Đoạn Đường Chiến Binh
Tướng Vũ Văn Giai, Thế Trận Phòng Tuyến Bến Hải 67-72
5 năm trước đó, vào mùa Hè 1967, khi còn là trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 BB kiêm biệt khu trưởng Biệt khu Giới tuyến, ông Vũ Văn Giai đã cùng với các chỉ huy lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ phối nhiệm dàn thế trận để giữ vững phòng tuyến bờ Nam Bến Hải. Sau đây là bài tổng lược về mặt trận giới tuyến Hè 1967 mà nỗ lực chính là Trung đoàn 2 Bộ binh. Phần này được biên soạn dựa theo các bài viết của cựu trung tướng Ngô Quang Trưởng viết cho Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, hồi ký của cựu đại tướng Westmoreland, và tài liệu riêng của VB.
* Biệt khu trưởng Giới tuyến Vũ Văn Giai
Giữa năm 1966, thiếu tá Vũ Văn Giai, nguyên phó tỉnh trưởng Nội an kiêm tiểu khu trưởng Tiểu khu Quảng Nam (tỉnh trưởng lúc đó là một viên chức dân sự), được bổ nhiệm giữ chức trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 Bộ binh Bộ bi kiêm Biệt khu trưởng Biệt khu Giới tuyến. Trung đoàn 2 BB lúc bấy giờ là 1 trong 3 trung đoàn cơ hữu của Sư đoàn 1 Bộ binh mà tư lệnh là đại tá Ngô Quang Trưởng (thăng cấp chuẩn tướng vào tháng 2/1967, thiếu tướng tháng 5/1968, trung tướng tháng 11/1970). Với chức vụ trung đoàn trưởng, thiếu tá Giai được thăng trung tá vào tháng 6/1967, thăng đại tá vào tháng 1/1969. Giữa năm 1969, ông giữ chức chỉ huy trưởng bộ Chỉ huy Tiền phương Sư đoàn 1 Bộ binh đặt tại Đông Hà. Khi Sư đoàn 1 BB tham dự cuộc hành quân Hạ Lào Lam Sơn 719 vào tháng 2/1971, ông là tư lệnh phó của sư đoàn này. Tháng 3/1971, sau khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 kết thúc, đại tá Vũ Văn Giai được thăng chuẩn tướng. Cùng lần thăng thưởng này có chuẩn tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Sư đoàn 1 BB, được thăng thiếu tướng, và đại tá Hồ Trung Hậu, tư lệnh phó Sư đoàn Nhảy Dù, được thăng chuẩn tướng. Tháng 10/1971, chuẩn tướng Giai được Tổng thống VNCH bổ nhiệm giữ chức tư lệnh Sư đoàn 3 BB vừa mới thành lập.
* Thế trận Hè 1967 tại giới tuyến.
Trở lại với chiến trường giới tuyến, từ giữa năm 1966 đến giữa năm 1967, nhiều trận giao tranh đã diễn ra giữa các đơn vị của Trung đoàn 2 Bộ binh, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và các trung đoàn chủ lực của CQ từ Bắc vào. Đến hạ tuần tháng 3/1967, cuộc chiến đã bùng nổ khi Cộng quân áp lực nặng khu vực giới tuyến ở phía Nam sông Bến Hải. Tại khu vực này, cụm tiền cứ của các đơn vị thuộc Trung đoàn 2/Sư đoàn 1 Bộ binh và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ nằm trong tầm tác xạ của pháo binh Cộng quân.
Để có thể phản pháo, Liên quân Việt Mỹ đã điều động một Pháo đội 175 mm của Hoa Kỳ đang hoạt động gần Sài Gòn và tiểu đoàn Pháo binh 175 mm vừa mới đến Việt Nam được đưa thẳng ra Quảng Trị, để phối trí ở Đông Hà, cách Bến Hải gần 20 km đường chim bay. Loại đại bác này có tầm tác xạ 32 km, có thể bắn qua vùng phi quân sự.
