.104 cây số
vuông (1/5 diện tích tỉnh Thừa Thiên, Việt Nam) sẽ chịu đựng được đến bao lâu một
sự “xâm lăng” lạ lùng như thế của những con người sinh trưởng trong một đất nước
vốn được các lãnh tụ hào là sẽ trở thành một giấc mơ của nhân loại: giấc mơ Trung
Hoa (China Dream)?! Không có gì đáng ngạc nhiên khi người Hồng Kông phải chống đại
lục hóa. Từ chỗ chỉ mang ý nghĩa về chính trị và rồi ngôn ngữ, rốt cuộc, “chống-đại
lục hóa” tự mở rộng ra đến ý nghĩa xã hội và đời sống. Chống-đại
lục hóa, vì thế, bao hàm thái độ “chống-châu chấu” (anti-locust), “chống-đại lục
nhân” (anti-Mainlander) và xa hơn, “chống-Trung Quốc”. Quả thật oái oăm!
Mặc dầu số người chống đối đại lục hóa một
các công khai không nhiều, nhưng họ đã phản ảnh tình cảm và nỗi lo lắng của nhiều
người Hồng Kông thầm lặng, những người không muốn nói ra vì sợ mang tiếng.
Và mặc dù thái độ chống đối đó rõ ràng
là không đúng, nhưng nó gửi ra một thông điệp được chia sẻ bởi hầu hết những
người dân Hông Kông.
Như một định mệnh
Hồng Kông là đất Trung Quốc. Người
Hông Kông là người Trung Quốc. Nếu chính quyền Bắc Kinh “lục địa hóa” nó thì
cũng là lẽ đương nhiên. Của “Caesar thì phải trả về lại cho Caesar” mà. Thế
nhưng, gần một thế kỷ nhượng địa đã biến
Hồng Kông thành một nước khác, một dân tộc khác. Nó có cơ cấu xã hội khác, văn
hóa khác, nếp sống khác và ngôn ngữ cũng khác. 99 năm[3] hình thành một
định mệnh: định mệnh Hồng Kông. Chính cái định mệnh này là yếu tố tiềm ẩn, là nền
tảng sâu xa của các cuộc xuống đường liên tiếp trong những năm vừa qua và được
tiếp nối bởi cuộc “Cách Mạng Dù” đang diễn ra trên những đường phố Hồng Kông hiện
nay. Nếu thế hệ những người lớn tuổi chịu chấp nhận “cái gì đến phải đến”, chấp
nhận một cuộc đổi đời, chấp nhận đánh mất một Hồng Kông như-chính-nó thì ngược
lại, những người trẻ tuổi hoàn toàn khác. Họ gắn liền với định mệnh Hồng Kông.
Họ bị buộc phải tranh đấu để giữ gìn cái định mệnh đó. Bằng mọi giá. Không những
là định mệnh mà là sinh mệnh.
Trong khi tràn ngập các đường phố Hồng
Kông đòi Bắc Kinh giữ lời hứa “Một quốc gia, hai hệ thống,” cho phép bầu cử tự
do thì những người tổ chức và ủng hộ Phong Trào Dù cố tách ra khỏi các cuộc vận
động chống Trung Quốc, chống đại lục. Chứng tỏ rằng không dính líu gì đến phong
trào “anti-Mainlandization”, cũng như chứng tỏ Phong Trào Dù không phải là một
cuộc cách mạng màu, là một sự khôn ngoan chính trị. Điều đó dễ hiểu. Nhưng phải
chăng như thế là họ chấp nhận Mainlandization? Chắc chắn là không. Dù cố tách
ra khỏi, dù không muốn dính líu đến vì lý do này hay lý do khác, nhưng xu hướng
“anti-Mainlandization” vẫn ở đó. Vẫn là động lực. Vẫn là sức đẩy. Bóng dáng của
nó vẫn âm thầm bước theo sau những chiếc dù. Bóng dáng của nó cũng là nỗi ám ảnh
trong đầu óc những lãnh tụ Bắc Kinh.
Bầu cử tự do là gì, “một quốc gia hai chế
độ” là gì nếu không là một Hồng Kông là của Hongkongers!
Có người phê phán rằng tâm thế đó khiến cho một số người trong Phong Trào Dù vẫn
còn giữ cái nhìn tiêu cực đối với đồng bào của họ ở đại lục. (“Một số người” có
lẽ chỉ là một cách nói. “Cái nhìn tiêu cực” cũng chỉ là một cách nói. “Phê phán”
cũng là một cách nói. Theo tôi.)
Biết làm sao được! Hồng Kông đã là một định
mệnh.
Định mệnh đó đang thử thách những Hongkonger trẻ trên các đường phố Hồng
Kông:
遮打革命!
jè dá gaak mihng!
Già Đả Cách Mệnh!
Hồng Kông ơi, cả loài người tiến
bộ đang theo dõi từng bước chân của các bạn!
Trần Doãn Nho
10/2014
(Kỷ
niệm một tháng Phong Trào Dù)
1.
Afrikaans là ngôn ngữ riêng của di
dân da trắng ở Nam Phi (South Africa).
2.
Mainlanders are sometimes derogatorily called “locusts”, a reference to the
idea that they come to Hong Kong, consume its resources, and leave a mess
behind when they leave. Many of the things Hong Kongers complain about --
spitting in public, eating on the subway, etc. -- are considered socially
acceptable on the mainland.
Tài liệu tham khảo:
- Gwynn Guilford, How Hong Kong’s Umbrella Movement protesters
are using their native language to push back against Beijing, Quatz, October 22,2014.
- Felicia
Sonmez, China Is Forcing Its Biggest
Cantonese-Speaking Region To Speak Mandarin, Agence France Presse, Aug. 25,
2014.
