I. Các trụ cột tinh thần
1. Hệ thống giá trị, chuẩn mực, luân lý và niềm tin
Là hệ thống quan niệm và thói quen quyết định cách thức mà con người trong triều đại nhìn thực tại và nhìn nhau.
Là
nền tảng quan trọng nhất để hình thành và duy trì tính chính đáng của
triều đại, cũng như cách thức hệ thống chính trị – xã hội của nó vận
hành.
Mọi
thay đổi, dù là nhỏ nhất, trong hệ giá trị, chuẩn mực, luân lý và niềm
tin, cũng tất yếu dẫn đến sự điều chỉnh – hoặc sự trục trặc – của toàn
bộ các thành tố còn lại trong hệ thống.
Hệ thống giá trị, chuẩn mực, luân lý và niềm tin thường thay đổi vì những lí do sau:
_
Do giao lưu với nước ngoài. VD: Văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng từ
quá trình giao lưu với Trung Quốc và phương Tây, hoàn toàn không có cái
gọi là “thuần Việt”.
_ Do ảnh hưởng từ người nhập cư, nô lệ hoặc cư dân các vùng lãnh thổ mới xâm chiếm
VD:
Trong giai đoạn cuối cùng trước khi sụp đổ, người dân của đế chế La Mã
ăn mặc và xây cất như người Hy Lạp, thờ một người Do Thái và đánh nhau
theo hàng ngũ của dân nhập cư man di.
_ Do công nghệ mới
VD: Bộ mặt thế giới thay đổi hoàn toàn sau sự ra đời của Internet, cũng như Châu Âu từng lột xác sau sự ra đời của công nghệ in.
_ Do các khám phá khoa học mới
VD:
Các phát hiện mới trong ngành vật lý lượng tử đặt dấu chấm hết cho quan
niệm “sự thật mang tính khách quan” – tiền đề quan trọng của đa phần
triết học, khoa học và quan niệm sống phương Tây, nhất là vào thời khai
sáng.
_ Do thịnh vượng hoặc suy thoái kinh tế – tài chính
VD: Sự thịnh vượng của các đô thị Bắc Ý cuối thời Trung cổ là bàn đạp để phát triển văn hóa trong thời Phục hưng.
_ Do các nghệ sĩ và nhà tư tưởng
VD:
Lý thuyết chính trị của Aristotle định hình tập quán chính trị của
phương Tây cho tới ngày nay. Phong trào Thơ Mới đặt dấu chấm hết cho
thực tại Khổng giáo tiểu nông đã cắm rễ ở Việt Nam suốt hàng thế kỷ.
Các
triều đại thường sụp đổ khi hệ thống giá trị, chuẩn mực, luân lý và
niềm tin làm nền tảng cho nó bị lung lay. Ví dụ điển hình là sự sụp đổ
của các nền quân chủ châu Âu, khi mấy thế kỷ chuyển mình về nghệ thuật,
công nghệ, khoa học và kinh tế của lục địa này khiến quyền uy thế tục
của giáo hội bị xét lại và vấn đề tự do cá nhân được đặt ra.
Tuy
vậy, cũng có những trường hợp mà triều đại được duy trì qua cơn hoạn
nạn, do hệ thống kịp thời tự điều chỉnh để thích nghi với trật tự tinh
thần mới. Ví dụ tiêu biểu là sự sống sót của nền quân chủ Anh sau Magna
Carta. Tuy vậy, trong những trường hợp đó, bộ mặt triều đại cùng cách
vận hành, phân bổ quyền lực và phân phối tài nguyên của nó cũng thay đổi
rất nhiều. Và thường thì quyền uy của giới cầm quyền cũ sẽ liên tục suy
giảm, cho tới khi họ biết cách đầu tư nguồn vốn cũ của mình vào những
mánh làm ăn trong hệ thống mới.
