Kinh Đời
BẢO KIẾM - Nguyễn Duy Chính
BẢO KIẾM
Nguyễn Duy Chính
Một trong những yếu tố thú vị của truyện kiếm hiệp
là khí giới của những nhân vật chính. Bên cạnh võ
công siêu tuyệt, thường thường một nhân vật hữu
danh luôn luôn gắn liền với một món bảo cụ, mà thông
dụng nhất là bảo đao, bảo kiếm. Võ khí tùy thân
đó tạo cho nhân vật một đặc tính hơn người, và luôn
luôn kỳ bí, khác thường, đôi khi huyền hoặc.
Lỗ Tấn (1881-1936), một văn sĩ vào bậc nhất của
Trung Hoa hồi đầu thế kỷ này, nổi tiếng về những
truyện ngắn, tiêu biểu là Ả Q Chính Truyện, một
tác phẩm mà nhiều người chúng ta biết đến. Trong
một truyện khác, ông dựa theo những truyền kỳ của
dân tộc Trung Hoa để miêu tả một hình thức áp bức
rất ư là phong kiến tác giả một tác phẩm tuyệt
hảo có khi lại chính là nạn nhân của nó, nếu người
ta không muốn người khác có một tác phẩm như mình
thì cái kế sách thường dùng là thủ tiêu luôn tác
giả để không còn người nào có thể hoàn thành một
tác phẩm tương tự.
Sau đây là một đoạn trích trong truyện "Rèn Kiếm":
... Thằng bé bước tới gần. Trong ánh trăng mờ ảo
nó thấy mẹ nó ngồi trên giường, đôi mắt lấp lánh.
Bà nghiêm giọng:
- Nghe đây. Cha con là một người rèn kiếm nổi tiếng,
có một không hai trên đời này. Mẹ bán hết đồ nghề
của cha con để khỏi chết đói nên không còn gì cho
con xem nữa. Thế nhưng phải nói là cha con là người
rèn kiếm không ai bì kịp. Hai mươi năm trước, bà
thứ phi hạ sinh ra một cục thép, mà người ta nói
là bà ta thụ thai khi ôm một cái cột sắt. Cục sắt
đó, thuần khiết, trong suốt. Nhà vua biết rằng cục
sắt này hiếm quí, nên muốn đánh thành một thanh
kiếm để tùy thân, bảo vệ bờ cõi, và tiêu diệt kẻ
thù. Khổ thay, cha con lại được chỉ định để làm
việc ấy, và chính ông đã hai tay bưng cục sắt đó
về. Ba năm ròng rã, ông rèn cục sắt ngày đêm, đến
khi hoàn thành được hai thanh kiếm.
Thật là kinh hoàng khi cha con mở cái lò ra. Một
làn hơi trắng bay vút lên trời, và mặt đất rung
chuyển. Làn hơi trắng tụ lại thành một đám mây,
chuyển thành màu đỏ tươi và phủ lên mọi vật một
màu hồng nhạt. Trong chiếc lò đen ngòm là hai thanh
kiếm còn nóng đỏ. Trong khi cha con tưới lên từng
giọt nước, hai thanh kiếm rít lên những tiếng xì
xì rồi chuyển sang màu xanh. Bảy ngày, bảy đêm sau,
hai thanh kiếm không còn thấy đâu nữa. Thế nhưng
nhìn kỹ, hai thanh kiếm vẫn còn đó, đã chuyển sang
màu xanh biếc và trong suốt như hai cục băng.
Cha con mắt sáng lên mừng rỡ bội phần. Nhặt hai
thanh kiếm lên, ông vuốt ve rồi múa thử. Thế nhưng
chỉ trong giây lát, vầng trán ông và trên khóe miệng
đượm một nỗi buồn. Ông bỏ kiếm vào trong hộp rồi
nói nhỏ với mẹ:
- Ai ai cũng biết là kiếm đã đúc xong khi chứng
kiến những chuyện kỳ quái mấy ngày qua. Ngày mai
ta phải đem dâng lên đại vương một thanh kiếm. Nhưng
đó cũng là ngày cuối cùng của đời ta, e rằng vợ
chồng mình không còn gặp lại nhau nữa.
Mẹ hoảng hốt, không hiểu cha con nói gì, cũng không
biết phải trả lời sao. Mẹ lắp bắp: "Nhưng chàng
đã hoàn thành công việc rồi mà".
- A, nàng không hiểu. Vương gia vốn đa nghi và tàn
nhẫn. Bây giớ hai thanh kiếm đã đúc xong, thể nào
ta cũng sẽ bị giết để sau này ta không thể đúc một
thanh kiếm khác cho kẻ đối đầu hay kẻ nào muốn hơn
được nhà vua.
Mẹ òa lên khóc. Cha con nói:
- Thôi đừng buồn. Không còn cách nào khác, nước
mắt không thay đổi được số mệnh. Ta cũng đã chuẩn
bị chuyện này từ lâu.
Mắt ông như bừng lửa khi đặt vào lòng ta một cái
bao kiếm.
- Đây là thanh hùng kiếm. Nàng giữ lấy. Ngày mai
ta sẽ mang dâng thanh thư kiếm lên đại vương. Nếu
ta không về thì có nghĩa là ta đã chết. Chỉ năm
sáu tháng nữa là nàng sẽ nằm bếp rồi ư? Đừng buồn,
cố nuôi con khôn lớn. Bao giờ nó trưởng thành thì
giao cho nó thanh kiếm này và bảo nó đi chém đầu
gã hôn quân để trả thù cho ta. (Selected Stories
of Lu Hsun, Forging the Swords, nhà xuất bản Ngoại
Văn, Bắc Kinh 1978 tr. 239-40)
Câu
chuyện này dựa theo một truyền thuyết, được dùng
làm bối cảnh cho một câu truyện ly kỳ về một đứa
bé trả thù cho cha. Thế nhưng, người ta ít nhiều
vẫn thường nghe về những huyền bí, kỳ ảo mà người
Trung Hoa gán cho những thanh kiếm báu. Thanh kiếm
không còn là một món võ khí tùy thân, đôi khi nó
trở thành một sinh vật, và một sinh vật luôn luôn
có hồn, thiêng liêng, nhất là lại được sử dụng để
sát hại người khác. Chính vì thế thanh kiếm được
coi như một sinh vật tùy thân của người kiếm khách,
là một bạn đồng hành hơn là một món vũ khí vô tri.
Những
thanh bảo kiếm đầu tiên mà tôi đọc lại do một tác
giả Việt Nam, viết dựa theo truyền thuyết Trung
Hoa. Truyện có nhan đề "Đào Mả Tần Thủy Hoàng"
của nhà văn Thái Tâm Canh, đăng trên nhật báo Saigon
Mai vào khoảng đầu thập niên 1960. Bộ tiểu thuyết
võ hiệp này viết về mưu đồ của một nhóm ái quốc
nước Hàn muốn nổi lên chống lại nhà Tần và tìm cách
lấy những báu vật trong ngôi mộ hết sức vĩ đại và
nguy hiểm của bạo chúa. Đứng đầu của nhóm người
này là Trương Lương, dưới trướng có những hiệp khách
võ công trác tuyệt. Ngoài những tình tiết hết sức
ly kỳ, những mối tình một chiều chạy vòng quanh,
có những món bảo vật làm mục tiêu tranh đoạt của
nhiều hiệp khách.
Đặc
sắc nhất là những thanh bảo kiếm gia truyền của
mỗi giòng họ. Thanh Chủy Thủ của dòng họ La, thanh
Trạm Lư của dòng họ Chương. Ngoài ra còn phải kể
đến thanh Thái A, là bội kiếm của nhà vua đã cởi
ra để trấn sơn khi lên núi Trâu Tịch tế trời đất,
mà nhóm họ Trương nhất quyết chiếm đoạt để tạo sự
bất an trong tâm lý triều đình nhà Tần. Những thanh
kiếm đó đều là những bảo vật được ghi trong sử sách.
Trong
truyện kiếm hiệp tân thời, chúng ta cũng gặp nhưng
thanh bảo đao, bảo kiếm được mô tả rất thần kỳ.
Ỷ Thiên Đồ Long Ký (Minh Hà, Hongkong 1978), tác
phẩm nổi tiếng của Kim Dung xoay quanh hai món bảo
vật, kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long. Ông đã viết một
đoạn rất linh động về sự xuất hiện của thanh đao
khi giáo phái Thiên Ưng tụ họp quần hào "Dương
Đao Lập Uy" tại một hòn đảo hoang có tên là
Vương Bàn Sơn:
“... Bạch Qui Thọ đứng lên, lớn tiếng nói:
- Tệ giáo gần đây mới có được một thanh bảo đao,
tên gọi Đồ Long. Thường nghe rằng "Võ Lâm Chí
Tôn, Bảo Đao Đồ Long, Hiệu Lệnh Thiên Hạ, Mạc Cảm
Bất Tòng[1]".
Y nói đến đây, đưa đôi mắt sáng quắc quét từ tả
qua hữu khắp một lượt toàn trường. Thân hình y không
to lớn, nhưng tiếng nói hưởng lượng, mục quang sắc
bén, khiến cái uy nghiêm làm mọi người đều e sợ.
Y ngừng lại một chút, nói tiếp:
- Ân giáo chủ của tệ giáo muốn gửi danh thiếp mời
các lộ anh hùng trong thiên hạ tới núi Thiên Ưng,
để đem bảo đao cho mọi người cùng xem. Ngặt vì làm
như thế phải trù hoạch mất nhiều thời gian cho chu
đáo, lại e rằng anh hùng các nơi không biết bảo
đao đã do tệ giáo làm chủ, nên mời bạn bè bằng hữu
các bang lộ Giang Nam tới chơi, để nhìn qua cho
biết.
Nói tới đây, y giơ tay khoát một cái. Tám tên đệ
tử trong số giáo chúng lớn tiếng đáp ứng, quay mình
đi vào một sơn động ở phía tây.
Mọi người yên chí là tám tên này sẽ vào trong hang
núi để đem đao ra, nên đều chăm chú nhìn theo. Nào
ngờ khi trở ra bọn họ đều cởi trần, khiêng một cái
đỉnh sắt lớn. Trong đỉnh một ngọn lửa cháy bừng
bừng, lên cao cả trượng. Cả tám tên đều phải đứng
khá xa, dùng gậy dài ghé vai khiêng, thở phì phò,
ỳ ạch để chiếc đỉnh trên bãi đất trống. Mọi người
bị lửa hắt vào mặt, đều cảm thấy nóng rát.
Đằng sau tám tên này lại có thêm bốn tên khác, hai
tên khiêng một chiếc đe thợ rèn, hai tên khác mỗi
tên mang một cái búa sắt.
Bạch Qui Thọ nói:
- Thường đàn chủ, xin mời dương đao lập uy.
Thường Kim Bằng đáp:
- Tuân lệnh.
Rồi quay lại nói lớn:
- Mang đao ra.
Hai tên đà chủ có thần lực, mới vừa biểu diễn vác
đá liền đi vào sơn động. Khi trở ra, một tên hai
tay bưng một cái bao dài, tên kia đi theo hộ vệ.
Giao cho Thường Kim Bằng xong, mỗi tên bước qua
một bên tùy giá. Thường Kim Bằng mở bao, lộ ra một
thanh đơn đao. Y cầm lên, nhìn quanh mọi người một
lần, rút đao ra khỏi vỏ, nói:
- Đây chính là võ lâm chí tôn Đồ Long bảo đao, xin
các vị nhìn cho kỹ.
Nói xong y đưa thanh đao lên ngang mặt, cử chỉ thật
cung kính...
... Cây tùng thứ nhất đổ làm thành một làn gió mạnh,
chỉ nghe liên tiếp những tiếng lách cách, lách cách
không dứt, những cây đại thụ còn lại cũng thi nhau
ngã xuống.
Thường Kim Bằng cười ha hả, vung thanh đao ném thẳng
vào đám lửa đang bừng bừng cháy trong đỉnh sắt ...
(Kim Dung, Ỷ Thiên Đồ Long Ký tập 1, Minh Hà Xã,
Hongkong 1978 tr. 186-8)
Cứ
theo truyền thuyết, kiếm có từ thời nhà Chu, đến
đời Xuân Thu Chiến Quốc thì cực thịnh. Thời này
là giai đoạn mà người Tàu mới tìm ra sắt, lại thêm
một số kỹ thuật mới được dùng trong việc luyện kim
nên khí cụ thời đó cứng hơn đồ đồng đời Thương Chu.
