Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Việt sử Xứ Đàng Trong: Dẫu thêm hai cánh trường thành khó bay
Chính nhờ hệ thống các lũy phòng thủ được xây dựng do sáng kiến của Lộc Khê hầu Đào Duy Từ mà quân đội chúa Nguyễn - với lực lượng yếu hơn - đã đẩy lùi các cuộc tấn công của quân Trịnh.
Lũy Trường Dục là để giữ con đường núi và chặn ngang đường
tiến lên của quân địch đã đổ bộ được sông Nhật Lệ. Vậy phải chặn ngay
quân địch khi mới đổ bộ lên Nhật Lệ. Vì đó, năm sau, Lộc Khê hầu lại đắp
lũy Động Hải, cách lũy Trường Dục 20 cây số, về phía bắc. Núi Đâu Mâu
là một rặng núi lớn, từ núi Trường Sơn chia ra làm hai dãy đồi, dãy thứ
nhất chạy đến sông Nhật Lệ, ở địa phận làng Văn In (sử gọi là làng Cầm
La, thường gọi là Cồn Hàu), dãy thứ nhì chạy đến bờ biển, khoảng 15 cây
số về phía bắc, ở địa phận là Phú Hội, thường gọi là Kẻ Địa. Hai dãy đồi
ấy như hai cái càng cua ôm lại một đồng bằng rộng bùn lầy, hình bán
nguyệt, mùa đông đầy nước, không qua được. Thành Đồng Hới ở giữa đường
kinh nổi hai đầu cái bán nguyệt đó. Lũy Động Hải được xây dựng trên một
đường từ cửa Nhật Lệ, ban đầu chạy xiên về phía nam, rồi rẽ sang phía
tây, cho đến rặng núi Đâu Mâu, cắt ngang chính giữa đồng bằng nói trên.
Phía bắc có con sông Lệ Kỳ khá rộng và hai bờ đều là bùn lầy.
Theo tài liệu của tác giả R.P.Cadière trong tạp chí nghiên cứu Bulletin de l’Ecole Françaises d’Extrème d’Orient,
1906 (tập san Viện Viễn Đông Bác Cổ), lũy Trường Dục là một trường
thành bằng đất, bắt đầu từ làng Trường Dục, dưới chân núi Trường Sơn,
chạy tới phá Hạc Hải (Thạch bàn hải nhi). Lũy dọc theo bờ sông Rào Đá,
đến chỗ giáp sông Nhật Lệ, lại từ sông này ngược lên tả ngạn đến làng
Quảng Xá, đi qua địa phận các làng Trường Dục, Xuân Dục, Cổ Hiền tới
Đình Thôn. Lũy dài 2.500 trượng (khoảng 10 đến 12 cây số), có nơi cao
đến 3 thước tây, chân rộng từ 6 đến 8 thước tây. Phỏng quân Trịnh vượt
qua được sông Nhật Lệ mà tiến lên thì phía tây gặp núi non hiểm trở,
không qua được, phía đông là một đồng bằng, nay là phá Vạn Xuân quanh
năm bùn lầy, rồi đến một bãi cát lớn. Ở giữa phá Vạn Xuân và bãi cát có
một khoảng đất, đường quốc lộ ngang qua đó, trên khoảng đất này chúa
Nguyễn đặt nhiều công cuộc phòng thủ. Trong lũy Trường Dục, có dinh để
các quan ở, các trại lính và kho lương, theo hình chữ dĩ 已, ở trong chữ
hồi 回, nên lũy này còn gọi là Hồi văn lũy.
Nhiều sự kiện lịch sử vốn rất phức tạp và chồng
chéo trong công cuộc khai phá và “mở cõi” đất Nam bộ đã được Phan
Khoang, dựa trên hệ thống sử liệu đồ sộ, thể hiện một cách mạch lạc
trong tác phẩm Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777 (Cuộc nam tiến của dân
tộc VN).
Lũy Động Hải dài 3.000 trượng (12 cây số), cứ cách một trượng đặt
một khẩu súng khóa sơn, 3 hay 5 trượng lại xây một pháo đài, đặt một
khẩu súng nòng lớn, lũy cao một trượng 5 xích (6 thước tây), mặt ngoài
đóng gỗ lim, trong đắp đất, làm 5 cấp, voi ngựa có thể đi được.