- Blog “Free Hong Kong: Independence is the ONLY
Way to Save Hong Kong”, ANGRY! 70% of Students in HK’s Universities are
Mainland Chinese!!!,, May 2,
2013
- Badcanto,
Blog “Politically Incorrect Views from Hong Kong”,Chinese students wage war on Cantonese in Hong Kong City University,October 14, 2013
- Ishaan Tharoor, Hong Kong’s students want you to stop calling
their protest a ‘revolution,
The Washington Post, October 4, 2014.
- Lucas
Klein, Letters from Hong Kong: Occupy
translation, Web: Asian Review of Books
http://www.asianreviewofbooks.com/new/?ID=2043&utm_source=dlvr.it&utm_medium=facebook
- Massoud
Hayoun, Hong Kong’s protesters distance themselves from
anti-mainland movement, Aljazeera America, September 29, 2014.
- Peter Shadbolt, Hong Kong protests take aim at 'locust'
shoppers from mainland China,
CNN, March 7, 2014.
- Mimi Lau, Guangzhou locals seek 'Cantonese Day' to
help preserve mother tongue, South China Morning Post, July 25, 2014.
- Hong Kong advert calls Chinese mainlanders 'locusts', BBC News China, February 1, 2012.
http://www.bbc.com/news/world-asia-china-16828134http://www.diendantheky.net/2014/11/bao-chi-quoc-te-van-thuong-goi-cac.html
Bàn ra tán vào (0)
Trần Doãn Nho - Một khía cạnh khác trong “Phong Trào Dù” ở Hồng Kông: ngôn ngữ.
Báo chí quốc tế vẫn thường gọi các cuộc biểu tình của sinh viên Hồng Kông là “Phong Trào Dù” (Umbrella Movement).
Báo chí quốc tế vẫn thường gọi các cuộc
biểu tình của sinh viên Hồng Kông là “Phong Trào Dù” (Umbrella Movement). Thực
ra, tên đầu tiên họ dùng là “Cách Mạng Dù” (Umbrella Revolution) do sinh
viên Adam Cotton đặt ra trên Twitter vào
ngày 26/9. Tên này sau đó được đổi ra thành “Umbrella Movement” vì một số thành
viên trong phong trào cảm thấy rằng “cách mạng” là một từ nhạy cảm, có thể khiến
nhà cầm quyền Bắc Kinh lo sợ và hiểu lầm rằng sinh viên muốn làm một cuộc “cách
mạng màu” để lật đổ chính quyền độc tài như tại một số nước khác. Lester Shum,
lãnh tụ của “Liên Đoàn Sinh Viên Hồng Kông” (Hong Kong Federation of Students)
phát biểu: “Đây không phải là một cuộc
cách mạng màu. Đây là cuộc đấu tranh của công dân cho một nền dân chủ.” Tuy thế,
hiện nay hai nhóm từ này vẫn được sử dụng xen kẽ lẫn nhau.
Các cuộc
biểu tình lần này là sự nối tiếp cuộc đấu tranh liên tục nhiều năm qua của nhân
dân Hồng Kông, nhưng diễn ra một cách quy mô nhất, dài ngày nhất và quyết liệt
nhất sau khi nhà cầm quyền Bắc Kinh, vào cuối tháng 8/2014, quyết định chỉ định
ứng cử viên thay vì bầu cử một cách dân chủ Đặc Khu Trưởng Đặc Khu Hồng Kông
(Chief Executive of the Hong Kong Special Administrative Region). Trong tình
hình này, “Phong Trào Dù” hay “Cách Mạng Dù” trở thành cuộc đối đầu sinh tử giữa
một Hồng Kông trẻ khát khao dân chủ và một Bắc Kinh già gắn chặt với độc tài.
Thắng hay bại trong cuộc đối dầu này sẽ có ảnh hưởng lâu dài không những đối với
nhân dân Hồng Kông và Trung Quốc mà còn đối với cao trào dân chủ trên toàn thế
giới.
Động lực thúc đẩy Phong Trào Dù, ngoài nhu
cầu được tự do chọn lựa người lãnh đạo qua một cuộc bầu cử dân chủ, còn tiềm ẩn
những nguyên nhân tâm lý và xã hội sâu xa khác. Một trong những nguyên nhân đó
là vấn đề ngôn ngữ.
Vũ Tán Cách Mệnh
và Già Đả Cách Mệnh
Trong mấy tấm bích chương trên, danh
xưng “Cách Mạng Dù” được viết bằng hai cách khác nhau. Tấm bên phải là
“Già Đả
Cách Mệnh” (遮打革命); tấm bên trái là “Vũ Tán Cách Mệnh” ( 雨傘革命). “Vũ tán”
(雨傘) là dù che mưa được viết theo tiếng Quan thoại (Mandarin), là thứ
ngôn ngữ các sinh viên học sinh học ở nhà trường và sử dụng trên báo
chí. Trong
lúc đó, hai chữ “già đả” (遮打)
cũng là cây dù nhưng được
viết theo tiếng Quảng (Cantonese), thứ tiếng được sử dụng hầu như khắp
nơi ở Hồng
Kông.
Trước hết là cách phát âm. Chữ “vũ tán”
được những người nói tiếng Quan thoại phát âm là yusan, nhưng những người nói tiếng Quảng phát âm dài hơn là jyusaan. Về mặt ngữ nghĩa, những người
chỉ biết tiếng Quan thoại không hiểu nghĩa của hai chữ “già đả”. Tách riêng ra
từng chữ, cả hai đều là động từ: “già” nghĩa là che phủ (cover), “đả” nghĩa là đánh hay đấu (hit). Do đó, Phong Trào Dù, nếu dịch từng chữ một theo nghĩa
đen thành ra Phong Trào Che-Đánh (Cover-Hit Movement), là một nhóm từ hoàn toàn
vô nghĩa. Tuy nhiên, đối với cư dân Hồng Kông, hai chữ này khi phát âm theo tiếng
phổ thông là zhe da lại có thêm một
nghĩa hoàn toàn khác. Đó là phiên âm tên Chater, một trong những con đường ở
trung tâm Hồng Kông, nơi những người biểu
tình hiện đang chiếm giữ: Cha-ter= Già Đả. 遮 打 運 動 đọc
là “Già Đả Phong Trào”, tức là Chater (Road) Movement.