Thành thử nhiều kiếm đúc vào thời Xuân Thu, Chiến
Quốc được xưng là bảo kiếm. Những dật sự hoang đường
cũng từ đó mà nảy sinh. Đời Tiên Tần, kiếm không
những là một loại võ khí tùy thân còn là một loại
trang sức. Ngô Đạo Tử họa hình Khổng Tử, cũng có
đeo trường kiếm. Sang đời Tần Hán, hiệp khách và
giới sĩ đại phu đeo kiếm để thêm uy nghi. Vì thế
món võ khí này có một giá trị đặc biệt.
Kiếm vào thời đó ngắn hơn về sau. Người ta cho rằng
vì kiếm làm bằng đồng và kỹ thuật luyện kim còn
hạn chế nên nếu đúc kiếm dài sẽ dễ bị gãy, bị cong.
Chỉ về sau, khi kiếm được đúc bằng thép, lưỡi kiếm
mới mỏng và dài, mặc dù kiếm Tàu không dài và cong
như kiếm Nhật. Kiếm thời đồng khí lưỡi ngắn như
một con dao găm, có cán cũng ngắn, chưa được sử
dụng để cầm mà chỉ để đeo vào ngang thắt lưng, và
dần dần đến cuối thời đại đồ đồng mới thành cán
kiếm. Cán kiếm thường có ngấn để cầm cho dễ và khỏi
tuột.. Càng về sau, lưỡi kiếm cũng dài mà cán cũng
to thêm, lại có thêm kiếm cách chia đôi cán và lưỡi
kiếm. Cán thường bằng gỗ hay sừng, cũng có khi nạm
vàng bạc, ngọc ngà hoặc trạm trổ.
Đến
đời Đường, tiêu chuẩn mới được định là từ 70 đến
85 cm. Kiếm lại còn phân biệt thư (mái), và hùng
(trống). Hùng kiếm dài và lớn hơn thư kiếm. Bao
kiếm thường đúc bằng đồng hay làm bằng da.
Theo Việt Tuyệt Thư, Ngoại Truyện Ký Bảo kiếm, đời
Xuân Thu, Âu Trị Tử theo lệnh Việt Vương đúc năm
thanh kiếm: Thuần Quân, Trạm Lư, Thắng Tà (Hào Tào),
Ngư Trường, Cự Khuyết đều là những thanh kiếm nổi
danh gọt sắt như bùn (tước thiết như nê). Ba thanh
Thuần Quân, Trạm Lư, Thắng Tà là kiếm lớn, hai thanh
Ngư Trường, Cự Khuyết chỉ là đoản kiếm (chủy thủ).
Có người giỏi về coi kiếm là Tiết Chúc được vương
vời vào hỏi. Tiết Chúc mô tả là "nhìn màu sắc
đẹp đẽ như hoa phù dung mới nở, nhìn văn lý, sáng
rực như sao băng, (7) của Ngô vương Quang, tại Tương
Dương, Hồ Bắc đào được hai thanh kiếm của Ngô vương
Phù Sai, tại Hoài Nam, An Huy, đào được kiếm của
Thái Tử nước Ngô có tên là "Cô Phát Nhàn Phản"
kiếm. Về kiếm nước Việt, năm 1965 người ta đào được
tại Giang Lăng, Hồ Bắc hai thanh kiếm hết sức đặc
biệt, một thanh của Việt Vương Câu Tiễn, một thanh
của Việt Vương Châu Câu. Thanh kiếm của Việt Vương
Câu Tiễn đào được tại một ngôi mộ tại Vọng Sơn còn
nguyên như mới, rất sắc bén, đúc rất tinh xảo. Thanh
kiếm này dài 55.7 cm, trên cán có những vết khắc.
Kiếm cách (cái đai giữa lưỡi và chuôi kiếm), có
hoa văn, nạm ngọc xanh lam. Lưỡi kiếm có khắc sọc
hình quả trám, khắc 8 chữ lệ kiểu chân chim "Việt
Vương Cưu Thiển Tự Tác Dụng Kiếm[2]" (kiếm
của Việt vương Câu Tiễn tự làm lấy để dùng).(Dương
Hoằng, Văn Minh Đích Quĩ Tích, vol. 1, Trung Hoa
Thư Cục, Hongkong 1988 tr. 103).
Thanh
kiếm của Câu Tiễn không hoàn toàn thẳng mà gần cán
bản rộng hơn. Đến khoảng 2/3 thì vuốt nhỏ lại, thuôn
thuôn tới tận mũi. Nhìn hình dáng, thanh kiếm này
quả rất mỹ thuật, sống kiếm thẳng, và xem ra là
một loại vũ khí được chế tạo tinh mỹ, tiện dụng
trong chiến đấu. Thời Xuân Thu, kiếm chủ yếu dùng
để đâm thẳng, không phải để chém. Thanh kiếm của
Câu Tiễn đã nói lên được đặc trưng của thời đại
này và cũng cho chúng ta thấy thợ đúc kiếm 25 thế
kỷ trước đã có một trình độ cao. Năm 1973, thanh
kiếm này và bộ y phục bằng những mảnh ngọc đính
lại, dùng để quàn xác một vương tử thời Tây Hán
đã được trưng bày tại Nhật Bản. Cũng dịp này, Quách
Mạt Nhược, một thi nhân nổi tiếng của Trung Hoa
đã cảm khái một bài thơ như sau:
Việt Vương Câu Tiễn phá Ngô kiếm,
Chuyên lại dân công tự thác kim.
Ngân lũ ngọc y kim hựu thị,
Thiên thu bất hủ tượng nhân tâm.
(Kiếm của Việt vương Câu Tiễn phá Ngô,
Chính là do sức dân rèn đúc mà thành.
Áo ngọc, chỉ bằng bạc nay còn đây,
Nghìn năm không nát cái tấm lòng của người thợ)
Bài thơ ám chỉ là tuy Câu Tiễn đề là "tự tác
dụng kiếm" (tự rèn lấy mà dùng) nhưng thực
ra là do công lao của người thợ rèn, cũng như chiếc
áo ngọc kia, tuy cốt để bảo vệ cái thân thể của
người quyền quí khỏi hủ nát, nhưng còn lại cũng
chỉ là cái tấm lòng của người thợ thôi. Cũng nên
biết rằng Quách Mạt Nhược là một thi sĩ tả phái,
ông không khỏi có ý đề cao giới lao động trong một
xu hướng chính trị.
Những
binh khí chế tạo thời đó dĩ nhiên không phải chỉ
bảo kiếm mà thôi. Năm 1983, tại Giang Lăng, người
ta lại đào được một ngọn giáo (mâu) của Ngô Vương
Phù Sai, về phẩm chất và mỹ thuật cũng tương tự
như kiếm của Câu Tiễn. Mâu này dài 29.5 cm, có chuôi
để tra vào cán, sống mâu có một rãnh dài, hai bên
có khắc hình quả trám giống như Việt kiếm, cùng
với hai hàng chữ gồm 8 chữ "Ngô vương Phù Sai
tự tác dụng tạc" (lưỡi giáo của Ngô vương Phù
Sai).
Xem
như thế, quả thực đời Xuân Thu Chiến quốc, đất Ngô
Việt có kỹ thuật rèn đúc đồng sắt rất cao, và những
truyền thuyết về bảo kiếm không phải hoàn toàn chỉ
là huyền thoại. (Dương Hoằng, sđd tr. 104)
Đồ đồng của Trung Hoa là một hợp kim bao gồm đồng,
kẽm và chì. Có khi họ còn pha cả vàng, bạc. Mỗi
đời từ đời Thương (thế kỷ 16-11 trước TL), sang
đời Tây Chu (thế kỷ 11-8 trước TL), Xuân Thu (770-476
trước TL), họ lại phát triển những phương thức khác
nhau. Cuối đời Chiến Quốc, khi chuyển sang thời
đại đồ sắt, họ đã trải qua hàng ngàn năm kinh nghiệm
trong việc đúc đồ đồng, và áp dụng những kỹ thuật
đó vào việc đúc đồ sắt. Việc tìm ra những loại kim
khí mới cứng chắc hơn đồ đồng khiến cho họ càng
cố công rèn đúc những loại binh khí sắc bén mà họ
pha thêm những dật sự ky kỳ khởi nguyên của những
thanh bảo kiếm trong sử sách.
Vì sắt thép cứng chắc và cũng đàn hồi hơn đồng,
kiếm thép đã có thể đúc dài hơn. Năm 218 trước TL,
Trương Lương đã thuê người ám sát Tần Thủy Hoàng,
sử dụng một cái chùy nặng tới 160 pounds. Nhiều
ngôi chùa bằng sắt đúc cũng được xây, có bảo tháp
cao đến 78 feet, chia thành nhiều từng được đúc
rời rồi chồng lên nhau, đến nay vẫn còn. Võ Tắc
Thiên, vào thế kỷ thứ 7 đã cho xây một ngôi đền
cao 294 feet, ba tầng, trên cùng để một con phượng
hoàng bằng sắt, mạ vàng cao 10 feet. Bà cũng còn
đúc một cột trấn thiên đường kính 12 feet, cao 105
feet, đặt trên một cái bệ hình bát giác, chu vi
170 feet, cao 20 feet. Trên cùng là một tàn mây
cao 10 feet, chu vi 30 feet, bốn bên là 4 con rồng
bằng đồng, mỗi con 12 feet. Tất cả đều bằng sắt
và sách vở chép là lượng kim khí cả thảy 2 triệu
lượng, khoảng chừng 1325 tấn. Tác phẩm đúc bằng
sắt hiện nay còn tại Hồ Bắc là một con sư tử đời
vua Thế Tông nhà Hậu Chu (954 sau TL) đúc kỷ niệm
việc chinh phạt quân Liêu (Khiết Đan). Tượng này
nặng 40 tấn, cao 20 feet, dài 16 feet, rỗng ruột,
có bề dày từ 1.5 inch dến 8 inch. (Robert Temple,
Sđd tr. 44)
Kỹ
thuật mỗi ngày một thêm phức tạp, do kinh nghiệm
thực cũng có mà do tưởng tượng cũng có. Sách Thiên
Công Khai Vật thời Minh phân chia nhiều phương pháp,
nhiều kỹ thuật khác nhau trong việc rèn đúc đồng
sắt, bao gồm đúc đỉnh, đúc chuông, đúc búa, đúc
tượng, đúc súng, đúc kính, đúc tiền.
Theo sách vở, phương pháp của người Tàu rèn đúc
thường qua năm giai đoạn:
- tạo hình mẫu
- dùng hình mẫu chế tạo khuôn
- nấu chảy hợp kim, đổ vào khuôn
- đợi cho kim loại đông đặc, lấy ra khỏi khuôn
- chạm khắc hay tu sửa mặt ngoài
Các loại hợp kim pha trộn thông thường bao gồm sắt,
đồng, thiếc, vàng, bạc. Theo tài liệu ngày nay,
thép là sắt có chứa từ 0.1 đến 1.8% carbon, dưới
0.06% là sắt non mềm dễ uốn nhưng không cứng và
không đàn hồi, và trên 1.8% là gang, tuy cứng nhưng
dòn, dễ vỡ. Ở Âu Châu, thời kỳ đồ sắt bắt đầu từ
khoảng 1300 trước Công Nguyên nhưng ở Trung Hoa
dường như sắt chỉ thịnh hành vào khoảng thế kỷ thứ
7 trước TL. Trong Tả Truyện có viết, năm Chiêu Công
29 (tức Tây lịch 513 trước Thiên Chúa) Triệu Ưởng,
Tuân Dần nước Tấn dẫn quân xây thành đóng bên sông
Nhữ, xin được cấp cho một khối sắt (cổ thiết), dùng
lò đúc sắt (chú giới đỉnh) để rèn đúc khí giới.
Đây là chi tiết đầu tiên có trong sách vở về việc
đúc sắt. Sắt nếu chứa ít carbon (sắt và thép), chỉ
cần nung đỏ lên đã có thể dùng búa đập, rèn thành
hình. Nếu như có nhiều carbon (gang), lại cần phải
nấu chảy thành chất lỏng mới đúc được.
Các
nhà khảo cổ đều cho rằng trước khi tiến đến trình
độ đúc gang, nhân loại phải qua giai đoạn rèn sắt
(nung đỏ rồi đập cho thành hình). Cứ theo những
di chỉ thời Chiến Quốc khai quật được, cho tới thời
này người ta chưa đúc được gang nên mới chỉ đến
giai đoạn rèn sắt mà thôi. Tuy nhiên, khi khai quật
một số khí vật bằng sắt ở Hưng Long, tỉnh Hà Nam,
người ta lại đi đến kết luận là việc đúc sắt có
thể có trước, vì thừa kế được kỹ thuật đúc đồng
và làm đồ gốm, và kỹ thuật rèn sắt lại phát triển
sau. Nhiều học giả lại cho rằng cả hai kỹ thuật
đó đi song song với nhau, chứ kỹ thuật nọ không
phải là cha đẻ của kỹ thuật kia.
