Văn Học & Nghệ Thuật
Vai trò của người Việt hải ngoại với nền văn học miền Nam
Chúng ta mất miền Nam. Chúng ta mất tất cả. Mất đất, mất người, mất sự nghiệp, mất thể chế, mất tương lai, mất cuộc sống tự do an bình, mất cả di sản tinh thần, cái hồn tính miền Nam.
Vai trò trách nhiệm của người Việt hải ngoại là sưu tầm và xây dựng lại nền Văn học miền Nam trước 1975
Nguyễn Văn Lục
-----------------------------
(1) Xem thêm bài viết cùng tác giả: Sách cũ miền Nam.
(2) Lấy lại ý của tác giả Đoàn Thanh Liêm trong bài điểm sách cuốn Europe’s promise
(3) Trích báo Nhân Dân ngày 26-6-1976
(4) Xem Trần Trong Đăng Đàn trong Văn Hóa, Văn Nghệ Nam Việt Nam
(5) Cuốn De Gaulle, mon père, do Philiipe De Gaulle viết, trang 359
(6) Philippe De Gaulle, Ibid, trang 351. Si vous touchez à un seul de nos monuments publics, pas un Allemand ne survivra.
(7) Xem thêm bài viết: Phê phán cuốn Cuộc xâm lăng về Văn hóa và Tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam
(8) Trích Bảo Ninh, Hà Nội lúc không giờ, trang 83, nxb Văn Hóa Thông Tin, 2002.
(9) Thụy Khuê: Văn Học miền Nam 1954-75 theo cách nhìn của Vương Trí Nhàn hôm nay. RFI, ngày 14 và 21-6-2008
(10) Trích phỏng vấn của Thụy Khuê, ibid.
(11) Nguyễn văn Lục, Sách cũ miền Nam
© 2017 DCVOnline
"Chúng ta mất miền Nam. Chúng ta mất tất cả. Mất đất, mất người, mất
sự nghiệp, mất thể chế, mất tương lai, mất cuộc sống tự do an bình, mất
cả di sản tinh thần, cái hồn tính miền Nam."
Vai trò trách nhiệm của người Việt hải ngoại là sưu tầm và xây dựng lại nền Văn học miền Nam trước 1975
Mất thì phải đòi, đòi cái gì còn có thể đòi lại được trong tầm tay.
Trong đó có nền văn học miền Nam mà chúng ta phải tìm cách khôi phục
lại. Phải đi tìm, phải đào xới, phải in lại, phải số hoá những đứa con
tinh thần tưởng đã bị chôn vùi trên những đống đổ nát quá khứ.
Công việc làm ấy là công khó, nhưng là công việc hợp với lẽ tự nhiên, ta không làm thì ai làm. Một trong những cái có thể đòi, có thể tái xây dựng là nền văn học miền Nam.
Cái kinh nghiệm đi tim lại chân diện miền Nam có nhiều kỳ tích lắm đáng nói lắm. Một nhà văn trẻ trong quân đội miền Nam đã kể lại trong Thư Quán Bản Thảo do nhà văn Trần Hoài Thư hiện đang điều hành. Trong đó, anh kể lại tình cờ nhặt được một mảnh giấy báo gói xôi, hóa ra lại chính là bài thơ của anh đăng trên Khởi Hành thì phải. Còn gì đẹp và cảm động hơn thế nữa.
Bản thân tôi muốn tìm lại cuốn Hồi Chuông Tắt Lửa của Thế Nguyên – một cuốn truyện được in ra vào thập niên 1970 mà ở thời điểm đó nội dung câu truyện đã gây một cú sốc trong tôi; đã vô vọng nhưng tôi vẫn viết rao trên báo. Chẳng bao lâu sau, tôi nhận được từ nhà văn Ngô Thế Vinh, bản sao cuốn truyện đó.
Tôi cũng muốn tìm lại tập sách nhan đề “Tuổi trẻ Sài gòn, Mậu Thân 1968”. Đã tìm ra, nhưng người bán sách đòi một giá quá cao đến nỗi không thể mua nổi.
Những chuyện đi tìm về quá khứ di sản miền Nam mang nhiều ý nghĩa cao đẹp như thế. Tôi đã sống cái tâm tình đó khi đi về miền Nam thân yêu tìm lại sách cũ.(1)
Và dĩ nhiên sẽ còn nhiều câu chuyện cảm động về những đứa con tinh thần đã lưu lạc sau tìm lại được.
Cho nên, tất cả những ai cách này cách khác khôi phục lại diện mạo văn hóa, văn học miền Nam thì chúng ta đều trân trọng. Ngay cả những nhà văn miền Bắc trước đây do tuyền truyền, do những lý do của lý do đã có lúc nhục mạ, phê phán sai lầm về gia tài văn học của miền Nam nay đổi chiều xin cũng rộng tay đón tiếp.
Không quên quá khứ, nhưng có những điều cần phải quên.
Sự thay đổi cách đánh giá về văn học miền Nam của một số những nhà văn miền Bắc trước đây phải coi là dấu hiệu tốt đẹp.
Ít lắm nó dẹp bỏ được cái não trạng winner-take-all, kẻ thắng thì vơ vét hết về cho mình.
Ở một tầm cao hơn nữa, nó thể hiện điều mà Alexis de Tocqueville trong cuốn Democracy in America viết năm 1835 như sau: Sự cao cả vĩ đại của người Mỹ không phải chỉ đơn thuần là do họ sáng suốt hơn các dân tộc khác, mà là do họ có khả năng sửa chữa những lỗi lầm của mình.(2)
Ý nghĩa cao đẹp ấy nằm trong cách thức mà một số nhà văn miền Bắc đã bắt đầu nhìn lại.
Tôi xin lấy lại một lời tuyên bố của tướng De Gaulle, “Mỗi một cuốn sách là một con người. Cho nên đi tìm lại sách cũ miền Nam là đi tìm lại một phần đời của chính bản thân mình.”
Những điều cần nhớ, cần nhắc lại
Khi chiếm xong miền Nam, người cộng sản có một chính sách khủng bố mang tính chất nhà nước là xóa bỏ toàn diện vết tích miền Nam về mặt thể chế, mặt kinh tế, mặt xã hội và cả về mặt văn học.
Thực tế là xóa bỏ con người miền Nam được coi là quá nhiễm độc một thứ văn hóa của thực dân mới, một thứ văn hóa đồi trụy, một thứ văn hóa phản động.
Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng trong kỳ họp Quốc Hội đã chủ trương:
“Phải nhổ tận gốc rễ những nọc độc về tư tưởng văn hóa thực dân mới mà đế quốc Mỹ đã gieo trồng ở miền Nam Việt Nam. Đó là thứ văn hóa, nô dịch, lai căng, đồi trụy cực kỳ phản động cùng các hủ tục, mê tín, dị đoan lan tràn.”(3)
Phần tôi, cho đến hiện nay, sau 38 năm tôi kể từ ngày mất miền Nam vẫn chưa tìm ra được bằng cớ xác thực Mỹ đã đầu độc dân miền Nam bằng thứ văn hóa thực dân mới, đồi trụy, phản động là thứ văn hóa gì. Và cũng hơn 30 năm ở xứ người, tôi chỉ nhận ra những điều tốt đẹp mà xứ sở này dành cho những người dân Việt tỵ nạn.
Chúng tôi có một cuộc sống mà con người được nhìn nhận và tôn trọng. Dựa theo tinh thần tôn giáo, tôi có được đọc một cuốn sách nhan đề rất là kỳ diệu: Dieu est né en exil (God was born in Exile).
Chúa còn phải sinh ra trong hoàn cảnh lưu đầy thì phần chúng ta có sá gì. Phần Chúa đã vậy thì phần chúng ta là gì trong ý nghĩa của chữ lưu vong. Và một lúc nào rảnh rỗi phải mổ xẻ chi ly hai chữ emigrant và exil mới được.
Vì thế trong việc xóa bỏ văn hóa miền Nam, nhà cầm quyền cộng sản đã tiến hành hai bước:
Ngay trước khi chiếm được miền Nam thì chính quyền cộng sản miền Bắc đã tiến hành một cuộc tuyên truyền nhằm đánh phá miền Nam liên tục trong nhiều năm trời. Theo Phan Cư Đệ và Hà Minh Đức thì đã có 286 bài phê bình đủ loại, đăng tải trên các tạp chí như Học Tập, Văn Học và Văn Nghệ. Vì đối với người cộng sản theo Marx, phê bình là một thứ võ khí. Đối tượng của phê bình chính là kẻ thù mà nó muốn tiêu diệt
Cho nên, Lê Duẩn, sau 1975 ngay trong Đại hội 5 đã chỉ thị, “Sau ngày giải phóng, nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hóa ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để.”(4)
Những lời tuyên bố có tính sắt máu của Lê Duẩn phải được coi là mang mầm mống một ý thức hệ cực đoan ‘tập thể’ như một thứ cực đoan tôn giáo mà thực chất cả hai thứ cực đoan tôn giáo và cực đoan chính trị chỉ là một.
Nghĩ đến cảnh tiêu hủy hàng triệu cuốn sách của miền Nam, tôi liên tưởng đến câu chuyện trong thế chiến thứ hai, tại Normandie, hình như ở vùng Basse-Normandie, có nhiều cây sồi lâu từ 100 năm đến 2, 3 trăm năm, nơi quân đội đồng minh đổ bộ. Một người dân làng muốn bảo vệ cây sồi đã gắn một tấm bảng yêu cầu đôi bên đừng phá hủy cây sồi.
Sau chiến tranh, cây sồi còn nguyên vẹn.
Một cây sồi thôi còn có một giá trị như một di sản văn hóa, được đôi bên tôn trọng. Câu chuyện đó giúp người hiểu biết đánh giá về tư cách những người đi giải phóng. Một câu truyện khác, tôi đọc trong cuốn Hồi ký của con trai De Gaulle.(5) Ngay sáng hôm sau, ngày giải phóng Paris, tướng De Gaulle đã đi bộ về khu Saint-Francois Xavier, nơi ông ở trước khi lưu vong sang Anh. De Gaulle vui mừng thốt lên: “Rien n’a changé, J’ai tout revu”. Đã không có gì thay đổi, tôi đã xem lại tất cả. Và tôi có cảm tưởng như mới rời nơi đây ngày hôm qua. (Ông đã rời Paris ngày 10-6-1940). Hai bàn máy đánh chữ vẫn còn như cũ, cây kiếm kỷ niệm, ngày ra trường võ bị Saint-Cyr còn đó.
Điều gì đã làm cho quân đội Phát Xít Đức không đụng chạm đến căn nhà của De Gaulle?
Cũng trong tinh thần bảo vệ cung điện, bảo tàng của Pháp, tướng Leclerc trước khi tiến vào Paris đã gửi công điện cảnh cáo binh lính Đức rằng, “Nếu các ông phá hủy một trong những di tích lịch sử của Paris, không một người lính Đức nào sẽ có thể sống còn.”(6)
Vậy mà người dân vùng Ninh Bình, Thanh Hóa còn nhớ Hồ Chí Minh đã áp dụng chiến thuật nhà không vườn trống, đốt sạch, phá sạch để cho quân đội Pháp không thể dựa vào dân.
Để thực hiện công tác xóa bỏ văn học miền Nam này thì có một đội ngũ cán bộ đặc trách là Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Phan Đắc Lập, Thái Kế Toại, Lê Dình Ky, Vũ Hạnh ngay cả Trần Văn Giàu (Trần Văn Giàu viết hẳn một cuốn sách phê bình cuốn Nhận Định IV của Nguyễn Văn Trung) cũng tham gia vào công tác bài trừ này.
Nhưng có hai tác giả được coi là viết với nhiều tài liệu dẫn chứng được coi là có căn cơ nhất và cũng thâm độc nhất: Đó là Lữ Phương với cuốn: Cuộc xâm lăng về Văn hóa và tư tưởng của Đế Quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam (1980).(7)
Người thứ hai là Trần Trọng Đăng Đàn, Tổng biên tập Tạp chí Khoa Học Xã hội với nhiều tác phẩm trong nhiều thời kỳ liên tục như: Nọc độc văn học thực dân mới, tập I, 1983, tập II, 1987. Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-1975, tập I, 1988, tập II, 1991. Và cuốn sách chủ yếu của ông là cuốn Văn Hóa, Văn Nghệ, phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại miền Nam-1990.. Sách này còn được in lại năm 2000.
Cho đến hiện nay, cho đến năm 2000, chính sách khủng bố mang tính nhà nước vẫn còn được chính thức lưu truyền. Cho nên, chúng ta cần phân biệt giữa chính sách của nhà nước cộng sản và thái độ của các nhà văn miền Bắc về chính sách ấy.
Có những chuyển biến rõ ràng về phía các nhà văn, nhưng lại tỏ ra trì trệ và quá cứng nhắc về phía chính quyền cộng sản.
Vì thế cho đến nay, năm 2015, tôi đã nhìn thấy một số chuyển biến tích cực ở bình diện cá nhân hơn là ở chính sách nhà nước.
Thứ nhất là sự phủ nhận chính những tác phẩm của chính mình
Sự phủ nhận chính mình là điều không dễ. Người ta thường cố bảo vệ những điều đã viết ra, dù sau này biết rằng những nhận thức của mình có thể đã lỗi thời hoặc đã bị vượt qua. Có những cái chỉ đúng cho một thời kỳ mà trở thành tai hại ở thời kỳ khác.