Mặt
khác, vẫn có những triều đại sụp đổ trong điều kiện trật tự tinh thần
cũ không đổi. Trong các trường hợp này, người đương thời thường lý giải
rằng bộ máy cầm quyền đã đi chệch khỏi trật tự tinh thần đúng đắn, tức
là đã từ bỏ “mệnh trời”, đi ngược “ý Chúa” hoặc phản bội “ý chí nhân
dân”. Nhiều cuộc thay đổi triều đại ở Trung Quốc và Việt Nam thuộc nhóm
này. Tuy vậy, trong các trường hợp này, gốc rễ của thảm kịch thường
không nằm ở phẩm chất của cá nhân người cầm quyền, ở “mệnh trời”, “ý
Chúa” hoặc “ý chí nhân dân”, mà kì thực đã nhen nhóm từ lâu trong sự rạn
nứt của một trụ cột quyền lực làm nên hệ thống.
Nói
chung, duy trì vĩnh viễn một trật tự tinh thần là điều không thể. Thay
vì cố dập tắt mọi mối đe dọa từ bên trong và bên ngoài đối với trật tự
tinh thần cũ, các nhà cầm quyền khôn ngoan trong lịch sử thường thiết
lập một hệ thống thẩm định, cấp phép và quản lý để các trào lưu tư
tưởng, chuẩn mực, niềm tin mới được phép xuất hiện và ganh đua.
Nhà cầm quyền khôn ngoan và hệ thống của họ phải đảm bảo những điều này:
_
Mỗi trào lưu mới phải có một hệ chuẩn mực hoàn chỉnh của riêng nó. Dù
cho phép một không gian tự do lớn đến đâu, hệ chuẩn mực riêng này cũng
phải đảm bảo một tiêu chuẩn vệ sinh, trình độ thẩm mỹ và độ minh bạch
thông tin tối thiểu.
_ Trào lưu mới không che mờ lý trí để kích động những đam mê chính trị cực đoan của đám đông.
_ Trào lưu mới không tức khắc đe dọa tính chính đáng của triều đại và của người cầm quyền đương nhiệm.
_ Trào lưu mới không tạo ra những đoàn thể có nhân sự, tài chính lớn và quan hệ phức tạp.
_
Các trào lưu mới phải nổi ngang bằng, không có cái nào quá vượt trội,
không có sự liên kết giữa các trào lưu với nhau. Nếu chúng đánh lẫn nhau
được thì càng tốt.
_ Mỗi trào lưu nên được duy trì sự cạnh tranh lành mạnh trong nội bộ.
_ Hệ thống phải chuẩn bị sẵn các phương án b, phương án c để kịp thời thay đổi khi một trào lưu mới lớn dậy và thắng thế.
_
Nhà cầm quyền không được có đam mê đặc biệt với bất cứ một trào lưu mới
nào. Thay vào đó, phải đối xử với tất cả bằng một thái độ tương đối
công bằng, đồng thời tỏ ra vừa hiểu biết vừa lạnh nhạt, vừa cởi mở vừa
do dự, vừa cần thiết vừa đáng lo với mọi trào lưu mới.
2. Hi vọng của người dân
Nhờ
đâu một triều đại được phép tồn tại? Không phải nhờ nó mang lại cơm ăn,
áo mặc, niềm tự hào và lạc thú cho nhân dân. Mà là nhờ nó mang lại cho
dân chúng hi vọng vào những điều này.
Nếu hi vọng của người dân vẫn còn, thì dù họ sống trong bệnh dịch, nghèo đói hoặc ngoại xâm, triều đại vẫn có cơ đứng vững.
Nếu hi vọng của người dân mất hẳn, thì chừng nào hệ thống còn duy trì được nỗi sợ, tình hình cũng chưa quá đáng lo.
Nhưng
nếu hi vọng của người dân đặt vào một lực lượng chính trị khác, thì dù
triều đại có liên tục mang lại sự an toàn và thịnh vượng, nhà cầm quyền
có tầm nhìn và nghĩa khí, nhà chức trách có năng lực, họ cũng lập tức bị
dân chúng chối từ.