Phương bắc phát triển phương pháp rèn sắt, trong
khi phương nam lại phát triển kỹ thuật đúc đồng,
đúc sắt (Thiên Công Khai Vật, nguyên tác Tống Ứng
Tinh, Sái Nhân Hiền, Sái Quả Thuyên tuyển, Thời
Báo Văn Hóa, Đài Bắc 1987 trang 124-5)
.
Qua
đời Hán, người Tàu nghĩ ra ống bễ đôi (double-acting
single-cylinder piston-bellows), có thể quạt liên
tục nên nhiệt độ cao hơn loại bễ có từ thời Chiến
Quốc và đã biết cách pha trộn nhiều loại kim khí
khác nhau để gia tăng độ cứng và độ dẻo của kim
loại. Họ cũng khai thác quặng mỏ nên sản xuất được
nhiều và biết cách hàn hai loại thép cứng và mềm
với nhau để làm lưỡi kiếm hay các loại vũ khí, mặc
dù nhiều học giả cho rằng phát kiến này có thể bắt
nguồn từ khu vực Trung Á, sau truyền sang cả Đông
và Tây (The Cambridge Encyclopedia of China, Cambridge
University Press 1991 tr. 447-8).
Việc dùng các khuôn để đúc hàng loại những dụng
cụ, khí giới mà những nhà khảo cổ tìm được tại Sơn
Tây và Thiểm Tây, nhất là tại kinh đô nước Yên gần
Bắc Kinh, phối hợp với việc rèn thép đã khiến cho
đồ sắt trở nên thông dụng, và khí giới bằng thép
đã vượt trội các loại khí giới bằng đồng. Trong
khi đó, phải tới thời Trung Cổ, người Âu châu mới
biết đúc sắt, và việc luyện thép còn sau hơn nhiều.
Trung Hoa lại cũng là quốc gia nâng việc đúc sắt
lên hàng kỹ nghệ, nghĩa là vừa bỏ công để thực hiện
những cơ sở có tầm vóc lại tập trung công tác này
trong tay triều đình và ấn định tiêu chuẩn các loại
đồ sắt. Việc sản xuất qui mô đó đóng góp đáng kể
vào việc phát triển kinh tế cũng như binh bị. Đời
Hán, triều đình đã độc quyền sản xuất và phân phối
hai món hàng chính là đồ sắt và muối, ngoài thuế
má đánh trên nông phẩm để có đủ chi phí cho guồng
máy hành chánh và quân sự.
Vào
thế kỷ thứ 2 trước Tây Lịch, đã có ít nhất là 46
xưởng đúc sắt "quốc doanh" trên toàn nước
Tàu, và người ta đã tìm ra những khối quặng còn
sót lại nặng đến 25-30 tấn, một trọng lượng mà phải
đến thế kỷ thứ 18 Âu Châu mới đạt tới. Các loại
binh khí, cày cuốc, liềm ... đều có tiêu chuẩn nhất
định. Họ cũng chế tạo những lưỡi cày bằng thép,
gắn trên cán gỗ và chế ra những loại máy vừa khoan
lỗ, gieo hạt thay vì phải gieo lúa bằng tay, một
kỹ thuật mà sau này Âu Châu phải bắt chước. Phương
pháp thổi hơi nóng qua các khối thép lỏng để tinh
luyện kim loại cũng là một kỹ thuật phức tạp mà
người Tàu sử dụng từ 20 thế kỷ trước đây tương tự
như những lò luyện kim của Henry Bessemer hồi thế
kỷ thứ 19 (John Merson, The Genius That Was China,
The Overlook Press, NY 1990 tr. 21-22). Kỹ thuật
đúc ngày càng trở nên qui mô và phức tạp.
Về
phương pháp rèn sắt, người ta nung nóng cục sắt
lên rồi dùng búa đập cho thành hình thù vật mong
muốn. Theo sử sách, ngay từ trước công nguyên, người
Tàu đã tìm ra được cách tạo nên những lưỡi đao,
lưỡi kiếm rất cứng nhưng cũng bền chắc để không
bị gẫy khi chiến đấu. Việc pha trộn sắt và carbon,
cũng như thay đổi nhiệt độ để đúc kiếm là một công
phu hết sức phức tạp. Mọi loại kim khí đều cấu tạo
bởi những tinh thể giao kết với nhau, và bố cục
của những tinh thể này có ảnh hưởng đến cơ năng
của kim loại. Nếu rèn nhiều quá, tuy sắt có cứng
hơn nhưng lại dễ gẫy, tương tự như chúng ta bẻ một
sợi dây thép bằng cách bẻ qua, bẻ lại nhiều lần.
Vì thế việc đúc kiếm, người thợ phải đo lường được
tiến trình rèn sắt, không ít quá vì sắt chưa đủ
cứng, nhưng nếu rèn quá lâu, sắt trở thành dòn.
Hoặc cũng có phương pháp "quán cương"
nghĩa là dùng thép non ghép chung với thép già để
thành một khí cụ cứng nhưng vẫn dẻo.
Nhiều
học giả cũng đi đến kết luận là người Tàu cũng là
dân tộc đầu tiên biết rút carbon từ gang ra để có
được thép. Trễ lắm là thế kỷ thứ 2 trước TL, họ
đã biết nguyên tắc này và cũng nhờ đó mà sau này
vào thế kỷ thứ 19, Henry Bessemer đã theo để luyện
kim[3]. Việc loại trừ được carbon trong thép và
gang đã được áp dụng để có sắt non dùng trong việc
xây cầu và đúc ống dẫn nước.
Họ biết cách thổi hơi qua sắt nóng chảy mặc dù không
biết rằng họ đã làm công việc khử carbon -- decarburization,
mà họ gọi là bách luyện (Robert Temple The Genius
of China 3000 years of science, discovery and
invention, Prion Books 1998, London, tr. 50). Phương
pháp thứ hai dùng để luyện kim là trộn hai loại
sắt non và gang để thành thép cũng đã được họ thực
hiện từ thế kỷ thứ 5 sau TL. Nhiều sách vở đã đề
cập đến phương thức này một cách kỹ càng và gần
đây, tại xưởng chế tạo thép ở Corby bên Anh, người
ta đã thử nghiệm lại và thành công mỹ mãn.
Đến
nay, ngoài những phương pháp thông thường, ba phương
pháp tương đối cầu kỳ hơn đã được áp dụng để chế
tạo một thanh kiếm tốt. Phương pháp thông dụng nhất
là sau khi rèn xong, người ta nung lên một nhiệt
độ thấp rồi cho nguội từ từ (13)món vũ khí. Những
người sành coi kiếm chỉ cần nhìn nước thép, cấu
trúc của lưỡi kiếm là có thể định được tài nghệ
của người rèn kiếm.
Phương pháp thứ ba là đúc một thanh kiếm mà cái
lõi bằng sắt non, nhưng vỏ bao bên ngoài là thép
già. Đôi khi người thợ ráp nhiều loại thép có độ
cứng khác nhau, từ mũi kiếm, lưỡi kiếm, sống kiếm
phần kiếm gần tay cầm và chuôi kiếm, để đáp ứng
được vai trò và công năng của từng phần. Kỹ thuật
này khó hơn cả đòi hỏi một tài nghệ cao. Làm thế
nào để dán được một lớp mỏng trên phần sống kiếm,
trong khi lưỡi kiếm vẫn dày chắc là một công việc
tỉ mỉ và tinh vi. Nhiều người còn cho rằng muốn
cho hai loại kim loại khác nhau gắn liền được với
nhau, có khi phải đổ máu mới thành được. Huyền thoại
đó được Kim Dung miêu tả khi Minh giáo nối lại thanh
bảo đao bị gãy:
“Chàng (Trương Vô Kỵ) còn đang trầm ngâm, Chưởng
Kỳ Sứ của Nhuệ Kim Kỳ là Ngô Kình Thảo tiến lên
nói:
- Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ vốn xuất thân thợ
rèn, đã từng học qua phép đánh đao đánh kiếm, để
thuộc hạ làm thử, biết đâu không nối lại được bảo
đao, bảo kiếm như cũ.
Dương Tiêu vui mừng đáp lời:
- Thuật rèn kiếm của Ngô kỳ sứ thiên hạ vô song,
xin giáo chủ để y thử xem sao.
Trương Vô Kỵ gật đầu:
- Hai loại lợi khí này bị gãy quả thực đáng tiếc.
Ngô kỳ sứ nếu nối lại được thì còn gì bằng.
Ngô Kình Thảo quay sang nói với Liệt Hỏa Kỳ Sứ Tân
Nhiên:
- Rèn đao rèn kiếm, cốt nhất là ở sức lửa, nhờ Tân
huynh giúp cho một tay. Xem tình cảnh này, quân
Thát Đát nhất thời chưa đánh lên núi, hai anh em
ta làm ngay được chăng?
Tân Nhiên cười đáp:
- Cái gì chứ nhóm củi, đốt lửa thì vốn là nghề của
huynh đệ.
Lập tức hai người chỉ huy thuộc hạ, đắp ngay một
cái lò lớn, miệng lò rộng không đầy một thước. Ngô
Kình Thảo lấy mảnh mũi đao Đồ Long xếp vào, chỗ
gẫy ngay tại miệng lò. Nhiên liệu của Liệt Hỏa Kỳ
đã sẵn sàng, chẳng mấy chốc lửa đã bừng bừng bốc
lên. Ngô Kình Thảo tay phải đã đứt, chỉ còn lại
một cánh tay trái. Bên cạnh y để hơn một chục loại
binh khí khác nhau, mắt chăm chăm, mỗi khi thấy
lửa biến màu, lại đem một món binh khí ném vào để
xem sức nóng. Đợi đến khi lửa từ xanh biến thành
trắng, tay trái mới cầm kìm, kẹp mảnh thanh đao
Đồ Long còn lại chắp vào đầu bên kia để nung. Nửa
thân trên y để trần, đốm lửa bắn tung tóe lên người
nhưng dường như không cảm giác, vẫn hết tâm để vào
việc. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Rèn đao kiếm
tuy là việc nhỏ, nhưng cũng phải học tập nhiều,
bản lãnh lắm mới làm được. Nếu như loại thợ rèn
tầm thường, chỉ chịu nóng không cũng không nổi".
Bỗng nhiên lịch kịnh mấy tiếng, hai tên giáo chúng
kéo bễ ngã lăn xuống đất, bất tỉnh nhân sự. Tân
Nhiên và Liệt Hỏa Kỳ Chưởng Kỳ Phó Sứ lập tức xông
lên, gạt hai tên đó sang một bên, tự tay kéo bễ
thổi lửa. Hai người nội lực không phải là yếu nên
vừa sử kình quạt lò, lửa đã bốc lên, ngọn cao cả
trượng, cảnh tượng thật là đẹp mắt.
Độ tàn nửa nén hương, Ngô Kình Thảo bỗng kêu lên:
"Ối chà", tung mình nhảy vọt về phía sau,
mặt đầy vẻ thất vọng. Mọi người ai nấy kinh hãi,
nhìn lại trong tay y, thấy cái kềm đã bị nóng chảy,
méo mó không còn hình thù gì, còn thanh đao Đồ Long
vẫn không suy suyển. Ngô Kình Thảo lắc đầu:
- Thuộc hạ vô năng, thanh đao Đồ Long này quả thực
danh bất hư truyền!
Tân Nhiên và Chưởng Kỳ Phó Sứ tạm ngưng thổi bễ,
đứng lui sang một bên. Hai người áo quần ướt đẫm
mồ hôi, tưởng như vừa ở dưới nước trèo lên. Triệu
Mẫn bỗng nói:
- Vô kỵ ca ca, có phải Thánh Hỏa Lệnh đao Đồ Long
chặt không đứt phải không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Ừ, đúng vậy!