Vì thế, sự thay đổi, sự chuyển biến tư tưởng mang tính biện chứng trong tri thức luận, trong nhận thứcc của đời thường. Và đôi khi không ai trung thành với chính mình ở chính lúc mà chúng ta thay đổi.
Thay đổi là biểu hiện của sự trung thành hơn là một phản bội.
Và nay nhiều nhà văn đã có thái độ chuyển biến tư tưởng mà không do bất cứ một thúc ép bắt nguồn từ chính trị nào. Nhưng là do một thúc bách của sự thật và lẽ phải.
Lữ Phương đã kín đáo loại bỏ cuốn Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của Đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam ra khỏi danh sách các sách của ông.
Đỗ Đức Hiếu cũng mộc cách nào đó không muốn nhắc đến cuốn: Phê Phán Văn học hiện sinh chủ nghĩa.
Lê Đình Ky cũng đã dứt khoát không đưa cuốn: Nhìn lại tư tưởng Văn nghệ thời Mỹ Ngụy vào danh sách các tác phẩm đã in của ông.
Bảo Ninh, tác giả Nỗi Buồn Chiến Tranh và trong cuốn Hà Nội lúc không giờ, trong đó có chuyện ngắn Rửa tay gác kiếm đã miệt thị các nhà văn miền Nam khi cho rằng, các tác phẩm của họ chỉ dùng làm giấy đi cầu như trường hợp Chu Tử, Xuân Vũ, v.v..(8)
Nhưng sau này theo nhà phê bình Vương Trí Nhàn kể lại trong bài phỏng vấn của Thụy Khuê, ông có đưa cuốn Dấu Binh Lửa của Phan Nhật Nam cho Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu đọc. Cả hai đều nhìn nhận rất trân trọng, kính nể Phan Nhật Nam. Riêng Bảo Ninh sau khi đọc Dấu binh lửa của Phan Nhật Nam xong thì tiếc rằng: “Nếu tôi có cơ hội được đọc cuốn này trước thì có lẽ tôi sẽ viết khác đi. Và những cuốn sách viết về Chiến tranh như Dấu Binh Lửa của Phan Nhật Nam mà bọn tôi đọc thì không thể quên nổi và ở chỗ đó, nó cho thấy sự cần thiết về sự đóng góp của văn học miền Nam của một thời.”(9)
Tôi xin nhắc lại, ít lắm nó dẹp bỏ được cái não trạng winner-take-all, kẻ thắng thì vơ vét hết về cho mình.
Nhưng điều đó cũng cho thấy rằng những việc họ bắt buộc phải lên gân chửi văn học miền Nam có thể chỉ là hùa theo chính sách, không nói không được. Nó giống như cái cảnh tượng một người cán bộ đi dự một buổi mít tinh mà nhà nước đưa mấy phi công Mỹ đi trên đường phố để cho dân chúng tha hồ chửi, đánh cũng có. Anh cán bộ bắt buộc làm theo đám đông cũng dơ tay đánh dứ người phi công Mỹ đi qua để che mắt người khác.
Hiểu hoàn cảnh như thế nên khi tôi đọc Trần Văn Giàu trong cuốn Nhận Định về cuốn Nhận Định của Nguyễn Văn Trung, tôi có cảm tưởng ông chỉ giả vờ chửi Nguyễn Văn Trung mà điều chính yếu chính là ông Trần Văn Giàu muốn gián tiếp trình bày toàn bộ triết học hiện sinh theo cách nhìn của Nguyễn Văn Trung.
Người ta cũng sẽ có một cảm tưởng tương tự khi đọc Lê Đình Ky. Ông cũng đã dành phần lớn bài viết của mình viết về triết lý hiện sinh ở miền Nam do Nguyễn Văn Trung chủ trương.
Nói tắt một lời chửi mà thực sự không phải là chửi. Nhưng dùng cơ hội chửi đó để triển khai một đề tài triết học mà các ông tâm đắc.
Ngoài những người trực tiếp phê phán văn học Mỹ Ngụy ở trên, còn có một số nhà văn ở miền Bắc, bằng cách kín đáo, họ bày tỏ một sự trân trọng và quý mến các nhà văn miền Nam. Theo ý kiến của Vương Trí Nhàn thì sau 1954, các nhà văn miền Bắc ít có cơ hội đọc sách vở của miền Nam. Tuy nhiên những nhà văn như Nguyễn Tuân, Nguyễn Thanh Long, Xuân Diệu, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu hay lớp trẻ hơn như Lưu Quang Vũ, Bằng Việt hay Trúc Thông đã lặng lẽ tìm kiếm các sách, tài liệu miền Nam để đọc.(10)
Bên cạnh đó, các nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, nhà văn Nguyên Ngọc cũng có cái nhìn chia xẻ về văn miền Nam.
Phần chúng tôi, những người miền Nam được may mắn sống trong một chế độ cởi mở hơn, chúng tôi có nhiều cơ hội được tự do tìm đọc thơ Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, đọc các chuyện của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố v.v..
Riêng trường hợp Nam Cao, giáo sư Nguyễn Văn Trung đã dùng truyện Chí Phèo làm đề tài nghiên cứu văn học ở Đại Học văn khoa Sài gòn. Gs Trần văn Toàn (vừa quá vãng) đã khệ nệ bê nguyên con triết học Karl Marx-Hegel công khai vào giảng đường Văn Khoa Sài Gòn cho thấy sự tự trị đại học ở miền Nam như thế nào.
Sự phân biệt giữa chính trị và văn hóa đem lại cái lợi thế và cái may mắn cho những người sống ở miền Nam hơn ở miền Bắc.
Thứ hai, việc cho xuất bản lại các tác giả trước 1975 là một dấu hiệu tốt bắt đầu
Trong cái tinh thần muốn tìm về quá khứ, muốn vượt qua những hàng rào cản vướng mắc ngăn chặn của một quá khứ cay nghiệt, tôi đã tìm và mua được một số sách triết học trước 1975 được in lại như các cuốn: Martin Heidegger, Tư tưởng và hiện đại của Bùi Giáng, các bộ Lịch sử Triết Học Tây Phương của Lê Tôn Nghiêm, nhất là cuốn Triết Học Hiện sinh của Trần Thái Đỉnh.
Về sách Văn Học, cuốn 13 năm tranh luận văn học, gồm 3 tập của Thanh Lãng đã được in lại (Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1997 gồm bốn tập. Tạp chí Tri Tân, 1941-1945, Phê Bình Văn Học cũng đã được Nhà xuất bản Nội Nhà Văn cho in lại.)
Mặc dầu không thuộc di sản tinh thần của 20 năm Văn học miền Nam, nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế đã cho in lại 4 tập Những người bạn cố đô Huế (Bulletin des amis du vieux Hue, 1914-1944 một công trình biên khảo kéo dài trong suốt 30 năm trời do học giả L. Cadière làm chủ bút. Cũng nhà xuất bản này đã cho in lại bộ Đại Nam liệt truyện thuộc Quốc Sử Giám triều Nguyễn.
Chúng tôi cũng thấy sự cố gắng của nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội đã cho in bốn tập, dày hàng mấy ngàn trang, Tinh Tuyển Văn học Việt Nam, cũng dày khỏang hơn 4000 trang, in giyấ mỏng, bìa cứng..
Và mới đây, cuốn Lục Châu Học của Nguyễn Văn Trung đã được xuất bản vào cuối năm 2014. Cuốn sách Lục Châu Học nhằm trả lại vị trí xứng tầm của một mảnh văn học miền Nam thường bị bỏ quên và bỏ qua trong suốt cả một thế kỷ dưới thời Pháp thuộc.
Tôi cũng ngạc nhiên thấy việc tái xuất bản các sách của Phạm Quỳnh như 10 ngày ở Huế-Luận giải văn học và triết học, Thượng chi văn tập, v.v.. Và cũng một cách thức như vậy, các tiểu thuyết của nhóm Tự Lực Văn Đoàn như các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng cũng tùy theo cuốn đã được tái xuất bản, v.v..
Mặc dầu chỉ là nhà thơ, Mê Hồn Ca của thi sĩ Đinh Hùng cũng như Mặc Khách Saigòn của Tô Kiều Ngân đã có dịp xuất hiện trên các kệ sách ở Sài Gòn.
Một cái đặc biệt trong những cái đặc biệt là một vài cuốn sách sử của Tạ Trí Đại Trường như, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1871-1802, hay Người lính thuộc địa Nam Kỳ cũng được tái xuất bản.
Nhà văn thì có thể mới có Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mộng Giác mà khi sách của Dương Nghiễm Mậu được in ra đã gây một vài tiếng ồn ào, bất bình. Đặc biệt từ phía nhà văn nằm vùng ở miền Nam, ông Vũ Hạnh.
Tuy nhiên, trong các cuốn sách được tái xuất bản mà tôi tâm đắc và thích thú hơn cả là cuốn: Việt Nam Văn học sử, giản ước tân biên, gồm ba tập của giáo sư Phạm Thế Ngũ.
Nếu về Sử học, xin chọn cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thì về văn học, xin chọn sách của Phạm Thế Ngũ.
Việc tìm hiểu số sách miền Nam được in lại, tái xuất bản người viết bài này không có điều kiện để cập nhật, xin ghi lại trong chừng mực có thể mà không dám nói là đầy đủ.
Ngoài những nhà xuất bản in lại sách cũ như vừa nêu ra ở trên. Ở Sài gòn ngay sau 1975 được ít lâu đã nảy sinh ra các tiệm sách dạo, bày bán trên vỉa hè.. Trong một bài viết cũ,(11) tôi nhận thấy một hiện tượng đảo ngược: Sách càng bị cấm, càng có nhiều người tìm đọc, ngay cả cán bộ miền Bắc vào Nam cũng tìm mua. Vỉa hè bày bán các sách của nhà nước cho phép, giấy xấu, in nhem nhuốc.
Đó là loại sách ‘đồng phục’, in ấn xấu xí mà nội dung cũng chẳng ra làm sao. Chẳng hạn các cuốn 10 ngày của Bôcaxiô. Thằng cười dịch của Victor Hugo. Cửa hàng vì hạnh phúc của các bà, dịch của E. Zôla. (Thật ra nhan đề cuốn sách của E. Zola là: Au bonheur des dames. Khong hiểu vì sao lại dịch là cửa hàng vì hạnh phúc các bà). Tuổi thơ mãi mãi cùng ta cùng M. Karim. Tôi có mua một ít mang sang đây, nhưng cũng không có dịp mở ra đọc. Nhưng nếu ai muốn mua sách cũ là người nhà của tiệm sách chạy đi một lát là mang về sách ‘phản động’. Chỉ phải tội giá cả sách tùy thuộc vào người mua và tùy thuộc vào tác giả và giá có đắt hơn nhiều lần so với sách bày công khai.
Sau này, tôi vẫn tìm mua được sách cũ miền Nam với giá vài đô la, một cuốn. Cuốn sách tôi phải trả giá cao nhất cách đây khỏang gần 10 năm là 30 đô la cho cuốn: Quốc triều Hương khoa lục của cụ Cao Xuân Dục.
Nay thì giá đắt đến nỗi không tài nào mua nổi. Một tiệm bán sách ở Cần Thơ rao bán trên mạng một tập nội san của sinh viên Sài gòn với giá 200 đô la. Cuốn Việt-Hán Văn khảo giá 300 đô la. Cuốn Bảng lược đồ lịch sử văn học Việt Nam giá 300 đô. Tập san Đứng Dậy của Nguyễn Ngọc Lan và Chân Tín giá trung bình 70 đô la một cuốn.
Thứ ba, công việc khôi phục lại Văn Học miền Nam còn là một đoạn đường dài, phải mất nhiều năm tháng và khổ công
Cứ theo Trần Trọng Đăng Đàn thì có vào khoảng 2721 tác giả nhà văn, nhà báo, dịch giả, nhà biên khảo, giáo sư, trí thức có các tác phẩm để lại. Mặc dầu đã có chỉ thị phân loại các sách, nhưng trên thực tế chẳng ai có trách nhiệm thi hành. Họ đã dùng trẻ con đi đến các nhà, dùng xe ba gác, đánh trống để tịch thu. Hễ cứ là sách là tiêu hủy tất cả.
Cứ giả dụ trung bình mỗi tác giả có năm tác phẩm đã xuất bản. Như vậy có trên 10 ngàn tác phẩm dã xuất bản. Và trung bình mỗi tựa sách ở miền Nam thời đó in là 3000 cuốn. Nếu kể thêm các sách giáo khoa kỹ thuật khoảng chừng 2000 tác giả. Mỗi tác giả có năm tác phẩm sẽ có thêm 10 ngàn tựa sách, cũng in 3000 nghìn cuốn. Nếu kể thêm các tác phẩm dịch mà có cuốn được in đi in lại đến 10 lần.
Và nếu cộng thêm các tập san đủ loại thì đã có khoảng hơn 300 tập san như thế.
Con số sách do các nhà xuất bản như Nam Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hóa Á Châu, Diên Hồng, Trình Bày, Khai Trí, Xưa Nay, Lá Bối, An Tiêm là 200 triệu cuốn sách trong 20 năm
Tôi chỉ kể một vài tập san tiêu biểu như tập san Đại Học Huế mà tôi vừa thực hiện việc điện toán toàn bộ gồm khoảng 6000 trang tài liệu.
