Những
ai quyết định chọn làm đao phủ hầu hết đều là những kẻ lạc loài của xã
hội, bị chèn ép, đi tới đường cùng hoặc quá xấu xí không thể làm nghề gì
khác.
Phụ nữ Trung Quốc thời xưa từng quan niệm, thà lấy một kẻ ăn
xin còn hơn làm vợ người bán thịt heo. Lý do là làm nghề bán thịt thì
phải thường xuyên giết mổ gia súc, họ lo sợ oán khí của những con vật bị
giết sẽ tích tụ và làm hại đến gia đình. Tuy nhiên, trong lịch sử vẫn
còn một nghề nghiệp tệ hơn cả nghề giết mổ gia súc, khiến cho nhiều
người khiếp sợ và xa lánh, đó chính là nghề đao phủ.
Thời cổ đại,
những tên phạm nhân bị xử tử hình đều bị giết bằng cách chặt đầu. Cũng
từ đó mà nghề đao phủ đã xuất hiện và tồn tại trong suốt mấy nghìn năm,
cho đến khi triều đại nhà Thanh sụp đổ thì nghề nghiệp này cũng dần biến
mất.
Xung
quanh nghề nghiệp đặc biệt này thường có rất nhiều câu chuyện rùng rợn,
một phần cũng vì đao phủ là người trực tiếp giết chết phạm nhân nên tay
họ nhuốm đầy máu tươi, thân mang nặng nghiệp chướng. Mặt khác đao phủ
luôn bị mọi người kinh sợ, không ai muốn tiếp xúc, không ai muốn dây vào
vì sợ bị liên lụy.
Trong các tài liệu ghi nhận, người đao phủ
cuối cùng của triều đại nhà Thanh được nhắc đến chính là Đặng Hải Sơn.
Ông cũng được xem là đao phủ cuối cùng của Trung Quốc vì đến thời Trung
Hoa Dân Quốc, chính phủ đã dùng súng khi xử tử phạm nhân.
Những ai
quyết định chọn làm đao phủ hầu hết đều là những kẻ lạc loài của xã
hội, bị chèn ép, đi tới đường cùng hoặc quá xấu xí không thể làm nghề gì
khác. Đặng Hải Sơn cũng là một người như thế, một kẻ không gia đình,
không thân thế, sống lang bạt và phải rất chật vật để kiếm từng bữa cơm.
Công
việc lấy đầu kẻ khác cũng không phải ai muốn làm cũng được. Người muốn
gia nhập vào nghề phải tìm được một sư phụ dẫn dắt và trải qua đợt huấn
luyện nghiêm ngặt suốt một thời gian dài trước khi được ra pháp trường
thật sự.
Đặng
Hải Sơn lúc đó đã theo học nghề từ một đao phủ chuyên nghiệp là Tống
Thiệu Chí. Mỗi ngày, ông đều phải luyện tập đao pháp bằng cách chém dưa,
chỉ khi nào chém một nhát đứt quả dưa theo đúng đường kẻ mỏng mà sư phụ
đã vẽ thì mới gọi là đạt yêu cầu. Có ngày, Đặng Hải Sơn đã phải chém
đến hàng trăm quả dưa trong lúc luyện tập.
Sau vài năm tập chém
dưa, tay nghề khá dần lên thì Đặng Hải sơn được chuyển sang chém gia
súc. Đến khi sư phụ thấy thật sự nhát chặt của đồ đệ đủ vững vàng, lúc
này anh ta mới đủ điều kiện để ra pháp trường chém đầu người.
Trong
cuốn hồi ký của Đặng Hải Sơn, ông cho biết nghề đao phủ tuy bị mọi
người coi khinh, không dám tiếp xúc nhưng lại là một nghề kiếm được tiền
công vô cùng hậu hĩnh. Theo đó, cứ mỗi khi chặt đầu một tử tù, đao phủ
có thể nhận được đến 4 đồng đại dương, khoản tiền này bằng với số tiền
mà những nông dân bình thường phải làm lụng vất vả đến cả nửa năm trời
cũng chưa chắc kiếm được.
