Cà Kê Dê Ngỗng
Trung Quốc đại suy sụp
Điểm sách: “Tương lai Trung Quốc” (China’s Future, Polity Press, March 2016) của giáo sư David Shambaugh (George Washington University).
Jeffrey Wasserstrom
Nguyễn Quang Dy dịch bài The Great Fall of China (WSJ, March 28, 2016)
Trung Quốc đã bước vào “cái bẫy thu nhập trung bình”. Nó chỉ có thể
thoát ra bằng cách dẫn dắt các ngành công nghiệp dựa vào tri thức chứ
không phải cơ bắp.
Đúng là David Shambaugh viết rất khỏe. Cuốn sách mới nhiều thông tin về
“Tương lai Trung Quốc” tiếp theo cuốn “Đảng Cộng sản Trung Quốc”
(China’s Communist Party, 2008) và cuốn “Trung Quốc Toàn cầu Hóa” (China
Goes Global, 2013). Cuốn sách này đề cập đến các lập luận đã được đưa
ra lần đầu trong bài phân tích “Sự Đổ vỡ Sắp tới của Trung Quốc” (The
Coming Chinese Crackup) cũng đăng trên tờ báo này cách đây một năm, gây
nhiều tranh cãi. Lập luận chính của vị giáo sư ĐH George Washington rất
dễ tóm tắt: Trừ phi Tổng bí thư đảng Tập Cận Bình tiến hành cải cách
chính trị lớn, nền kinh tế sẽ thất bại và đảng sẽ sụp đổ. Vì các học giả
thường thận trọng khi xác quyết về thời điểm các sự kiện sẽ xảy ra, nên
Shambaugh chỉ viết rằng nó có thể xảy ra trong thập kỷ tới.
Tác giả không phải là người đầu tiên dự đoán sự sụp đổ của Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Trước đó đã có một số bình luận theo “trường phái sụp đổ”
(collapsist), nếu mượn thuật ngữ này của nhà sử học Geremie Barmé. Ngay
sau vụ thảm sát tại Bắc Kinh năm 1989, đại sứ Mỹ Winston Lord đã khẳng
định rằng đảng sẽ mất quyền lực trong vài tuần lễ nếu không phải là vài
ngày. Mười hai năm sau, Gordon Chang xuất bản cuốn “Sự Sụp đổ sắp tới
của Trung Quốc” (The Coming Collapse of China) và tự tin tuyên bố quyền
lực của đảng sẽ chấm dứt năm 2011. Tuy nhiên, lập luận của Shambaugh
khác biệt, vì vị trí nổi bật của tác giả và quan điểm trước đó của ông
nhấn mạnh Đảng Cộng sản Trung Quốc đã khôn ngoan học được bài học về “sự
tuyệt chủng của tư tưởng Leninist” vào năm 1989-1991.
Cuốn sách mới nhất của Shambaugh đưa ra những nhận định xúc tích và rõ
ràng về những xu hướng chủ chốt - từ sự tăng trưởng của sức mua đến đô
thị hóa nhanh – đã làm thay đổi một đất nước chỉ có các làng xã thành
một đất nước của các đô thị, với “quy mô lớn” tới mức “khó hình dung
nổi”. Tác giả so sánh “quyền lực mềm” của Trung Quốc (vẫn còn “rất mềm”
so với thế giới) với “quyền lực cứng” đang “lớn lên từng ngày”, một thực
tế được “trưng bày một cách cụ thể bằng lễ duyệt binh hoành tráng tại
Quảng trường Thiên An môn” năm 2009 và 2015. Tác giả cũng phân tích kỹ
lưỡng cách dùng thuật ngữ rất lạ của ông Tập Cận Bình khi nói đến “Pháp
quyền” (rule of law), qua đó hệ thống luật pháp trở thành “công cụ trong
tay của đảng cầm quyền để áp đặt ý chí và quyền lực của mình.”