6000 trang tài liệu của trên dưới hơn 100 nhà biên khảo, trí thức, giáo sư đại học- những thành phần ưu tú nhất của miền Nam- về các lãnh vực, triết học, sử học, ngôn ngữ học, văn học bỗng chố tan biền hết.
Còn có nỗi mất mát nào lớn hơn nữa không.
Chúng ta sẽ có khoảng hơn 10 triệu cuốn sách bị tịch thu và phá hủy.
Chỉ nghĩ đến điều đo thôi đã thấy rùng mình.
Có người liên tưởng việc đốt sách này đến việc Phần Thư Khanh Nho(đốt sách chôn nho) của bạo chúa Tần Thủy Hoàng. Lấy việc xưa mà nói việc ngày nay thì cũng có nhiều điều khiên cưỡng. Việc đốt sách đời Tần là dốt sách của ngoại lai. Người đề xướng ra việc đốt sách là Lý Tư chứ không phải Tần Thủy Hoàng
Còn việc tịch thu, đốt sách thời Lê Duẩn là do ai chủ xướng, ai đề ra?
Chắc chắn là không có câu trả lời.
Công việc làm ấy là công khó, nhưng là công việc hợp với lẽ tự nhiên, ta không làm thì ai làm. Một trong những cái có thể đòi, có thể tái xây dựng là nền văn học miền Nam.
Cái kinh nghiệm đi tim lại chân diện miền Nam có nhiều kỳ tích lắm đáng nói lắm. Một nhà văn trẻ trong quân đội miền Nam đã kể lại trong Thư Quán Bản Thảo do nhà văn Trần Hoài Thư hiện đang điều hành. Trong đó, anh kể lại tình cờ nhặt được một mảnh giấy báo gói xôi, hóa ra lại chính là bài thơ của anh đăng trên Khởi Hành thì phải. Còn gì đẹp và cảm động hơn thế nữa.
Bản thân tôi muốn tìm lại cuốn Hồi Chuông Tắt Lửa của Thế Nguyên – một cuốn truyện được in ra vào thập niên 1970 mà ở thời điểm đó nội dung câu truyện đã gây một cú sốc trong tôi; đã vô vọng nhưng tôi vẫn viết rao trên báo. Chẳng bao lâu sau, tôi nhận được từ nhà văn Ngô Thế Vinh, bản sao cuốn truyện đó.
Tôi cũng muốn tìm lại tập sách nhan đề “Tuổi trẻ Sài gòn, Mậu Thân 1968”. Đã tìm ra, nhưng người bán sách đòi một giá quá cao đến nỗi không thể mua nổi.
Những chuyện đi tìm về quá khứ di sản miền Nam mang nhiều ý nghĩa cao đẹp như thế. Tôi đã sống cái tâm tình đó khi đi về miền Nam thân yêu tìm lại sách cũ.(1)
Và dĩ nhiên sẽ còn nhiều câu chuyện cảm động về những đứa con tinh thần đã lưu lạc sau tìm lại được.
Cho nên, tất cả những ai cách này cách khác khôi phục lại diện mạo văn hóa, văn học miền Nam thì chúng ta đều trân trọng. Ngay cả những nhà văn miền Bắc trước đây do tuyền truyền, do những lý do của lý do đã có lúc nhục mạ, phê phán sai lầm về gia tài văn học của miền Nam nay đổi chiều xin cũng rộng tay đón tiếp.
Không quên quá khứ, nhưng có những điều cần phải quên.
Sự thay đổi cách đánh giá về văn học miền Nam của một số những nhà văn miền Bắc trước đây phải coi là dấu hiệu tốt đẹp.
Ít lắm nó dẹp bỏ được cái não trạng winner-take-all, kẻ thắng thì vơ vét hết về cho mình.
Ở một tầm cao hơn nữa, nó thể hiện điều mà Alexis de Tocqueville trong cuốn Democracy in America viết năm 1835 như sau: Sự cao cả vĩ đại của người Mỹ không phải chỉ đơn thuần là do họ sáng suốt hơn các dân tộc khác, mà là do họ có khả năng sửa chữa những lỗi lầm của mình.(2)
Ý nghĩa cao đẹp ấy nằm trong cách thức mà một số nhà văn miền Bắc đã bắt đầu nhìn lại.
Tôi xin lấy lại một lời tuyên bố của tướng De Gaulle, “Mỗi một cuốn sách là một con người. Cho nên đi tìm lại sách cũ miền Nam là đi tìm lại một phần đời của chính bản thân mình.”
Những điều cần nhớ, cần nhắc lại
Khi chiếm xong miền Nam, người cộng sản có một chính sách khủng bố mang tính chất nhà nước là xóa bỏ toàn diện vết tích miền Nam về mặt thể chế, mặt kinh tế, mặt xã hội và cả về mặt văn học.
Thực tế là xóa bỏ con người miền Nam được coi là quá nhiễm độc một thứ văn hóa của thực dân mới, một thứ văn hóa đồi trụy, một thứ văn hóa phản động.
Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng trong kỳ họp Quốc Hội đã chủ trương:
“Phải nhổ tận gốc rễ những nọc độc về tư tưởng văn hóa thực dân mới mà đế quốc Mỹ đã gieo trồng ở miền Nam Việt Nam. Đó là thứ văn hóa, nô dịch, lai căng, đồi trụy cực kỳ phản động cùng các hủ tục, mê tín, dị đoan lan tràn.”(3)
Phần tôi, cho đến hiện nay, sau 38 năm tôi kể từ ngày mất miền Nam vẫn chưa tìm ra được bằng cớ xác thực Mỹ đã đầu độc dân miền Nam bằng thứ văn hóa thực dân mới, đồi trụy, phản động là thứ văn hóa gì. Và cũng hơn 30 năm ở xứ người, tôi chỉ nhận ra những điều tốt đẹp mà xứ sở này dành cho những người dân Việt tỵ nạn.
Chúng tôi có một cuộc sống mà con người được nhìn nhận và tôn trọng. Dựa theo tinh thần tôn giáo, tôi có được đọc một cuốn sách nhan đề rất là kỳ diệu: Dieu est né en exil (God was born in Exile).
Chúa còn phải sinh ra trong hoàn cảnh lưu đầy thì phần chúng ta có sá gì. Phần Chúa đã vậy thì phần chúng ta là gì trong ý nghĩa của chữ lưu vong. Và một lúc nào rảnh rỗi phải mổ xẻ chi ly hai chữ emigrant và exil mới được.
Vì thế trong việc xóa bỏ văn hóa miền Nam, nhà cầm quyền cộng sản đã tiến hành hai bước:
Ngay trước khi chiếm được miền Nam thì chính quyền cộng sản miền Bắc đã tiến hành một cuộc tuyên truyền nhằm đánh phá miền Nam liên tục trong nhiều năm trời. Theo Phan Cư Đệ và Hà Minh Đức thì đã có 286 bài phê bình đủ loại, đăng tải trên các tạp chí như Học Tập, Văn Học và Văn Nghệ. Vì đối với người cộng sản theo Marx, phê bình là một thứ võ khí. Đối tượng của phê bình chính là kẻ thù mà nó muốn tiêu diệt
Cho nên, Lê Duẩn, sau 1975 ngay trong Đại hội 5 đã chỉ thị, “Sau ngày giải phóng, nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hóa ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để.”(4)
Những lời tuyên bố có tính sắt máu của Lê Duẩn phải được coi là mang mầm mống một ý thức hệ cực đoan ‘tập thể’ như một thứ cực đoan tôn giáo mà thực chất cả hai thứ cực đoan tôn giáo và cực đoan chính trị chỉ là một.
Nghĩ đến cảnh tiêu hủy hàng triệu cuốn sách của miền Nam, tôi liên tưởng đến câu chuyện trong thế chiến thứ hai, tại Normandie, hình như ở vùng Basse-Normandie, có nhiều cây sồi lâu từ 100 năm đến 2, 3 trăm năm, nơi quân đội đồng minh đổ bộ. Một người dân làng muốn bảo vệ cây sồi đã gắn một tấm bảng yêu cầu đôi bên đừng phá hủy cây sồi.
Sau chiến tranh, cây sồi còn nguyên vẹn.
Một cây sồi thôi còn có một giá trị như một di sản văn hóa, được đôi bên tôn trọng. Câu chuyện đó giúp người hiểu biết đánh giá về tư cách những người đi giải phóng. Một câu truyện khác, tôi đọc trong cuốn Hồi ký của con trai De Gaulle.(5) Ngay sáng hôm sau, ngày giải phóng Paris, tướng De Gaulle đã đi bộ về khu Saint-Francois Xavier, nơi ông ở trước khi lưu vong sang Anh. De Gaulle vui mừng thốt lên: “Rien n’a changé, J’ai tout revu”. Đã không có gì thay đổi, tôi đã xem lại tất cả. Và tôi có cảm tưởng như mới rời nơi đây ngày hôm qua. (Ông đã rời Paris ngày 10-6-1940). Hai bàn máy đánh chữ vẫn còn như cũ, cây kiếm kỷ niệm, ngày ra trường võ bị Saint-Cyr còn đó.
Điều gì đã làm cho quân đội Phát Xít Đức không đụng chạm đến căn nhà của De Gaulle?
Cũng trong tinh thần bảo vệ cung điện, bảo tàng của Pháp, tướng Leclerc trước khi tiến vào Paris đã gửi công điện cảnh cáo binh lính Đức rằng, “Nếu các ông phá hủy một trong những di tích lịch sử của Paris, không một người lính Đức nào sẽ có thể sống còn.”(6)
Vậy mà người dân vùng Ninh Bình, Thanh Hóa còn nhớ Hồ Chí Minh đã áp dụng chiến thuật nhà không vườn trống, đốt sạch, phá sạch để cho quân đội Pháp không thể dựa vào dân.
Để thực hiện công tác xóa bỏ văn học miền Nam này thì có một đội ngũ cán bộ đặc trách là Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Phan Đắc Lập, Thái Kế Toại, Lê Dình Ky, Vũ Hạnh ngay cả Trần Văn Giàu (Trần Văn Giàu viết hẳn một cuốn sách phê bình cuốn Nhận Định IV của Nguyễn Văn Trung) cũng tham gia vào công tác bài trừ này.
Nhưng có hai tác giả được coi là viết với nhiều tài liệu dẫn chứng được coi là có căn cơ nhất và cũng thâm độc nhất: Đó là Lữ Phương với cuốn: Cuộc xâm lăng về Văn hóa và tư tưởng của Đế Quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam (1980).(7)
Người thứ hai là Trần Trọng Đăng Đàn, Tổng biên tập Tạp chí Khoa Học Xã hội với nhiều tác phẩm trong nhiều thời kỳ liên tục như: Nọc độc văn học thực dân mới, tập I, 1983, tập II, 1987. Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-1975, tập I, 1988, tập II, 1991. Và cuốn sách chủ yếu của ông là cuốn Văn Hóa, Văn Nghệ, phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại miền Nam-1990.. Sách này còn được in lại năm 2000.
Cho đến hiện nay, cho đến năm 2000, chính sách khủng bố mang tính nhà nước vẫn còn được chính thức lưu truyền. Cho nên, chúng ta cần phân biệt giữa chính sách của nhà nước cộng sản và thái độ của các nhà văn miền Bắc về chính sách ấy.
Có những chuyển biến rõ ràng về phía các nhà văn, nhưng lại tỏ ra trì trệ và quá cứng nhắc về phía chính quyền cộng sản.
Vì thế cho đến nay, năm 2015, tôi đã nhìn thấy một số chuyển biến tích cực ở bình diện cá nhân hơn là ở chính sách nhà nước.
Thứ nhất là sự phủ nhận chính những tác phẩm của chính mình
Sự phủ nhận chính mình là điều không dễ. Người ta thường cố bảo vệ những điều đã viết ra, dù sau này biết rằng những nhận thức của mình có thể đã lỗi thời hoặc đã bị vượt qua. Có những cái chỉ đúng cho một thời kỳ mà trở thành tai hại ở thời kỳ khác.
Vì thế, sự thay đổi, sự chuyển biến tư tưởng mang tính biện chứng trong tri thức luận, trong nhận thứcc của đời thường. Và đôi khi không ai trung thành với chính mình ở chính lúc mà chúng ta thay đổi.
Thay đổi là biểu hiện của sự trung thành hơn là một phản bội.
Và nay nhiều nhà văn đã có thái độ chuyển biến tư tưởng mà không do bất cứ một thúc ép bắt nguồn từ chính trị nào. Nhưng là do một thúc bách của sự thật và lẽ phải.
Lữ Phương đã kín đáo loại bỏ cuốn Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của Đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam ra khỏi danh sách các sách của ông.
Đỗ Đức Hiếu cũng mộc cách nào đó không muốn nhắc đến cuốn: Phê Phán Văn học hiện sinh chủ nghĩa.
Lê Đình Ky cũng đã dứt khoát không đưa cuốn: Nhìn lại tư tưởng Văn nghệ thời Mỹ Ngụy vào danh sách các tác phẩm đã in của ông.
