Ðã là một người lính tác chiến sống trong lửa đạn của chiến tranh nặng độ từ ngày hai mươi tuổi, nên sự chết đối với anh đã là một tình thế thường hằng tất nhiên sẽ xẩy đến ở phút sau, giờ tới
Alpha – Ánh lửa từ bóng tối/sự chết - Phan Nhật Nam

Phan Nhật Nam
Ðã là một người lính tác chiến sống trong lửa đạn của chiến tranh
nặng độ từ ngày hai mươi tuổi, nên sự chết đối với anh đã là một tình
thế thường hằng tất nhiên sẽ xẩy đến ở phút sau, giờ tới. Anh đã chứng
kiến, đương cự, chịu đựng tình huống sống trên biên giới tử/sinh với
những người bạn – Người Bạn Lính – Thế anh đã mất đi nhiều người bạn
suốt một thời tuổi trẻ. Nên chẳng phải là một thái độ cố tình làm dáng
vẻ thách đố bất chấp, anh và những người bạn lính diễn đạt tình thế nguy
nan nầy bằng một ngôn ngữ bình thường giản dị…
Trời kêu ai nấy dạ! Vâng, chỉ biết “dạ” để chấp nhận một quyết định
siêu nhiên nào đó. Tuy nhiên vẫn đã xẩy ra nhiều tình huống với cường độ
bi thảm cao hơn hẳn. Như cảnh tượng chiều ngày 11 tháng 6, năm 1965 khi
vào hậu cứ Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù với tiếng gào khóc của toàn trại gia
binh:
Anh ơi là anh ơi… Anh chết đi bỏ mẹ con tui sao đành anh ơi là anh ơi!! Ba ba đâu má ơi!! Ba đâu má ơi!!
Và sự thật đáng sợ hơn mười tầng địa ngục với gần năm trăm xác chết
của các đơn vị. Tiểu Ðoàn 2/7 Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, Tiểu Ðoàn 52 Biệt Ðộng,
Chi Khu Ðôn Luân, và đơn vị anh, Tiểu Ðoàn 7 Dù… Những xác chết nằm
lềnh kênh trên vũng bùn nhầy nhầy máu người và đất đỏ. Mùi tử khi bốc
dày đặt một vùng trời, đánh dạt đám chim thường ngày vẫn bay về khu
nghĩa trang. Xóm nhà dân đối diện Nghĩa Trang Quân Ðội Gò Vấp vắng bặt
bóng người. Người đã không thể sống cùng cảnh chết và mùi tử thi sình
chương dưới mưa dầm chỉ được đem về sau một tuần chết trận. Cũng có
những cái chết đơn độc mau chóng hơn, chưa kịp kêu lên tiếng đau đớn thì
đã qua cơn lâm tử bất ngờ…
Như lần vụt đi của Trần Duy Phước ngày 9 tháng 11 tháng năm 1969 trên
vùng trảng trống của chiến trường Tây Ninh. Cái chết quá chóng vánh vì
quả B 40 bắn thẳng mặt nổ vỡ tung chiếc đầu người lính. Ðã bốn mươi năm
hơn nào còn ai nhớ kể cả khúc hát Giấc Ngủ Trên Ðồi Xanh mà Trần Thiện
Thanh viết cho bạn? Nào mấy ai nhắc đến những cái chết tầng tầng ngập
ngập trên quê hương suốt thời gian đằng đẵng của những thập niên 60, 70 ở
thế kỷ trước? Còn ai đâu để nhớ những người chết trước, sau năm 1954
trên bãi biển Bùi Chu, Phát Diệm lần vượt chết để được Sống Tự Do của
người Việt miền Bắc.
Hai.
Chiến trận chấm dứt với ngày 30 tháng 4,
năm 1975 tại Sài Gòn, nhưng tiếng nổ của quả pháo, trái hỏa tiễn, viên
đạn… vẫn nghe ra, cảm thấy trong nỗi im lặng của sự chết toàn diện. Lần
con người thật chết cùng buổi tận diệt quê hương.