Quân Trịnh từ bắc vào chỉ có thể dùng hai con đường: phía đông là
đường theo bờ biển, nghĩa là dọc theo quốc lộ ngày nay, phía tây là
đường núi, đồng bằng làng Võ Xá bùn lầy không cho họ tiến vào khoảng
giữa được. Ở hai đầu lũy, chúa Nguyễn có các trở ngại. Hạm đội chúa
Trịnh lên sông Nhật Lệ, còn bộ binh thì qua lũy Động Hải, theo đường bộ
kéo vào nam. Thì ở đây, họ gặp phải đồn binh hiểm yếu của dinh Mười là
lỵ sở hành chính và quân sự của Quảng Bình, ở trên địa phận làng Võ Xá
hiện nay. Nơi này dài nhiều cây số, ở phía bắc và phía nam đều có những
đồn binh bảo vệ.
Năm Mậu Tý (1648), quân Trịnh chiếm được Động Hải và dinh Quảng
Bình (dinh Mười), nhưng họ không thắng được, vì ở phía tây còn có lũy
Trường Dục bẻ gãy mọi cố gắng tiến lên của họ. Xem thế thì tuy lũy
Trường Dục và lũy Động Hải đã được kiến trúc hai lần, trong hai giai
đoạn, nhưng vẫn tạo thành một hệ thống phối hợp với nhau.
Lũy Động Hải còn gọi là Trường Lũy (lũy dài) hoặc là lũy Nhật Lệ vì
nó nằm ngay trên tả ngạn sông này, hoặc lũy Trấn Ninh, là lấy tên làng ở
phía đông lũy mà gọi, thường thì gọi là lũy Thầy, vì Đào Duy Từ đáng là
thầy Chúa, đắp lên.
Thời ấy có những câu ca dao nói lên sự hiểm trở của lũy Thầy:
Thứ nhứt thì sợ lũy Thầy,
Thứ nhì sợ lầy Võ Xá.
Thứ nhì sợ lầy Võ Xá.
Và
Có tài vượt nổi sông Gianh
Dẫu thêm hai cánh trường thành khó bay.
Dẫu thêm hai cánh trường thành khó bay.
Các lũy phụ
Ngoài lũy Trường Dục và lũy Động Hải (Nhật Lệ) là hai lũy lớn, còn
nhiều công trình phụ thuộc mà các tướng sẽ tùy theo nhu cầu, kiến trúc
thêm để bổ túc cho việc phòng thủ. Chúng ta sẽ thấy lũy Trường Sa đắp
lên năm Quý Dậu (1633), trên bãi cát giữa cửa Động Hải và cửa Tùng để
phòng đối phó quân địch khi họ không đổ bộ ở cửa Nhật Lệ mà theo đường
thủy xuống phía nam, đổ bộ lên bãi biển ở phía bắc cửa Tùng; lũy Trấn
Ninh kiến trúc năm Nhâm Dần (1662) để bảo vệ phía đông lũy Động Hải mà
giữ đường biển.
Chính lũy Trấn Ninh này, trong chiến cuộc năm Nhâm Tí (1672), quân
Trịnh đã cố gắng đánh trong mấy tháng, hy sinh rất nhiều, nhưng không hạ
được, vì sự chống giữ kiên trì của Nguyễn Hữu Dật, rồi phải rút về, và
từ đó nghỉ binh, mặc nhiên chấp nhận sông Gianh làm giới tuyến giữa hai
miền Nam, Bắc.
Phan Khoang
(Theo Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777 (Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam), NXB Khoa học Xã hội, 2016)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Việt sử Xứ Đàng Trong: Dẫu thêm hai cánh trường thành khó bay
Chính nhờ hệ thống các lũy phòng thủ được xây dựng do sáng kiến của Lộc Khê hầu Đào Duy Từ mà quân đội chúa Nguyễn - với lực lượng yếu hơn - đã đẩy lùi các cuộc tấn công của quân Trịnh.
Theo tài liệu của tác giả R.P.Cadière trong tạp chí nghiên cứu Bulletin de l’Ecole Françaises d’Extrème d’Orient,
1906 (tập san Viện Viễn Đông Bác Cổ), lũy Trường Dục là một trường
thành bằng đất, bắt đầu từ làng Trường Dục, dưới chân núi Trường Sơn,
chạy tới phá Hạc Hải (Thạch bàn hải nhi). Lũy dọc theo bờ sông Rào Đá,
đến chỗ giáp sông Nhật Lệ, lại từ sông này ngược lên tả ngạn đến làng
Quảng Xá, đi qua địa phận các làng Trường Dục, Xuân Dục, Cổ Hiền tới
Đình Thôn. Lũy dài 2.500 trượng (khoảng 10 đến 12 cây số), có nơi cao
đến 3 thước tây, chân rộng từ 6 đến 8 thước tây. Phỏng quân Trịnh vượt
qua được sông Nhật Lệ mà tiến lên thì phía tây gặp núi non hiểm trở,
không qua được, phía đông là một đồng bằng, nay là phá Vạn Xuân quanh
năm bùn lầy, rồi đến một bãi cát lớn. Ở giữa phá Vạn Xuân và bãi cát có
một khoảng đất, đường quốc lộ ngang qua đó, trên khoảng đất này chúa
Nguyễn đặt nhiều công cuộc phòng thủ. Trong lũy Trường Dục, có dinh để
các quan ở, các trại lính và kho lương, theo hình chữ dĩ 已, ở trong chữ
hồi 回, nên lũy này còn gọi là Hồi văn lũy.