Trong sáu thanh Thánh Hỏa Lệnh, một thanh đã giao
cho Thuyết Bất Đắc cầm xuống núi để điều binh, nay
chỉ còn năm. Chàng lấy trong bọc ra, giao cho Ngô
Kình Thảo:
- Đao kiếm không hàn lại được, cũng chẳng quan hệ
gì. Thánh Hỏa Lệnh là vật chí bảo của bản giáo,
không thể để cho hư hỏng
Ngô Kình Thảo cúi mình tiếp lấy, đáp: "Xin
vâng lệnh!". Y thấy năm thanh Thánh Hỏa Lệnh
không phải sắt, cũng chẳng phải vàng, cứng rắn vô
cùng, nặng trình trịch, nên cúi đầu suy nghĩ.
Trương Vô Kỵ nói:
- Nếu thấy không ổn thì cũng đừng mạo hiểm làm gì.
Ngô Kình Thảo không trả lời, một hồi sau mới tỉnh
giấc trầm tư, đáp:
- Thuộc hạ quả là không phải, xin giáo chủ thứ tội.
Thánh Hỏa Lệnh này vốn là bạch kim trộn với huyền
thiết và cát kim cương đúc thành, lửa nóng không
làm chảy nổi. Thuộc hạ quả thật hồ nghi, không biết
khi xưa làm sao đúc được, cho nên suy nghĩ nhất
thời như mất cả hồn vía.
Triệu Mẫn liếc Trương vô Kỵ một cái, nhoẻn miệng
cười:
- Sau này giáo chủ sẽ có dịp sang Ba Tư để gặp một
nhân vật thật là quan trọng, lúc đó ngươi có thể
đi theo, hỏi các thợ đúc cao thủ của họ xem làm
cách nào.
Trương Vô Kỵ ngượng nghịu nói:
- Ta sang Ba Tư để làm gì?
Triệu Mẫn mỉm cười:
- Chuyện đó không nói ra được.
Lại quay sang Ngô Kình Thảo:
- Ngươi xem, trên Thánh Hỏa Lệnh còn có khắc hoa
văn và chữ. Dù có sắc bén như đao Đồ Long hay kiếm
Ỷ Thiên cũng không làm suy suyển được, thì những
đường nét, văn tự ấy làm sao đục thành?
Ngô Kình Thảo đáp:
- Muốn khắc hoa văn, văn tự không có gì khó. Chỉ
cần dùng sáp trắng phủ lên trên Thánh Hỏa Lệnh,
trên sáp khắc hình vẽ chữ, sau đó đem ngâm trong
cường toan, chỉ vài tháng sau sẽ ăn mòn. Sau đó
đem ra cạo hết sáp đi, các hình và chữ sẽ hiện ra.
Điều tiểu nhân không hiểu là làm sao nung cho chảy
được.
Tân Nhiên kêu lên:
- Thế thì có định làm không đây?
Ngô Kình Thảo hướng về phía Trương Vô Kỵ:
- Giáo chủ đừng ngại. Liệt hỏa của Tân huynh đệ
tuy ghê gớm thật, nhưng không tổn hại được Thánh
Hỏa Lệnh đâu.
Tân Nhiên trong lòng hơi sợ, vội nói:
- Tôi chỉ hết sức thổi lửa, nếu như làm hỏng Thánh
vật của bản giáo, thì không chịu tội đâu nhé.
Ngô Kình Thảo mỉm cười:
- Chỉ sợ ngươi không đủ nhẫn nại, có gì ta chịu
hết.
Nói rồi lấy hai miếng Thánh Hỏa Lệnh kẹp một nửa
thanh đao, sau đó dùng một chiếc kìm mới kẹp lấy
Thánh Hỏa Lệnh đưa bảo đao vào trong lò nung lần
nữa.
Lửa mỗi lúc một bốc lên cao, nung đến hơn nửa giờ,
chỉ thấy Ngô Kình Thảo, Tân Nhiên, Liệt Hỏa Kỳ phó
sứ ba người thấp thoáng trong ánh lửa, mỗi lúc một
thêm uể oải, xem chừng không còn chịu nổi.
Thiết Quan đạo nhân Trương Trung liếc mắt ra hiệu
cho Chu Điên, phất tay một cái, hai người cùng xông
lên nhảy vào thay cho Tân Nhiên và Liệt Hỏa Kỳ phó
sứ, ra sức kéo bễ. Trương Chu hai người nội lực
so với những người kia cao hơn nhiều, lửa trong
lò bốc vút lên thẳng một làn trắng xóa.
Ngô Kình Thảo bỗng dưng quát lớn:
- Cố huynh đệ, ra tay đi.
Chưởng kỳ phó sứ Nhuệ Kim Kỳ tay cầm dao nhọn, chạy
tới bên lò, chỉ thấy lấp lánh, đã giơ dao đâm thẳng
vào ngực Ngô Kình Thảo. Quần hùng đứng chung quanh
không khỏi thất sắc, đều lớn tiếng kêu la. Máu từ
trên bộ ngực trần của Ngô Kình Thảo phun ra tung
tóe trên thanh đao Đồ Long, gặp nóng lập tức bốc
lên một làn khói xanh khét lẹt. Ngô Kình Thảo la
lớn:
- Thành rồi.
Y lui lại mấy bước, ngồi phịch xuống đất, tay cầm
một thanh đao đen sì. Quả thực hai mảnh của đao
Đồ Long đã liền lại thành một. Mọi người bấy giờ
mới biết, mỗi khi những người thợ đúc đao rèn kiếm
không thành, phải nhỏ máu vào. Thời xưa, vợ chồng
Can Tương, Mạc Tà thậm chí phải nhảy vào lò, mới
đúc thành vô thượng lợi kiếm. Việc Ngô Kình Thảo
làm chính là theo phong cách của những người xưa
truyền lại.
Trương Vô Kỵ vội đỡ Ngô Kình Thảo lên, xem xét vết
thương, thấy dao đâm không sâu, chẳng có gì đáng
lo ngại. Chàng lấy kim sang rắc vào, dùng vải buộc
lại, nói:
- Ngô huynh việc gì phải làm như thế. Đao này nối
lại được hay không, không phải là quan trọng, đâu
đáng để Ngô huynh phải chịu khổ đến vậy.
Ngô Kình Thảo đáp:
- Vết thương nhỏ ngoài da thịt, có đáng gì để giáo
chủ phải lo lắng.
Y đứng dậy, cầm thanh đao Đồ long lên xem, thấy
liền lạc không dấu vết, chỉ lờ mờ một lằn máu nhỏ,
không khỏi mười phần đắc ý. Trương Vô Kỵ xem lại
hai thanh Thánh Hỏa Lệnh mới nung trong lò thấy
không suy tổn mảy may, yên chí tiếp lấy thanh đao
Đồ Long, chém xuống hai lưỡi mâu chàng vừa cướp
được của lính Mông Cổ, chỉ nghe một tiếng soẹt nhỏ,
hai món võ khí đứt ra làm đôi, đúng là chặt sắt
như bùn. (Kim Dung, Ỷ Thiên Đồ Long Ký, tập 4, Minh
Hà Xã, Hongkong, 1982 tr. 1601- 4)
Phép
tôi sắt (thối hay kiện) là sau khi rèn xong, kim
loại chưa cứng hẳn người thợ nhúng vào nước hay
dầu để cho thép cứng hơn. Tuy nhiên, nhiều khi phải
để cho nhiệt độ hạ từ từ vì nếu hạ quá nhanh, thanh
thép sẽ cứng nhưng dòn. Trong khi phương pháp đúc
kiếm có thể bị người khác bắt chước, phương pháp
tôi thép lại được giữ rất kín như một kỹ thuật bí
truyền. Tôi bằng dung dịch gì, độ nóng ra sao, cách
thức thế nào là những bí mật mà tượng nhân không
tiết lộ. Vì thế, họ ít cho ai xem cách họ tôi thép
như thế nào và việc tò mò tìm biết là một cấm kỵ,
nhất là đối với những thợ rèn Nhật Bản.
Đúc kiếm không phải chỉ là một kỹ thuật mà còn được
coi là một nghi lễ, nên không hiếm những truyện
thần kỳ về những thanh bảo kiếm. Người ta kể rằng
Can Tương khi đúc được hai thanh bảo kiếm, một âm
một dương, chỉ đem dâng lên Ngô Vương thanh âm kiếm,
giấu đi thanh dương kiếm. Khi bị truy nã, thanh
dương kiếm biến thành một con rồng xanh đưa Can
Tương bay mất. Nhiều thanh kiếm khi rút ra lại phải
uống máu người mới cho trở vào bao được. Tượng nhân
lại phải trai tịnh, kiêng cữ rượu và chuyện phòng
the, cầu đảo khi rèn đúc những thanh kiếm hay đồ
vật quí mà người ta cho rằng trở thành thần vật.
Tuy nhiên, không có sách vở nào chép về kỹ thuật
luyện kim và đúc đồng, sắt một cách chi tiết từ
thế kỷ thứ 10 trở về trước nên chúng ta không rõ
người xưa đã làm thế nào.
Theo
lịch sử, thời Xuân Thu Chiến Quốc, chiến tranh liên
tục mấy trăm năm, những tiểu quốc đều phải đặt nặng
vấn đề bố phòng chiến đấu. Khoa học quân sự phát
triển cũng chính vì liên quan trực tiếp đến sự sống
còn của một quốc gia. Trong khi những nước ở mạn
bắc và mạn tây nước Tàu chú trọng đến chiến xa do
ngựa kéo để di động nhanh trong những vùng thảo
nguyên và sa mạc, thì những nước tại đồng bằng lại
chú trọng đến phòng thủ, bộ binh và vũ khí ngắn
để chiến đấu trong những vùng núi rừng và trên sông
rạch. Tại những nước như Mân, Việt, Ngô càng ngày
vai trò của bộ binh càng quan trọng. Ngược lại,
tại các nước ở mạn bắc và tây như Thục, Tần, Ngụy,
Triệu thì kỵ binh vẫn là chính. Chính vì cận chiến
trở nên một vấn đề sinh tử, binh khí ngắn và nhẹ
để cho dễ mang theo, lại cần sắc bén và tiện dụng.
Kiếm chính là loại vũ khí có đủ các ưu điểm đó.
Vì thế hai nước đặt nặng việc chế tạo binh khí cho
bộ binh là Ngô và Việt, là những nước ở khu vực
đồng bằng. Cho đến nay, địa khu của hai nước này
vẫn là nơi đào thấy nhiều binh khí nhất. Những truyện
truyền kỳ cũng phát xuất từ đây. Kỹ thuật đúc kiếm
bằng đồng (thanh đồng kiếm) vẫn được truyền tụng
tới nay. Ngoài binh khí, kỹ thuật và một số mặt
khoa học xã hội cũng phát triển. Người ta đã biết
làm nỏ, kể cả liên châu tuy cồng kềnh hơn cung nhưng
có thể để một chỗ mà ngự địch. Cung dùng cho kỵ
binh nên phải gọn nhẹ, trong khi nỏ là một loại
cung dương sẵn, bao gồm cả việc phóng tên ra lẫn
kỹ thuật làm lẫy (thường là kim loại nên việc rèn
đúc phải đạt tới một trình độ khá cao mới có được,
truyện nỏ thần của ta cũng nói lên dân Việt đã biết
áp dụng kỹ thuật đúc đồng vào việc chế tạo vũ khí).
Trong Khảo Công Ký, có chép:
“Ngô Việt chi kiếm, biến hồ kỳ địa nhi phí năng
lương. (kiếm ở đất Ngô và đất Việt không những chỗ
nào cũng có mà lại tốt)
Cuối đời Chiến Quốc, người Trung Hoa đã phát triển
việc khai thác quặng mỏ, phối hợp việc đúc đồng
với đúc sắt và việc sử dụng vũ khí đã khá phức tạp.
Nhiều lò đúc mướn đến hơn 200 công nhân và nhiều
người trong kỹ nghệ này trở nên giàu có lớn, đóng
một vai trò quan trọng trong xã hội (Patricia B.
Ebrey, Illustrated History China, Cambridge University
Press, 1996 tr. 41).
Kỹ thuật đúc đồng đúc sắt của người Trung Hoa đã
có từ lâu. Cứ theo những khí cụ khai quật được,
và sử sách còn ghi chép, việc đúc đồng có từ thời
nhà Ân, Thương. Hiện nay trong viện bảo tàng của
Trung Hoa và nhiều nước khác còn trưng bày những
đồ đồng có từ thời kỳ này. Đầu thế kỷ 20, khi khai
quật những cổ tích vùng An Dương, đã tìm thấy những
phường đúc, cho biết một số phương thức kỹ thuật
đúc đồng thời kỳ ấy. Theo những di chỉ, hơn 2000
năm trước, người Trung Hoa đã đúc được những khí
vật rất tinh xảo, và có thể nói là nhất thế giới.