Đêm 20 tháng 3/1967, Cộng quân đã khởi động trận cuộc hỏa công, pháo kích vào vị trí đóng quân của các tiểu đoàn thuộc trung đoàn 2 Bộ binh và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ quanh cụm căn cứ Cồn Tiên và Gio Linh (cách Đông Hà khoảng 10 km đường chim bay), với hàng ngàn quả đạn đủ loại, từ súng cối, hỏa tiễn đến đại bác. Riêng tại căn cứ hỏa lực của Liên quân Việt-Mỹ ở Gio Linh, trong hơn hai giờ liền, Cộng quân đã pháo hơn 720 đạn súng cối và phi đạn, ngày hôm sau địch phục kích một đoàn xe chở đạn của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ chỉ cách Gio Linh hơn 3 km. Lúc bấy giờ Cồn Tiên đã trở thành mục tiêu số 1. Các bình luận gia truyền hình và báo chí quốc tế đã gọi đây là điểm chờ Điện Biên Phủ.
* Cộng quân vượt sông Bến Hải, toàn khu giới tuyến sôi động
Đến ngày 6 tháng 4/1967, toàn khu giới tuyến trở thành điểm nóng, Cộng quân đã tung sư đoàn 324B, và sư đoàn 341 tổng trừ bị vượt vĩ tuyến 17 tấn công cường tập vào cụm tuyến phòng ngự dọc bờ Nam sông Bến Hải, đồng thời đánh chiếm một đồn Cảnh sát Quốc Gia ở phía Nam của cầu Hiền Lương, và một số xã thuộc quận Trung Lương (quận giới tuyến); trước đó vào tối 5/1967, Cộng quân đã tấn công vào Yếu khu La Vang ở phía Tây thị xã Quảng Trị, đồng thời pháo kích dữ dội vào tỉnh lỵ, nhiều doanh trại quân sự bị hư hại nặng, đặc công địch đã yểm trợ để tù binh CQ phá nhà giam, vượt thoát.
Tại phía Nam Bến Hải, khi trận chiến xảy ra, thiếu tá Vũ Văn Giai đã chỉ huy Trung đoàn 2 Bộ binh nhanh chóng chận đứng được các đợt xung phong “dọn đường” của 2 trung đoàn thuộc sư đoàn 324 CSBV. Ngày 7 tháng 4/1967, được sự yểm trợ về phi pháo và hải pháo, Trung đoàn 2 Bộ binh và một thành phần thuộc Sư đoàn 3 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã giữ vững cụm tuyến Cồn Tiên và Gio Linh, buộc lực lượng địch phải tạt lên phía Tây Bắc để tránh tổn thất. Theo phân tích của đại tướng Westmoreland, tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam vào thời gian này, thì trận tấn công của 2 sư đoàn CSBV vào khu giới tuyến mang tính cách chiến lược. Cộng quân muốn chọc thủng cụm tuyến phòng ngự của liên quân Việt-Mỹ tại khu phi quân sự (DMZ), để đánh chiếm Quảng Trị, nhưng kế hoạch của Cộng quân đã bị trung đoàn 2 Bộ binh tinh nhuệ của Sư đoàn 1 Bộ binh và 1 trung đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ vô hiệu hóa.
Các trận giao tranh kéo dài đến giữa tháng 4/1967, trong suốt thời gian này, quân trú phòng tại các tiền cứ đã phải “đội mưa pháo hàng ngày”. Một số cựu sĩ quan của trung đoàn 2 Bộ binh đã kể lại là cứ vào rạng sáng, khi tầm quan sát của phi cơ còn bị hạn chế, Cộng quân đã pháo như mưa vào các hào tuyến của quân trú phòng. Nhờ có hệ thống công sự chiến đấu kiên cố và kinh nghiệm chiến trường, các đơn vị trung đoàn 2 Bộ binh đã chịu đựng được trận địa pháo của Cộng quân, sau đó, Không quân Hoa Kỳ xuất trận oanh tạc vào các mục tiêu được ghi nhận là có địch tập trung. Theo ước định của các chuyên viên tình báo, sư đoàn 324B CSBV đã bị thiệt hại gần 1/3 quân số.