Mặt khác, người nói tiếng Quảng tránh
dùng chữ “vũ tán”, vì chữ“tán” (傘) đồng âm với một chữ “tán” khác (散) có nghĩa là giải
tán hay phân tán. Họ ngại chữ “tán” này sẽ gây ra cảm giác tiêu cực cho phong
trào. Riêng chữ “đả”, theo bà Hà Lệ Mai, giáo sư văn chương tại “Hong Kong
Baptist University”, trong đầu người nói tiếng Quảng, còn có nghĩa là “tấn
công” hay “đánh ngã”. Hiểu theo tình hình của phong trào trong thời điểm hiện
nay, “đả” có nghĩa là lật đổ Lương Chấn Anh (Leung Chun-Ying, gọi tắt là CY
Leung) đương kim đặc khu trưởng Hồng Kông. Như thế, “Phong Trào Dù” bao hàm một ý nghĩa ngầm là “Phong Trào Tranh Đấu
Dù” (Umbrella Fight Movement) hay nói một
cách đầy ẩn ý khác là “Phong Trào Dù Tranh Đấu Chống CY Leung” (Umbrella
Fight-Against-CY Leung Movement).
(Bảng
giải thích cách dùng chữ mà Phong Trào Dù sử dụng trong cuộc tranh đấu)
Tiếng
Quan và tiếng Quảng
Sự phân biệt hai thứ tiếng thoạt nghe
qua chẳng có mấy ý nghĩa, nhưng rất quan trọng đối với cuộc tranh đấu hiện nay
của Phong Trào Dù. Cách dùng cố ý, thường xuyên chữ
“già” và những nhóm từ tiếng Quảng khác
trong các khẩu hiệu của Phong Trào Dù biểu trưng không chỉ cho sự chống đối các
chính sách của Đảng Cộng Sản nhưng còn để bảo vệ căn cước văn hóa riêng biệt,
cũng như lịch sử của những người Hồng Kông đang tranh đấu để bảo vệ sự tồn tại
của nó. Mặt khác, về phương diện ngôn ngữ, điều này nêu lên quyết tâm của cư
dân Hồng Kông chống
lại chính sách triệt tiêu tiếng Quảng của nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Trung Quốc có rất nhiều phương ngữ,
trong số đó, bảy phương ngữ chính là Mandarin
(Quan thoại), Xiang (Sương ngữ), Gan (Cống ngữ), Wu (Ngô ngữ), Yue (Việt
ngữ), Min (Mân ngữ), and Hakka/Kejia (Khách gia ngữ). Cả bảy
phương ngữ này đều xuất phát từ tiếng Hán cổ, cùng dùng chung một hệ thống chữ
viết, nhưng phát âm khác nhau. Theo Wikipedia, hiện nay, tiếng Quan thoại có số
người sử dụng nhiều nhất, gần 850 triệu; kế đó là Ngô ngữ, trên 77 triệu; Mân
ngữ, gần 72 triệu; Quảng Châu thoại, 60 triệu; Sương ngữ, 36 triệu… Hai ngôn ngữ
quan trọng nhất liên quan đến bài viết này là Quan thoại và Việt ngữ.
- Quan thoại (官話), có nghĩa là“tiếng
của giới quan lại”, thứ tiếng trước đây được giới quan lại ở Bắc Kinh sử dụng. Còn
được gọi là “Phổ thông thoại”/Putonghua(普通話). Nói cho gọn là tiếng Quan.
- Việt
ngữ (粵語). Chữ Việt đây chỉ hai tỉnh
Quảng Đông và Quảng Tây. Hai tỉnh này nguyên
trước là đất của Bách Việt (百粵), nên được gọi là tỉnh Việt; nó khác với chữ Việt (越) chỉ nước Việt Nam (越南). Tên thường dùng là Quảng
Châu thoại (廣州話), tức là Cantonese
(Canton là từ tiếng Anh chỉ Quảng Châu), vì Quảng Châu, thủ phủ của tỉnh Quảng
Đông, là nơi xuất phát thứ ngôn ngữ này. Nói cho gọn là tiếng Quảng.
(Bản đồ chỉ các vùng ngôn ngữ ở Trung Quốc: Mandarin (Quan thoại), Xiang (Sương ngữ), Gan (Cống ngữ), Wu (Ngô
ngữ), Yue (Việt ngữ), Min (Mân ngữ) và Hakka/Kejia (Khách gia ngữ),
Hui (Huy ngữ), Jin (Tấn ngữ), Ping (Bình ngữ).
Sau khi chiếm được toàn thể lục địa từ
năm 1949, chính quyền Cộng Sản chủ trương Trung Quốc chỉ nên có một ngôn ngữ
duy nhất thì mới bảo đảm được sự thống nhất quốc gia. Họ chọn tiếng Quan. Theo
họ, tiếng Quan đã được các nhà cầm quyền
Trung Hoa khác nhau khuyến khích sử dụng từ cả trăm năm nay và là ngôn ngữ
chính thức trong lúc tất cả các phương ngữ khác không phải là một ngôn ngữ thực
sự. Sử dụng tiếng Quan đối với Bắc Kinh là một phương tiện hữu hiệu để tạo ra
căn cước chung cho mọi cư dân trên toàn Trung Quốc, duy trì sự thống nhất đồng
thời làm suy yếu tinh thần địa phương, nhất là ở những vùng đất xa xôi như Tây Tạng
hay Tân Cương, nơi xu thế chống chính quyền trung ương thường rất mạnh. Thực
ra, theo Victor Mair - một nhà Trung Hoa học (sinologist) tại đại học
Pennsylvania -, ngoài mục đích chính là thống nhất ngôn ngữ, sự chọn lựa tiếng
Quan còn bao hàm ý muốn bảo đảm sự thống trị của ngôn ngữ miền Bắc đối với các
ngôn ngữ miền Nam như tiếng Quảng, tiếng Thượng Hải, tiếng Phúc Kiến, vân vân…Đến
năm 1992, chính quyền Bắc Kinh chính
thức ban hành lệnh cấm sử dụng tất cả các phương ngữ khác trên hệ thống truyền
thanh và truyền hình toàn quốc.