Chưa
kể theo quan niệm xưa, người nhà phạm nhân luôn mong muốn người thân
của họ được "chết toàn thây". Vì thế họ sẽ đút lót cho đao phủ, hy vọng
khi chém đầu thì đao phủ nhẹ tay hơn một chút, để chừa lại một chút da
dính liền. Cho nên mới nói, thủ pháp của đao phủ phải thật sự vững vàng
và dứt khoát thì mới có khả năng làm được điều này.
Cây đao để
hành quyết phạm nhân đối với mỗi đao phủ đều là vật vô cùng quan trọng.
Cây đao này không có hình dạng nhất định mà tùy theo sở thích và thói
quen mỗi người sẽ tự rèn cho mình một cây đao phù hợp nhất. Chuôi cây
đao được quấn khăn đỏ và lưỡi đao phải luôn được mài bén tỉ mỉ, tuyệt
đối không được để rỉ sét.
Mỗi lần ra pháp trường, Đặng Hải Sơn
thường khoác lên người bộ đồ màu đỏ để trừ khử tà khí, thắp nhang cầu
trời phù hộ. Khi bắt đầu hành quyết, ông uống một ngụm rượu nhỏ lấy dũng
khí rồi vung đao một nhát chém đứt đầu phạm nhân.
Thường
sau khi chém một người, Đặng Hải Sơn sẽ nhờ nha sai dùng thanh gỗ nhỏ
đánh vào gáy vài cái. Ông tin rằng bằng cách này thì linh hồn người chết
không thể bám theo ông trả thù. Một quy tắc khác của nghề đao phủ chính
là sau khi hành hình phạm nhân, họ cũng phải lập tức đi thẳng về nhà và
nhất định không được quay đầu lại phía sau.
Có thể nói nghề đao
phủ với thu nhập cao ngất ngưởng là thế nhưng không phải ai cũng dám làm
và cho dù kiếm được nhiều tiền thế nào, đao phủ cũng sẽ phải dừng lại
khi chặt đến cái đầu thứ 99. Đây được xem là một quy tắc quan trọng nhất
trong nghề đao phủ bởi nếu vượt qua con số này, nghiệp chướng tích tụ
trên người họ là không thể gột sạch được và chắc chắn họ sẽ gặp phải báo
ứng khủng khiếp.
Nhưng Đặng Hải Sơn chẳng mấy để tâm đến quy tắc
hành nghề. Trong tài liệu ghi lại, ông ta từng chặt đến hơn 300 cái đầu
của phạm nhân. Có lẽ cũng vì điều này mà đến cuối đời, Đặng Hải Sơn đã
có một cuộc sống vô cùng tệ hại.
Đã
dấn thân vào nghề đao phủ, ông cũng biết trước được rằng chẳng có một
người phụ nữ nào muốn ở cạnh ông. Người dân trong làng, không ai muốn gả
con gái cho ông ta, vì thế cho đến chết, Đặng Hải Sơn cũng chỉ là một
lão già cô đơn, không con không cái.
Đến năm 1912, khi nhà Thanh
sụp đổ, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đã sử dụng súng đạn khi hành
quyết phạm nhân. Những đao phủ như Đặng Hải Sơn rơi vào cảnh thất
nghiệp, không biết làm gì khác, cũng không ai dám thu nhận. Họ vốn dĩ
quen với việc tiêu xài thoải mái, nay lại chẳng thể kiếm nổi một xu nên
nhanh chóng trở thành những kẻ ăn xin sống lang thang rày đây mai đó.
Không
chỉ phải sống trong cảnh nghèo khó, Đặng Hải Sơn còn đêm đêm gặp ác
mộng khi nhớ đến những người từng bị ông chặt đầu. Ông thường xuyên mơ
thấy các tử tù xếp hàng dài đến tìm ông đòi nợ, mỗi lần như vậy ông ta
đều tỉnh dậy rồi bật khóc tức tưởi.
Sau này ông tìm đến phật đường
để sám hối, mong có lại được chút bình yên ngày cuối đời nhưng cũng bị
phật đường thẳng thừng từ chối vì cho rằng tội lỗi của ông ta sẽ khiến
cho nơi thanh tịnh bị ô uế.
Đến cuối cùng, Đặng Hải Sơn đã kết
thúc cuộc đời của mình một cách cô đơn, nghèo xác xơ, chết trong sự ăn
năn và buồn bã ở một xó xỉnh nào đó trên đường phố.