Từ kỹ thuật đúc đồng, người Tàu đã tiến sang kỹ
thuật đúc các kim loại khác, nhất là sắt. Việc đúc
các khí cụ bằng sắt một cách qui mô đã trở nên một
kỹ nghệ quan trọng của Trung Hoa hồi thế kỷ thứ
tư trước Tây Lịch (Jacques Gernet, Le Monde Chinois
A History of Chinese Civilization, trans. By J.R.
Foster, Cambridge University Press, 1986 trang 28).
Trong khi nhiều dân tộc khác phải mất một thời gian
dài, có khi hàng mấy nghìn năm cách khoảng giữa
thời điểm tìm ra sắt đến khi biết cách đúc và rèn
kim loại thì người Tàu gần như không bị trở ngại
đó. Không những họ nắm vững kỹ thuật nấu và đúc
bằng khuôn, mà còn biết cách pha các kim loại, thêm
hay bớt carbon để có những loại thép có độ cứng
khác nhau, đồng thời lại tìm cách giảm thiểu cái
bất lợi của chất thép khi quá nhiều than để thành
gang tuy cứng nhưng hóa dòn. Theo những khai quật
mới đây ở Giang Tô (Trình Kiều), người ta đã đào
được một khối gang từ cuối thời Xuân Thu, tính ra
người Trung Hoa đi sớm hơn các dân tộc Âu Châu đến
gần 2000 năm, mặc dầu người Âu biết dùng sắt trước.(Trung
Quốc Đích Thế Giới Đệ Nhất, Thiểm Tây 1987 tr.228)
Nhiều học giả đã đặt câu hỏi tại sao người Trung
Hoa lại biết đúc sắt sớm như thế. Một số yếu tố
được đưa ra làm giả thuyết cho sự phát triển này.
Thứ nhất, nước Tàu có những loại đất sét tốt dùng
làm vách cho những lò luyện kim.
Người Tàu lại biết cách đưa độ nóng chảy của quặng
sắt xuống thấp để việc đúc được thuận tiện hơn.
Họ cho vào lò chất gọi là "đất đen", chứa
nhiều phốt phát sắt (iron phosphate, một loại hợp
chất màu vàng khoa học gọi là lân toan thiết). Nếu
cho vào khoảng 6% lân tinh (phosphorus) vào hỗn
hợp sắt, độ nóng chảy của sắt thay vì là 11300C
sẽ chỉ còn là 9500C. Kỹ thuật này được áp dụng cho
tới tận thế kỷ thứ 6 sau TL, cho tới khi họ đã tìm
được cách làm nóng chảy sắt mà không phải pha chất
lân tinh. Than đá cũng được sử dụng từ lâu, vào
khoảng thế kỷ thứ 4 sau Công Nguyên hay trước nữa.
Việc luyện kim trước đây do một số giòng họ bí truyền,
nhưng tới đời Hán (119 BC) tất cả đều bị xung công
và biến thành những cơ quan độc quyền của triều
đình. Chính sự phát triển trong ngành luyện kim
đã đưa đến những tiến bộ trong nông nghiệp, việc
sử dụng lưỡi cày một cách rộng rãi hơn và phát minh
thêm nhiều nông cụ khác. Ngoài các loại búa, dao,
đục, cưa người ta còn tìm thấy những nồi và cả những
tượng bằng sắt trong những mộ đời Hán. Từ kỹ thuật
dát sắt, người Tàu lại biết cách khai thác muối
và khí đốt (Robert Temple, sdd. tr. 42-43)
Tuy các vùng duyên hải và các dân tộc Ngô Việt có
một nền văn minh sớm hơn những khu vực khác nhưng
cũng sớm tàn lụi, cái tàn lụi thường có sau một
thời bình trị. Việt diệt Ngô rồi sau lại bị Sở diệt.
Sở là một quốc gia ở vùng Ba Thục, hiếu chiến, luôn
luôn dòm ngó trung nguyên. Chính vì thế, những bảo
kiếm, đồng kiếm của Ngô Việt đều nằm trong các cổ
mộ của Sở chứ không phải tại bản quốc, có lẽ là
chiến lợi phẩm mà các vương tôn nước Sở tịch thu
khi xâm chiếm hai nước này và rất được ưa chuộng
nên chôn theo trong mộ mình. Có ngôi tìm thấy được
hơn ba mươi thanh kiếm. Điều này cũng dễ hiểu vì
Sở, Tần vốn dĩ là những dân tộc miền rừng núi Tây
Vực, tuy thiện chiến nhưng văn minh đi sau các quốc
gia vùng đồng bằng, điển hình là những dân tộc ven
biển như Nam Việt, Mân Việt. Sterling Seagrave,
một tác giả nổi tiếng chuyên viết về Trung Hoa,
đã khẳng định rằng những người thuộc các bộ tộc
Việt miền nam sông Dương Tử, từ thời Tần Hán về
sau đã là nạn nhân của nhiều vụ xâm lăng có tính
diệt chủng của người Tàu phương Bắc, phương Tây
và nhiều cuộc di cư qui mô đã đưa những người dân
tháo vát, thông minh nhưng hiếu hòa này xuống vùng
Đông Nam Á, kể cả Đài Loan, Philippines tạo thành
một tầng lớp thương nhân có sức mạnh kinh tế vô
cùng to lớn. Thuyết của Seagrave có nhiều điểm tương
đồng với thuyết cho rằng dân tộc Việt Nam cũng khởi
nguyên từ vùng hạ lưu sông Dương Tử. (The Invisible
Empire of the Overseas Chinese: Lord of the Rim,
Children of Yueh, G.P. Putnam's Son, 1995)
Ở
nước ta, truyền thuyết về bảo đao bảo kiếm ít người
nói tới. Những bảo kiếm trong lịch sử Việt Nam phần
lớn không nói tới sự sắc bén mà nói tới giá trị
pháp lý, tượng trưng cho một triều đại hay uy quyền.
Thượng Phương bảo kiếm là kiếm mà nhà vua thường
ban cho đại thần cái quyền tiền trảm hậu tấu (giết
người trước rồi tâu vua sau, như một ủy thác toàn
quyền hành động không giới hạn) khi thống lãnh binh
đội đi dẹp giặc. Thanh kiếm của triều Nguyễn có
chuôi nạm ngọc, lưỡi bằng thép, vỏ kiếm có khắc
"Khải Định niên chế" và "Trọng Kim
Tứ Lạng Thất Ngũ Phân" (trọng lượng 4 lạng
7 chỉ 5 phân). Thanh kiếm này cùng với ấn của triều
Nguyễn được trao lại cho chính quyền Việt Minh năm
1945 khi vua Bảo Đại thoái vị. Về sau người Pháp
lại tìm thấy và trả lại cho Cựu Hoàng. Hiện nay
không biết ở đâu, nhưng nhiều người cho rằng do
Thái Tử Bảo Long thủ quản (Lê Văn Lân, Chiếc Bảo
Ấn cuối cùng của Hoàng Đế Việt Nam, Làng Magazine,
1998 tr. 18-26).
Kiếm của ta cũng khác của Tàu. Trong khi kiếm Trung
Hoa là loại hai lưỡi, kiếm của Việt Nam lại giống
như một con dao dài, một bên là lưỡi, một bên là
sống, đầu hơi cong lên, và thường được gọi là gươm
hay quất. Gươm chủ yếu để chém trong khi kiếm lại
dùng để đâm. Khi sử dụng làm võ khí, nếu dùng một
thanh kiếm thì gọi là đơn kiếm, nếu sử dụng hai
tay hai thanh kiếm thì gọi là song kiếm. Nhiều môn
phái của Trung Hoa có những đường kiếm nổi danh,
hoặc luyện tập cá nhân hay dùng trong trận thế.
Hiện nay trên núi Võ Đương người ta vẫn còn tập
những bài kiếm trận. Trong dân gian kiếm thường
chỉ được dùng như một cánh tay nối dài chẳng hạn
như trong bài Thái Cực Kiếm.
[1] thanh đao Đồ Long là vật cao quí nhất trong
võ lâm, hiệu lệnh thiên hạ, không ai dám không theo
[2] Cưu Thiển là chữ cổ, nay đọc là Câu Tiễn
[3] Theo sử sách Bessemer đã học cách của William
Kelly, mà ông này lại học cách làm thép từ 4 chuyên
gia Trung Hoa đến Kentucky năm 1845 để trình bày
phương pháp cổ truyền của họ.
T ÀI LIỆU THAM KHẢO
Bottomley I & A P Hopson, Arms and Armor of
the Samurai; The History of Weaponry in Ancient
Japan, Crescent Books, NY 1996
Cotterell, Arthur, China: A Cultural History, Mentor
Book, 1988
Dương Hoằng, Văn Minh Đích Quĩ Tích, Trung Hoa Thư
Cục, Hongkong 1988
Dương Kim Đỉnh, Trung quốc văn hóa sử đại từ điển,
Viễn Lưu, Đài Loan 1990
Ebery, Patricia Buckley, Cambridge Illustrated History:
China, Cambridge University Press, 1996
Hoàn Hoa Bách Khoa Toàn Thư (Pan-Chinese Encyclopedia)
vol. 5, 11 Đài Bắc 1982
Jacques Gernet, A History of Chinese Civilization
(trans. Le Monde Chinois by J.R. Foster), Cambridge
University Press, 1986
Kim Dung, Ỷ Thiên Đồ Long Ký (1-4), Minh Hà Xã,
Hongkong 1978
Lê, Văn Lân, Chiếc Bảo Ấn Cuối Cùng Của Hoàng Đế
Việt Nam, Làng, California 1998
Lu Hsun, Selected Stories of Lu Hsun, Ngoại Văn
Xuất Bản Xã, Bắc Kinh, 1978
Merson, John, The Genius That Was China,The Overlook
Press, NY 1990
Temple, Robert, The Genius of China, 3000 years
of Science, Discovery and Invention, Prion Books
Limited, London 1991
The Cambridge Encyclopedia of China, Brian Hook
editor, Cambridge University Press, 2nd Ed. 1991
Tống, Ứng Tinh, Thiên Công Khai Vật (Sái Nhân Hiền
tuyển) Thời Báo, Đài Bắc 1983
Trung Hoa Nhi Đồng Bách Khoa Toàn Thư, vol. 8, Bộ
Giáo Dục, Đài Loan, 1983
Trung Quốc Lịch Sử Từ Điển, Trương Tác Huy chủ biên,
Văn Hóa, Bắc Kinh 1991
Trung Quốc Thế Giới Đệ Nhất, Nhân Dân xb, Thiểm
Tây, 1988
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Có miệng như không" - by / Trần Văn Giang (ghi lại).
- 100 năm sau vẫn bồi hồi "Tôi đi học" - by Minh Tự / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Nỗi Khổ Của Người Hà Nội" - by Nguyễn Thị Thương / Trần Văn Giang (ghi lại)
BẢO KIẾM - Nguyễn Duy Chính
Nguyễn Duy Chính
Một trong những yếu tố thú vị của truyện kiếm hiệp
là khí giới của những nhân vật chính. Bên cạnh võ
công siêu tuyệt, thường thường một nhân vật hữu
danh luôn luôn gắn liền với một món bảo cụ, mà thông
dụng nhất là bảo đao, bảo kiếm. Võ khí tùy thân
đó tạo cho nhân vật một đặc tính hơn người, và luôn
luôn kỳ bí, khác thường, đôi khi huyền hoặc.
Lỗ Tấn (1881-1936), một văn sĩ vào bậc nhất của
Trung Hoa hồi đầu thế kỷ này, nổi tiếng về những
truyện ngắn, tiêu biểu là Ả Q Chính Truyện, một
tác phẩm mà nhiều người chúng ta biết đến. Trong
một truyện khác, ông dựa theo những truyền kỳ của
dân tộc Trung Hoa để miêu tả một hình thức áp bức
rất ư là phong kiến tác giả một tác phẩm tuyệt
hảo có khi lại chính là nạn nhân của nó, nếu người
ta không muốn người khác có một tác phẩm như mình
thì cái kế sách thường dùng là thủ tiêu luôn tác
giả để không còn người nào có thể hoàn thành một
tác phẩm tương tự.
Sau đây là một đoạn trích trong truyện "Rèn Kiếm":
... Thằng bé bước tới gần. Trong ánh trăng mờ ảo
nó thấy mẹ nó ngồi trên giường, đôi mắt lấp lánh.