Qua cách tác giả lý giải về cách hiểu vũ đoán đáng lo ngại của đảng về
“Pháp quyền”, chúng ta thấy rõ quan điểm của tác giả đã thay đổi từ chỗ
tương đối lạc quan trước đây về triển vọng của đảng đến chỗ thất vọng.
Shambaugh khẳng định đây là phản ứng hợp lý đối với sự chuyển đổi tự hủy
diệt của đảng theo hướng “Chuyên chế Cứng” (Hard Authoritarianism) sau
một thập kỷ rưỡi theo hướng “Chuyên chế Mềm” (Soft Authoritarianism).
Nhà lãnh đạo Giang Trạch Dân và sau đó là Hồ Cẩm Đào đã có những bước
cởi mở đáng khích lệ, tuy quá chậm chạp, nhưng xu hướng này đã dừng lại
năm 2007. Tập Cận Bình đã thay đổi cực đoan hơn theo hướng “Chuyên chế
Cứng” từ khi lên cầm quyền năm 2012.
Tác giả so sánh Tập Cận Bình với một người lái xe tới ngã ba đường. Liệu
anh ta sẽ tiếp tục theo hướng “Chuyên chế Cứng”? Hay quẹo theo hướng
“Chuyên chế Mềm”, nới lỏng kiểm soát theo cách đã làm trước đó vào thời
kỳ (1982-1989 & 1998-2008)? Hay thoát ra theo con đường “Độc tài
Kiểu mới” (Neo-Totalitarian) đưa Trung Quốc trở lại thời kỳ Mao trị
(1949-1976)? Hay chọn con đường “Dân chủ Nửa vời” (Semi-Democratic), để
biến Trung Quốc thành một Singapore khổng lồ, với hệ thống tranh cử hậu
thuẫn cho một đảng và môi trường dân sự không giống một nhà nước chuyên
chế mà cũng chẳng giống một nhà nước dân chủ? Shambaugh không thấy khả
năng Tập Cận Bình sẽ đưa đất nước theo hướng dân chủ.
Shambaugh nói rằng con đường “Chuyên chế Mềm” và “Dân chủ Nửa với” sẽ có
lợi nhất cho quyền lợi của Đảng cũng như của nhân dân Trung Quốc, nhưng
ông không tin rằng Tập Cận Bình sẽ theo con đường này. Tác giả lo ngại
xu hướng “Độc tài Kiểu mới” tuy không muốn điều này xảy ra. Có nhiều khả
năng nhất là Tập Cận Bình sẽ duy trì hướng “Chuyên chế Cứng”, hy vọng
bằng cách đó sẽ đảm bảo được sự ổn định.
Theo Shambaugh, vấn đề là Trung Quốc đã ra khỏi giai đoạn phát triển mà
tăng trưởng nhanh có thể dựa vào sản xuất hàng rẻ trong những công xưởng
lớn đông công nhân sẵn sàng chấp nhận lương thấp. Trung Quốc đã bước
vào giai đoạn các nhà lý luận về hiện đại hóa (modernization theorists)
gọi là “bẫy thu nhập trung bình” (middle income trap), mà chỉ có thể
thoát ra bằng cách dựa hẳn vào khả năng sáng tạo ra sản phẩm mới và dẫn
dắt các ngành công nghiệp dựa vào tri thức chứ không phải cơ bắp. Tác
giả khẳng định kinh nghiệm của các nước chỉ rõ rằng thể chế hiệu quả
nhất để đối phó với cái bẫy đó là thể chế dân chủ hoặc chuyên chế nhưng
với lãnh đạo cởi mở sẵn sàng cho phép tự do thông tin chứ không như Tập
Cận Bình. Phía trước Trung Quốc là hỗn loạn và khủng hoảng, chứ không
phải ổn định.
“Tương lai Trung Quốc” là cuốn sách đặt ra nhiều giả thiết hơn là hai
cuốn sách trước đó của Shambaugh, nhưng nó đủ bổ xung cho nhau để độc
giả xem như bộ ba cuốn sách đáng đọc. Một lần nữa các quan điểm của
Shambaugh dựa trên tham khảo rộng rãi nguồn tư liệu nghiên cứu bằng
tiếng Anh, kết hợp với xem xét kỹ lưỡng một cách chiết trung các tài
liệu bằng tiếng Hoa, và các quan sát trực tiếp rút ra từ các chuyến thăm
Trung Quốc. Tác giả một lần nữa đã tóm tắt một cách xúc tích và có lý
những vấn đề cụ thể.