Bảo Ninh, tác giả Nỗi Buồn Chiến Tranh và trong cuốn Hà Nội lúc không giờ, trong đó có chuyện ngắn Rửa tay gác kiếm đã miệt thị các nhà văn miền Nam khi cho rằng, các tác phẩm của họ chỉ dùng làm giấy đi cầu như trường hợp Chu Tử, Xuân Vũ, v.v..(8)
Nhưng sau này theo nhà phê bình Vương Trí Nhàn kể lại trong bài phỏng vấn của Thụy Khuê, ông có đưa cuốn Dấu Binh Lửa của Phan Nhật Nam cho Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu đọc. Cả hai đều nhìn nhận rất trân trọng, kính nể Phan Nhật Nam. Riêng Bảo Ninh sau khi đọc Dấu binh lửa của Phan Nhật Nam xong thì tiếc rằng: “Nếu tôi có cơ hội được đọc cuốn này trước thì có lẽ tôi sẽ viết khác đi. Và những cuốn sách viết về Chiến tranh như Dấu Binh Lửa của Phan Nhật Nam mà bọn tôi đọc thì không thể quên nổi và ở chỗ đó, nó cho thấy sự cần thiết về sự đóng góp của văn học miền Nam của một thời.”(9)
Tôi xin nhắc lại, ít lắm nó dẹp bỏ được cái não trạng winner-take-all, kẻ thắng thì vơ vét hết về cho mình.
Nhưng điều đó cũng cho thấy rằng những việc họ bắt buộc phải lên gân chửi văn học miền Nam có thể chỉ là hùa theo chính sách, không nói không được. Nó giống như cái cảnh tượng một người cán bộ đi dự một buổi mít tinh mà nhà nước đưa mấy phi công Mỹ đi trên đường phố để cho dân chúng tha hồ chửi, đánh cũng có. Anh cán bộ bắt buộc làm theo đám đông cũng dơ tay đánh dứ người phi công Mỹ đi qua để che mắt người khác.
Hiểu hoàn cảnh như thế nên khi tôi đọc Trần Văn Giàu trong cuốn Nhận Định về cuốn Nhận Định của Nguyễn Văn Trung, tôi có cảm tưởng ông chỉ giả vờ chửi Nguyễn Văn Trung mà điều chính yếu chính là ông Trần Văn Giàu muốn gián tiếp trình bày toàn bộ triết học hiện sinh theo cách nhìn của Nguyễn Văn Trung.
Người ta cũng sẽ có một cảm tưởng tương tự khi đọc Lê Đình Ky. Ông cũng đã dành phần lớn bài viết của mình viết về triết lý hiện sinh ở miền Nam do Nguyễn Văn Trung chủ trương.
Nói tắt một lời chửi mà thực sự không phải là chửi. Nhưng dùng cơ hội chửi đó để triển khai một đề tài triết học mà các ông tâm đắc.
Ngoài những người trực tiếp phê phán văn học Mỹ Ngụy ở trên, còn có một số nhà văn ở miền Bắc, bằng cách kín đáo, họ bày tỏ một sự trân trọng và quý mến các nhà văn miền Nam. Theo ý kiến của Vương Trí Nhàn thì sau 1954, các nhà văn miền Bắc ít có cơ hội đọc sách vở của miền Nam. Tuy nhiên những nhà văn như Nguyễn Tuân, Nguyễn Thanh Long, Xuân Diệu, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu hay lớp trẻ hơn như Lưu Quang Vũ, Bằng Việt hay Trúc Thông đã lặng lẽ tìm kiếm các sách, tài liệu miền Nam để đọc.(10)
Bên cạnh đó, các nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, nhà văn Nguyên Ngọc cũng có cái nhìn chia xẻ về văn miền Nam.
Phần chúng tôi, những người miền Nam được may mắn sống trong một chế độ cởi mở hơn, chúng tôi có nhiều cơ hội được tự do tìm đọc thơ Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, đọc các chuyện của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố v.v..
Riêng trường hợp Nam Cao, giáo sư Nguyễn Văn Trung đã dùng truyện Chí Phèo làm đề tài nghiên cứu văn học ở Đại Học văn khoa Sài gòn. Gs Trần văn Toàn (vừa quá vãng) đã khệ nệ bê nguyên con triết học Karl Marx-Hegel công khai vào giảng đường Văn Khoa Sài Gòn cho thấy sự tự trị đại học ở miền Nam như thế nào.
Sự phân biệt giữa chính trị và văn hóa đem lại cái lợi thế và cái may mắn cho những người sống ở miền Nam hơn ở miền Bắc.
Thứ hai, việc cho xuất bản lại các tác giả trước 1975 là một dấu hiệu tốt bắt đầu
Trong cái tinh thần muốn tìm về quá khứ, muốn vượt qua những hàng rào cản vướng mắc ngăn chặn của một quá khứ cay nghiệt, tôi đã tìm và mua được một số sách triết học trước 1975 được in lại như các cuốn: Martin Heidegger, Tư tưởng và hiện đại của Bùi Giáng, các bộ Lịch sử Triết Học Tây Phương của Lê Tôn Nghiêm, nhất là cuốn Triết Học Hiện sinh của Trần Thái Đỉnh.
Về sách Văn Học, cuốn 13 năm tranh luận văn học, gồm 3 tập của Thanh Lãng đã được in lại (Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1997 gồm bốn tập. Tạp chí Tri Tân, 1941-1945, Phê Bình Văn Học cũng đã được Nhà xuất bản Nội Nhà Văn cho in lại.)
Mặc dầu không thuộc di sản tinh thần của 20 năm Văn học miền Nam, nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế đã cho in lại 4 tập Những người bạn cố đô Huế (Bulletin des amis du vieux Hue, 1914-1944 một công trình biên khảo kéo dài trong suốt 30 năm trời do học giả L. Cadière làm chủ bút. Cũng nhà xuất bản này đã cho in lại bộ Đại Nam liệt truyện thuộc Quốc Sử Giám triều Nguyễn.
Chúng tôi cũng thấy sự cố gắng của nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội đã cho in bốn tập, dày hàng mấy ngàn trang, Tinh Tuyển Văn học Việt Nam, cũng dày khỏang hơn 4000 trang, in giyấ mỏng, bìa cứng..
Và mới đây, cuốn Lục Châu Học của Nguyễn Văn Trung đã được xuất bản vào cuối năm 2014. Cuốn sách Lục Châu Học nhằm trả lại vị trí xứng tầm của một mảnh văn học miền Nam thường bị bỏ quên và bỏ qua trong suốt cả một thế kỷ dưới thời Pháp thuộc.
Tôi cũng ngạc nhiên thấy việc tái xuất bản các sách của Phạm Quỳnh như 10 ngày ở Huế-Luận giải văn học và triết học, Thượng chi văn tập, v.v.. Và cũng một cách thức như vậy, các tiểu thuyết của nhóm Tự Lực Văn Đoàn như các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng cũng tùy theo cuốn đã được tái xuất bản, v.v..
Mặc dầu chỉ là nhà thơ, Mê Hồn Ca của thi sĩ Đinh Hùng cũng như Mặc Khách Saigòn của Tô Kiều Ngân đã có dịp xuất hiện trên các kệ sách ở Sài Gòn.
Một cái đặc biệt trong những cái đặc biệt là một vài cuốn sách sử của Tạ Trí Đại Trường như, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1871-1802, hay Người lính thuộc địa Nam Kỳ cũng được tái xuất bản.
Nhà văn thì có thể mới có Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mộng Giác mà khi sách của Dương Nghiễm Mậu được in ra đã gây một vài tiếng ồn ào, bất bình. Đặc biệt từ phía nhà văn nằm vùng ở miền Nam, ông Vũ Hạnh.
Tuy nhiên, trong các cuốn sách được tái xuất bản mà tôi tâm đắc và thích thú hơn cả là cuốn: Việt Nam Văn học sử, giản ước tân biên, gồm ba tập của giáo sư Phạm Thế Ngũ.
Nếu về Sử học, xin chọn cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thì về văn học, xin chọn sách của Phạm Thế Ngũ.
Việc tìm hiểu số sách miền Nam được in lại, tái xuất bản người viết bài này không có điều kiện để cập nhật, xin ghi lại trong chừng mực có thể mà không dám nói là đầy đủ.
Ngoài những nhà xuất bản in lại sách cũ như vừa nêu ra ở trên. Ở Sài gòn ngay sau 1975 được ít lâu đã nảy sinh ra các tiệm sách dạo, bày bán trên vỉa hè.. Trong một bài viết cũ,(11) tôi nhận thấy một hiện tượng đảo ngược: Sách càng bị cấm, càng có nhiều người tìm đọc, ngay cả cán bộ miền Bắc vào Nam cũng tìm mua. Vỉa hè bày bán các sách của nhà nước cho phép, giấy xấu, in nhem nhuốc.
Đó là loại sách ‘đồng phục’, in ấn xấu xí mà nội dung cũng chẳng ra làm sao. Chẳng hạn các cuốn 10 ngày của Bôcaxiô. Thằng cười dịch của Victor Hugo. Cửa hàng vì hạnh phúc của các bà, dịch của E. Zôla. (Thật ra nhan đề cuốn sách của E. Zola là: Au bonheur des dames. Khong hiểu vì sao lại dịch là cửa hàng vì hạnh phúc các bà). Tuổi thơ mãi mãi cùng ta cùng M. Karim. Tôi có mua một ít mang sang đây, nhưng cũng không có dịp mở ra đọc. Nhưng nếu ai muốn mua sách cũ là người nhà của tiệm sách chạy đi một lát là mang về sách ‘phản động’. Chỉ phải tội giá cả sách tùy thuộc vào người mua và tùy thuộc vào tác giả và giá có đắt hơn nhiều lần so với sách bày công khai.
Sau này, tôi vẫn tìm mua được sách cũ miền Nam với giá vài đô la, một cuốn. Cuốn sách tôi phải trả giá cao nhất cách đây khỏang gần 10 năm là 30 đô la cho cuốn: Quốc triều Hương khoa lục của cụ Cao Xuân Dục.
Nay thì giá đắt đến nỗi không tài nào mua nổi. Một tiệm bán sách ở Cần Thơ rao bán trên mạng một tập nội san của sinh viên Sài gòn với giá 200 đô la. Cuốn Việt-Hán Văn khảo giá 300 đô la. Cuốn Bảng lược đồ lịch sử văn học Việt Nam giá 300 đô. Tập san Đứng Dậy của Nguyễn Ngọc Lan và Chân Tín giá trung bình 70 đô la một cuốn.
Thứ ba, công việc khôi phục lại Văn Học miền Nam còn là một đoạn đường dài, phải mất nhiều năm tháng và khổ công
Cứ theo Trần Trọng Đăng Đàn thì có vào khoảng 2721 tác giả nhà văn, nhà báo, dịch giả, nhà biên khảo, giáo sư, trí thức có các tác phẩm để lại. Mặc dầu đã có chỉ thị phân loại các sách, nhưng trên thực tế chẳng ai có trách nhiệm thi hành. Họ đã dùng trẻ con đi đến các nhà, dùng xe ba gác, đánh trống để tịch thu. Hễ cứ là sách là tiêu hủy tất cả.
Cứ giả dụ trung bình mỗi tác giả có năm tác phẩm đã xuất bản. Như vậy có trên 10 ngàn tác phẩm dã xuất bản. Và trung bình mỗi tựa sách ở miền Nam thời đó in là 3000 cuốn. Nếu kể thêm các sách giáo khoa kỹ thuật khoảng chừng 2000 tác giả. Mỗi tác giả có năm tác phẩm sẽ có thêm 10 ngàn tựa sách, cũng in 3000 nghìn cuốn. Nếu kể thêm các tác phẩm dịch mà có cuốn được in đi in lại đến 10 lần.
Và nếu cộng thêm các tập san đủ loại thì đã có khoảng hơn 300 tập san như thế.
Con số sách do các nhà xuất bản như Nam Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hóa Á Châu, Diên Hồng, Trình Bày, Khai Trí, Xưa Nay, Lá Bối, An Tiêm là 200 triệu cuốn sách trong 20 năm
Tôi chỉ kể một vài tập san tiêu biểu như tập san Đại Học Huế mà tôi vừa thực hiện việc điện toán toàn bộ gồm khoảng 6000 trang tài liệu.
6000 trang tài liệu của trên dưới hơn 100 nhà biên khảo, trí thức, giáo sư đại học- những thành phần ưu tú nhất của miền Nam- về các lãnh vực, triết học, sử học, ngôn ngữ học, văn học bỗng chố tan biền hết.
Còn có nỗi mất mát nào lớn hơn nữa không.
Chúng ta sẽ có khoảng hơn 10 triệu cuốn sách bị tịch thu và phá hủy.
Chỉ nghĩ đến điều đo thôi đã thấy rùng mình.
Có người liên tưởng việc đốt sách này đến việc Phần Thư Khanh Nho(đốt sách chôn nho) của bạo chúa Tần Thủy Hoàng. Lấy việc xưa mà nói việc ngày nay thì cũng có nhiều điều khiên cưỡng. Việc đốt sách đời Tần là dốt sách của ngoại lai. Người đề xướng ra việc đốt sách là Lý Tư chứ không phải Tần Thủy Hoàng
Còn việc tịch thu, đốt sách thời Lê Duẩn là do ai chủ xướng, ai đề ra?
Chắc chắn là không có câu trả lời.
Nguyễn Văn Lục
(1) Xem thêm bài viết cùng tác giả: Sách cũ miền Nam.
(2) Lấy lại ý của tác giả Đoàn Thanh Liêm trong bài điểm sách cuốn Europe’s promise
(3) Trích báo Nhân Dân ngày 26-6-1976
(4) Xem Trần Trong Đăng Đàn trong Văn Hóa, Văn Nghệ Nam Việt Nam
(5) Cuốn De Gaulle, mon père, do Philiipe De Gaulle viết, trang 359
(6) Philippe De Gaulle, Ibid, trang 351. Si vous touchez à un seul de nos monuments publics, pas un Allemand ne survivra.