Bà nghiêm giọng:
- Nghe đây. Cha con là một người rèn kiếm nổi tiếng,
có một không hai trên đời này. Mẹ bán hết đồ nghề
của cha con để khỏi chết đói nên không còn gì cho
con xem nữa. Thế nhưng phải nói là cha con là người
rèn kiếm không ai bì kịp. Hai mươi năm trước, bà
thứ phi hạ sinh ra một cục thép, mà người ta nói
là bà ta thụ thai khi ôm một cái cột sắt. Cục sắt
đó, thuần khiết, trong suốt. Nhà vua biết rằng cục
sắt này hiếm quí, nên muốn đánh thành một thanh
kiếm để tùy thân, bảo vệ bờ cõi, và tiêu diệt kẻ
thù. Khổ thay, cha con lại được chỉ định để làm
việc ấy, và chính ông đã hai tay bưng cục sắt đó
về. Ba năm ròng rã, ông rèn cục sắt ngày đêm, đến
khi hoàn thành được hai thanh kiếm.
Thật là kinh hoàng khi cha con mở cái lò ra. Một
làn hơi trắng bay vút lên trời, và mặt đất rung
chuyển. Làn hơi trắng tụ lại thành một đám mây,
chuyển thành màu đỏ tươi và phủ lên mọi vật một
màu hồng nhạt. Trong chiếc lò đen ngòm là hai thanh
kiếm còn nóng đỏ. Trong khi cha con tưới lên từng
giọt nước, hai thanh kiếm rít lên những tiếng xì
xì rồi chuyển sang màu xanh. Bảy ngày, bảy đêm sau,
hai thanh kiếm không còn thấy đâu nữa. Thế nhưng
nhìn kỹ, hai thanh kiếm vẫn còn đó, đã chuyển sang
màu xanh biếc và trong suốt như hai cục băng.
Cha con mắt sáng lên mừng rỡ bội phần. Nhặt hai
thanh kiếm lên, ông vuốt ve rồi múa thử. Thế nhưng
chỉ trong giây lát, vầng trán ông và trên khóe miệng
đượm một nỗi buồn. Ông bỏ kiếm vào trong hộp rồi
nói nhỏ với mẹ:
- Ai ai cũng biết là kiếm đã đúc xong khi chứng
kiến những chuyện kỳ quái mấy ngày qua. Ngày mai
ta phải đem dâng lên đại vương một thanh kiếm. Nhưng
đó cũng là ngày cuối cùng của đời ta, e rằng vợ
chồng mình không còn gặp lại nhau nữa.
Mẹ hoảng hốt, không hiểu cha con nói gì, cũng không
biết phải trả lời sao. Mẹ lắp bắp: "Nhưng chàng
đã hoàn thành công việc rồi mà".
- A, nàng không hiểu. Vương gia vốn đa nghi và tàn
nhẫn. Bây giớ hai thanh kiếm đã đúc xong, thể nào
ta cũng sẽ bị giết để sau này ta không thể đúc một
thanh kiếm khác cho kẻ đối đầu hay kẻ nào muốn hơn
được nhà vua.
Mẹ òa lên khóc. Cha con nói:
- Thôi đừng buồn. Không còn cách nào khác, nước
mắt không thay đổi được số mệnh. Ta cũng đã chuẩn
bị chuyện này từ lâu.
Mắt ông như bừng lửa khi đặt vào lòng ta một cái
bao kiếm.
- Đây là thanh hùng kiếm. Nàng giữ lấy. Ngày mai
ta sẽ mang dâng thanh thư kiếm lên đại vương. Nếu
ta không về thì có nghĩa là ta đã chết. Chỉ năm
sáu tháng nữa là nàng sẽ nằm bếp rồi ư? Đừng buồn,
cố nuôi con khôn lớn. Bao giờ nó trưởng thành thì
giao cho nó thanh kiếm này và bảo nó đi chém đầu
gã hôn quân để trả thù cho ta. (Selected Stories
of Lu Hsun, Forging the Swords, nhà xuất bản Ngoại
Văn, Bắc Kinh 1978 tr. 239-40)
Câu
chuyện này dựa theo một truyền thuyết, được dùng
làm bối cảnh cho một câu truyện ly kỳ về một đứa
bé trả thù cho cha. Thế nhưng, người ta ít nhiều
vẫn thường nghe về những huyền bí, kỳ ảo mà người
Trung Hoa gán cho những thanh kiếm báu. Thanh kiếm
không còn là một món võ khí tùy thân, đôi khi nó
trở thành một sinh vật, và một sinh vật luôn luôn
có hồn, thiêng liêng, nhất là lại được sử dụng để
sát hại người khác. Chính vì thế thanh kiếm được
coi như một sinh vật tùy thân của người kiếm khách,
là một bạn đồng hành hơn là một món vũ khí vô tri.
Những
thanh bảo kiếm đầu tiên mà tôi đọc lại do một tác
giả Việt Nam, viết dựa theo truyền thuyết Trung
Hoa. Truyện có nhan đề "Đào Mả Tần Thủy Hoàng"
của nhà văn Thái Tâm Canh, đăng trên nhật báo Saigon
Mai vào khoảng đầu thập niên 1960. Bộ tiểu thuyết
võ hiệp này viết về mưu đồ của một nhóm ái quốc
nước Hàn muốn nổi lên chống lại nhà Tần và tìm cách
lấy những báu vật trong ngôi mộ hết sức vĩ đại và
nguy hiểm của bạo chúa. Đứng đầu của nhóm người
này là Trương Lương, dưới trướng có những hiệp khách
võ công trác tuyệt. Ngoài những tình tiết hết sức
ly kỳ, những mối tình một chiều chạy vòng quanh,
có những món bảo vật làm mục tiêu tranh đoạt của
nhiều hiệp khách.
Đặc
sắc nhất là những thanh bảo kiếm gia truyền của
mỗi giòng họ. Thanh Chủy Thủ của dòng họ La, thanh
Trạm Lư của dòng họ Chương. Ngoài ra còn phải kể
đến thanh Thái A, là bội kiếm của nhà vua đã cởi
ra để trấn sơn khi lên núi Trâu Tịch tế trời đất,
mà nhóm họ Trương nhất quyết chiếm đoạt để tạo sự
bất an trong tâm lý triều đình nhà Tần. Những thanh
kiếm đó đều là những bảo vật được ghi trong sử sách.
Trong
truyện kiếm hiệp tân thời, chúng ta cũng gặp nhưng
thanh bảo đao, bảo kiếm được mô tả rất thần kỳ.
Ỷ Thiên Đồ Long Ký (Minh Hà, Hongkong 1978), tác
phẩm nổi tiếng của Kim Dung xoay quanh hai món bảo
vật, kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long. Ông đã viết một
đoạn rất linh động về sự xuất hiện của thanh đao
khi giáo phái Thiên Ưng tụ họp quần hào "Dương
Đao Lập Uy" tại một hòn đảo hoang có tên là
Vương Bàn Sơn:
“... Bạch Qui Thọ đứng lên, lớn tiếng nói:
- Tệ giáo gần đây mới có được một thanh bảo đao,
tên gọi Đồ Long. Thường nghe rằng "Võ Lâm Chí
Tôn, Bảo Đao Đồ Long, Hiệu Lệnh Thiên Hạ, Mạc Cảm
Bất Tòng[1]".
Y nói đến đây, đưa đôi mắt sáng quắc quét từ tả
qua hữu khắp một lượt toàn trường. Thân hình y không
to lớn, nhưng tiếng nói hưởng lượng, mục quang sắc
bén, khiến cái uy nghiêm làm mọi người đều e sợ.
Y ngừng lại một chút, nói tiếp:
- Ân giáo chủ của tệ giáo muốn gửi danh thiếp mời
các lộ anh hùng trong thiên hạ tới núi Thiên Ưng,
để đem bảo đao cho mọi người cùng xem. Ngặt vì làm
như thế phải trù hoạch mất nhiều thời gian cho chu
đáo, lại e rằng anh hùng các nơi không biết bảo
đao đã do tệ giáo làm chủ, nên mời bạn bè bằng hữu
các bang lộ Giang Nam tới chơi, để nhìn qua cho
biết.
Nói tới đây, y giơ tay khoát một cái. Tám tên đệ
tử trong số giáo chúng lớn tiếng đáp ứng, quay mình
đi vào một sơn động ở phía tây.
Mọi người yên chí là tám tên này sẽ vào trong hang
núi để đem đao ra, nên đều chăm chú nhìn theo. Nào
ngờ khi trở ra bọn họ đều cởi trần, khiêng một cái
đỉnh sắt lớn. Trong đỉnh một ngọn lửa cháy bừng
bừng, lên cao cả trượng. Cả tám tên đều phải đứng
khá xa, dùng gậy dài ghé vai khiêng, thở phì phò,
ỳ ạch để chiếc đỉnh trên bãi đất trống. Mọi người
bị lửa hắt vào mặt, đều cảm thấy nóng rát.
Đằng sau tám tên này lại có thêm bốn tên khác, hai
tên khiêng một chiếc đe thợ rèn, hai tên khác mỗi
tên mang một cái búa sắt.
Bạch Qui Thọ nói:
- Thường đàn chủ, xin mời dương đao lập uy.
Thường Kim Bằng đáp:
- Tuân lệnh.
Rồi quay lại nói lớn:
- Mang đao ra.
Hai tên đà chủ có thần lực, mới vừa biểu diễn vác
đá liền đi vào sơn động. Khi trở ra, một tên hai
tay bưng một cái bao dài, tên kia đi theo hộ vệ.
Giao cho Thường Kim Bằng xong, mỗi tên bước qua
một bên tùy giá. Thường Kim Bằng mở bao, lộ ra một
thanh đơn đao. Y cầm lên, nhìn quanh mọi người một
lần, rút đao ra khỏi vỏ, nói:
- Đây chính là võ lâm chí tôn Đồ Long bảo đao, xin
các vị nhìn cho kỹ.
Nói xong y đưa thanh đao lên ngang mặt, cử chỉ thật
cung kính...
... Cây tùng thứ nhất đổ làm thành một làn gió mạnh,
chỉ nghe liên tiếp những tiếng lách cách, lách cách
không dứt, những cây đại thụ còn lại cũng thi nhau
ngã xuống.
Thường Kim Bằng cười ha hả, vung thanh đao ném thẳng
vào đám lửa đang bừng bừng cháy trong đỉnh sắt ...
(Kim Dung, Ỷ Thiên Đồ Long Ký tập 1, Minh Hà Xã,
Hongkong 1978 tr. 186-8)
Cứ
theo truyền thuyết, kiếm có từ thời nhà Chu, đến
đời Xuân Thu Chiến Quốc thì cực thịnh. Thời này
là giai đoạn mà người Tàu mới tìm ra sắt, lại thêm
một số kỹ thuật mới được dùng trong việc luyện kim
nên khí cụ thời đó cứng hơn đồ đồng đời Thương Chu.
Thành thử nhiều kiếm đúc vào thời Xuân Thu, Chiến
Quốc được xưng là bảo kiếm. Những dật sự hoang đường
cũng từ đó mà nảy sinh. Đời Tiên Tần, kiếm không
những là một loại võ khí tùy thân còn là một loại
trang sức. Ngô Đạo Tử họa hình Khổng Tử, cũng có
đeo trường kiếm. Sang đời Tần Hán, hiệp khách và
giới sĩ đại phu đeo kiếm để thêm uy nghi. Vì thế
món võ khí này có một giá trị đặc biệt.
Kiếm vào thời đó ngắn hơn về sau. Người ta cho rằng
vì kiếm làm bằng đồng và kỹ thuật luyện kim còn
hạn chế nên nếu đúc kiếm dài sẽ dễ bị gãy, bị cong.
Chỉ về sau, khi kiếm được đúc bằng thép, lưỡi kiếm
mới mỏng và dài, mặc dù kiếm Tàu không dài và cong
như kiếm Nhật. Kiếm thời đồng khí lưỡi ngắn như
một con dao găm, có cán cũng ngắn, chưa được sử
dụng để cầm mà chỉ để đeo vào ngang thắt lưng, và
dần dần đến cuối thời đại đồ đồng mới thành cán
kiếm. Cán kiếm thường có ngấn để cầm cho dễ và khỏi
tuột.. Càng về sau, lưỡi kiếm cũng dài mà cán cũng
to thêm, lại có thêm kiếm cách chia đôi cán và lưỡi
kiếm. Cán thường bằng gỗ hay sừng, cũng có khi nạm
vàng bạc, ngọc ngà hoặc trạm trổ.