Về Trung đoàn 2 Bộ binh, cùng với nỗ lực chận địch, một thành phần của trung đoàn này đã phối hợp cùng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và Cảnh sát Quốc gia đã đưa được hơn 13 ngàn ngàn đồng bào tại hai quận Trung Lương và Gio Linh về tạm cư tại Cam Lộ. Để phối hợp các hoạt động cứu trợ, thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm (lên trung tướng tháng 7/1967), tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 chiến thuật, đã cử đại tá Đỗ Kiến Nhiễu,phụ tá Tư lệnh, trực tiếp điều hợp và giám sát trại tạm cư. (Tháng 6/1968 đại tá Nhiểu được cử làm đô trưởng Sài Gòn, hai năm sau được thăng cấp chuẩn tướng).
* Tướng Vũ Văn Giai và mặt trận Quảng Trị vào tháng 4-5/1972
5 năm sau kể từ khi công khai tung quân vượt sông Bến Hải vi phạm Hiệp định Genève, ngày 30-3-1972, CSBV lại tung một lực lượng gồm 3 sư đoàn chính quy, 4 trung đoàn biệt lập của B-5 tăng cường, 2 trung đoàn chiến xa T-54 và PT-76 với sự yểm trợ của các đơn vị pháo 130 và hỏa tiễn 122 ly, hỏa tiễn địa không SA-2, tất cả đồng loạt vượt qua vùng phi quân sự Bến Hải và từ hướng Tây Bắc Quảng Trị, mở 3 mũi tấn công vào tuyến phòng thủ của Sư đoàn 3 Bộ binh và Lữ đoàn 147 Thủy quân Lục chiến VNCH.
Sau một tháng kịch chiến, trước áp lực quá nặng của CQ, ngày 30 tháng 4/1972, tướng Giai cho triệu tập cấp chỉ huy các đơn vị trực thuộc và tăng phái về họp tại bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 3 Bộ binh đặt trong Cổ Thành Quảng Trị để bàn về kế hoạch triệt thoái về phía Nam sông Bến Hải để lập phòng tuyến mới. Tất cả các đơn vị sẽ bắt đầu di chuyển vào buổi sáng ngày hôm sau, 1 tháng 5. Theo đúng hệ thống quân giai, tướng Vũ Văn Giai đã trình kế hoạch với trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Quân đoàn 1 để xin quyết định.
Theo tài liệu của trung tướng Ngô Quang Trưởng, thì khi nhận được kế hoạch triệt thoái của vị tư lệnh Sư đoàn 3 BB, tướng Lãm lặng thinh như là biểu thị cho một sự đồng ý, dù rằng vị tư lệnh Quân đoàn 1 chưa bao giờ xác nhận sự chấp thuận của ông về kế hoạch rút quân, cũng như ông chưa đưa ra bất cứ một chỉ thị nào cho vị tư lệnh Sư đoàn 3 BB. Thế nhưng, buổi sáng ngày 1 tháng 5/1972, trung tướng Lãm gọi điện thoại cho tướng Giai và nói rằng ông không chấp thuận kế hoạch rút quân, đồng thời ra lệnh cho vị tư lệnh Sư đoàn 3 BB phải chuyển lệnh cho tất cả các đơn vị là giữ yên vị trí hiện tại và tử thủ bằng mọi giá. Sau này người ta được biết lệnh của trung tướng Hoàng Xuân Lãm là sự lập lại các chỉ thị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Thế nhưng, tất cả đã quá muộn, tướng Vũ Văn Giai không có đủ thời gian để thu hồi quân lệnh mà ông đã ban ra trước khi tướng Lãm gọi cho ông. Và ngày 1 tháng 5/1972, cuộc triệt thoái đã diễn ra trong bi tráng, đó là ngày dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của tướng Vũ Văn Giai.