(7) Xem thêm bài viết: Phê phán cuốn Cuộc xâm lăng về Văn hóa và Tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam
(8) Trích Bảo Ninh, Hà Nội lúc không giờ, trang 83, nxb Văn Hóa Thông Tin, 2002.
(9) Thụy Khuê: Văn Học miền Nam 1954-75 theo cách nhìn của Vương Trí Nhàn hôm nay. RFI, ngày 14 và 21-6-2008
(10) Trích phỏng vấn của Thụy Khuê, ibid.
(11) Nguyễn văn Lục, Sách cũ miền Nam
© 2017 DCVOnline
Bàn ra tán vào (0)
Vai trò của người Việt hải ngoại với nền văn học miền Nam
Chúng ta mất miền Nam. Chúng ta mất tất cả. Mất đất, mất người, mất sự nghiệp, mất thể chế, mất tương lai, mất cuộc sống tự do an bình, mất cả di sản tinh thần, cái hồn tính miền Nam.
"Chúng ta mất miền Nam. Chúng ta mất tất cả. Mất đất, mất người, mất
sự nghiệp, mất thể chế, mất tương lai, mất cuộc sống tự do an bình, mất
cả di sản tinh thần, cái hồn tính miền Nam."
Vai trò trách nhiệm của người Việt hải ngoại là sưu tầm và xây dựng lại nền Văn học miền Nam trước 1975
Mất thì phải đòi, đòi cái gì còn có thể đòi lại được trong tầm tay.
Trong đó có nền văn học miền Nam mà chúng ta phải tìm cách khôi phục
lại. Phải đi tìm, phải đào xới, phải in lại, phải số hoá những đứa con
tinh thần tưởng đã bị chôn vùi trên những đống đổ nát quá khứ.
Công việc làm ấy là công khó, nhưng là công việc hợp với lẽ tự nhiên, ta không làm thì ai làm. Một trong những cái có thể đòi, có thể tái xây dựng là nền văn học miền Nam.
Cái kinh nghiệm đi tim lại chân diện miền Nam có nhiều kỳ tích lắm đáng nói lắm. Một nhà văn trẻ trong quân đội miền Nam đã kể lại trong Thư Quán Bản Thảo do nhà văn Trần Hoài Thư hiện đang điều hành. Trong đó, anh kể lại tình cờ nhặt được một mảnh giấy báo gói xôi, hóa ra lại chính là bài thơ của anh đăng trên Khởi Hành thì phải. Còn gì đẹp và cảm động hơn thế nữa.
Bản thân tôi muốn tìm lại cuốn Hồi Chuông Tắt Lửa của Thế Nguyên – một cuốn truyện được in ra vào thập niên 1970 mà ở thời điểm đó nội dung câu truyện đã gây một cú sốc trong tôi; đã vô vọng nhưng tôi vẫn viết rao trên báo. Chẳng bao lâu sau, tôi nhận được từ nhà văn Ngô Thế Vinh, bản sao cuốn truyện đó.
Tôi cũng muốn tìm lại tập sách nhan đề “Tuổi trẻ Sài gòn, Mậu Thân 1968”. Đã tìm ra, nhưng người bán sách đòi một giá quá cao đến nỗi không thể mua nổi.
Những chuyện đi tìm về quá khứ di sản miền Nam mang nhiều ý nghĩa cao đẹp như thế. Tôi đã sống cái tâm tình đó khi đi về miền Nam thân yêu tìm lại sách cũ.(1)
Và dĩ nhiên sẽ còn nhiều câu chuyện cảm động về những đứa con tinh thần đã lưu lạc sau tìm lại được.
Cho nên, tất cả những ai cách này cách khác khôi phục lại diện mạo văn hóa, văn học miền Nam thì chúng ta đều trân trọng. Ngay cả những nhà văn miền Bắc trước đây do tuyền truyền, do những lý do của lý do đã có lúc nhục mạ, phê phán sai lầm về gia tài văn học của miền Nam nay đổi chiều xin cũng rộng tay đón tiếp.
Không quên quá khứ, nhưng có những điều cần phải quên.
Sự thay đổi cách đánh giá về văn học miền Nam của một số những nhà văn miền Bắc trước đây phải coi là dấu hiệu tốt đẹp.
Ít lắm nó dẹp bỏ được cái não trạng winner-take-all, kẻ thắng thì vơ vét hết về cho mình.
Ở một tầm cao hơn nữa, nó thể hiện điều mà Alexis de Tocqueville trong cuốn Democracy in America viết năm 1835 như sau: Sự cao cả vĩ đại của người Mỹ không phải chỉ đơn thuần là do họ sáng suốt hơn các dân tộc khác, mà là do họ có khả năng sửa chữa những lỗi lầm của mình.(2)
Ý nghĩa cao đẹp ấy nằm trong cách thức mà một số nhà văn miền Bắc đã bắt đầu nhìn lại.
Tôi xin lấy lại một lời tuyên bố của tướng De Gaulle, “Mỗi một cuốn sách là một con người. Cho nên đi tìm lại sách cũ miền Nam là đi tìm lại một phần đời của chính bản thân mình.”
Những điều cần nhớ, cần nhắc lại
Khi chiếm xong miền Nam, người cộng sản có một chính sách khủng bố mang tính chất nhà nước là xóa bỏ toàn diện vết tích miền Nam về mặt thể chế, mặt kinh tế, mặt xã hội và cả về mặt văn học.
Thực tế là xóa bỏ con người miền Nam được coi là quá nhiễm độc một thứ văn hóa của thực dân mới, một thứ văn hóa đồi trụy, một thứ văn hóa phản động.
Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng trong kỳ họp Quốc Hội đã chủ trương:
“Phải nhổ tận gốc rễ những nọc độc về tư tưởng văn hóa thực dân mới mà đế quốc Mỹ đã gieo trồng ở miền Nam Việt Nam. Đó là thứ văn hóa, nô dịch, lai căng, đồi trụy cực kỳ phản động cùng các hủ tục, mê tín, dị đoan lan tràn.”(3)
Phần tôi, cho đến hiện nay, sau 38 năm tôi kể từ ngày mất miền Nam vẫn chưa tìm ra được bằng cớ xác thực Mỹ đã đầu độc dân miền Nam bằng thứ văn hóa thực dân mới, đồi trụy, phản động là thứ văn hóa gì. Và cũng hơn 30 năm ở xứ người, tôi chỉ nhận ra những điều tốt đẹp mà xứ sở này dành cho những người dân Việt tỵ nạn.
Chúng tôi có một cuộc sống mà con người được nhìn nhận và tôn trọng. Dựa theo tinh thần tôn giáo, tôi có được đọc một cuốn sách nhan đề rất là kỳ diệu: Dieu est né en exil (God was born in Exile).
Chúa còn phải sinh ra trong hoàn cảnh lưu đầy thì phần chúng ta có sá gì. Phần Chúa đã vậy thì phần chúng ta là gì trong ý nghĩa của chữ lưu vong. Và một lúc nào rảnh rỗi phải mổ xẻ chi ly hai chữ emigrant và exil mới được.
Vì thế trong việc xóa bỏ văn hóa miền Nam, nhà cầm quyền cộng sản đã tiến hành hai bước:
Ngay trước khi chiếm được miền Nam thì chính quyền cộng sản miền Bắc đã tiến hành một cuộc tuyên truyền nhằm đánh phá miền Nam liên tục trong nhiều năm trời. Theo Phan Cư Đệ và Hà Minh Đức thì đã có 286 bài phê bình đủ loại, đăng tải trên các tạp chí như Học Tập, Văn Học và Văn Nghệ. Vì đối với người cộng sản theo Marx, phê bình là một thứ võ khí. Đối tượng của phê bình chính là kẻ thù mà nó muốn tiêu diệt
Cho nên, Lê Duẩn, sau 1975 ngay trong Đại hội 5 đã chỉ thị, “Sau ngày giải phóng, nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hóa ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để.”(4)
Những lời tuyên bố có tính sắt máu của Lê Duẩn phải được coi là mang mầm mống một ý thức hệ cực đoan ‘tập thể’ như một thứ cực đoan tôn giáo mà thực chất cả hai thứ cực đoan tôn giáo và cực đoan chính trị chỉ là một.
Nghĩ đến cảnh tiêu hủy hàng triệu cuốn sách của miền Nam, tôi liên tưởng đến câu chuyện trong thế chiến thứ hai, tại Normandie, hình như ở vùng Basse-Normandie, có nhiều cây sồi lâu từ 100 năm đến 2, 3 trăm năm, nơi quân đội đồng minh đổ bộ. Một người dân làng muốn bảo vệ cây sồi đã gắn một tấm bảng yêu cầu đôi bên đừng phá hủy cây sồi.
Sau chiến tranh, cây sồi còn nguyên vẹn.
Một cây sồi thôi còn có một giá trị như một di sản văn hóa, được đôi bên tôn trọng. Câu chuyện đó giúp người hiểu biết đánh giá về tư cách những người đi giải phóng. Một câu truyện khác, tôi đọc trong cuốn Hồi ký của con trai De Gaulle.(5) Ngay sáng hôm sau, ngày giải phóng Paris, tướng De Gaulle đã đi bộ về khu Saint-Francois Xavier, nơi ông ở trước khi lưu vong sang Anh. De Gaulle vui mừng thốt lên: “Rien n’a changé, J’ai tout revu”. Đã không có gì thay đổi, tôi đã xem lại tất cả. Và tôi có cảm tưởng như mới rời nơi đây ngày hôm qua. (Ông đã rời Paris ngày 10-6-1940). Hai bàn máy đánh chữ vẫn còn như cũ, cây kiếm kỷ niệm, ngày ra trường võ bị Saint-Cyr còn đó.
Điều gì đã làm cho quân đội Phát Xít Đức không đụng chạm đến căn nhà của De Gaulle?
Cũng trong tinh thần bảo vệ cung điện, bảo tàng của Pháp, tướng Leclerc trước khi tiến vào Paris đã gửi công điện cảnh cáo binh lính Đức rằng, “Nếu các ông phá hủy một trong những di tích lịch sử của Paris, không một người lính Đức nào sẽ có thể sống còn.”(6)
Vậy mà người dân vùng Ninh Bình, Thanh Hóa còn nhớ Hồ Chí Minh đã áp dụng chiến thuật nhà không vườn trống, đốt sạch, phá sạch để cho quân đội Pháp không thể dựa vào dân.
Để thực hiện công tác xóa bỏ văn học miền Nam này thì có một đội ngũ cán bộ đặc trách là Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Phan Đắc Lập, Thái Kế Toại, Lê Dình Ky, Vũ Hạnh ngay cả Trần Văn Giàu (Trần Văn Giàu viết hẳn một cuốn sách phê bình cuốn Nhận Định IV của Nguyễn Văn Trung) cũng tham gia vào công tác bài trừ này.
Nhưng có hai tác giả được coi là viết với nhiều tài liệu dẫn chứng được coi là có căn cơ nhất và cũng thâm độc nhất: Đó là Lữ Phương với cuốn: Cuộc xâm lăng về Văn hóa và tư tưởng của Đế Quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam (1980).(7)
Người thứ hai là Trần Trọng Đăng Đàn, Tổng biên tập Tạp chí Khoa Học Xã hội với nhiều tác phẩm trong nhiều thời kỳ liên tục như: Nọc độc văn học thực dân mới, tập I, 1983, tập II, 1987. Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-1975, tập I, 1988, tập II, 1991. Và cuốn sách chủ yếu của ông là cuốn Văn Hóa, Văn Nghệ, phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại miền Nam-1990.. Sách này còn được in lại năm 2000.
Cho đến hiện nay, cho đến năm 2000, chính sách khủng bố mang tính nhà nước vẫn còn được chính thức lưu truyền. Cho nên, chúng ta cần phân biệt giữa chính sách của nhà nước cộng sản và thái độ của các nhà văn miền Bắc về chính sách ấy.
Có những chuyển biến rõ ràng về phía các nhà văn, nhưng lại tỏ ra trì trệ và quá cứng nhắc về phía chính quyền cộng sản.
Vì thế cho đến nay, năm 2015, tôi đã nhìn thấy một số chuyển biến tích cực ở bình diện cá nhân hơn là ở chính sách nhà nước.
Thứ nhất là sự phủ nhận chính những tác phẩm của chính mình
Sự phủ nhận chính mình là điều không dễ. Người ta thường cố bảo vệ những điều đã viết ra, dù sau này biết rằng những nhận thức của mình có thể đã lỗi thời hoặc đã bị vượt qua. Có những cái chỉ đúng cho một thời kỳ mà trở thành tai hại ở thời kỳ khác.
Vì thế, sự thay đổi, sự chuyển biến tư tưởng mang tính biện chứng trong tri thức luận, trong nhận thứcc của đời thường. Và đôi khi không ai trung thành với chính mình ở chính lúc mà chúng ta thay đổi.
Thay đổi là biểu hiện của sự trung thành hơn là một phản bội.
Và nay nhiều nhà văn đã có thái độ chuyển biến tư tưởng mà không do bất cứ một thúc ép bắt nguồn từ chính trị nào. Nhưng là do một thúc bách của sự thật và lẽ phải.
Lữ Phương đã kín đáo loại bỏ cuốn Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của Đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam ra khỏi danh sách các sách của ông.