Nhiều sự kiện lịch sử vốn rất phức tạp và chồng
chéo trong công cuộc khai phá và “mở cõi” đất Nam bộ đã được Phan
Khoang, dựa trên hệ thống sử liệu đồ sộ, thể hiện một cách mạch lạc
trong tác phẩm Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777 (Cuộc nam tiến của dân
tộc VN).
Lũy Động Hải dài 3.000 trượng (12 cây số), cứ cách một trượng đặt
một khẩu súng khóa sơn, 3 hay 5 trượng lại xây một pháo đài, đặt một
khẩu súng nòng lớn, lũy cao một trượng 5 xích (6 thước tây), mặt ngoài
đóng gỗ lim, trong đắp đất, làm 5 cấp, voi ngựa có thể đi được.
Quân Trịnh từ bắc vào chỉ có thể dùng hai con đường: phía đông là
đường theo bờ biển, nghĩa là dọc theo quốc lộ ngày nay, phía tây là
đường núi, đồng bằng làng Võ Xá bùn lầy không cho họ tiến vào khoảng
giữa được. Ở hai đầu lũy, chúa Nguyễn có các trở ngại. Hạm đội chúa
Trịnh lên sông Nhật Lệ, còn bộ binh thì qua lũy Động Hải, theo đường bộ
kéo vào nam. Thì ở đây, họ gặp phải đồn binh hiểm yếu của dinh Mười là
lỵ sở hành chính và quân sự của Quảng Bình, ở trên địa phận làng Võ Xá
hiện nay. Nơi này dài nhiều cây số, ở phía bắc và phía nam đều có những
đồn binh bảo vệ.
Năm Mậu Tý (1648), quân Trịnh chiếm được Động Hải và dinh Quảng
Bình (dinh Mười), nhưng họ không thắng được, vì ở phía tây còn có lũy
Trường Dục bẻ gãy mọi cố gắng tiến lên của họ. Xem thế thì tuy lũy
Trường Dục và lũy Động Hải đã được kiến trúc hai lần, trong hai giai
đoạn, nhưng vẫn tạo thành một hệ thống phối hợp với nhau.
Lũy Động Hải còn gọi là Trường Lũy (lũy dài) hoặc là lũy Nhật Lệ vì
nó nằm ngay trên tả ngạn sông này, hoặc lũy Trấn Ninh, là lấy tên làng ở
phía đông lũy mà gọi, thường thì gọi là lũy Thầy, vì Đào Duy Từ đáng là
thầy Chúa, đắp lên.
Thời ấy có những câu ca dao nói lên sự hiểm trở của lũy Thầy:
Thứ nhứt thì sợ lũy Thầy,
Thứ nhì sợ lầy Võ Xá.
Thứ nhì sợ lầy Võ Xá.
Và
Có tài vượt nổi sông Gianh
Dẫu thêm hai cánh trường thành khó bay.
Dẫu thêm hai cánh trường thành khó bay.
Các lũy phụ
Ngoài lũy Trường Dục và lũy Động Hải (Nhật Lệ) là hai lũy lớn, còn
nhiều công trình phụ thuộc mà các tướng sẽ tùy theo nhu cầu, kiến trúc
thêm để bổ túc cho việc phòng thủ. Chúng ta sẽ thấy lũy Trường Sa đắp
lên năm Quý Dậu (1633), trên bãi cát giữa cửa Động Hải và cửa Tùng để
phòng đối phó quân địch khi họ không đổ bộ ở cửa Nhật Lệ mà theo đường
thủy xuống phía nam, đổ bộ lên bãi biển ở phía bắc cửa Tùng; lũy Trấn
Ninh kiến trúc năm Nhâm Dần (1662) để bảo vệ phía đông lũy Động Hải mà
giữ đường biển.
Chính lũy Trấn Ninh này, trong chiến cuộc năm Nhâm Tí (1672), quân
Trịnh đã cố gắng đánh trong mấy tháng, hy sinh rất nhiều, nhưng không hạ
được, vì sự chống giữ kiên trì của Nguyễn Hữu Dật, rồi phải rút về, và
từ đó nghỉ binh, mặc nhiên chấp nhận sông Gianh làm giới tuyến giữa hai
miền Nam, Bắc.
Phan Khoang
(Theo Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777 (Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam), NXB Khoa học Xã hội, 2016)