Tiếng Quảng
là
tiếng mẹ đẻ của đa số dân tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Riêng ở Quảng Châu, thủ
phủ của tỉnh Quảng Đông, thành phố lớn thứ ba và là trung tâm thương mại hàng đầu
của Trung Quốc, có đến một nửa số dân nói tiếng Quảng. So với tiếng Quan, tiếng
Quảng có lịch sử cả một
ngàn năm, lâu hơn tiếng Quan. Theo Lão Chấn Ngọc (Lao Zhenyu), nhà hoạt động bảo
vệ tiếng Quảng và biên tập viên một tờ báo
địa phương, tiếng
Quảng dồi dào từ vựng và có cách phát âm phong phú hơn tiếng Quan. Ông cho rằng
những bài thơ cổ, nếu đọc bằng tiếng Quảng
sẽ
nghe có nhiều vần điệu hơn và sống động hơn. Do đó, “Đối với người địa phương, tiếng Quảng không
chỉ là một phương ngữ, mà là một phần của căn cước của chúng tôi,” Lão Chấn Ngọc
kết luận.
Từ khi tiếng Quan trở thành ngôn ngữ
chính thức của quốc gia, tiếng Quảng, cũng như các phương ngữ khác, đều
bị đẩy
qua bên lề. Để bảo đảm ưu thế của tiếng Quan, các trường học ở Quảng
Châu ra thông báo nêu rõ rằng nói tiếng Quảng là không văn minh và không
ai hiểu. Các giáo viên
khuyến khích học sinh đừng bao giờ nói thứ tiếng này trong lớp học; học
sinh
nào không tuân theo sẽ bị phạt hay trừ điểm học. Có trường còn cấm hẳn
nói tiếng
Quảng cả khi ở ngoài lớp hay trong giờ nghỉ. Hậu quả là, sau một thời
gian,
trong nhiều gia đình, cha mẹ thì nói tiếng Quảng nhưng con cái chỉ nói
biết nói
tiếng Quan. (Chẳng khác gì tình trạng của nhiều gia đình di dân Việt Nam
ở Mỹ:
cha mẹ nói tiếng Việt, con cái chỉ biết tiếng Anh. Chỉ có một điều khác,
người
Việt đang sống lưu vong ở một nước khác, còn người Quảng Châu sống lưu
vong
ngay tại nơi chôn nhau cắt rốn của mình). Đã thế, làn sóng di dân từ
khắp nơi
trong xứ sở đổ về đây khiến cho số người không nói tiếng Quảng trong
cộng đồng
dân cư càng ngày càng tăng thêm. Những cư dân mới này không những không
học tiếng
nói địa phương mà còn chê bai, châm biếm thứ ngôn ngữ mà họ cho là quê
mùa này.
Điều này khiến cho những người nói tiếng Quảng càng thêm tức giận.
(Những
người ủng hộ tiếng Quảng biểu tình ở Quảng Châu tháng 7, năm 2010)
Sự tức giận này có dịp bùng nổ vào năm
2010. Nhân Á Vận Hội (Asian Game) được tổ chức ở Quảng Châu vào cuối năm đó, lấy
lý do là khách từ khắp các nơi trên thế giới đến chỉ biết tiếng Quan là ngôn ngữ
chính thức của Trung Quốc, hệ thống truyền hình thành phố đưa ra đề nghị ngưng
các chương trình phát bằng tiếng Quảng đồng thời gỡ bỏ tất các bảng hiệu nào
còn dùng tiếng Quảng ra khỏi các nơi công cộng. Như
giọt nước làm tràn ly, những người nói tiếng Quảng
ở
Quảng Châu tổ chức một cuộc biểu tình phản đối đề nghị này vào ngày 25/7/2010,
quy tụ đến cả 10 ngàn người. Một cuộc biểu tình tương tự cũng diễn ra ở Hồng
Kông nhằm ủng hộ dân nói tiếng Quảng ở Quảng Châu. Trước áp lực của quần chúng,
đề nghị đó được rút lui.
Tuy thế, vì nhu cầu học vấn và công ăn
việc làm, cha mẹ vẫn phải cho con cái họ học tiếng Quan. Đó là lý do khiến con
số những người nói tiếng Quảng càng ngày càng giảm đi. Tình trạng này cũng diễn
ra tại tỉnh Quảng Tây kế cận, nơi tiếng Quảng cũng là ngôn ngữ chính của dân địa
phương. Có tin cho hay rằng bắt đầu từ tháng 9 năm nay (2014), hầu hết các
chương trình truyền hình ở Quảng Đông đã lặng lẽ chuyển sang tiếng Quan. Rốt cuộc
tiếng Quảng chỉ còn được sử dụng nơi những người lớn tuổi.
Dẫu vậy, theo tường trình của Bộ Giáo Dục
Trung Quốc năm 2013, vẫn còn đến 400 triệu người – tức 30% dân số - không nói
được tiếng Quan.
Đại lục hóa và
chống đại lục hóa
Chính sách thống nhất ngôn ngữ, do lối
cai trị độc tài và toàn trị, tất nhiên là đạt được nhiều thành công ở lục địa. Tuy
nhiên, trong lúc một số phương ngữ khác như tiếng Thượng Hải hay Phúc Kiến chẳng
hạn, càng ngày càng ít người sử dụng và có thể biến mất trong một tương lại gần,
thì tiếng Quảng may mắn hơn. Nó được hỗ trợ bởi một nơi không phải là quê hương
của nó: Hồng Kông. Nếu không có Hồng Kông thì “tiếng Quảng đã không còn hiện hữu
như một sức mạnh ngôn ngữ có ý nghĩa,” theo Victor Mair.