Tôi chia sẻ với Shambaugh về nhiều hy vọng và lo ngại, và nhất trí với
hầu hết những gì tác giả nói đã diễn ra cho đến gần đây. Nhưng tôi không
tán thành với quan điểm của tác giả cho rằng thành quả của các nước
phát triển đã chỉ dẫn về tương lai của Trung Quốc. Các nhà lý luận về
hiện đại hóa không có nhiều kinh nghiệm thành công như tác giả nói. Dù
họ có đi nữa thì tôi cũng nghi ngờ khả năng ứng dụng ý tưởng của họ vào
tình huống bất ổn hiện nay. Sự diễn biến của các sự kiện thường chứng
minh ngược lại với các giả thuyết về xu hướng chính trị liên quan đến
chủ nghĩa chuyên chế dưới mọi hình thức. Trong thế giới liên kết với
nhau chặt chẽ như ngày nay thì cái gì xảy ra chỗ này có thể tác độc lớn
đến các chỗ khác, thay đổi cách nghĩ của dân chúng và lãnh đạo đối với
các vấn đề như ổn định, phát triển, và rủi ro trong việc duy trì đường
lối cũ hay thử nghiệm một đường lối mới.
Tập Cận Bình có thể giống như một lái xe đến ngã ba đường, nhưng chúng
ta phải luôn để ý đến những vấn đề khác nữa chứ không phải chỉ có con
đường đưa ông ta đến, và những con đường mà những người lái xe trước đó
đã chọn. Trên quốc lộ có nhiều lái xe tính khí bất thường, nên việc họ
đi thẳng hay quẹo đột ngột là rất khác biệt.
Nguyễn Quang Dy dịch bài The Great Fall of China (WSJ, March 28, 2016)
(Viet-studies)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Trung Quốc đại suy sụp
Điểm sách: “Tương lai Trung Quốc” (China’s Future, Polity Press, March 2016) của giáo sư David Shambaugh (George Washington University).
Trung Quốc đã bước vào “cái bẫy thu nhập trung bình”. Nó chỉ có thể
thoát ra bằng cách dẫn dắt các ngành công nghiệp dựa vào tri thức chứ
không phải cơ bắp.
Đúng là David Shambaugh viết rất khỏe. Cuốn sách mới nhiều thông tin về
“Tương lai Trung Quốc” tiếp theo cuốn “Đảng Cộng sản Trung Quốc”
(China’s Communist Party, 2008) và cuốn “Trung Quốc Toàn cầu Hóa” (China
Goes Global, 2013). Cuốn sách này đề cập đến các lập luận đã được đưa
ra lần đầu trong bài phân tích “Sự Đổ vỡ Sắp tới của Trung Quốc” (The
Coming Chinese Crackup) cũng đăng trên tờ báo này cách đây một năm, gây
nhiều tranh cãi. Lập luận chính của vị giáo sư ĐH George Washington rất
dễ tóm tắt: Trừ phi Tổng bí thư đảng Tập Cận Bình tiến hành cải cách
chính trị lớn, nền kinh tế sẽ thất bại và đảng sẽ sụp đổ. Vì các học giả
thường thận trọng khi xác quyết về thời điểm các sự kiện sẽ xảy ra, nên
Shambaugh chỉ viết rằng nó có thể xảy ra trong thập kỷ tới.