Vậy
nên nhà cầm quyền khôn ngoan không thỏa mãn mong muốn của người dân, mà
duy trì và sở hữu nó. Chẳng hạn, các chính quyền Mỹ gần đây chỉ tập
trung duy trì giấc mơ Mỹ, chứ không cố ban phát cho nhân dân nhiều an
toàn và phúc lợi. Hệ
thống của nước này không đòi hỏi người dân yêu mến nó, bởi yêu mến càng
nhiều thì thất vọng đến càng nhanh. Nó chỉ đòi hỏi người dân phải dựa
vào nó, thông qua nó, phụ thuộc nó trong mọi hoạt động sinh tồn. Nó
không khuyến khích người dân tận hưởng cuộc sống vui vẻ, mà thúc giục họ
cạnh tranh, vì người dân thường càng ganh đua với nhau thì càng lệ
thuộc vào hệ thống, ít đặt câu hỏi về hệ thống và không cùng nhau lập
nên những lực lượng cạnh tranh với hệ thống. Ngược lại, những cố gắng
cải cách và mở cửa vội vàng ở Liên Xô, dù nhằm thỏa mãn đòi hỏi của nhân
dân, lại khiến hệ thống nhanh chóng sụp đổ vì bị cạnh tranh và gây thất
vọng.
3. Nỗi sợ của người dân
Nỗi sợ là nguyên nhân quan trọng nhất khiến mọi hình thái tổ chức, bao gồm quốc gia và xã hội, được hình thành.
Vì
người dân sợ ngoại quốc và sợ nhau, họ thành lập hệ thống, rồi trao cho
hệ thống quyền bảo vệ nhân dân bằng truyền thông, bạo lực và giám sát.
Nên nếu người dân không sợ, hệ thống mất lý do tồn tại và đi đến giải
thể.
Để công tác trị an của hệ thống được đảm bảo, người dân phải sợ hệ thống hơn là sợ ngoại quốc và sợ nhau.
Nếu
người dân sợ ngoại quốc hơn sợ hệ thống, họ sẽ tôn ngoại quốc làm người
lãnh đạo mới của mình, như trong quá trình lên ngôi của người Mãn Thanh
ở Trung Quốc.
Nếu
người dân sợ nhau hơn sợ toàn án, công an, quy tắc giang hồ sẽ thay thế
luật pháp, như tình trạng loạn kiêu binh cuối thời Lê – Trịnh.
Nhưng
nếu người dân hiểu rằng hệ thống chỉ kinh doanh nỗi sợ, như tình huống
gần đây ở Ai Cập, thì hệ thống sẽ sụp đổ vì mất tính chính danh.
Bởi vậy, muốn tồn tại bền vững, mọi hệ thống phải biết duy trì, chuyển hóa và chính đáng hóa nỗi sợ của người dân.
Trước
tiên, không được để nỗi sợ hệ thống bị nhận ra, mà phải chia nhỏ nó ra,
rồi ngụy trang nó dưới ba vỏ bọc, là nỗi sợ dư luận, nỗi sợ thiệt thòi
và nỗi sợ luật pháp. Sau đó, phải gọi nỗi sợ dư luận là đạo đức, gọi nỗi
sợ thiệt thòi là ý chí tiến thủ và gọi nỗi sợ luật pháp là tinh thần
thượng tôn pháp luật, để nỗi sợ không những không bị khinh bỉ, mà còn
được coi là tốt và đáng tôn vinh.
Nỗi
sợ ngoại quốc phải được chuyển hóa thành sự căm ghét những ngoại quốc
cụ thể, thông qua ba liều thuốc kích thích là ghen tị, bạo lực và hận
thù. Sau đó, không được để sự căm ghét ngoại quốc đứng trần truồng, mà
phải gọi nó là tinh thần tự tôn dân tộc và lòng yêu nước.