Cũng giống như phong trào phát huy tiếng
Bengali ở Bangladesh hay cuộc nổi dậy
ở Soweto chống lại sự áp đặt tiếng Afrikaans[1] (1) trong trường học Nam Phi thời còn
chế độ phân biệt chủng tộc (Apartheid), phong trào duy trì tiếng Quảng đóng vai trò rất quan trọng
trong cuộc phản kháng của dân Hồng Kông chống lại chính quyền trung ương Bắc
Kinh. Mặc dù cũng dùng chữ Hán, nhưng từ vựng và văn phạm tiếng Quảng có một hệ
thống chữ viết khác với tiếng Quan khiến cho hai người chỉ quen với tiếng Quan
hay tiếng Quảng không thể hiểu nhau khi nói chuyện. Robert Bauer, nhà chuyên
môn hàng đầu về tiếng Quảng tại đại học Hồng Kông, nhận xét: “Nếu bạn đưa cho một
người chỉ biết tiếng Quan một văn bản
thông tục viết bằng tiếng Quảng, anh/chị ta sẽ hoàn toàn không hiểu.
Chúng khác nhau như giữa tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Ý.”
Lợi dụng đặc điểm đó, dưới thời thuộc địa,
chính quyền Anh xem tiếng Quảng như là một dụng cụ hữu ích để tạo nên một Hồng
Kông riêng biệt, tách hẳn khỏi ảnh hưởng của chính quyền đại lục. Do đó, tiếng
Quảng vẫn được duy trì và phát triển ở Hồng Kông mà không bị tiếng Quan lấn lướt.
Cũng theo Bauer, tuy học tiếng Quan trong nhà trường, tiếng Quảng vẫn gắn bó với
người Hồng Kông như là căn cước văn hóa và xã hội riêng của họ. Từ năm 1997,
khi lấy lại Hồng Kông từ Anh, chính quyền Bắc Kinh bắt buộc phải loại bỏ hẳn tiếng
Quảng trong lớp học. Không những thế, một số trường còn cấm học sinh nói chuyện
với nhau bằng tiếng Quảng trong trường như ở Quảng Châu. Lý do được đưa ra là:
tiếng Quảng chỉ là một phương ngữ chứ không phải là quốc ngữ.
Điều này khiến dân Hồng Kông tức giận,
gây ra một cuộc tranh cãi kịch liệt trong xã hội Hồng Kông. George Chen, tác giả
cuốn “This is Hong Kong I Know” cho biết: “Nhiều người dân trẻ tuổi Hồng Kông
xem tiếng Quảng như là một ngôn ngữ, một dấu hiệu cho thấy các thể hệ trẻ coi
trọng căn cước Hồng Kông riêng của họ như thế nào.” Chẳng thế mà cư dân Hồng
Kông tự gọi mình là Hongkongers và
xem người đại lục là người Trung Quốc (Chinese) hay người Trung Quốc Đại Lục
(Mainland Chinese). Blogger “Free
Hong Kong” khẳng định rằng “giống màu da và màu tóc với người Trung Quốc không
có nghĩa người Hồng Kông cũng là người Trung Quốc.” Một blogger khác tên là Alain
còn dứt khoát hơn: “Hồng Kông là của người Hồng Kông. Chúng tôi nói tiếng
Quảng và tiếng Anh.”
Ngôn ngữ chỉ là một yếu tố nằm trong một
chủ trương lâu dài được mệnh danh là chính sách “Đại lục hóa” (mainlandization)
Hồng Kông của chính quyền Bắc Kinh. Hai chữ “đại lục” (大陸) chỉ lục địa
Trung Quốc (Mainland). Người ở đại lục gọi là “đại lục nhân” (大陸人), tiếng Anh là
mainlander. Đại lục hóa là chính sách hội nhập toàn diện Hồng Kông vào Trung Quốc
hay nói một cách khác, là ép buộc người Kông Kông phải thừa nhận những giá trị
và tiêu phạm phổ biến ở đại lục. Đối với người Hồng Kông, nó cũng có nghĩa là
xóa dần tự do, tinh thần đa nguyên, sự tôn trọng nhân quyền và pháp luật vốn là
những giá trị cốt lõi của Đặc Khu Hồng
Kông. Nói thẳng thừng ra là cộng sản hóa Hồng Kông. Chính quyền Bắc Kinh lập đi
lập lại rằng người Hồng Kông phải nhìn nhận họ như là người Trung Quốc trước,
chứ không phải là những Hongkonger.
Điều đó làm phát sinh xu hướng “chống đại
lục hóa” (anti-mainlandization) trong xã hội Hồng Kông. Sara Zhong Hua (Chung
Hoa), giáo sư tại “Chinese University of Hong Kong” cho biết “Xu hướng chống-Trung
Quốc hay chống-Đại Lục phản ảnh phong trào chính trị. Những người Hông Kông muốn
dân chủ. Chính phủ trung ương không muốn cho họ dân chủ.” Buộc toàn dân dùng tiếng
Quan là cách duy nhất để nhà cầm quyền Cộng Sản kiểm soát tư tưởng và hành động
của nhân dân. Như đã đề cập ở phần trên, ở đại lục, sự kiểm soát nghiêm ngặt
truyền thông và giáo dục khiến tiếng Quảng suy yếu dần ngay chính ở quê hương của
nó. Nhưng ở Hồng Kông thì khác. “Đây là lý do tại sao cuộc đấu tranh cho một
Hông Kông tự trị là rất quan trọng. Đó không chỉ là vấn đề chính trị, mà là vấn
đề văn hóa. Không có gì để bảo đảm cho một sự tự do tương đối nào đó, tiếng Quảng
và văn hóa Quảng sẽ nhanh chóng tàn lụi,” theo Victor Mair.
Bích chương Chống-Đại lục hóa đại học Hồng
Kông(反對本港大學大陸 化!
= Phản đối Bản Cảng (Hương Cảng) đại học đại lục hóa!)