Ðấy là tiếng nổ im lặng của chiếc C119 Hỏa Long của Trung Úy Phi Công
Trang Văn Thành (do sau nầy tìm biết) bốc cháy trên nền trời Tân Sơn
Nhất do trúng hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 của quân đoàn cộng sản đang áp sát
Sài Gòn, sáng 29 tháng 4, 1975.
Ðấy là tiếng súng tay khô nỏ nổ giữa ầm vang Sài Gòn hấp hối sáng qua
trưa 30 Tháng 4. Anh nghe ra từ người mặc quân phục ngã xuống trước
Tượng Ðài Thủy Quân Lục Chiến khi di chuyển từ trụ sở Hạ Viện băng qua
thương Xá Eden để theo dõi đám thanh niên cầm cờ đỏ hướng dẫn đơn vị
lính cộng sản nhớn nhác chiếm Tòa Ðô Chánh cửa đóng kín, không lính gác.

Trung tá Long tự sát ngày 30 tháng 4, 1975
Ðấy là âm động quả lựu đạn bật kíp giữa toán lính nhảy dù do Thiếu Úy
Huỳnh Văn Thái chỉ huy đi từ Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa theo đường Tô Hiến
Thành, ra Ðường Tổng Ðốc Phương xong đến Ngã Bảy thì quay thành vòng
tròn, đưa súng lên trời hô lên tiếng tuyệt vọng trung nghĩa hùng vĩ…
Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm! trước khi ngã xuống trên vũng máu.
Nhưng cảnh chết không hề chấm dứt cùng lần với ngày 30 tháng 4, 1975.
Chết mở rộng ra khắp cùng miền Nam, hiện thực tại nhiều tình huống, áp
dụng cho nhiều giới người… Từ đứa bé vừa qua 10 tuổi, cha đi tù cải tạo,
cùng mẹ đi buôn củi theo đường xe lửa Long Khánh-Sài gòn. Do cảnh sát
kinh tế trong mục tiêu thực hiện chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa, đã
quyết liệt thanh trừng bọn buôn lậu, móc ngoặc phá hoại nền sản xuất
lớn tiến lên chủ nghĩa xã hội tiên tiến… Ðứa bé phải lẩn trốn trên nóc
toa xe lửa, nên khi xe vào Sài Gòn qua cầu Bình Triệu, bé đã bị thành
cầu gạt xuống đường… Thân hình nhỏ bé tiếp bị một chuỗi bánh xe sắt của
đoàn tầu dầm nát không nhìn ra nhân dạng.
Chết dăng dăng khắp miền Nam ở các trại Long Giao, Suối Máu, Tây
Ninh, Sông Bé… Chết trùng trùng suốt miền Bắc từ “Cổng Trời” Quyết Tiến
Hà Giang xuống đến Phú Sơn 4, Trại 5 Lam Sơn Thanh Hóa, Trại 6 Nghệ
Tỉnh… Anh hiểu đủ nghĩa, thấy rõ diễn tiến của sự chết từ tình cảnh của
Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ ở trại Thanh Cẩm. Và cuối cùng, cũng chính của
bản thân trong thời gian một thân giữa bóng tối thăm thẳm trong khoản
thời gian từ 1981 đến 1988… Tình cảnh khiến anh đã nhiều lần nói ra lời
một cách bình thản, tự nhiên…
Nếu chết được thì chắc cũng không khó khăn gì hơn anh ơi…
Ba.

Nhưng
cuối cùng, Sự Chết vẫn còn nguyên phần vô cùng, vô tận để không một ai
có thể nói lên lời định nghĩa chính xác về nỗi bí ẩn chỉ một lần trong
đời, một thân chứng nghiệm. Tuy nhiên, kỳ diệu thay đã có những người
đứng vững, phục sinh từ sự chết khốc liệt kia. Những người sống giữa
chúng ta. Bài viết tiếp phần chứng minh với Alpha. Trong quy ước truyền
tin quân đội miền Nam “Chữ A” được các âm thoại viên những đơn vị tác
chiến đánh vần là “Anh Dũng” hay “Alpha.”