Có
thể chuyển hóa “tinh thần tự tôn dân tộc” và “lòng yêu nước” thành nỗi
sợ dư luận, qua đó củng cố nỗi sợ hệ thống của người dân.
Cũng
có thể tận dụng hai tinh thần cao quý này cho luật nghĩa vụ quân sự và
luật an ninh quốc gia, qua đó trực tiếp gia tăng sức mạnh và thẩm quyền
của hệ thống.
Nỗi
sợ nhau của người dân phải được quản lý một cách cẩn thận. Nếu để nỗi
sợ lan tràn, thương mại sẽ sa sút vì dân chúng không tin tưởng nhau. Nên
trước tiên, cần làm truyền thông để đám đông hướng nỗi sợ vào một số
hình mẫu cụ thể – tức biến một số thành phần nhân dân cụ thể thành kẻ
thù của số đông. Phù hợp nhất là bọn khủng bố, bọn giết người hàng loạt
hay bọn nghiện hút. Việc duy trì ổn định những kẻ thù của xã hội này,
cùng những chiến công vang dội trong cuộc giằng co với chúng của các cơ
quan chức năng, sẽ khiến các thành phần nhân dân còn lại cảm nhận rõ sự
cần thiết và nghiêm minh của pháp luật.
20-3-2016
Nếu
coi nhân dân là các phụ tùng máy, tài nguyên là nhiên liệu chạy máy và
nhà cầm quyền là người vận hành máy, thì luật pháp là qui trình vận hành
công khai và thành văn của toàn bộ cỗ máy xã hội.
Nhờ
luật pháp, nhiên liệu được tiết kiệm và sử dụng hợp lý, các phụ tùng đỡ
va vấp làm sứt mẻ nhau, người vận hành máy tiết kiệm được sức lực, sự
mạo hiểm và thời gian.
Tuy
nhiên, luật pháp càng nhiều thì con người càng giống máy móc. Các mắt
lưới luật pháp càng dày đặc thì con người càng nhỏ bé đi. Hệ thống càng
được qui trình hóa thì càng khó thích nghi khi môi trường thay đổi hoặc
chuyển hướng khi cần. Nên luật pháp tốt là luật pháp tối giản, dễ hiểu,
rõ ràng, nhưng chặt chẽ và được đảm bảo thực hiện nghiêm túc.
Luật
pháp được thực thi nhờ cơ chế thưởng phạt. Bởi vậy, về mặt thực chất,
pháp luật là phương tiện để kiểm soát và vận hành xã hội thông qua việc
thao túng dục vọng và nỗi sợ của từng cá nhân. Nói cách khác, pháp luật
là bạo lực và thiên vị được hệ thống hóa và chính đáng hóa cao độ, tới
mức nó được đông đảo dân chúng nương tựa và tôn sùng. Pháp luật là nhà
tù để bảo vệ tự do, là dùi cui để mang đến bình yên, là sự bất công để
thực thi công lý.
Để
giữ chính danh, nhà cầm quyền ngày nay thường phải tự đặt mình bên dưới
pháp luật, và tuyên bố rằng mình chỉ là công cụ để thực thi pháp luật.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng pháp luật luôn nằm dưới, và luôn là công cụ để
thực thi các ý niệm được tôn thành “chủ quyền tối cao” của hệ thống –
như thần thánh, quốc gia, tự do, lợi nhuận, hoặc ý chí nhân dân. Nếu nhà
cầm quyền biết thao túng và nhân danh “chủ quyền tối cao” này, bằng
chính những dục vọng và nỗi sợ từng khiến chúng được con người đề ra,
thì trong thực tế, nhà cầm quyền đương nhiên đang đứng trên pháp luật và
dùng pháp luật làm công cụ phục vụ mục đích của riêng mình. Cần nhớ
rằng Hitler chưa bao giờ phản bội ý chí nhân dân, cũng chưa từng phạm
pháp.
Trong những trường hợp sau, hệ thống có thể sụp đổ vì trụ cột luật pháp bị suy yếu:
_ Pháp luật hiện hành không phù hợp với trật tự tinh thần của xã hội, được thể hiện qua hệ thống giá trị, luân lí và niềm tin.