Bởi vậy, một trong những hoạt động “chống
đại lục hóa” là đấu tranh bảo vệ tiếng Quảng. Hiện nay, tiếng Quảng vẫn còn được
sử dụng thoải mái và phát triển ở Hồng Kông phần lớn là nhờ các trang mạng xã hội.
Trước đây, người Hồng Kông ít có cơ hội viết tiếng Quảng. Bây giờ họ dùng tràn
lan trên Facebook, Twitter và các trang mạng khác. Nhờ thế mà càng lúc càng có
nhiều người Hồng Kông biết viết tiếng Quảng. Hiện tượng bùng nổ tiếng Quảng
trên mạng lưới góp phần tăng cường thêm
ý thức bảo vệ căn cước riêng của Hồng Kông. Và ý thức này trở nên mạnh mẽ, công
khai hơn trong các cuộc biểu tình của Phong Trào Dù, biểu hiện qua việc
sử
dụng hai chữ 遮打nói trên. Bà Hà
Lệ Minh, giáo sư Đại học Baptist Hồng Kông, cho biết thêm: một khẩu hiệu ủng hộ
dân chủ khác trên mạng xã hội là “Thiểu
dân chủ thiểu công bằng” (冇民主冇公義) = thiếu dân chủ
là thiếu công bằng. 冇 phát âm mou, là một chữ không có trong hệ thống chữ viết của tiếng Quan. Đối
với người Hồng Kông, nghĩa của chữ 冇 rất rõ ràng, là
“thiếu” (to lack).
Thực hiện chính sách đại lục hóa đại học,
chính quyền Trung Quốc tìm cách gửi người đến Hồng Kông học hành và định cư, tạo
cơ hội cho họ sớm trở thành Hongkongers,
nhằm gia tăng số lượng cử tri thân Trung Quốc trong các cuộc bầu cử tương lai. Do
đó, con số sinh viên từ đại lục đến học ở Hồng Kông càng ngày càng nhiều trong
lúc số chỗ dành cho sinh viên Hồng Kông vẫn
không tăng thêm. Những sinh viên đại lục này có thể trở thành công dân Hồng
Kông sau bảy năm và có được hộ chiếu Hồng Kông trong lúc vẫn giữ hộ chiếu Trung
Quốc. Theo blog “Free Hong Kong”, con số thống kê năm 2013 cho biết có đến 70%
các sinh viên cao học ở các đại học Hồng Kông là đến từ đại lục. Cơ quan điều hành
các trường đại học giải thích rằng tăng cường con số sinh viên “ngoại quốc” là
phương cách “quốc tế hóa” trường học. Thực ra, theo các sinh viên Hồng Kông, chẳng
có chuyện “quốc tế hóa” gì ở đây cả, vì các sinh viên này đến từ chỉ một “nước”
đó là “nước đại lục”. Họ cho rằng số sinh viên đại lục này mang “đầu óc Tàu
chay” (the traditionally Chinese mentality), không chịu hội nhập vào xã hội và
văn hóa bản địa. Họ chỉ muốn kiếm cho được cái hộ chiếu Hồng Kông để dễ di dân
sang nước khác. Trong cuộc vận động, các sinh viên Hồng Kông lưu ý rằng chi phí
dành cho các “du sinh” đại lục chỉ do chính quyền Hồng Kông tài trợ một phần, số
còn lại là do dân Hồng Kông phải nai lưng ra đóng thuế. Trong đầu óc những sinh
viên Hồng Kông chống đại lục hóa, rõ ràng là họ không xem các sinh viên đến từ
lục địa là đồng chủng mà là những người ngoại quốc không hơn không kém.
Cho nên, không lạ gì khi sinh viên Hồng
Kông phát động phong trào bảo vệ tiếng Quảng trong các đại học. Để có một chút ý
niệm về phong trào này, hãy theo dõi một câu chuyện do Badcanto viết trên blog của mình trích từ một bản tin đăng
trên tờ “Apple Daily”. Tháng 10 năm 2013, một số sinh viên Trung Quốc ghi danh
theo học một lớp tiếng Quảng tại “Hong Kong City University” đòi hỏi giảng viên
phải dùng tiếng Quan vì họ không hiểu tiếng Quảng. Giảng viên này không những đồng
ý mà còn tăng thêm giờ kèm cặp cho sinh viên. Cách cư xử thiên vị này khiến các
sinh viên Hồng Kông bất bình, đưa đến cãi cọ và tỏ thái độ chống báng sinh viên
đại lục. Họ đòi hỏi sinh viên đại lục phải biết nghe tiếng Quảng khi đến học ở
Hồng Kông. Cuộc tranh cãi lan rộng ra khắp nơi, gây nên náo loạn trong trường
kéo dài cho đến nhiều tiết học sau. Cuối
cùng, nhà trường phải đứng ra hòa giải. Kể từ đó, giảng viên khi dạy, phải dùng
tiếng Quảng nhưng đồng thời cũng phải nói tiếng Quan. Cứ nói vài ba câu tiếng
Quảng lại phải dịch ra tiếng Quan. Nói đùa bằng tiếng Quảng cũng phải dịch lại bằng tiếng Quan. Lớp học trở
thành một lớp song ngữ.
Từ đại học ra xã
hội
Cuộc đối đầu ngôn ngữ Quan-Quảng bên
trong đại học phản ảnh một cuộc đối đầu rộng lớn hơn, thường xuyên hơn diễn ra ngoài
xã hội. Đó là cuộc đối đầu giữa con người xã hội chủ nghĩa và con người xã hội
dân chủ.
Sau năm 1997, ngoài chuyện gửi sinh viên từ đại lục
đi du học, nhà cầm quyền Bắc Kinh còn khuyến khích dân chúng đại lục đầu tư,
làm việc, đi du lịch và định cư ở Hồng
Kông. Theo thống kê của Sở Du Lịch Hồng Kông, chỉ riêng năm 2013, có đến hơn 40
triệu người đại lục sang Hồng Kông du lịch, tăng gần 17% so với năm trước. Gấp
bảy lần dân số Hông Kông (7 triệu 2).