Đến
đời Đường, tiêu chuẩn mới được định là từ 70 đến
85 cm. Kiếm lại còn phân biệt thư (mái), và hùng
(trống). Hùng kiếm dài và lớn hơn thư kiếm. Bao
kiếm thường đúc bằng đồng hay làm bằng da.
Theo Việt Tuyệt Thư, Ngoại Truyện Ký Bảo kiếm, đời
Xuân Thu, Âu Trị Tử theo lệnh Việt Vương đúc năm
thanh kiếm: Thuần Quân, Trạm Lư, Thắng Tà (Hào Tào),
Ngư Trường, Cự Khuyết đều là những thanh kiếm nổi
danh gọt sắt như bùn (tước thiết như nê). Ba thanh
Thuần Quân, Trạm Lư, Thắng Tà là kiếm lớn, hai thanh
Ngư Trường, Cự Khuyết chỉ là đoản kiếm (chủy thủ).
Có người giỏi về coi kiếm là Tiết Chúc được vương
vời vào hỏi. Tiết Chúc mô tả là "nhìn màu sắc
đẹp đẽ như hoa phù dung mới nở, nhìn văn lý, sáng
rực như sao băng, (7) của Ngô vương Quang, tại Tương
Dương, Hồ Bắc đào được hai thanh kiếm của Ngô vương
Phù Sai, tại Hoài Nam, An Huy, đào được kiếm của
Thái Tử nước Ngô có tên là "Cô Phát Nhàn Phản"
kiếm. Về kiếm nước Việt, năm 1965 người ta đào được
tại Giang Lăng, Hồ Bắc hai thanh kiếm hết sức đặc
biệt, một thanh của Việt Vương Câu Tiễn, một thanh
của Việt Vương Châu Câu. Thanh kiếm của Việt Vương
Câu Tiễn đào được tại một ngôi mộ tại Vọng Sơn còn
nguyên như mới, rất sắc bén, đúc rất tinh xảo. Thanh
kiếm này dài 55.7 cm, trên cán có những vết khắc.
Kiếm cách (cái đai giữa lưỡi và chuôi kiếm), có
hoa văn, nạm ngọc xanh lam. Lưỡi kiếm có khắc sọc
hình quả trám, khắc 8 chữ lệ kiểu chân chim "Việt
Vương Cưu Thiển Tự Tác Dụng Kiếm[2]" (kiếm
của Việt vương Câu Tiễn tự làm lấy để dùng).(Dương
Hoằng, Văn Minh Đích Quĩ Tích, vol. 1, Trung Hoa
Thư Cục, Hongkong 1988 tr. 103).
Thanh
kiếm của Câu Tiễn không hoàn toàn thẳng mà gần cán
bản rộng hơn. Đến khoảng 2/3 thì vuốt nhỏ lại, thuôn
thuôn tới tận mũi. Nhìn hình dáng, thanh kiếm này
quả rất mỹ thuật, sống kiếm thẳng, và xem ra là
một loại vũ khí được chế tạo tinh mỹ, tiện dụng
trong chiến đấu. Thời Xuân Thu, kiếm chủ yếu dùng
để đâm thẳng, không phải để chém. Thanh kiếm của
Câu Tiễn đã nói lên được đặc trưng của thời đại
này và cũng cho chúng ta thấy thợ đúc kiếm 25 thế
kỷ trước đã có một trình độ cao. Năm 1973, thanh
kiếm này và bộ y phục bằng những mảnh ngọc đính
lại, dùng để quàn xác một vương tử thời Tây Hán
đã được trưng bày tại Nhật Bản. Cũng dịp này, Quách
Mạt Nhược, một thi nhân nổi tiếng của Trung Hoa
đã cảm khái một bài thơ như sau:
Việt Vương Câu Tiễn phá Ngô kiếm,
Chuyên lại dân công tự thác kim.
Ngân lũ ngọc y kim hựu thị,
Thiên thu bất hủ tượng nhân tâm.
(Kiếm của Việt vương Câu Tiễn phá Ngô,
Chính là do sức dân rèn đúc mà thành.
Áo ngọc, chỉ bằng bạc nay còn đây,
Nghìn năm không nát cái tấm lòng của người thợ)
Bài thơ ám chỉ là tuy Câu Tiễn đề là "tự tác
dụng kiếm" (tự rèn lấy mà dùng) nhưng thực
ra là do công lao của người thợ rèn, cũng như chiếc
áo ngọc kia, tuy cốt để bảo vệ cái thân thể của
người quyền quí khỏi hủ nát, nhưng còn lại cũng
chỉ là cái tấm lòng của người thợ thôi. Cũng nên
biết rằng Quách Mạt Nhược là một thi sĩ tả phái,
ông không khỏi có ý đề cao giới lao động trong một
xu hướng chính trị.
Những
binh khí chế tạo thời đó dĩ nhiên không phải chỉ
bảo kiếm mà thôi. Năm 1983, tại Giang Lăng, người
ta lại đào được một ngọn giáo (mâu) của Ngô Vương
Phù Sai, về phẩm chất và mỹ thuật cũng tương tự
như kiếm của Câu Tiễn. Mâu này dài 29.5 cm, có chuôi
để tra vào cán, sống mâu có một rãnh dài, hai bên
có khắc hình quả trám giống như Việt kiếm, cùng
với hai hàng chữ gồm 8 chữ "Ngô vương Phù Sai
tự tác dụng tạc" (lưỡi giáo của Ngô vương Phù
Sai).
Xem
như thế, quả thực đời Xuân Thu Chiến quốc, đất Ngô
Việt có kỹ thuật rèn đúc đồng sắt rất cao, và những
truyền thuyết về bảo kiếm không phải hoàn toàn chỉ
là huyền thoại. (Dương Hoằng, sđd tr. 104)
Đồ đồng của Trung Hoa là một hợp kim bao gồm đồng,
kẽm và chì. Có khi họ còn pha cả vàng, bạc. Mỗi
đời từ đời Thương (thế kỷ 16-11 trước TL), sang
đời Tây Chu (thế kỷ 11-8 trước TL), Xuân Thu (770-476
trước TL), họ lại phát triển những phương thức khác
nhau. Cuối đời Chiến Quốc, khi chuyển sang thời
đại đồ sắt, họ đã trải qua hàng ngàn năm kinh nghiệm
trong việc đúc đồ đồng, và áp dụng những kỹ thuật
đó vào việc đúc đồ sắt. Việc tìm ra những loại kim
khí mới cứng chắc hơn đồ đồng khiến cho họ càng
cố công rèn đúc những loại binh khí sắc bén mà họ
pha thêm những dật sự ky kỳ khởi nguyên của những
thanh bảo kiếm trong sử sách.
Vì sắt thép cứng chắc và cũng đàn hồi hơn đồng,
kiếm thép đã có thể đúc dài hơn. Năm 218 trước TL,
Trương Lương đã thuê người ám sát Tần Thủy Hoàng,
sử dụng một cái chùy nặng tới 160 pounds. Nhiều
ngôi chùa bằng sắt đúc cũng được xây, có bảo tháp
cao đến 78 feet, chia thành nhiều từng được đúc
rời rồi chồng lên nhau, đến nay vẫn còn. Võ Tắc
Thiên, vào thế kỷ thứ 7 đã cho xây một ngôi đền
cao 294 feet, ba tầng, trên cùng để một con phượng
hoàng bằng sắt, mạ vàng cao 10 feet. Bà cũng còn
đúc một cột trấn thiên đường kính 12 feet, cao 105
feet, đặt trên một cái bệ hình bát giác, chu vi
170 feet, cao 20 feet. Trên cùng là một tàn mây
cao 10 feet, chu vi 30 feet, bốn bên là 4 con rồng
bằng đồng, mỗi con 12 feet. Tất cả đều bằng sắt
và sách vở chép là lượng kim khí cả thảy 2 triệu
lượng, khoảng chừng 1325 tấn. Tác phẩm đúc bằng
sắt hiện nay còn tại Hồ Bắc là một con sư tử đời
vua Thế Tông nhà Hậu Chu (954 sau TL) đúc kỷ niệm
việc chinh phạt quân Liêu (Khiết Đan). Tượng này
nặng 40 tấn, cao 20 feet, dài 16 feet, rỗng ruột,
có bề dày từ 1.5 inch dến 8 inch. (Robert Temple,
Sđd tr. 44)
Kỹ
thuật mỗi ngày một thêm phức tạp, do kinh nghiệm
thực cũng có mà do tưởng tượng cũng có. Sách Thiên
Công Khai Vật thời Minh phân chia nhiều phương pháp,
nhiều kỹ thuật khác nhau trong việc rèn đúc đồng
sắt, bao gồm đúc đỉnh, đúc chuông, đúc búa, đúc
tượng, đúc súng, đúc kính, đúc tiền.
Theo sách vở, phương pháp của người Tàu rèn đúc
thường qua năm giai đoạn:
- tạo hình mẫu
- dùng hình mẫu chế tạo khuôn
- nấu chảy hợp kim, đổ vào khuôn
- đợi cho kim loại đông đặc, lấy ra khỏi khuôn
- chạm khắc hay tu sửa mặt ngoài
Các loại hợp kim pha trộn thông thường bao gồm sắt,
đồng, thiếc, vàng, bạc. Theo tài liệu ngày nay,
thép là sắt có chứa từ 0.1 đến 1.8% carbon, dưới
0.06% là sắt non mềm dễ uốn nhưng không cứng và
không đàn hồi, và trên 1.8% là gang, tuy cứng nhưng
dòn, dễ vỡ. Ở Âu Châu, thời kỳ đồ sắt bắt đầu từ
khoảng 1300 trước Công Nguyên nhưng ở Trung Hoa
dường như sắt chỉ thịnh hành vào khoảng thế kỷ thứ
7 trước TL. Trong Tả Truyện có viết, năm Chiêu Công
29 (tức Tây lịch 513 trước Thiên Chúa) Triệu Ưởng,
Tuân Dần nước Tấn dẫn quân xây thành đóng bên sông
Nhữ, xin được cấp cho một khối sắt (cổ thiết), dùng
lò đúc sắt (chú giới đỉnh) để rèn đúc khí giới.
Đây là chi tiết đầu tiên có trong sách vở về việc
đúc sắt. Sắt nếu chứa ít carbon (sắt và thép), chỉ
cần nung đỏ lên đã có thể dùng búa đập, rèn thành
hình. Nếu như có nhiều carbon (gang), lại cần phải
nấu chảy thành chất lỏng mới đúc được.
Các
nhà khảo cổ đều cho rằng trước khi tiến đến trình
độ đúc gang, nhân loại phải qua giai đoạn rèn sắt
(nung đỏ rồi đập cho thành hình). Cứ theo những
di chỉ thời Chiến Quốc khai quật được, cho tới thời
này người ta chưa đúc được gang nên mới chỉ đến
giai đoạn rèn sắt mà thôi. Tuy nhiên, khi khai quật
một số khí vật bằng sắt ở Hưng Long, tỉnh Hà Nam,
người ta lại đi đến kết luận là việc đúc sắt có
thể có trước, vì thừa kế được kỹ thuật đúc đồng
và làm đồ gốm, và kỹ thuật rèn sắt lại phát triển
sau. Nhiều học giả lại cho rằng cả hai kỹ thuật
đó đi song song với nhau, chứ kỹ thuật nọ không
phải là cha đẻ của kỹ thuật kia.
Phương bắc phát triển phương pháp rèn sắt, trong
khi phương nam lại phát triển kỹ thuật đúc đồng,
đúc sắt (Thiên Công Khai Vật, nguyên tác Tống Ứng
Tinh, Sái Nhân Hiền, Sái Quả Thuyên tuyển, Thời
Báo Văn Hóa, Đài Bắc 1987 trang 124-5)
.
Qua
đời Hán, người Tàu nghĩ ra ống bễ đôi (double-acting
single-cylinder piston-bellows), có thể quạt liên
tục nên nhiệt độ cao hơn loại bễ có từ thời Chiến
Quốc và đã biết cách pha trộn nhiều loại kim khí
khác nhau để gia tăng độ cứng và độ dẻo của kim
loại. Họ cũng khai thác quặng mỏ nên sản xuất được
nhiều và biết cách hàn hai loại thép cứng và mềm
với nhau để làm lưỡi kiếm hay các loại vũ khí, mặc
dù nhiều học giả cho rằng phát kiến này có thể bắt
nguồn từ khu vực Trung Á, sau truyền sang cả Đông
và Tây (The Cambridge Encyclopedia of China, Cambridge
University Press 1991 tr. 447-8).