vietbao.com
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Tướng Vũ Văn Giai, Thế Trận Phòng Tuyến Bến Hải 67-72
5 năm trước đó, vào mùa Hè 1967, khi còn là trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 BB kiêm biệt khu trưởng Biệt khu Giới tuyến, ông Vũ Văn Giai đã cùng với các chỉ huy lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ phối nhiệm dàn thế trận để giữ vững phòng tuyến bờ Nam Bến Hải. Sau đây là bài tổng lược về mặt trận giới tuyến Hè 1967 mà nỗ lực chính là Trung đoàn 2 Bộ binh. Phần này được biên soạn dựa theo các bài viết của cựu trung tướng Ngô Quang Trưởng viết cho Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, hồi ký của cựu đại tướng Westmoreland, và tài liệu riêng của VB.
* Biệt khu trưởng Giới tuyến Vũ Văn Giai
Giữa năm 1966, thiếu tá Vũ Văn Giai, nguyên phó tỉnh trưởng Nội an kiêm tiểu khu trưởng Tiểu khu Quảng Nam (tỉnh trưởng lúc đó là một viên chức dân sự), được bổ nhiệm giữ chức trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 Bộ binh Bộ bi kiêm Biệt khu trưởng Biệt khu Giới tuyến. Trung đoàn 2 BB lúc bấy giờ là 1 trong 3 trung đoàn cơ hữu của Sư đoàn 1 Bộ binh mà tư lệnh là đại tá Ngô Quang Trưởng (thăng cấp chuẩn tướng vào tháng 2/1967, thiếu tướng tháng 5/1968, trung tướng tháng 11/1970). Với chức vụ trung đoàn trưởng, thiếu tá Giai được thăng trung tá vào tháng 6/1967, thăng đại tá vào tháng 1/1969. Giữa năm 1969, ông giữ chức chỉ huy trưởng bộ Chỉ huy Tiền phương Sư đoàn 1 Bộ binh đặt tại Đông Hà. Khi Sư đoàn 1 BB tham dự cuộc hành quân Hạ Lào Lam Sơn 719 vào tháng 2/1971, ông là tư lệnh phó của sư đoàn này. Tháng 3/1971, sau khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 kết thúc, đại tá Vũ Văn Giai được thăng chuẩn tướng. Cùng lần thăng thưởng này có chuẩn tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Sư đoàn 1 BB, được thăng thiếu tướng, và đại tá Hồ Trung Hậu, tư lệnh phó Sư đoàn Nhảy Dù, được thăng chuẩn tướng. Tháng 10/1971, chuẩn tướng Giai được Tổng thống VNCH bổ nhiệm giữ chức tư lệnh Sư đoàn 3 BB vừa mới thành lập.
* Thế trận Hè 1967 tại giới tuyến.
Trở lại với chiến trường giới tuyến, từ giữa năm 1966 đến giữa năm 1967, nhiều trận giao tranh đã diễn ra giữa các đơn vị của Trung đoàn 2 Bộ binh, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và các trung đoàn chủ lực của CQ từ Bắc vào. Đến hạ tuần tháng 3/1967, cuộc chiến đã bùng nổ khi Cộng quân áp lực nặng khu vực giới tuyến ở phía Nam sông Bến Hải. Tại khu vực này, cụm tiền cứ của các đơn vị thuộc Trung đoàn 2/Sư đoàn 1 Bộ binh và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ nằm trong tầm tác xạ của pháo binh Cộng quân.
Để có thể phản pháo, Liên quân Việt Mỹ đã điều động một Pháo đội 175 mm của Hoa Kỳ đang hoạt động gần Sài Gòn và tiểu đoàn Pháo binh 175 mm vừa mới đến Việt Nam được đưa thẳng ra Quảng Trị, để phối trí ở Đông Hà, cách Bến Hải gần 20 km đường chim bay. Loại đại bác này có tầm tác xạ 32 km, có thể bắn qua vùng phi quân sự.