Đỗ Đức Hiếu cũng mộc cách nào đó không muốn nhắc đến cuốn: Phê Phán Văn học hiện sinh chủ nghĩa.
Lê Đình Ky cũng đã dứt khoát không đưa cuốn: Nhìn lại tư tưởng Văn nghệ thời Mỹ Ngụy vào danh sách các tác phẩm đã in của ông.
Bảo Ninh, tác giả Nỗi Buồn Chiến Tranh và trong cuốn Hà Nội lúc không giờ, trong đó có chuyện ngắn Rửa tay gác kiếm đã miệt thị các nhà văn miền Nam khi cho rằng, các tác phẩm của họ chỉ dùng làm giấy đi cầu như trường hợp Chu Tử, Xuân Vũ, v.v..(8)
Nhưng sau này theo nhà phê bình Vương Trí Nhàn kể lại trong bài phỏng vấn của Thụy Khuê, ông có đưa cuốn Dấu Binh Lửa của Phan Nhật Nam cho Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu đọc. Cả hai đều nhìn nhận rất trân trọng, kính nể Phan Nhật Nam. Riêng Bảo Ninh sau khi đọc Dấu binh lửa của Phan Nhật Nam xong thì tiếc rằng: “Nếu tôi có cơ hội được đọc cuốn này trước thì có lẽ tôi sẽ viết khác đi. Và những cuốn sách viết về Chiến tranh như Dấu Binh Lửa của Phan Nhật Nam mà bọn tôi đọc thì không thể quên nổi và ở chỗ đó, nó cho thấy sự cần thiết về sự đóng góp của văn học miền Nam của một thời.”(9)
Tôi xin nhắc lại, ít lắm nó dẹp bỏ được cái não trạng winner-take-all, kẻ thắng thì vơ vét hết về cho mình.
Nhưng điều đó cũng cho thấy rằng những việc họ bắt buộc phải lên gân chửi văn học miền Nam có thể chỉ là hùa theo chính sách, không nói không được. Nó giống như cái cảnh tượng một người cán bộ đi dự một buổi mít tinh mà nhà nước đưa mấy phi công Mỹ đi trên đường phố để cho dân chúng tha hồ chửi, đánh cũng có. Anh cán bộ bắt buộc làm theo đám đông cũng dơ tay đánh dứ người phi công Mỹ đi qua để che mắt người khác.
Hiểu hoàn cảnh như thế nên khi tôi đọc Trần Văn Giàu trong cuốn Nhận Định về cuốn Nhận Định của Nguyễn Văn Trung, tôi có cảm tưởng ông chỉ giả vờ chửi Nguyễn Văn Trung mà điều chính yếu chính là ông Trần Văn Giàu muốn gián tiếp trình bày toàn bộ triết học hiện sinh theo cách nhìn của Nguyễn Văn Trung.
Người ta cũng sẽ có một cảm tưởng tương tự khi đọc Lê Đình Ky. Ông cũng đã dành phần lớn bài viết của mình viết về triết lý hiện sinh ở miền Nam do Nguyễn Văn Trung chủ trương.
Nói tắt một lời chửi mà thực sự không phải là chửi. Nhưng dùng cơ hội chửi đó để triển khai một đề tài triết học mà các ông tâm đắc.
Ngoài những người trực tiếp phê phán văn học Mỹ Ngụy ở trên, còn có một số nhà văn ở miền Bắc, bằng cách kín đáo, họ bày tỏ một sự trân trọng và quý mến các nhà văn miền Nam. Theo ý kiến của Vương Trí Nhàn thì sau 1954, các nhà văn miền Bắc ít có cơ hội đọc sách vở của miền Nam. Tuy nhiên những nhà văn như Nguyễn Tuân, Nguyễn Thanh Long, Xuân Diệu, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu hay lớp trẻ hơn như Lưu Quang Vũ, Bằng Việt hay Trúc Thông đã lặng lẽ tìm kiếm các sách, tài liệu miền Nam để đọc.(10)
Bên cạnh đó, các nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, nhà văn Nguyên Ngọc cũng có cái nhìn chia xẻ về văn miền Nam.
Phần chúng tôi, những người miền Nam được may mắn sống trong một chế độ cởi mở hơn, chúng tôi có nhiều cơ hội được tự do tìm đọc thơ Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, đọc các chuyện của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố v.v..
Riêng trường hợp Nam Cao, giáo sư Nguyễn Văn Trung đã dùng truyện Chí Phèo làm đề tài nghiên cứu văn học ở Đại Học văn khoa Sài gòn. Gs Trần văn Toàn (vừa quá vãng) đã khệ nệ bê nguyên con triết học Karl Marx-Hegel công khai vào giảng đường Văn Khoa Sài Gòn cho thấy sự tự trị đại học ở miền Nam như thế nào.
Sự phân biệt giữa chính trị và văn hóa đem lại cái lợi thế và cái may mắn cho những người sống ở miền Nam hơn ở miền Bắc.
Thứ hai, việc cho xuất bản lại các tác giả trước 1975 là một dấu hiệu tốt bắt đầu
Trong cái tinh thần muốn tìm về quá khứ, muốn vượt qua những hàng rào cản vướng mắc ngăn chặn của một quá khứ cay nghiệt, tôi đã tìm và mua được một số sách triết học trước 1975 được in lại như các cuốn: Martin Heidegger, Tư tưởng và hiện đại của Bùi Giáng, các bộ Lịch sử Triết Học Tây Phương của Lê Tôn Nghiêm, nhất là cuốn Triết Học Hiện sinh của Trần Thái Đỉnh.
Về sách Văn Học, cuốn 13 năm tranh luận văn học, gồm 3 tập của Thanh Lãng đã được in lại (Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1997 gồm bốn tập. Tạp chí Tri Tân, 1941-1945, Phê Bình Văn Học cũng đã được Nhà xuất bản Nội Nhà Văn cho in lại.)
Mặc dầu không thuộc di sản tinh thần của 20 năm Văn học miền Nam, nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế đã cho in lại 4 tập Những người bạn cố đô Huế (Bulletin des amis du vieux Hue, 1914-1944 một công trình biên khảo kéo dài trong suốt 30 năm trời do học giả L. Cadière làm chủ bút. Cũng nhà xuất bản này đã cho in lại bộ Đại Nam liệt truyện thuộc Quốc Sử Giám triều Nguyễn.
Chúng tôi cũng thấy sự cố gắng của nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội đã cho in bốn tập, dày hàng mấy ngàn trang, Tinh Tuyển Văn học Việt Nam, cũng dày khỏang hơn 4000 trang, in giyấ mỏng, bìa cứng..
Và mới đây, cuốn Lục Châu Học của Nguyễn Văn Trung đã được xuất bản vào cuối năm 2014. Cuốn sách Lục Châu Học nhằm trả lại vị trí xứng tầm của một mảnh văn học miền Nam thường bị bỏ quên và bỏ qua trong suốt cả một thế kỷ dưới thời Pháp thuộc.
Tôi cũng ngạc nhiên thấy việc tái xuất bản các sách của Phạm Quỳnh như 10 ngày ở Huế-Luận giải văn học và triết học, Thượng chi văn tập, v.v.. Và cũng một cách thức như vậy, các tiểu thuyết của nhóm Tự Lực Văn Đoàn như các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng cũng tùy theo cuốn đã được tái xuất bản, v.v..
Mặc dầu chỉ là nhà thơ, Mê Hồn Ca của thi sĩ Đinh Hùng cũng như Mặc Khách Saigòn của Tô Kiều Ngân đã có dịp xuất hiện trên các kệ sách ở Sài Gòn.
Một cái đặc biệt trong những cái đặc biệt là một vài cuốn sách sử của Tạ Trí Đại Trường như, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1871-1802, hay Người lính thuộc địa Nam Kỳ cũng được tái xuất bản.
Nhà văn thì có thể mới có Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mộng Giác mà khi sách của Dương Nghiễm Mậu được in ra đã gây một vài tiếng ồn ào, bất bình. Đặc biệt từ phía nhà văn nằm vùng ở miền Nam, ông Vũ Hạnh.
Tuy nhiên, trong các cuốn sách được tái xuất bản mà tôi tâm đắc và thích thú hơn cả là cuốn: Việt Nam Văn học sử, giản ước tân biên, gồm ba tập của giáo sư Phạm Thế Ngũ.
Nếu về Sử học, xin chọn cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thì về văn học, xin chọn sách của Phạm Thế Ngũ.
Việc tìm hiểu số sách miền Nam được in lại, tái xuất bản người viết bài này không có điều kiện để cập nhật, xin ghi lại trong chừng mực có thể mà không dám nói là đầy đủ.
Ngoài những nhà xuất bản in lại sách cũ như vừa nêu ra ở trên. Ở Sài gòn ngay sau 1975 được ít lâu đã nảy sinh ra các tiệm sách dạo, bày bán trên vỉa hè.. Trong một bài viết cũ,(11) tôi nhận thấy một hiện tượng đảo ngược: Sách càng bị cấm, càng có nhiều người tìm đọc, ngay cả cán bộ miền Bắc vào Nam cũng tìm mua. Vỉa hè bày bán các sách của nhà nước cho phép, giấy xấu, in nhem nhuốc.
Đó là loại sách ‘đồng phục’, in ấn xấu xí mà nội dung cũng chẳng ra làm sao. Chẳng hạn các cuốn 10 ngày của Bôcaxiô. Thằng cười dịch của Victor Hugo. Cửa hàng vì hạnh phúc của các bà, dịch của E. Zôla. (Thật ra nhan đề cuốn sách của E. Zola là: Au bonheur des dames. Khong hiểu vì sao lại dịch là cửa hàng vì hạnh phúc các bà). Tuổi thơ mãi mãi cùng ta cùng M. Karim. Tôi có mua một ít mang sang đây, nhưng cũng không có dịp mở ra đọc. Nhưng nếu ai muốn mua sách cũ là người nhà của tiệm sách chạy đi một lát là mang về sách ‘phản động’. Chỉ phải tội giá cả sách tùy thuộc vào người mua và tùy thuộc vào tác giả và giá có đắt hơn nhiều lần so với sách bày công khai.
Sau này, tôi vẫn tìm mua được sách cũ miền Nam với giá vài đô la, một cuốn. Cuốn sách tôi phải trả giá cao nhất cách đây khỏang gần 10 năm là 30 đô la cho cuốn: Quốc triều Hương khoa lục của cụ Cao Xuân Dục.
Nay thì giá đắt đến nỗi không tài nào mua nổi. Một tiệm bán sách ở Cần Thơ rao bán trên mạng một tập nội san của sinh viên Sài gòn với giá 200 đô la. Cuốn Việt-Hán Văn khảo giá 300 đô la. Cuốn Bảng lược đồ lịch sử văn học Việt Nam giá 300 đô. Tập san Đứng Dậy của Nguyễn Ngọc Lan và Chân Tín giá trung bình 70 đô la một cuốn.
Thứ ba, công việc khôi phục lại Văn Học miền Nam còn là một đoạn đường dài, phải mất nhiều năm tháng và khổ công
Cứ theo Trần Trọng Đăng Đàn thì có vào khoảng 2721 tác giả nhà văn, nhà báo, dịch giả, nhà biên khảo, giáo sư, trí thức có các tác phẩm để lại. Mặc dầu đã có chỉ thị phân loại các sách, nhưng trên thực tế chẳng ai có trách nhiệm thi hành. Họ đã dùng trẻ con đi đến các nhà, dùng xe ba gác, đánh trống để tịch thu. Hễ cứ là sách là tiêu hủy tất cả.
Cứ giả dụ trung bình mỗi tác giả có năm tác phẩm đã xuất bản. Như vậy có trên 10 ngàn tác phẩm dã xuất bản. Và trung bình mỗi tựa sách ở miền Nam thời đó in là 3000 cuốn. Nếu kể thêm các sách giáo khoa kỹ thuật khoảng chừng 2000 tác giả. Mỗi tác giả có năm tác phẩm sẽ có thêm 10 ngàn tựa sách, cũng in 3000 nghìn cuốn. Nếu kể thêm các tác phẩm dịch mà có cuốn được in đi in lại đến 10 lần.
Và nếu cộng thêm các tập san đủ loại thì đã có khoảng hơn 300 tập san như thế.
Con số sách do các nhà xuất bản như Nam Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hóa Á Châu, Diên Hồng, Trình Bày, Khai Trí, Xưa Nay, Lá Bối, An Tiêm là 200 triệu cuốn sách trong 20 năm
Tôi chỉ kể một vài tập san tiêu biểu như tập san Đại Học Huế mà tôi vừa thực hiện việc điện toán toàn bộ gồm khoảng 6000 trang tài liệu.
6000 trang tài liệu của trên dưới hơn 100 nhà biên khảo, trí thức, giáo sư đại học- những thành phần ưu tú nhất của miền Nam- về các lãnh vực, triết học, sử học, ngôn ngữ học, văn học bỗng chố tan biền hết.
Còn có nỗi mất mát nào lớn hơn nữa không.
Chúng ta sẽ có khoảng hơn 10 triệu cuốn sách bị tịch thu và phá hủy.
Chỉ nghĩ đến điều đo thôi đã thấy rùng mình.
Có người liên tưởng việc đốt sách này đến việc Phần Thư Khanh Nho(đốt sách chôn nho) của bạo chúa Tần Thủy Hoàng. Lấy việc xưa mà nói việc ngày nay thì cũng có nhiều điều khiên cưỡng. Việc đốt sách đời Tần là dốt sách của ngoại lai. Người đề xướng ra việc đốt sách là Lý Tư chứ không phải Tần Thủy Hoàng
Còn việc tịch thu, đốt sách thời Lê Duẩn là do ai chủ xướng, ai đề ra?