Tên anh bắt đầu với chữ A, nhưng dù không là cấp sĩ quan chỉ huy một
đơn vị tác chiến nào, anh vẫn được Ngọc “đen,” Hải “bầu”, Út Khiết…
những sĩ quan thuộc các đơn vị tác chiến Quân Lực VNCH ở tù chung với
anh, gọi bằng ám danh kính trọng “Alpha.” Họ gọi anh như thế ở trại giam
A20 Xuân Phước, họ tiếp tục gọi “Alpha” gần ba mươi năm sau khi ra khỏi
chốn ngục tù. Và nay, dẫu anh đã thực sự đi vào chốn miên viễn vô cùng
của Sự Chết – Cảnh huống mà họ và anh đã từng tranh đấu không khoan
nhượng ở trại Xuân Phước A20, nơi mà trí nhớ con người hằng lưu giữ do
tính kinh hoàng ác độc của chốn địa ngục trần gian.
Lẽ tất nhiên không ai trong số những người tù kiệt liệt năm xưa ấy
lấy năm tháng đau thương phẫn hận nơi chốn ngục tù cộng sản kia là một
thành tích. Càng không gợi nhớ lại để kích động thù hận, yêu cầu báo
oán. Không phải thế, hôm nay nhắc lại chuyện ngục tù (lại là cảnh huống
ngục tù đồng nghĩa với cái chết) không mục đích gì hơn tôn vinh giá trị
vĩnh cửu Sự Sống và những Con Người đã Vượt Sống từ Cái Chết một cách
vinh dự rất đáng tự hào.
Với Alpha, một biểu tượng chiến đấu không lay chuyển.
Ngày 29 tháng 4, 1984, Alpha chuyển sang xà lim số 6 trại A20 ở chung
với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, linh hồn của một vụ nổi dậy do ngài và
người em chủ trương năm 1976. Ðây cũng là ngày đánh dấu ba năm anh bị
cùm hai chân, có giai đoạn cả hai tay trong xà lim số 5.
Phải nói anh bị gông thì chính xác hơn. Chỉ khác những tội phạm thời
phong kiến, người tù dưới chế độ cộng sản không phải bị gông cổ, cũng
khác với thời phong kiến, công an cộng sản ngày nay cùm đồng bào người
Việt bằng vòng cùm sắt. Cùm cả hai tay lẫn hai chân.

Linh mục Nguyễn Văn Vàng
Cần phải phải nhắc lại rằng, Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, một nhà giảng
đạo lỗi lạc của dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, sau khi bị lên án chung thân
khổ sai, và em ruột ngài là Linh Mục Hiệu bị xử tử, ngài bị lưu đày lên
trại A-20 Xuân Phước. Tại phòng giam số 6, dẫu là một Phật tử, mối liên
hệ giữa Alpha và Linh Mục Vàng trở nên gắn bó mật thiết. Sự mật thiết
với giới hạn cuối cùng của những con người cùng lần chạm tới biên giới
tử/sinh.
Sự Thật lớn nhất là Cái Chết khiến con người không còn sợ hãi. Người
vượt qua Nỗi Sợ. Người vượt qua Cái Chết. Cái chết chậm rãi, chắc chắn
có hình hình khối, có định lượng, được định vị, được kế hoạch hóa bởi hệ
thống cùm gồm bốn mức cùm dành cho một tù cải tạo khi vào phòng biệt
giam trại Xuân Phước:
Mức độ 1: Cùm một chân phải;
Mức độ 2: Cùm một chân trái;
Mức độ 3: Cùm hai chân;
Mức độ 4: Cùm hai chân lẫn hai tay.
Alpha là người tù đã một lần bị cùm qua mức độ 4 trong 8 tháng liên tiếp.
Nhưng cùm ở mức độ 4 chưa hẳn là biện pháp “cải tạo” cuối cùng… Anh
bị cắt khẩu phần ăn xuống chỉ còn một nửa so với thành phần lao động bên
ngoài, nghĩa là chỉ còn 150 grams cho mỗi bữa ăn gồm khoản 5 lát khoai
mì khô luộc và một muỗng cơm, tất cả chan đẫm nước muối và được phát cho
nửa ca nước một ngày.