Chẳng
hạn: Những cải cách vội vàng về luật hộ tịch, tiền tệ và sở hữu ruộng
đất của Hồ Quý Ly nhanh chóng làm sụp đổ quyền lực của ông trước khi
quân Minh ra đòn kết liễu.
_
Pháp luật mới đầu rất hợp lòng dân, trông vô hại, tiến bộ và hợp lý một
cách hiển nhiên, nhưng về lâu về dài lại ngầm bào mòn nền tảng quyền
lực của hệ thống.
Chẳng
hạn: Luật thừa kế ở Mỹ, với quy định về sự bình đẳng của con cả và con
thứ khi thừa kế tài sản của người đã khuất, dần làm chia nhỏ điền sản
của giới địa chủ qua nhiều thế hệ, làm quyền lực của họ suy yếu dần cho
đến khi sụp đổ hoàn toàn sau cuộc nội chiến.
_
Pháp luật không được thực hiện nghiêm túc gây nhiều hậu quả nghiêm
trọng, dẫn đến hệ thống hoàn toàn mất tính chính danh, đồng thời luật
rừng tạo thành môi trường nuôi dưỡng những quyền lực mới.
Chẳng
hạn: Tình trạng vắng bóng luật pháp ở miền Bắc Việt Nam cuối thời Lê –
Trịnh biến toàn dân thành giặc cướp và tất cả quan tướng có thế lực
thành sứ quân.
Nhìn
chung, luật pháp là công cụ chính danh để làm cho các nguồn lực của xã
hội trong quá khứ, hiện tại và tương lai vận hành ăn khớp với nhau.
Chừng nào nó còn giữ được tính chính danh, còn ổn vững qua các biến động
và còn hoàn thành tốt nhiệm vụ ráp nối này, thì dù người cầm quyền đứng
trên hay đứng dưới pháp luật, dù xã hội linh hoạt hay trì trệ, dù dân
chúng đói khổ hay ấm no, hệ thống vẫn đứng vững. Chỉ khi môi trường pháp
luật khiến tính chính danh bị mất, các nguồn lực va chạm và xung đột,
quá khứ, hiện tại và tương lai không ăn khớp với nhau, nó mới có thể làm
cho hệ thống sụp đổ.
Tuy
nhiên, nếu nhà cầm quyền không thể đứng trên pháp luật và làm chủ pháp
luật về mặt thực chất, thì trong thực tế, triều đại của họ vốn đã cáo
chung. Nếu có tiếp tục công khai cầm quyền, thì họ cũng chỉ là ông vua
bù nhìn để trưng lên sân khấu. Vấn đề nằm ở chỗ thay vì dùng pháp luật
để thao túng dục vọng và nỗi sợ của người khác, họ lại để pháp luật thao
túng dục vọng và nỗi sợ của mình. Vì không thể làm chủ tâm trí của bản
thân, họ không thể tiếp tục làm chủ hệ thống, mà trở thành công cụ trong
hệ thống.
Giờ
đây, hệ thống mà họ sáng lập trở thành công cụ trong tay những thế lực
cầm quyền không lộ mặt. Đây là những kẻ có thể thao túng dục vọng và nỗi
sợ của các thành viên trong hệ thống, qua đó chiếm dụng luật chơi rồi
viết lại luật chơi. Những chủ nhân mới của luật pháp có thể đến từ quân
đội, giới tài phiệt, hệ thống an ninh – tình báo hoặc hậu cung… Nhưng
không bao giờ có chuyện nhân dân làm chủ luật pháp. Lý do rất giản đơn:
đa số người dân không biết gì về dục vọng và nỗi sợ của họ, chứ đừng nói
đến chuyện làm chủ chúng.