Chắc chắn là không có câu trả lời.
Công việc làm ấy là công khó, nhưng là công việc hợp với lẽ tự nhiên, ta không làm thì ai làm. Một trong những cái có thể đòi, có thể tái xây dựng là nền văn học miền Nam.
Cái kinh nghiệm đi tim lại chân diện miền Nam có nhiều kỳ tích lắm đáng nói lắm. Một nhà văn trẻ trong quân đội miền Nam đã kể lại trong Thư Quán Bản Thảo do nhà văn Trần Hoài Thư hiện đang điều hành. Trong đó, anh kể lại tình cờ nhặt được một mảnh giấy báo gói xôi, hóa ra lại chính là bài thơ của anh đăng trên Khởi Hành thì phải. Còn gì đẹp và cảm động hơn thế nữa.
Bản thân tôi muốn tìm lại cuốn Hồi Chuông Tắt Lửa của Thế Nguyên – một cuốn truyện được in ra vào thập niên 1970 mà ở thời điểm đó nội dung câu truyện đã gây một cú sốc trong tôi; đã vô vọng nhưng tôi vẫn viết rao trên báo. Chẳng bao lâu sau, tôi nhận được từ nhà văn Ngô Thế Vinh, bản sao cuốn truyện đó.
Tôi cũng muốn tìm lại tập sách nhan đề “Tuổi trẻ Sài gòn, Mậu Thân 1968”. Đã tìm ra, nhưng người bán sách đòi một giá quá cao đến nỗi không thể mua nổi.
Những chuyện đi tìm về quá khứ di sản miền Nam mang nhiều ý nghĩa cao đẹp như thế. Tôi đã sống cái tâm tình đó khi đi về miền Nam thân yêu tìm lại sách cũ.(1)
Và dĩ nhiên sẽ còn nhiều câu chuyện cảm động về những đứa con tinh thần đã lưu lạc sau tìm lại được.
Cho nên, tất cả những ai cách này cách khác khôi phục lại diện mạo văn hóa, văn học miền Nam thì chúng ta đều trân trọng. Ngay cả những nhà văn miền Bắc trước đây do tuyền truyền, do những lý do của lý do đã có lúc nhục mạ, phê phán sai lầm về gia tài văn học của miền Nam nay đổi chiều xin cũng rộng tay đón tiếp.
Không quên quá khứ, nhưng có những điều cần phải quên.
Sự thay đổi cách đánh giá về văn học miền Nam của một số những nhà văn miền Bắc trước đây phải coi là dấu hiệu tốt đẹp.
Ít lắm nó dẹp bỏ được cái não trạng winner-take-all, kẻ thắng thì vơ vét hết về cho mình.
Ở một tầm cao hơn nữa, nó thể hiện điều mà Alexis de Tocqueville trong cuốn Democracy in America viết năm 1835 như sau: Sự cao cả vĩ đại của người Mỹ không phải chỉ đơn thuần là do họ sáng suốt hơn các dân tộc khác, mà là do họ có khả năng sửa chữa những lỗi lầm của mình.(2)
Ý nghĩa cao đẹp ấy nằm trong cách thức mà một số nhà văn miền Bắc đã bắt đầu nhìn lại.
Tôi xin lấy lại một lời tuyên bố của tướng De Gaulle, “Mỗi một cuốn sách là một con người. Cho nên đi tìm lại sách cũ miền Nam là đi tìm lại một phần đời của chính bản thân mình.”
Những điều cần nhớ, cần nhắc lại
Khi chiếm xong miền Nam, người cộng sản có một chính sách khủng bố mang tính chất nhà nước là xóa bỏ toàn diện vết tích miền Nam về mặt thể chế, mặt kinh tế, mặt xã hội và cả về mặt văn học.
Thực tế là xóa bỏ con người miền Nam được coi là quá nhiễm độc một thứ văn hóa của thực dân mới, một thứ văn hóa đồi trụy, một thứ văn hóa phản động.
Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng trong kỳ họp Quốc Hội đã chủ trương:
“Phải nhổ tận gốc rễ những nọc độc về tư tưởng văn hóa thực dân mới mà đế quốc Mỹ đã gieo trồng ở miền Nam Việt Nam. Đó là thứ văn hóa, nô dịch, lai căng, đồi trụy cực kỳ phản động cùng các hủ tục, mê tín, dị đoan lan tràn.”(3)
Phần tôi, cho đến hiện nay, sau 38 năm tôi kể từ ngày mất miền Nam vẫn chưa tìm ra được bằng cớ xác thực Mỹ đã đầu độc dân miền Nam bằng thứ văn hóa thực dân mới, đồi trụy, phản động là thứ văn hóa gì. Và cũng hơn 30 năm ở xứ người, tôi chỉ nhận ra những điều tốt đẹp mà xứ sở này dành cho những người dân Việt tỵ nạn.
Chúng tôi có một cuộc sống mà con người được nhìn nhận và tôn trọng. Dựa theo tinh thần tôn giáo, tôi có được đọc một cuốn sách nhan đề rất là kỳ diệu: Dieu est né en exil (God was born in Exile).
Chúa còn phải sinh ra trong hoàn cảnh lưu đầy thì phần chúng ta có sá gì. Phần Chúa đã vậy thì phần chúng ta là gì trong ý nghĩa của chữ lưu vong. Và một lúc nào rảnh rỗi phải mổ xẻ chi ly hai chữ emigrant và exil mới được.
Vì thế trong việc xóa bỏ văn hóa miền Nam, nhà cầm quyền cộng sản đã tiến hành hai bước:
Ngay trước khi chiếm được miền Nam thì chính quyền cộng sản miền Bắc đã tiến hành một cuộc tuyên truyền nhằm đánh phá miền Nam liên tục trong nhiều năm trời. Theo Phan Cư Đệ và Hà Minh Đức thì đã có 286 bài phê bình đủ loại, đăng tải trên các tạp chí như Học Tập, Văn Học và Văn Nghệ. Vì đối với người cộng sản theo Marx, phê bình là một thứ võ khí. Đối tượng của phê bình chính là kẻ thù mà nó muốn tiêu diệt
Cho nên, Lê Duẩn, sau 1975 ngay trong Đại hội 5 đã chỉ thị, “Sau ngày giải phóng, nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hóa ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để.”(4)
Những lời tuyên bố có tính sắt máu của Lê Duẩn phải được coi là mang mầm mống một ý thức hệ cực đoan ‘tập thể’ như một thứ cực đoan tôn giáo mà thực chất cả hai thứ cực đoan tôn giáo và cực đoan chính trị chỉ là một.
Nghĩ đến cảnh tiêu hủy hàng triệu cuốn sách của miền Nam, tôi liên tưởng đến câu chuyện trong thế chiến thứ hai, tại Normandie, hình như ở vùng Basse-Normandie, có nhiều cây sồi lâu từ 100 năm đến 2, 3 trăm năm, nơi quân đội đồng minh đổ bộ. Một người dân làng muốn bảo vệ cây sồi đã gắn một tấm bảng yêu cầu đôi bên đừng phá hủy cây sồi.
Sau chiến tranh, cây sồi còn nguyên vẹn.
Một cây sồi thôi còn có một giá trị như một di sản văn hóa, được đôi bên tôn trọng. Câu chuyện đó giúp người hiểu biết đánh giá về tư cách những người đi giải phóng. Một câu truyện khác, tôi đọc trong cuốn Hồi ký của con trai De Gaulle.(5) Ngay sáng hôm sau, ngày giải phóng Paris, tướng De Gaulle đã đi bộ về khu Saint-Francois Xavier, nơi ông ở trước khi lưu vong sang Anh. De Gaulle vui mừng thốt lên: “Rien n’a changé, J’ai tout revu”. Đã không có gì thay đổi, tôi đã xem lại tất cả. Và tôi có cảm tưởng như mới rời nơi đây ngày hôm qua. (Ông đã rời Paris ngày 10-6-1940). Hai bàn máy đánh chữ vẫn còn như cũ, cây kiếm kỷ niệm, ngày ra trường võ bị Saint-Cyr còn đó.
Điều gì đã làm cho quân đội Phát Xít Đức không đụng chạm đến căn nhà của De Gaulle?
Cũng trong tinh thần bảo vệ cung điện, bảo tàng của Pháp, tướng Leclerc trước khi tiến vào Paris đã gửi công điện cảnh cáo binh lính Đức rằng, “Nếu các ông phá hủy một trong những di tích lịch sử của Paris, không một người lính Đức nào sẽ có thể sống còn.”(6)
Vậy mà người dân vùng Ninh Bình, Thanh Hóa còn nhớ Hồ Chí Minh đã áp dụng chiến thuật nhà không vườn trống, đốt sạch, phá sạch để cho quân đội Pháp không thể dựa vào dân.
Để thực hiện công tác xóa bỏ văn học miền Nam này thì có một đội ngũ cán bộ đặc trách là Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Phan Đắc Lập, Thái Kế Toại, Lê Dình Ky, Vũ Hạnh ngay cả Trần Văn Giàu (Trần Văn Giàu viết hẳn một cuốn sách phê bình cuốn Nhận Định IV của Nguyễn Văn Trung) cũng tham gia vào công tác bài trừ này.
Nhưng có hai tác giả được coi là viết với nhiều tài liệu dẫn chứng được coi là có căn cơ nhất và cũng thâm độc nhất: Đó là Lữ Phương với cuốn: Cuộc xâm lăng về Văn hóa và tư tưởng của Đế Quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam (1980).(7)
Người thứ hai là Trần Trọng Đăng Đàn, Tổng biên tập Tạp chí Khoa Học Xã hội với nhiều tác phẩm trong nhiều thời kỳ liên tục như: Nọc độc văn học thực dân mới, tập I, 1983, tập II, 1987. Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-1975, tập I, 1988, tập II, 1991. Và cuốn sách chủ yếu của ông là cuốn Văn Hóa, Văn Nghệ, phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại miền Nam-1990.. Sách này còn được in lại năm 2000.
Cho đến hiện nay, cho đến năm 2000, chính sách khủng bố mang tính nhà nước vẫn còn được chính thức lưu truyền. Cho nên, chúng ta cần phân biệt giữa chính sách của nhà nước cộng sản và thái độ của các nhà văn miền Bắc về chính sách ấy.
Có những chuyển biến rõ ràng về phía các nhà văn, nhưng lại tỏ ra trì trệ và quá cứng nhắc về phía chính quyền cộng sản.
Vì thế cho đến nay, năm 2015, tôi đã nhìn thấy một số chuyển biến tích cực ở bình diện cá nhân hơn là ở chính sách nhà nước.
Thứ nhất là sự phủ nhận chính những tác phẩm của chính mình
Sự phủ nhận chính mình là điều không dễ. Người ta thường cố bảo vệ những điều đã viết ra, dù sau này biết rằng những nhận thức của mình có thể đã lỗi thời hoặc đã bị vượt qua. Có những cái chỉ đúng cho một thời kỳ mà trở thành tai hại ở thời kỳ khác.
Vì thế, sự thay đổi, sự chuyển biến tư tưởng mang tính biện chứng trong tri thức luận, trong nhận thứcc của đời thường. Và đôi khi không ai trung thành với chính mình ở chính lúc mà chúng ta thay đổi.
Thay đổi là biểu hiện của sự trung thành hơn là một phản bội.
Và nay nhiều nhà văn đã có thái độ chuyển biến tư tưởng mà không do bất cứ một thúc ép bắt nguồn từ chính trị nào. Nhưng là do một thúc bách của sự thật và lẽ phải.
Lữ Phương đã kín đáo loại bỏ cuốn Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của Đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam ra khỏi danh sách các sách của ông.
Đỗ Đức Hiếu cũng mộc cách nào đó không muốn nhắc đến cuốn: Phê Phán Văn học hiện sinh chủ nghĩa.
Lê Đình Ky cũng đã dứt khoát không đưa cuốn: Nhìn lại tư tưởng Văn nghệ thời Mỹ Ngụy vào danh sách các tác phẩm đã in của ông.
Bảo Ninh, tác giả Nỗi Buồn Chiến Tranh và trong cuốn Hà Nội lúc không giờ, trong đó có chuyện ngắn Rửa tay gác kiếm đã miệt thị các nhà văn miền Nam khi cho rằng, các tác phẩm của họ chỉ dùng làm giấy đi cầu như trường hợp Chu Tử, Xuân Vũ, v.v..(8)
Nhưng sau này theo nhà phê bình Vương Trí Nhàn kể lại trong bài phỏng vấn của Thụy Khuê, ông có đưa cuốn Dấu Binh Lửa của Phan Nhật Nam cho Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu đọc. Cả hai đều nhìn nhận rất trân trọng, kính nể Phan Nhật Nam. Riêng Bảo Ninh sau khi đọc Dấu binh lửa của Phan Nhật Nam xong thì tiếc rằng: “Nếu tôi có cơ hội được đọc cuốn này trước thì có lẽ tôi sẽ viết khác đi. Và những cuốn sách viết về Chiến tranh như Dấu Binh Lửa của Phan Nhật Nam mà bọn tôi đọc thì không thể quên nổi và ở chỗ đó, nó cho thấy sự cần thiết về sự đóng góp của văn học miền Nam của một thời.”(9)
Tôi xin nhắc lại, ít lắm nó dẹp bỏ được cái não trạng winner-take-all, kẻ thắng thì vơ vét hết về cho mình.