Cảnh người Trung Quốc đại lục “chăm sóc”
con dại khi đi mua sắm ở Hồng Kông
(Ảnh: Badcanto/Spot the Mainlander/(https://badcanto.wordpress.com/spot-the-mainlander/)
Nhưng vấn
đề không nằm ở trong con số mà nằm ngay trong chính cách du lịch. Theo Michael
Chugani trên tờ South China Morning Post,
hầu hết những người đến từ đại lục không phải là những du khách thực sự. Họ chỉ
là những kẻ đi mua sắm. Hơn thế nữa, họ là những “con châu chấu đi mua sắm”
(locust shoppers).[2] (2) Hễ mua được là
mua, mua sạch, mua cho được. Một hình thức vơ vét hàng hóa mà không quan tâm đến
người khác. “Locust” là một từ có tính cách sỉ nhục để chỉ người đại lục, lần đầu
tiên được dùng trên một quảng cáo do một nhóm cư dân Hông Kông thuê bao đăng nguyên
trang (full page) trên một tờ báo khổ nhỏ (tabloid) nổi tiếng Hồng Kông vào đầu
năm 2012. Quảng cáo này yêu cầu chính quyền Hồng Kông cho chận đứng ngay sự
“xâm nhập vô giới hạn” của những người đại lục. Quảng cáo đưa ra những lời cảnh
báo nghiêm trọng:
- “Người
Hồng Kông đã chịu đựng đủ quá rồi!”
- “Thành
phố này đang hấp hối, quý vị có biết không?”
Đó cũng là một lời kêu cứu. Sự xuất hiện của
quảng cáo này là phản ứng mạnh mẽ của cư dân Hồng Kông đối với lời phát biểu
gây tranh cãi của một giáo sư Đại Học
Bắc Kinh, ông Khổng Khánh Đông (Kong Qingdong). Ông giáo sư này, khi phê phán hành động của những viên chức Hồng Kông đuổi
một cô gái đại lục xuống tàu hỏa vì cô đã ăn uống trên tàu trái với quy định,
đã gọi HongKongers là
những “đứa con hoang” (bastards), là “những con chó chạy rong” (running
dogs) của nhà cầm quyền Anh. Một lời lăng
nhục Hồng Kông thậm tệ! So với ngôn ngữ nặng nề này, lời lẽ trên bảng quảng cáo
như thế, vẫn còn quá lịch sự.
Không
chỉ là chuyện mua sắm, người đại lục còn đến Hồng Kông để…đẻ. Mang thai đại lục,
sinh đẻ Hồng Kông. Xuất phát từ đầu óc thực dụng đó, một làn sóng phụ nữ có
thai tràn vào Hồng Kông. Thế là các bệnh
viện Hồng Kông tràn ngập sản phụ lục địa. Riêng trong năm 2011, có đến 43.982 bà mẹ
đại lục đến sinh con tại Hồng Kông, theo tài liệu của Sở Y Tế địa phương (Peter Shadbolt, CNN, March 7, 2014). Dù muốn hay không, Hồng Kông cũng phải
đảm nhận gánh nặng này. Nhìn con số trên 40 ngàn đứa trẻ ra đời mà giật mình. Nó
cho thấy chính quyền Hồng Kông đã phải gồng mình lên gánh chịu thêm một khoảng
chi phí khổng lồ như thế nào.
Tại sao phải đến Hồng Kông đẻ? Rất giản
dị: đứa con ra đời trên đất Hồng Kông sẽ được hưởng tất cả những quyền lợi về y
tế và giáo dục của Hồng Kông. Chẳng thế mà đi du lịch để đẻ trở thành một phong
trào và hơn thế nữa, một kỹ nghệ: kỹ nghệ “du lịch đẻ” (birth-tourism
industry). Kỹ nghệ này không chỉ phát triển ở Hồng Kông mà tràn sang cả Hoa Kỳ.
Tờ tạp chí “Time” (Hoa Kỳ) cho biết, chỉ riêng năm 2013, có đến 10 ngàn trẻ em
Trung Quốc được sinh ra ở Hoa Kỳ xuyên qua loại kỹ nghệ mới mẻ này. Thiệt đúng
là đầu óc đầu tư thực dụng kiểu…Tàu! Nghe mà khiếp.
Chính sách đại-lục-hóa biến Hồng Kông từ
một thành phố văn minh thành một nơi giành giựt. Để sống còn, người Hồng Kông phải
giành giựt với người đại lục. Không chỉ là giành giựt những nhu cầu thiết yếu hàng
ngày mà còn là chỗ ngồi trên hệ thống vận chuyển công cộng, ở trong tiệm ăn,
trong các trung tâm mua sắm và xa hơn nữa là nhà ở, trường học, bệnh viện, vân
vân. Và cả môi trường. Đất hẹp, người đông. Mảnh đất chỉ rộng có 1.104 cây số
vuông (1/5 diện tích tỉnh Thừa Thiên, Việt Nam) sẽ chịu đựng được đến bao lâu một
sự “xâm lăng” lạ lùng như thế của những con người sinh trưởng trong một đất nước
vốn được các lãnh tụ hào là sẽ trở thành một giấc mơ của nhân loại: giấc mơ Trung
Hoa (China Dream)?! Không có gì đáng ngạc nhiên khi người Hồng Kông phải chống đại
lục hóa. Từ chỗ chỉ mang ý nghĩa về chính trị và rồi ngôn ngữ, rốt cuộc, “chống-đại
lục hóa” tự mở rộng ra đến ý nghĩa xã hội và đời sống. Chống-đại
lục hóa, vì thế, bao hàm thái độ “chống-châu chấu” (anti-locust), “chống-đại lục
nhân” (anti-Mainlander) và xa hơn, “chống-Trung Quốc”. Quả thật oái oăm!
Mặc dầu số người chống đối đại lục hóa một
các công khai không nhiều, nhưng họ đã phản ảnh tình cảm và nỗi lo lắng của nhiều
người Hồng Kông thầm lặng, những người không muốn nói ra vì sợ mang tiếng.