2. Cơ chế vận hành của bộ máy chính trị
Nói
gì thì nói, chính trị trước hết và trên hết là công việc phân chia
quyền lực. Vì không tồn tại quyền lực thì không tồn tại chính trị, quyền
lực tỉ lệ thuận với ảnh hưởng chính trị, và mọi hành vi chính trị đều
nhằm mục đích tái phân phối quyền lực. Để tồn tại và vận hành một cách
trơn tru thay vì tự hủy, bộ máy chính trị cần những cơ chế để phân chia
quyền lực thành nhiều nhánh, để tuyển chọn những cá nhân đảm nhiệm từng
nhánh, và để các nhánh quyền lực đó phối hợp một cách ổn thỏa với nhau
trong các quyết định chung. Dù bộ máy chính trị mang danh nghĩa là dân
chủ hay độc tài, nhân danh lí tưởng gì và lợi ích của ai, thì những gì
con người thật sự cần ở nó cũng chỉ nằm gọn trong ba vấn đề thực tế ấy.
Trong những trường hợp sau, cơ chế vận hành của bộ máy chính trị dễ khiến cho triều đại sụp đổ:
_ Các nhánh quyền lực chồng chéo lên nhau, tạo điều kiện cho sự mưu lợi bất minh và làm nảy sinh tranh chấp lợi ích.
_
Thiếu cơ chế để các nhánh quyền lực giám sát và kiềm chế lẫn nhau,
khiến một nhánh nổi lên tiếm quyền, các nhánh thoải mái lạm quyền để mưu
lợi tư, hoặc giữa các nhánh xảy ra tranh chấp ngoài cơ chế.
_
Các nhánh quyền lực trung ương được phân chia không đều, khiến một
nhánh có cơ nổi lên tiếm quyền sau khi lôi kéo được sự ủng hộ hoặc làm
ngơ của các nhánh yếu hơn.
_
Địa phương có quá nhiều quyền tự quyết về kinh tế, tài chính, an ninh
và đối ngoại, dẫn đến tình trạng cát cứ hoặc đe dọa an ninh chung khi
các địa phương cấu kết với nhau, địa phương cấu kết với nước ngoài, địa
phương cấu kết với một nhánh quyền lực trung ương, hoặc địa phương phát
triển vượt trung ương về sức mạnh vũ lực, thông tin, ngoại giao và kinh
tế. Nguy cơ tương tự đặt ra với các tập đoàn kinh tế – tài chính và các
các tổ chức thuộc xã hội dân sự.
_
Cơ chế của bộ máy chính trị dành quá nhiều ưu tiên cho một bộ phận
người dân, trong khi lại tước đoạt mọi cơ hội thăng tiến cá nhân của một
bộ phận khác. Bộ phận bị gạt bỏ đương nhiên cho rằng mình nằm ngoài hệ
thống, là nạn nhân của hệ thống và là kẻ thù không đội trời chung của bộ
phận được ưu tiên.
_ Bộ máy chính trị thiếu cơ chế để kiềm chế những đòi hỏi và đam mê mang tính bộc phát, nhất thời của đám đông dân chúng.
Cần
lưu ý rằng những nguy cơ trên xảy ra với mọi nền chính trị tự cổ chí
kim, bao gồm cả những chế độ mệnh danh dân chủ đa đảng. Chẳng hạn, trong
hệ thống hiện hành của nước Mỹ, giới tài phiệt được bộ máy chính trị
dành cho quá nhiều ưu tiên. Cơ chế chính trị của Mỹ cũng từng thất bại
trong việc giải quyết mâu thuẫn quyền lực giữa các địa phương miền Bắc
và miền Nam, cho tới khi súng ống giải quyết vấn đề. Chính cơ chế chính
trị tự do của nước Đức đầu thập niên 1930 đã giúp đảng Quốc Xã cấu kết
với các nhóm lợi ích tài chính và quốc phòng, thâu tóm những nguồn lực
tối quan trọng rồi đưa Hitler lên ngôi vị tối cao theo đòi hỏi của đám
đông dân chúng.