Tác giả không phải là người đầu tiên dự đoán sự sụp đổ của Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Trước đó đã có một số bình luận theo “trường phái sụp đổ”
(collapsist), nếu mượn thuật ngữ này của nhà sử học Geremie Barmé. Ngay
sau vụ thảm sát tại Bắc Kinh năm 1989, đại sứ Mỹ Winston Lord đã khẳng
định rằng đảng sẽ mất quyền lực trong vài tuần lễ nếu không phải là vài
ngày. Mười hai năm sau, Gordon Chang xuất bản cuốn “Sự Sụp đổ sắp tới
của Trung Quốc” (The Coming Collapse of China) và tự tin tuyên bố quyền
lực của đảng sẽ chấm dứt năm 2011. Tuy nhiên, lập luận của Shambaugh
khác biệt, vì vị trí nổi bật của tác giả và quan điểm trước đó của ông
nhấn mạnh Đảng Cộng sản Trung Quốc đã khôn ngoan học được bài học về “sự
tuyệt chủng của tư tưởng Leninist” vào năm 1989-1991.
Cuốn sách mới nhất của Shambaugh đưa ra những nhận định xúc tích và rõ
ràng về những xu hướng chủ chốt - từ sự tăng trưởng của sức mua đến đô
thị hóa nhanh – đã làm thay đổi một đất nước chỉ có các làng xã thành
một đất nước của các đô thị, với “quy mô lớn” tới mức “khó hình dung
nổi”. Tác giả so sánh “quyền lực mềm” của Trung Quốc (vẫn còn “rất mềm”
so với thế giới) với “quyền lực cứng” đang “lớn lên từng ngày”, một thực
tế được “trưng bày một cách cụ thể bằng lễ duyệt binh hoành tráng tại
Quảng trường Thiên An môn” năm 2009 và 2015. Tác giả cũng phân tích kỹ
lưỡng cách dùng thuật ngữ rất lạ của ông Tập Cận Bình khi nói đến “Pháp
quyền” (rule of law), qua đó hệ thống luật pháp trở thành “công cụ trong
tay của đảng cầm quyền để áp đặt ý chí và quyền lực của mình.”
Qua cách tác giả lý giải về cách hiểu vũ đoán đáng lo ngại của đảng về
“Pháp quyền”, chúng ta thấy rõ quan điểm của tác giả đã thay đổi từ chỗ
tương đối lạc quan trước đây về triển vọng của đảng đến chỗ thất vọng.
Shambaugh khẳng định đây là phản ứng hợp lý đối với sự chuyển đổi tự hủy
diệt của đảng theo hướng “Chuyên chế Cứng” (Hard Authoritarianism) sau
một thập kỷ rưỡi theo hướng “Chuyên chế Mềm” (Soft Authoritarianism).
Nhà lãnh đạo Giang Trạch Dân và sau đó là Hồ Cẩm Đào đã có những bước
cởi mở đáng khích lệ, tuy quá chậm chạp, nhưng xu hướng này đã dừng lại
năm 2007. Tập Cận Bình đã thay đổi cực đoan hơn theo hướng “Chuyên chế
Cứng” từ khi lên cầm quyền năm 2012.
Tác giả so sánh Tập Cận Bình với một người lái xe tới ngã ba đường. Liệu
anh ta sẽ tiếp tục theo hướng “Chuyên chế Cứng”? Hay quẹo theo hướng
“Chuyên chế Mềm”, nới lỏng kiểm soát theo cách đã làm trước đó vào thời
kỳ (1982-1989 & 1998-2008)? Hay thoát ra theo con đường “Độc tài
Kiểu mới” (Neo-Totalitarian) đưa Trung Quốc trở lại thời kỳ Mao trị
(1949-1976)? Hay chọn con đường “Dân chủ Nửa vời” (Semi-Democratic), để
biến Trung Quốc thành một Singapore khổng lồ, với hệ thống tranh cử hậu
thuẫn cho một đảng và môi trường dân sự không giống một nhà nước chuyên
chế mà cũng chẳng giống một nhà nước dân chủ? Shambaugh không thấy khả
năng Tập Cận Bình sẽ đưa đất nước theo hướng dân chủ.