Ăn mặn mà uống nước ít, người rất dễ bị phù sẽ ảnh hưởng tới thận.
Cho nên đói ăn lúc đó đã trở thành ít quan trọng hơn dù người tù kiên
giam đang là con ma đói. Cái khát triền miên đã che lấp đi cái đói. Nếu
muốn ăn được những lát sắn kia phải dùng ít nhất nửa phần nước để rửa
bớt độ mặn của nước muối được chan vào cơm và khoai mì. Anh không dám hy
sinh những muỗng nước quý như vàng lúc đó để rửa phần khoai. Thế nên
chỉ còn cách nhịn ăn, nhưng do càng đói lả thì mồ hôi càng ra như tắm.
Và cuối cùng tình trạng kiệt sức ắt sẽ xẩy ra với cái chết chắc chắn.
Chết vì đói. Chết vì khát.
Linh Mục Nguyễn Văn Vàng ra tay giải cứu. Ngài nói: “Anh không thể
nhịn ăn mãi như thế. Nếu Chúa che chở cho mình, thì dẫu bị phù cũng
không chết. Bố sẽ hy sinh nửa phần nước để anh rửa khoai mì cho bớt
mặn.” Alpha khước từ: “Bố (tất cả người tù miền Nam đều gọi các tu sĩ
của các đạo giáo là bố) lớn tuổi sức chịu đựng yếu rồi, nhịn khát như
con không được đâu.” Ông cười: “Sao biết không được, đã thử đâu mà biết
không được.”
Giải pháp của Cha Vàng đã khiến cho một tuần, hai tuần, ba tuần qua
đi nhanh và vô hiệu hóa được sự trừng phạt. Vào tuần lễ thứ tư, như một
phép lạ cuộc trừng phạt tự nhiên chấm dứt với viên cán bộ phát cơm nhà
kỷ luật không phải là tên trực trại như thường lệ mà là một anh chàng lạ
hoắc. Cuối tháng 11, cả hai được mở cùm cho ra đi tắm. Lần được tắm đầu
tiên sau ba năm biệt giam.
Nhưng khi hai người ra đến bờ giếng là muốn trở lại ngay xà lim vì
trời vào Ðông vùng miền núi miền Trung gờn gợn rét sắc. Cha Vàng run bần
bật vì gió lạnh do chỉ mặc một chiếc áo len mỏng bên trong bộ đồ tù.
Alpha cởi chiếc áo trấn thủ tự chế bằng tấm chăn trước khi đến trại nầy
thay thế chiếc áo len mỏng của cha. Cả hai ngồi vào chỗ kín gió xong trở
lại phòng biệt giam với chiến lợi phẩm là 10 viên B1 và hai bi thuốc
lào do các bạn tù nơi trại nhà bếp và ông L.S, tỷ phú người Hoa đi tù do
bị nhà nước đánh tư bản sau 1975 cung cấp.
Vào đến xà lim, hai người đồng thấy ra điều thất vọng: Lửa ở đâu mà
hút thuốc lào! Cha Vàng đưa ý kiến, lấy lửa bằng phương pháp của thời kỳ
đồ đá. Ông giảng giải: “Nền văn minh ngày nay đến từ việc phát minh ra
lửa. Lửa chế ngự đời sống con người khi họ thoát ra thời kỳ ăn lông ở
lỗ… Con người thời kỳ đồ đá đã biết dùng đá chọi vào nhau cho đến khi
xẹt lửa.” Cha Vàng kết luận: “Chỉ cần một thanh vỏ tre và miếng vải áo
mục sẽ tạo ra lửa,” Alpha tạo kế xin từ nhà bếp một thanh tre để cạo
lưỡi, và Linh Mục Vàng xé mảnh áo làm con cúi chuẩn tạo nên lửa để hút
thuốc lào trong một dịp trọng đại.