Trong
thực tế, hệ thống dân chủ đa đảng được cổ vũ hiện nay chỉ là một tập
hợp những phương thức để chia nhỏ quyền lực thành nhiều nhánh, và cho
các nhánh chạy khớp với nhau. Nhiệm kì để chia nhỏ về thời gian, liên
bang để chia nhỏ về không gian, đa đảng để chia nhỏ về tập đoàn, tam
quyền phân lập để chia nhỏ về chức trách… Nhưng như thế không có nghĩa
là người dân thường được làm chủ. Vẫn có các công ty làm chủ thời gian
của người dân, các hãng truyền thông làm chủ không gian quốc gia, các
thế lực tài chính thao túng nhiều tập đoàn, và các đế chế thông tin nắm
giữ bí mật để kiểm soát mọi chức trách. Người dân thường chỉ có một cơ
hội duy nhất để ít nhiều làm chủ đời mình và làm chủ nền chính trị một
cách ổn vững. Đó là đạt đến cái nhìn toàn cảnh và hành động tập thể
thông qua giới trí thức tinh hoa.
____
22-3-2016
III. Trụ cột nhân sự
- Nhân sự cầm quyền
Dân
Đông Á tưởng rằng nhà cầm quyền phải là kẻ hội đủ tài đức. Nhưng dân
bàn về cái tài của vua thì chỉ là bàn nhảm, bởi dân không biết cái tài
của vua. Dân so sánh cái đức của vua thì cũng chỉ như miếng thịt chọn
vào chảo hay vào nồi, bởi mọi thứ đạo đức đều được một kẻ cầm quyền tạo
ra, và mọi kẻ cầm quyền đều sửa sang đạo đức.
Dân
Tây tưởng rằng nhà cầm quyền phải do Thiên chúa hoặc Nhân dân lựa chọn.
Họ quên mất rằng trong lịch sử, Giáo hội muốn ai chết thì kẻ đó bị Chúa
phạt, Giáo hội muốn ai sống thì kẻ đó được Chúa thương. Ai đẹp lòng cha
xứ, kẻ ấy được lên thiên đường. Giáo hoàng ra sao thì Chúa ra thế ấy,
Giáo hoàng chỉ đâu là Chúa đánh đấy. Ngày nay, chỉ kẻ có tiền, có quyền
mới hay diễn thuyết về tập thể, quốc gia, nhân dân, nhân loại. Còn kẻ
hết tiền sẽ không sống như nhân loại, và tiền là Chúa của hầu hết nhân
dân.
Kẻ
chạy theo tài đức thì không cầm quyền. Kẻ ấy bị cai trị bởi miệng lưỡi
ngu dân và vai tuồng của vua cũ. Kẻ ấy không cầm quyền, kẻ ấy là nô lệ.
Kẻ
tôn thờ dân ý thì không cầm quyền. Không có con người sống động nào là
Nhân Dân, Nhân Dân chỉ là khái niệm ép khô trong bài diễn thuyết. Khi
được yên ổn và không bị nhà cầm quyền kích động, chẳng có cá nhân người
nào chịu hi sinh thân mình vì lợi ích Nhân Dân. Nên ta nói rằng Nhân Dân
chỉ là ảo giác của kẻ yếu đang hoảng hốt. Ai tôn thờ nhân dân, kẻ ấy
đang mơ ngủ.
Cả
kẻ nô lệ lẫn kẻ mơ ngủ đều không tự chủ, mà để kẻ khác cai trị bản
thân. Kẻ quen bị trị sẽ không quen trị quốc, kẻ đánh mất bản thân tất
làm mất nước.
Nhân sự cầm quyền phải hội đủ ba điều kiện.
Thứ nhất, là hiểu và nắm bắt được các quy luật tự nhiên.
Thứ hai, là hiểu và nắm bắt được các hệ thống tổ chức.
Thứ ba, là hiểu và giữ được bản thân.