Nhưng điều đó cũng cho thấy rằng những việc họ bắt buộc phải lên gân chửi văn học miền Nam có thể chỉ là hùa theo chính sách, không nói không được. Nó giống như cái cảnh tượng một người cán bộ đi dự một buổi mít tinh mà nhà nước đưa mấy phi công Mỹ đi trên đường phố để cho dân chúng tha hồ chửi, đánh cũng có. Anh cán bộ bắt buộc làm theo đám đông cũng dơ tay đánh dứ người phi công Mỹ đi qua để che mắt người khác.
Hiểu hoàn cảnh như thế nên khi tôi đọc Trần Văn Giàu trong cuốn Nhận Định về cuốn Nhận Định của Nguyễn Văn Trung, tôi có cảm tưởng ông chỉ giả vờ chửi Nguyễn Văn Trung mà điều chính yếu chính là ông Trần Văn Giàu muốn gián tiếp trình bày toàn bộ triết học hiện sinh theo cách nhìn của Nguyễn Văn Trung.
Người ta cũng sẽ có một cảm tưởng tương tự khi đọc Lê Đình Ky. Ông cũng đã dành phần lớn bài viết của mình viết về triết lý hiện sinh ở miền Nam do Nguyễn Văn Trung chủ trương.
Nói tắt một lời chửi mà thực sự không phải là chửi. Nhưng dùng cơ hội chửi đó để triển khai một đề tài triết học mà các ông tâm đắc.
Ngoài những người trực tiếp phê phán văn học Mỹ Ngụy ở trên, còn có một số nhà văn ở miền Bắc, bằng cách kín đáo, họ bày tỏ một sự trân trọng và quý mến các nhà văn miền Nam. Theo ý kiến của Vương Trí Nhàn thì sau 1954, các nhà văn miền Bắc ít có cơ hội đọc sách vở của miền Nam. Tuy nhiên những nhà văn như Nguyễn Tuân, Nguyễn Thanh Long, Xuân Diệu, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu hay lớp trẻ hơn như Lưu Quang Vũ, Bằng Việt hay Trúc Thông đã lặng lẽ tìm kiếm các sách, tài liệu miền Nam để đọc.(10)
Bên cạnh đó, các nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, nhà văn Nguyên Ngọc cũng có cái nhìn chia xẻ về văn miền Nam.
Phần chúng tôi, những người miền Nam được may mắn sống trong một chế độ cởi mở hơn, chúng tôi có nhiều cơ hội được tự do tìm đọc thơ Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, đọc các chuyện của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố v.v..
Riêng trường hợp Nam Cao, giáo sư Nguyễn Văn Trung đã dùng truyện Chí Phèo làm đề tài nghiên cứu văn học ở Đại Học văn khoa Sài gòn. Gs Trần văn Toàn (vừa quá vãng) đã khệ nệ bê nguyên con triết học Karl Marx-Hegel công khai vào giảng đường Văn Khoa Sài Gòn cho thấy sự tự trị đại học ở miền Nam như thế nào.
Sự phân biệt giữa chính trị và văn hóa đem lại cái lợi thế và cái may mắn cho những người sống ở miền Nam hơn ở miền Bắc.
Thứ hai, việc cho xuất bản lại các tác giả trước 1975 là một dấu hiệu tốt bắt đầu
Trong cái tinh thần muốn tìm về quá khứ, muốn vượt qua những hàng rào cản vướng mắc ngăn chặn của một quá khứ cay nghiệt, tôi đã tìm và mua được một số sách triết học trước 1975 được in lại như các cuốn: Martin Heidegger, Tư tưởng và hiện đại của Bùi Giáng, các bộ Lịch sử Triết Học Tây Phương của Lê Tôn Nghiêm, nhất là cuốn Triết Học Hiện sinh của Trần Thái Đỉnh.
Về sách Văn Học, cuốn 13 năm tranh luận văn học, gồm 3 tập của Thanh Lãng đã được in lại (Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1997 gồm bốn tập. Tạp chí Tri Tân, 1941-1945, Phê Bình Văn Học cũng đã được Nhà xuất bản Nội Nhà Văn cho in lại.)
Mặc dầu không thuộc di sản tinh thần của 20 năm Văn học miền Nam, nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế đã cho in lại 4 tập Những người bạn cố đô Huế (Bulletin des amis du vieux Hue, 1914-1944 một công trình biên khảo kéo dài trong suốt 30 năm trời do học giả L. Cadière làm chủ bút. Cũng nhà xuất bản này đã cho in lại bộ Đại Nam liệt truyện thuộc Quốc Sử Giám triều Nguyễn.
Chúng tôi cũng thấy sự cố gắng của nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội đã cho in bốn tập, dày hàng mấy ngàn trang, Tinh Tuyển Văn học Việt Nam, cũng dày khỏang hơn 4000 trang, in giyấ mỏng, bìa cứng..
Và mới đây, cuốn Lục Châu Học của Nguyễn Văn Trung đã được xuất bản vào cuối năm 2014. Cuốn sách Lục Châu Học nhằm trả lại vị trí xứng tầm của một mảnh văn học miền Nam thường bị bỏ quên và bỏ qua trong suốt cả một thế kỷ dưới thời Pháp thuộc.
Tôi cũng ngạc nhiên thấy việc tái xuất bản các sách của Phạm Quỳnh như 10 ngày ở Huế-Luận giải văn học và triết học, Thượng chi văn tập, v.v.. Và cũng một cách thức như vậy, các tiểu thuyết của nhóm Tự Lực Văn Đoàn như các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng cũng tùy theo cuốn đã được tái xuất bản, v.v..
Mặc dầu chỉ là nhà thơ, Mê Hồn Ca của thi sĩ Đinh Hùng cũng như Mặc Khách Saigòn của Tô Kiều Ngân đã có dịp xuất hiện trên các kệ sách ở Sài Gòn.
Một cái đặc biệt trong những cái đặc biệt là một vài cuốn sách sử của Tạ Trí Đại Trường như, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1871-1802, hay Người lính thuộc địa Nam Kỳ cũng được tái xuất bản.
Nhà văn thì có thể mới có Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mộng Giác mà khi sách của Dương Nghiễm Mậu được in ra đã gây một vài tiếng ồn ào, bất bình. Đặc biệt từ phía nhà văn nằm vùng ở miền Nam, ông Vũ Hạnh.
Tuy nhiên, trong các cuốn sách được tái xuất bản mà tôi tâm đắc và thích thú hơn cả là cuốn: Việt Nam Văn học sử, giản ước tân biên, gồm ba tập của giáo sư Phạm Thế Ngũ.
Nếu về Sử học, xin chọn cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thì về văn học, xin chọn sách của Phạm Thế Ngũ.
Việc tìm hiểu số sách miền Nam được in lại, tái xuất bản người viết bài này không có điều kiện để cập nhật, xin ghi lại trong chừng mực có thể mà không dám nói là đầy đủ.
Ngoài những nhà xuất bản in lại sách cũ như vừa nêu ra ở trên. Ở Sài gòn ngay sau 1975 được ít lâu đã nảy sinh ra các tiệm sách dạo, bày bán trên vỉa hè.. Trong một bài viết cũ,(11) tôi nhận thấy một hiện tượng đảo ngược: Sách càng bị cấm, càng có nhiều người tìm đọc, ngay cả cán bộ miền Bắc vào Nam cũng tìm mua. Vỉa hè bày bán các sách của nhà nước cho phép, giấy xấu, in nhem nhuốc.
Đó là loại sách ‘đồng phục’, in ấn xấu xí mà nội dung cũng chẳng ra làm sao. Chẳng hạn các cuốn 10 ngày của Bôcaxiô. Thằng cười dịch của Victor Hugo. Cửa hàng vì hạnh phúc của các bà, dịch của E. Zôla. (Thật ra nhan đề cuốn sách của E. Zola là: Au bonheur des dames. Khong hiểu vì sao lại dịch là cửa hàng vì hạnh phúc các bà). Tuổi thơ mãi mãi cùng ta cùng M. Karim. Tôi có mua một ít mang sang đây, nhưng cũng không có dịp mở ra đọc. Nhưng nếu ai muốn mua sách cũ là người nhà của tiệm sách chạy đi một lát là mang về sách ‘phản động’. Chỉ phải tội giá cả sách tùy thuộc vào người mua và tùy thuộc vào tác giả và giá có đắt hơn nhiều lần so với sách bày công khai.
Sau này, tôi vẫn tìm mua được sách cũ miền Nam với giá vài đô la, một cuốn. Cuốn sách tôi phải trả giá cao nhất cách đây khỏang gần 10 năm là 30 đô la cho cuốn: Quốc triều Hương khoa lục của cụ Cao Xuân Dục.
Nay thì giá đắt đến nỗi không tài nào mua nổi. Một tiệm bán sách ở Cần Thơ rao bán trên mạng một tập nội san của sinh viên Sài gòn với giá 200 đô la. Cuốn Việt-Hán Văn khảo giá 300 đô la. Cuốn Bảng lược đồ lịch sử văn học Việt Nam giá 300 đô. Tập san Đứng Dậy của Nguyễn Ngọc Lan và Chân Tín giá trung bình 70 đô la một cuốn.
Thứ ba, công việc khôi phục lại Văn Học miền Nam còn là một đoạn đường dài, phải mất nhiều năm tháng và khổ công
Cứ theo Trần Trọng Đăng Đàn thì có vào khoảng 2721 tác giả nhà văn, nhà báo, dịch giả, nhà biên khảo, giáo sư, trí thức có các tác phẩm để lại. Mặc dầu đã có chỉ thị phân loại các sách, nhưng trên thực tế chẳng ai có trách nhiệm thi hành. Họ đã dùng trẻ con đi đến các nhà, dùng xe ba gác, đánh trống để tịch thu. Hễ cứ là sách là tiêu hủy tất cả.
Cứ giả dụ trung bình mỗi tác giả có năm tác phẩm đã xuất bản. Như vậy có trên 10 ngàn tác phẩm dã xuất bản. Và trung bình mỗi tựa sách ở miền Nam thời đó in là 3000 cuốn. Nếu kể thêm các sách giáo khoa kỹ thuật khoảng chừng 2000 tác giả. Mỗi tác giả có năm tác phẩm sẽ có thêm 10 ngàn tựa sách, cũng in 3000 nghìn cuốn. Nếu kể thêm các tác phẩm dịch mà có cuốn được in đi in lại đến 10 lần.
Và nếu cộng thêm các tập san đủ loại thì đã có khoảng hơn 300 tập san như thế.
Con số sách do các nhà xuất bản như Nam Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hóa Á Châu, Diên Hồng, Trình Bày, Khai Trí, Xưa Nay, Lá Bối, An Tiêm là 200 triệu cuốn sách trong 20 năm
Tôi chỉ kể một vài tập san tiêu biểu như tập san Đại Học Huế mà tôi vừa thực hiện việc điện toán toàn bộ gồm khoảng 6000 trang tài liệu.
6000 trang tài liệu của trên dưới hơn 100 nhà biên khảo, trí thức, giáo sư đại học- những thành phần ưu tú nhất của miền Nam- về các lãnh vực, triết học, sử học, ngôn ngữ học, văn học bỗng chố tan biền hết.
Còn có nỗi mất mát nào lớn hơn nữa không.
Chúng ta sẽ có khoảng hơn 10 triệu cuốn sách bị tịch thu và phá hủy.
Chỉ nghĩ đến điều đo thôi đã thấy rùng mình.
Có người liên tưởng việc đốt sách này đến việc Phần Thư Khanh Nho(đốt sách chôn nho) của bạo chúa Tần Thủy Hoàng. Lấy việc xưa mà nói việc ngày nay thì cũng có nhiều điều khiên cưỡng. Việc đốt sách đời Tần là dốt sách của ngoại lai. Người đề xướng ra việc đốt sách là Lý Tư chứ không phải Tần Thủy Hoàng
Còn việc tịch thu, đốt sách thời Lê Duẩn là do ai chủ xướng, ai đề ra?
Chắc chắn là không có câu trả lời.
Nguyễn Văn Lục
(1) Xem thêm bài viết cùng tác giả: Sách cũ miền Nam.
(2) Lấy lại ý của tác giả Đoàn Thanh Liêm trong bài điểm sách cuốn Europe’s promise
(3) Trích báo Nhân Dân ngày 26-6-1976
(4) Xem Trần Trong Đăng Đàn trong Văn Hóa, Văn Nghệ Nam Việt Nam
(5) Cuốn De Gaulle, mon père, do Philiipe De Gaulle viết, trang 359
(6) Philippe De Gaulle, Ibid, trang 351. Si vous touchez à un seul de nos monuments publics, pas un Allemand ne survivra.
(7) Xem thêm bài viết: Phê phán cuốn Cuộc xâm lăng về Văn hóa và Tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam
(8) Trích Bảo Ninh, Hà Nội lúc không giờ, trang 83, nxb Văn Hóa Thông Tin, 2002.
(9) Thụy Khuê: Văn Học miền Nam 1954-75 theo cách nhìn của Vương Trí Nhàn hôm nay. RFI, ngày 14 và 21-6-2008
(10) Trích phỏng vấn của Thụy Khuê, ibid.
(11) Nguyễn văn Lục, Sách cũ miền Nam
© 2017 DCVOnline