Đêm 20 tháng 3/1967, Cộng quân đã khởi động trận cuộc hỏa công, pháo kích vào vị trí đóng quân của các tiểu đoàn thuộc trung đoàn 2 Bộ binh và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ quanh cụm căn cứ Cồn Tiên và Gio Linh (cách Đông Hà khoảng 10 km đường chim bay), với hàng ngàn quả đạn đủ loại, từ súng cối, hỏa tiễn đến đại bác. Riêng tại căn cứ hỏa lực của Liên quân Việt-Mỹ ở Gio Linh, trong hơn hai giờ liền, Cộng quân đã pháo hơn 720 đạn súng cối và phi đạn, ngày hôm sau địch phục kích một đoàn xe chở đạn của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ chỉ cách Gio Linh hơn 3 km. Lúc bấy giờ Cồn Tiên đã trở thành mục tiêu số 1. Các bình luận gia truyền hình và báo chí quốc tế đã gọi đây là điểm chờ Điện Biên Phủ.
* Cộng quân vượt sông Bến Hải, toàn khu giới tuyến sôi động
Đến ngày 6 tháng 4/1967, toàn khu giới tuyến trở thành điểm nóng, Cộng quân đã tung sư đoàn 324B, và sư đoàn 341 tổng trừ bị vượt vĩ tuyến 17 tấn công cường tập vào cụm tuyến phòng ngự dọc bờ Nam sông Bến Hải, đồng thời đánh chiếm một đồn Cảnh sát Quốc Gia ở phía Nam của cầu Hiền Lương, và một số xã thuộc quận Trung Lương (quận giới tuyến); trước đó vào tối 5/1967, Cộng quân đã tấn công vào Yếu khu La Vang ở phía Tây thị xã Quảng Trị, đồng thời pháo kích dữ dội vào tỉnh lỵ, nhiều doanh trại quân sự bị hư hại nặng, đặc công địch đã yểm trợ để tù binh CQ phá nhà giam, vượt thoát.
Tại phía Nam Bến Hải, khi trận chiến xảy ra, thiếu tá Vũ Văn Giai đã chỉ huy Trung đoàn 2 Bộ binh nhanh chóng chận đứng được các đợt xung phong “dọn đường” của 2 trung đoàn thuộc sư đoàn 324 CSBV. Ngày 7 tháng 4/1967, được sự yểm trợ về phi pháo và hải pháo, Trung đoàn 2 Bộ binh và một thành phần thuộc Sư đoàn 3 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã giữ vững cụm tuyến Cồn Tiên và Gio Linh, buộc lực lượng địch phải tạt lên phía Tây Bắc để tránh tổn thất. Theo phân tích của đại tướng Westmoreland, tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam vào thời gian này, thì trận tấn công của 2 sư đoàn CSBV vào khu giới tuyến mang tính cách chiến lược. Cộng quân muốn chọc thủng cụm tuyến phòng ngự của liên quân Việt-Mỹ tại khu phi quân sự (DMZ), để đánh chiếm Quảng Trị, nhưng kế hoạch của Cộng quân đã bị trung đoàn 2 Bộ binh tinh nhuệ của Sư đoàn 1 Bộ binh và 1 trung đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ vô hiệu hóa.
Các trận giao tranh kéo dài đến giữa tháng 4/1967, trong suốt thời gian này, quân trú phòng tại các tiền cứ đã phải “đội mưa pháo hàng ngày”. Một số cựu sĩ quan của trung đoàn 2 Bộ binh đã kể lại là cứ vào rạng sáng, khi tầm quan sát của phi cơ còn bị hạn chế, Cộng quân đã pháo như mưa vào các hào tuyến của quân trú phòng. Nhờ có hệ thống công sự chiến đấu kiên cố và kinh nghiệm chiến trường, các đơn vị trung đoàn 2 Bộ binh đã chịu đựng được trận địa pháo của Cộng quân, sau đó, Không quân Hoa Kỳ xuất trận oanh tạc vào các mục tiêu được ghi nhận là có địch tập trung. Theo ước định của các chuyên viên tình báo, sư đoàn 324B CSBV đã bị thiệt hại gần 1/3 quân số.