Noel năm 1984, Alpha và Cha Vàng thay phiên nhau kéo thanh tre xuyên
qua lỗ chiếc dép lốp, từ 9 giờ sáng cho đến hơn 11 giờ thì “phép lạ” xẩy
đến. Ðầu con cúi bắt đầu ngún và có khói, có nghĩa là bột tre nóng quá
độ đã khiến cho lớp bông nhẹ trên con cúi bén lửa. Một lát sau khi thấy
xuất hiện những đốm hồng, Cha Vàng thổi nhẹ nhẹ, vết lửa lan ra…
Trang sử của mấy chục ngàn năm trước của loài người được lật lại. Cha
Vàng tiếp tục thổi nhẹ để nuôi dưỡng ngọn lửa. Và khi đã ngủi thấy mùi
khét của vải, ngài thổi hơi mạnh. Ngọn than hồng lan rộng ra hơn và cuối
cùng chỉ cần một hơi nhẹ, ngọn lửa bùng lên. Vị tu sĩ nhìn con cúi vải
có than hồng giống như một điếu thuốc lá mới được đốt lên. Ngài cười
vang: “Mình thắng.” Ngài lục trong tay nải một miếng giấy châm vào cúi
vải, ngọn lửa lan sang đóm giấy. Xong, cha nắm chặt tay tôi giơ lên cao
như một võ sĩ được trọng tài nắm tay giơ cao sau khi đấm địch thủ do
ván.
Hai người ngồi nghỉ một lát, sau đó Cha Vàng nói: “Chúng ta đã học
xong bài học lúc bố đã ngoài 50, còn con đã 33 tuổi. Nhưng tự bố, bố
thấy chúng ta xứng đáng với bài học ấy. Ðó là kiên trì đạt mục tiêu
trong hoàn cảnh khó khăn nhất.”
Ðúng vào tối 24 tháng 12, 1984, trước khi Cha Vàng cử hành thánh lễ
nửa đêm trong xà lim số 6, hai người đã hút mỗi người một điếu thuốc
lào. Hút bằng một miếng giấy cuộn tròn như loa kèn và miệng ngậm búng
nước. Vào đúng lúc nửa đêm, cả hai đều cảm nhận được thánh lễ Giáng Sinh
thực sự đang trở lại thung lũng Xuân Phước qua tiếng chuông của một nhà
thờ dường như ở cách nhà giam xa lắm vọng về trong đêm lạnh giá u tịch.
Bốn.
Tháng 4 năm 1985, Cha Vàng lâm bệnh vào lúc sức khỏe của ngài đã quá
yếu. Có lẽ ngài đã kiệt sức, sốt cao rồi đi vào hôn mê. Alpha đập cửa
kêu cấp cứu suốt ngày, nhưng lúc tên trực trại chịu mở cửa để cho một y
sĩ vào khám bệnh, thì mọi việc có vẻ quá muộn. Hai viên trụ sinh không
đủ khả năng làm Cha Vàng tỉnh lại. Linh Mục Nguyễn Văn Vàng qua đời
trong xà lim số 6. Trước đó, dù yếu và bệnh, ngài đã bàn với Alpha là
làm sao có được Bánh Thánh để ngài làm lễ nửa đêm trong Noel 1985 mà con
chiên duy nhất trước ngài lúc đó lại là một Phật tử. Nhưng mơ ước của
ngài không thành, kể cả việc lớn trước đó là lập lực lượng võ trang để
mong lật ngược lại tình thế của một đất nước vừa chìm đắm trong luồng
sóng đỏ.
Nhưng dù ngài đã mất đi, trong suy nghĩ của Alpha cho đến bây giờ,
Linh Mục Nguyễn Văn Vàng vẫn là một ngọn lửa, âm thầm cháy như con cúi
vải ngày nào bỗng bùng lên soi sáng không gian tăm tối của tất cả những
xà lim đang hiện diện trên đất nước Việt Nam.
Viết để nhớ
Ngày Thứ Sáu, 14 tháng 3, 2014
Ngày Alpha về trời như lửa hằng sống.
Phan Nhật Namhung-viet.org
Sinh Tồn chuyển