Shambaugh nói rằng con đường “Chuyên chế Mềm” và “Dân chủ Nửa với” sẽ có
lợi nhất cho quyền lợi của Đảng cũng như của nhân dân Trung Quốc, nhưng
ông không tin rằng Tập Cận Bình sẽ theo con đường này. Tác giả lo ngại
xu hướng “Độc tài Kiểu mới” tuy không muốn điều này xảy ra. Có nhiều khả
năng nhất là Tập Cận Bình sẽ duy trì hướng “Chuyên chế Cứng”, hy vọng
bằng cách đó sẽ đảm bảo được sự ổn định.
Theo Shambaugh, vấn đề là Trung Quốc đã ra khỏi giai đoạn phát triển mà
tăng trưởng nhanh có thể dựa vào sản xuất hàng rẻ trong những công xưởng
lớn đông công nhân sẵn sàng chấp nhận lương thấp. Trung Quốc đã bước
vào giai đoạn các nhà lý luận về hiện đại hóa (modernization theorists)
gọi là “bẫy thu nhập trung bình” (middle income trap), mà chỉ có thể
thoát ra bằng cách dựa hẳn vào khả năng sáng tạo ra sản phẩm mới và dẫn
dắt các ngành công nghiệp dựa vào tri thức chứ không phải cơ bắp. Tác
giả khẳng định kinh nghiệm của các nước chỉ rõ rằng thể chế hiệu quả
nhất để đối phó với cái bẫy đó là thể chế dân chủ hoặc chuyên chế nhưng
với lãnh đạo cởi mở sẵn sàng cho phép tự do thông tin chứ không như Tập
Cận Bình. Phía trước Trung Quốc là hỗn loạn và khủng hoảng, chứ không
phải ổn định.
“Tương lai Trung Quốc” là cuốn sách đặt ra nhiều giả thiết hơn là hai
cuốn sách trước đó của Shambaugh, nhưng nó đủ bổ xung cho nhau để độc
giả xem như bộ ba cuốn sách đáng đọc. Một lần nữa các quan điểm của
Shambaugh dựa trên tham khảo rộng rãi nguồn tư liệu nghiên cứu bằng
tiếng Anh, kết hợp với xem xét kỹ lưỡng một cách chiết trung các tài
liệu bằng tiếng Hoa, và các quan sát trực tiếp rút ra từ các chuyến thăm
Trung Quốc. Tác giả một lần nữa đã tóm tắt một cách xúc tích và có lý
những vấn đề cụ thể.
Tôi chia sẻ với Shambaugh về nhiều hy vọng và lo ngại, và nhất trí với
hầu hết những gì tác giả nói đã diễn ra cho đến gần đây. Nhưng tôi không
tán thành với quan điểm của tác giả cho rằng thành quả của các nước
phát triển đã chỉ dẫn về tương lai của Trung Quốc. Các nhà lý luận về
hiện đại hóa không có nhiều kinh nghiệm thành công như tác giả nói. Dù
họ có đi nữa thì tôi cũng nghi ngờ khả năng ứng dụng ý tưởng của họ vào
tình huống bất ổn hiện nay. Sự diễn biến của các sự kiện thường chứng
minh ngược lại với các giả thuyết về xu hướng chính trị liên quan đến
chủ nghĩa chuyên chế dưới mọi hình thức. Trong thế giới liên kết với
nhau chặt chẽ như ngày nay thì cái gì xảy ra chỗ này có thể tác độc lớn
đến các chỗ khác, thay đổi cách nghĩ của dân chúng và lãnh đạo đối với
các vấn đề như ổn định, phát triển, và rủi ro trong việc duy trì đường
lối cũ hay thử nghiệm một đường lối mới.
Tập Cận Bình có thể giống như một lái xe đến ngã ba đường, nhưng chúng
ta phải luôn để ý đến những vấn đề khác nữa chứ không phải chỉ có con
đường đưa ông ta đến, và những con đường mà những người lái xe trước đó
đã chọn. Trên quốc lộ có nhiều lái xe tính khí bất thường, nên việc họ
đi thẳng hay quẹo đột ngột là rất khác biệt.
Nguyễn Quang Dy dịch bài The Great Fall of China (WSJ, March 28, 2016)
(Viet-studies)