Nếu
kẻ đứng đầu không hiểu và nắm bắt được các quy luật tự nhiên, thì con
tàu đất nước chỉ như cọng rác trôi dạt trên biển. Nếu kẻ đứng đầu không
hiểu và nắm bắt được các hệ thống tổ chức, thì con tàu đất nước chỉ như
một bè gỗ quý bị ráp lung tung. Nếu kẻ đứng đầu không hiểu và giữ được
bản thân, thì con tàu đất nước vốn đã thành tàu nước ngoài. Càng đi xa
càng hại nước.
Không
hiểu các quy luật tự nhiên và các hệ thống tổ chức thường là vì ngu
dốt, hoặc bẩm sinh, hoặc do đào tạo. Nhưng không hiểu và giữ được bản
thân thì có nhiều lý do. Trong đó, đáng kể nhất là lí tưởng, hậu cung và
nịnh thần. Ba điều này dễ khiến kẻ cầm quyền đánh đồng bản thân với thứ
khác, hoặc nhầm lẫn bản thân với kẻ khác.
Suy cho cùng, người mất tự chủ luôn là người thiếu tự lập về trí tuệ và tình cảm.
Nếu triều dại sụp đổ vì nhân sự cầm quyền của nó, thì lý do gốc rễ không nằm ngoài những điểm trên.
- Nhân sự chuyên gia
Nếu
nhân sự cầm quyền là kẻ ra quyết định, còn dân chúng là tài nguyên thô,
thì nhân sự chuyên gia là công cụ trí tuệ để hình thành và thực hiện
những quyết định đó.
Nhân
sự chuyên gia có thể vượt nhân sự cầm quyền về khả năng hiểu và nắm giữ
quy luật của các tổ chức và của tự nhiên. Nhưng về khả năng hiểu và làm
chủ bản thân thì họ thường thua sút. Trong những trường hợp ngoại lệ,
hoặc nhà cầm quyền đương nhiệm không xứng đáng, hoặc chuyên gia là nhà
cầm quyền tiềm năng.
Mấu chốt của công cụ là được sử dụng đúng nơi, đúng việc, đúng cách, rồi được bảo trì và phát triển đúng cách.
Nhân
sự chuyên gia là một trong số những nguồn cơn quan trọng nhất của sự
sụp đổ triều đại. Nếu triều đại sụp đổ vì các chuyên gia, kịch bản
thường sẽ theo năm hướng.
Thứ
nhất, là giới chuyên gia thiếu năng lực hoặc nhân lực, khiến nhà cầm
quyền ra quyết định sai, hoặc khiến quyết định không được thực hiện.
Thứ hai, là nhà cầm quyền và chuyên gia tìm cách diệt nhau.
Thứ ba, là giới chuyên gia tìm cách diệt nhau.
Thứ
tư, là giới chuyên gia không muốn làm công cụ của nhà cầm quyền và hệ
thống hiện hành, hoặc một số chuyên gia quyết định trở thành công cụ của
một nhà cầm quyền khác và hệ thống khác.
Thứ
năm, là xã hội mất hệ chuẩn mực giúp xác định giới chuyên gia, khiến
vàng thau lẫn lộn, người có khả năng không được nhận diện kịp thời và
phát triển hợp lý, trong khi kẻ kém cỏi được dịp thăng tiến để làm loạn
hệ thống và lãng phí tài nguyên.
Dù
những kịch bản trên bắt nguồn từ sai lầm của nhà cầm quyền, của chuyên
gia hay của cơ chế vận hành hệ thống, thì vấn đề vẫn nằm ở chỗ sắp đặt
không đúng người đúng việc, và đãi ngộ không đúng người đúng việc. Nếu
các chuẩn mực văn hóa, luật pháp, cơ chế của hệ thống chính trị và nhân
sự cầm quyền có thể sắp đặt và đãi ngộ hợp lý từng cá nhân chuyên gia,
thì dù số chuyên gia này có tham gia vào hệ thống hay không và có phản
đối hệ thống hay không, thì hệ thống vẫn đứng vững.