Về Trung đoàn 2 Bộ binh, cùng với nỗ lực chận địch, một thành phần của trung đoàn này đã phối hợp cùng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và Cảnh sát Quốc gia đã đưa được hơn 13 ngàn ngàn đồng bào tại hai quận Trung Lương và Gio Linh về tạm cư tại Cam Lộ. Để phối hợp các hoạt động cứu trợ, thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm (lên trung tướng tháng 7/1967), tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 chiến thuật, đã cử đại tá Đỗ Kiến Nhiễu,phụ tá Tư lệnh, trực tiếp điều hợp và giám sát trại tạm cư. (Tháng 6/1968 đại tá Nhiểu được cử làm đô trưởng Sài Gòn, hai năm sau được thăng cấp chuẩn tướng).
* Tướng Vũ Văn Giai và mặt trận Quảng Trị vào tháng 4-5/1972
5 năm sau kể từ khi công khai tung quân vượt sông Bến Hải vi phạm Hiệp định Genève, ngày 30-3-1972, CSBV lại tung một lực lượng gồm 3 sư đoàn chính quy, 4 trung đoàn biệt lập của B-5 tăng cường, 2 trung đoàn chiến xa T-54 và PT-76 với sự yểm trợ của các đơn vị pháo 130 và hỏa tiễn 122 ly, hỏa tiễn địa không SA-2, tất cả đồng loạt vượt qua vùng phi quân sự Bến Hải và từ hướng Tây Bắc Quảng Trị, mở 3 mũi tấn công vào tuyến phòng thủ của Sư đoàn 3 Bộ binh và Lữ đoàn 147 Thủy quân Lục chiến VNCH.
Sau một tháng kịch chiến, trước áp lực quá nặng của CQ, ngày 30 tháng 4/1972, tướng Giai cho triệu tập cấp chỉ huy các đơn vị trực thuộc và tăng phái về họp tại bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 3 Bộ binh đặt trong Cổ Thành Quảng Trị để bàn về kế hoạch triệt thoái về phía Nam sông Bến Hải để lập phòng tuyến mới. Tất cả các đơn vị sẽ bắt đầu di chuyển vào buổi sáng ngày hôm sau, 1 tháng 5. Theo đúng hệ thống quân giai, tướng Vũ Văn Giai đã trình kế hoạch với trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Quân đoàn 1 để xin quyết định.
Theo tài liệu của trung tướng Ngô Quang Trưởng, thì khi nhận được kế hoạch triệt thoái của vị tư lệnh Sư đoàn 3 BB, tướng Lãm lặng thinh như là biểu thị cho một sự đồng ý, dù rằng vị tư lệnh Quân đoàn 1 chưa bao giờ xác nhận sự chấp thuận của ông về kế hoạch rút quân, cũng như ông chưa đưa ra bất cứ một chỉ thị nào cho vị tư lệnh Sư đoàn 3 BB. Thế nhưng, buổi sáng ngày 1 tháng 5/1972, trung tướng Lãm gọi điện thoại cho tướng Giai và nói rằng ông không chấp thuận kế hoạch rút quân, đồng thời ra lệnh cho vị tư lệnh Sư đoàn 3 BB phải chuyển lệnh cho tất cả các đơn vị là giữ yên vị trí hiện tại và tử thủ bằng mọi giá. Sau này người ta được biết lệnh của trung tướng Hoàng Xuân Lãm là sự lập lại các chỉ thị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Thế nhưng, tất cả đã quá muộn, tướng Vũ Văn Giai không có đủ thời gian để thu hồi quân lệnh mà ông đã ban ra trước khi tướng Lãm gọi cho ông. Và ngày 1 tháng 5/1972, cuộc triệt thoái đã diễn ra trong bi tráng, đó là ngày dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của tướng Vũ Văn Giai.
vietbao.com
Sinh Tồn chuyển