Và mặc dù thái độ chống đối đó rõ ràng
là không đúng, nhưng nó gửi ra một thông điệp được chia sẻ bởi hầu hết những
người dân Hông Kông.
Như một định mệnh
Hồng Kông là đất Trung Quốc. Người
Hông Kông là người Trung Quốc. Nếu chính quyền Bắc Kinh “lục địa hóa” nó thì
cũng là lẽ đương nhiên. Của “Caesar thì phải trả về lại cho Caesar” mà. Thế
nhưng, gần một thế kỷ nhượng địa đã biến
Hồng Kông thành một nước khác, một dân tộc khác. Nó có cơ cấu xã hội khác, văn
hóa khác, nếp sống khác và ngôn ngữ cũng khác. 99 năm[3] hình thành một
định mệnh: định mệnh Hồng Kông. Chính cái định mệnh này là yếu tố tiềm ẩn, là nền
tảng sâu xa của các cuộc xuống đường liên tiếp trong những năm vừa qua và được
tiếp nối bởi cuộc “Cách Mạng Dù” đang diễn ra trên những đường phố Hồng Kông hiện
nay. Nếu thế hệ những người lớn tuổi chịu chấp nhận “cái gì đến phải đến”, chấp
nhận một cuộc đổi đời, chấp nhận đánh mất một Hồng Kông như-chính-nó thì ngược
lại, những người trẻ tuổi hoàn toàn khác. Họ gắn liền với định mệnh Hồng Kông.
Họ bị buộc phải tranh đấu để giữ gìn cái định mệnh đó. Bằng mọi giá. Không những
là định mệnh mà là sinh mệnh.
Trong khi tràn ngập các đường phố Hồng
Kông đòi Bắc Kinh giữ lời hứa “Một quốc gia, hai hệ thống,” cho phép bầu cử tự
do thì những người tổ chức và ủng hộ Phong Trào Dù cố tách ra khỏi các cuộc vận
động chống Trung Quốc, chống đại lục. Chứng tỏ rằng không dính líu gì đến phong
trào “anti-Mainlandization”, cũng như chứng tỏ Phong Trào Dù không phải là một
cuộc cách mạng màu, là một sự khôn ngoan chính trị. Điều đó dễ hiểu. Nhưng phải
chăng như thế là họ chấp nhận Mainlandization? Chắc chắn là không. Dù cố tách
ra khỏi, dù không muốn dính líu đến vì lý do này hay lý do khác, nhưng xu hướng
“anti-Mainlandization” vẫn ở đó. Vẫn là động lực. Vẫn là sức đẩy. Bóng dáng của
nó vẫn âm thầm bước theo sau những chiếc dù. Bóng dáng của nó cũng là nỗi ám ảnh
trong đầu óc những lãnh tụ Bắc Kinh.
Bầu cử tự do là gì, “một quốc gia hai chế
độ” là gì nếu không là một Hồng Kông là của Hongkongers!
Có người phê phán rằng tâm thế đó khiến cho một số người trong Phong Trào Dù vẫn
còn giữ cái nhìn tiêu cực đối với đồng bào của họ ở đại lục. (“Một số người” có
lẽ chỉ là một cách nói. “Cái nhìn tiêu cực” cũng chỉ là một cách nói. “Phê phán”
cũng là một cách nói. Theo tôi.)
Biết làm sao được! Hồng Kông đã là một định
mệnh.
Định mệnh đó đang thử thách những Hongkonger trẻ trên các đường phố Hồng
Kông:
遮打革命!
jè dá gaak mihng!
Già Đả Cách Mệnh!
Hồng Kông ơi, cả loài người tiến
bộ đang theo dõi từng bước chân của các bạn!
Trần Doãn Nho
10/2014
(Kỷ
niệm một tháng Phong Trào Dù)
1.
Afrikaans là ngôn ngữ riêng của di
dân da trắng ở Nam Phi (South Africa).
2.
Mainlanders are sometimes derogatorily called “locusts”, a reference to the
idea that they come to Hong Kong, consume its resources, and leave a mess
behind when they leave. Many of the things Hong Kongers complain about --
spitting in public, eating on the subway, etc. -- are considered socially
acceptable on the mainland.
Tài liệu tham khảo:
- Gwynn Guilford, How Hong Kong’s Umbrella Movement protesters
are using their native language to push back against Beijing, Quatz, October 22,2014.
- Felicia
Sonmez, China Is Forcing Its Biggest
Cantonese-Speaking Region To Speak Mandarin, Agence France Presse, Aug. 25,
2014.
- Blog “Free Hong Kong: Independence is the ONLY
Way to Save Hong Kong”, ANGRY! 70% of Students in HK’s Universities are
Mainland Chinese!!!,, May 2,
2013
- Badcanto,
Blog “Politically Incorrect Views from Hong Kong”,Chinese students wage war on Cantonese in Hong Kong City University,October 14, 2013
- Ishaan Tharoor, Hong Kong’s students want you to stop calling
their protest a ‘revolution,
The Washington Post, October 4, 2014.
- Lucas
Klein, Letters from Hong Kong: Occupy
translation, Web: Asian Review of Books
http://www.asianreviewofbooks.com/new/?ID=2043&utm_source=dlvr.it&utm_medium=facebook
- Massoud
Hayoun, Hong Kong’s protesters distance themselves from
anti-mainland movement, Aljazeera America, September 29, 2014.
- Peter Shadbolt, Hong Kong protests take aim at 'locust'
shoppers from mainland China,
CNN, March 7, 2014.
- Mimi Lau, Guangzhou locals seek 'Cantonese Day' to
help preserve mother tongue, South China Morning Post, July 25, 2014.
- Hong Kong advert calls Chinese mainlanders 'locusts', BBC News China, February 1, 2012.
http://www.bbc.com/news/world-asia-china-16828134http://www.diendantheky.net/2014/11/bao-chi-quoc-te-van-thuong-goi-cac.html