Việc dùng các khuôn để đúc hàng loại những dụng
cụ, khí giới mà những nhà khảo cổ tìm được tại Sơn
Tây và Thiểm Tây, nhất là tại kinh đô nước Yên gần
Bắc Kinh, phối hợp với việc rèn thép đã khiến cho
đồ sắt trở nên thông dụng, và khí giới bằng thép
đã vượt trội các loại khí giới bằng đồng. Trong
khi đó, phải tới thời Trung Cổ, người Âu châu mới
biết đúc sắt, và việc luyện thép còn sau hơn nhiều.
Trung Hoa lại cũng là quốc gia nâng việc đúc sắt
lên hàng kỹ nghệ, nghĩa là vừa bỏ công để thực hiện
những cơ sở có tầm vóc lại tập trung công tác này
trong tay triều đình và ấn định tiêu chuẩn các loại
đồ sắt. Việc sản xuất qui mô đó đóng góp đáng kể
vào việc phát triển kinh tế cũng như binh bị. Đời
Hán, triều đình đã độc quyền sản xuất và phân phối
hai món hàng chính là đồ sắt và muối, ngoài thuế
má đánh trên nông phẩm để có đủ chi phí cho guồng
máy hành chánh và quân sự.
Vào
thế kỷ thứ 2 trước Tây Lịch, đã có ít nhất là 46
xưởng đúc sắt "quốc doanh" trên toàn nước
Tàu, và người ta đã tìm ra những khối quặng còn
sót lại nặng đến 25-30 tấn, một trọng lượng mà phải
đến thế kỷ thứ 18 Âu Châu mới đạt tới. Các loại
binh khí, cày cuốc, liềm ... đều có tiêu chuẩn nhất
định. Họ cũng chế tạo những lưỡi cày bằng thép,
gắn trên cán gỗ và chế ra những loại máy vừa khoan
lỗ, gieo hạt thay vì phải gieo lúa bằng tay, một
kỹ thuật mà sau này Âu Châu phải bắt chước. Phương
pháp thổi hơi nóng qua các khối thép lỏng để tinh
luyện kim loại cũng là một kỹ thuật phức tạp mà
người Tàu sử dụng từ 20 thế kỷ trước đây tương tự
như những lò luyện kim của Henry Bessemer hồi thế
kỷ thứ 19 (John Merson, The Genius That Was China,
The Overlook Press, NY 1990 tr. 21-22). Kỹ thuật
đúc ngày càng trở nên qui mô và phức tạp.
Về
phương pháp rèn sắt, người ta nung nóng cục sắt
lên rồi dùng búa đập cho thành hình thù vật mong
muốn. Theo sử sách, ngay từ trước công nguyên, người
Tàu đã tìm ra được cách tạo nên những lưỡi đao,
lưỡi kiếm rất cứng nhưng cũng bền chắc để không
bị gẫy khi chiến đấu. Việc pha trộn sắt và carbon,
cũng như thay đổi nhiệt độ để đúc kiếm là một công
phu hết sức phức tạp. Mọi loại kim khí đều cấu tạo
bởi những tinh thể giao kết với nhau, và bố cục
của những tinh thể này có ảnh hưởng đến cơ năng
của kim loại. Nếu rèn nhiều quá, tuy sắt có cứng
hơn nhưng lại dễ gẫy, tương tự như chúng ta bẻ một
sợi dây thép bằng cách bẻ qua, bẻ lại nhiều lần.
Vì thế việc đúc kiếm, người thợ phải đo lường được
tiến trình rèn sắt, không ít quá vì sắt chưa đủ
cứng, nhưng nếu rèn quá lâu, sắt trở thành dòn.
Hoặc cũng có phương pháp "quán cương"
nghĩa là dùng thép non ghép chung với thép già để
thành một khí cụ cứng nhưng vẫn dẻo.
Nhiều
học giả cũng đi đến kết luận là người Tàu cũng là
dân tộc đầu tiên biết rút carbon từ gang ra để có
được thép. Trễ lắm là thế kỷ thứ 2 trước TL, họ
đã biết nguyên tắc này và cũng nhờ đó mà sau này
vào thế kỷ thứ 19, Henry Bessemer đã theo để luyện
kim[3]. Việc loại trừ được carbon trong thép và
gang đã được áp dụng để có sắt non dùng trong việc
xây cầu và đúc ống dẫn nước.
Họ biết cách thổi hơi qua sắt nóng chảy mặc dù không
biết rằng họ đã làm công việc khử carbon -- decarburization,
mà họ gọi là bách luyện (Robert Temple The Genius
of China 3000 years of science, discovery and
invention, Prion Books 1998, London, tr. 50). Phương
pháp thứ hai dùng để luyện kim là trộn hai loại
sắt non và gang để thành thép cũng đã được họ thực
hiện từ thế kỷ thứ 5 sau TL. Nhiều sách vở đã đề
cập đến phương thức này một cách kỹ càng và gần
đây, tại xưởng chế tạo thép ở Corby bên Anh, người
ta đã thử nghiệm lại và thành công mỹ mãn.
Đến
nay, ngoài những phương pháp thông thường, ba phương
pháp tương đối cầu kỳ hơn đã được áp dụng để chế
tạo một thanh kiếm tốt. Phương pháp thông dụng nhất
là sau khi rèn xong, người ta nung lên một nhiệt
độ thấp rồi cho nguội từ từ (13)món vũ khí. Những
người sành coi kiếm chỉ cần nhìn nước thép, cấu
trúc của lưỡi kiếm là có thể định được tài nghệ
của người rèn kiếm.
Phương pháp thứ ba là đúc một thanh kiếm mà cái
lõi bằng sắt non, nhưng vỏ bao bên ngoài là thép
già. Đôi khi người thợ ráp nhiều loại thép có độ
cứng khác nhau, từ mũi kiếm, lưỡi kiếm, sống kiếm
phần kiếm gần tay cầm và chuôi kiếm, để đáp ứng
được vai trò và công năng của từng phần. Kỹ thuật
này khó hơn cả đòi hỏi một tài nghệ cao. Làm thế
nào để dán được một lớp mỏng trên phần sống kiếm,
trong khi lưỡi kiếm vẫn dày chắc là một công việc
tỉ mỉ và tinh vi. Nhiều người còn cho rằng muốn
cho hai loại kim loại khác nhau gắn liền được với
nhau, có khi phải đổ máu mới thành được. Huyền thoại
đó được Kim Dung miêu tả khi Minh giáo nối lại thanh
bảo đao bị gãy:
“Chàng (Trương Vô Kỵ) còn đang trầm ngâm, Chưởng
Kỳ Sứ của Nhuệ Kim Kỳ là Ngô Kình Thảo tiến lên
nói:
- Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ vốn xuất thân thợ
rèn, đã từng học qua phép đánh đao đánh kiếm, để
thuộc hạ làm thử, biết đâu không nối lại được bảo
đao, bảo kiếm như cũ.
Dương Tiêu vui mừng đáp lời:
- Thuật rèn kiếm của Ngô kỳ sứ thiên hạ vô song,
xin giáo chủ để y thử xem sao.
Trương Vô Kỵ gật đầu:
- Hai loại lợi khí này bị gãy quả thực đáng tiếc.
Ngô kỳ sứ nếu nối lại được thì còn gì bằng.
Ngô Kình Thảo quay sang nói với Liệt Hỏa Kỳ Sứ Tân
Nhiên:
- Rèn đao rèn kiếm, cốt nhất là ở sức lửa, nhờ Tân
huynh giúp cho một tay. Xem tình cảnh này, quân
Thát Đát nhất thời chưa đánh lên núi, hai anh em
ta làm ngay được chăng?
Tân Nhiên cười đáp:
- Cái gì chứ nhóm củi, đốt lửa thì vốn là nghề của
huynh đệ.
Lập tức hai người chỉ huy thuộc hạ, đắp ngay một
cái lò lớn, miệng lò rộng không đầy một thước. Ngô
Kình Thảo lấy mảnh mũi đao Đồ Long xếp vào, chỗ
gẫy ngay tại miệng lò. Nhiên liệu của Liệt Hỏa Kỳ
đã sẵn sàng, chẳng mấy chốc lửa đã bừng bừng bốc
lên. Ngô Kình Thảo tay phải đã đứt, chỉ còn lại
một cánh tay trái. Bên cạnh y để hơn một chục loại
binh khí khác nhau, mắt chăm chăm, mỗi khi thấy
lửa biến màu, lại đem một món binh khí ném vào để
xem sức nóng. Đợi đến khi lửa từ xanh biến thành
trắng, tay trái mới cầm kìm, kẹp mảnh thanh đao
Đồ Long còn lại chắp vào đầu bên kia để nung. Nửa
thân trên y để trần, đốm lửa bắn tung tóe lên người
nhưng dường như không cảm giác, vẫn hết tâm để vào
việc. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Rèn đao kiếm
tuy là việc nhỏ, nhưng cũng phải học tập nhiều,
bản lãnh lắm mới làm được. Nếu như loại thợ rèn
tầm thường, chỉ chịu nóng không cũng không nổi".
Bỗng nhiên lịch kịnh mấy tiếng, hai tên giáo chúng
kéo bễ ngã lăn xuống đất, bất tỉnh nhân sự. Tân
Nhiên và Liệt Hỏa Kỳ Chưởng Kỳ Phó Sứ lập tức xông
lên, gạt hai tên đó sang một bên, tự tay kéo bễ
thổi lửa. Hai người nội lực không phải là yếu nên
vừa sử kình quạt lò, lửa đã bốc lên, ngọn cao cả
trượng, cảnh tượng thật là đẹp mắt.
Độ tàn nửa nén hương, Ngô Kình Thảo bỗng kêu lên:
"Ối chà", tung mình nhảy vọt về phía sau,
mặt đầy vẻ thất vọng. Mọi người ai nấy kinh hãi,
nhìn lại trong tay y, thấy cái kềm đã bị nóng chảy,
méo mó không còn hình thù gì, còn thanh đao Đồ Long
vẫn không suy suyển. Ngô Kình Thảo lắc đầu:
- Thuộc hạ vô năng, thanh đao Đồ Long này quả thực
danh bất hư truyền!
Tân Nhiên và Chưởng Kỳ Phó Sứ tạm ngưng thổi bễ,
đứng lui sang một bên. Hai người áo quần ướt đẫm
mồ hôi, tưởng như vừa ở dưới nước trèo lên. Triệu
Mẫn bỗng nói:
- Vô kỵ ca ca, có phải Thánh Hỏa Lệnh đao Đồ Long
chặt không đứt phải không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Ừ, đúng vậy!
Trong sáu thanh Thánh Hỏa Lệnh, một thanh đã giao
cho Thuyết Bất Đắc cầm xuống núi để điều binh, nay
chỉ còn năm. Chàng lấy trong bọc ra, giao cho Ngô
Kình Thảo:
- Đao kiếm không hàn lại được, cũng chẳng quan hệ
gì. Thánh Hỏa Lệnh là vật chí bảo của bản giáo,
không thể để cho hư hỏng
Ngô Kình Thảo cúi mình tiếp lấy, đáp: "Xin
vâng lệnh!". Y thấy năm thanh Thánh Hỏa Lệnh
không phải sắt, cũng chẳng phải vàng, cứng rắn vô
cùng, nặng trình trịch, nên cúi đầu suy nghĩ.
Trương Vô Kỵ nói:
- Nếu thấy không ổn thì cũng đừng mạo hiểm làm gì.
Ngô Kình Thảo không trả lời, một hồi sau mới tỉnh
giấc trầm tư, đáp:
- Thuộc hạ quả là không phải, xin giáo chủ thứ tội.
Thánh Hỏa Lệnh này vốn là bạch kim trộn với huyền
thiết và cát kim cương đúc thành, lửa nóng không
làm chảy nổi. Thuộc hạ quả thật hồ nghi, không biết
khi xưa làm sao đúc được, cho nên suy nghĩ nhất
thời như mất cả hồn vía.
Triệu Mẫn liếc Trương vô Kỵ một cái, nhoẻn miệng
cười:
- Sau này giáo chủ sẽ có dịp sang Ba Tư để gặp một
nhân vật thật là quan trọng, lúc đó ngươi có thể
đi theo, hỏi các thợ đúc cao thủ của họ xem làm
cách nào.
Trương Vô Kỵ ngượng nghịu nói:
- Ta sang Ba Tư để làm gì?
Triệu Mẫn mỉm cười:
- Chuyện đó không nói ra được.
Lại quay sang Ngô Kình Thảo:
- Ngươi xem, trên Thánh Hỏa Lệnh còn có khắc hoa
văn và chữ. Dù có sắc bén như đao Đồ Long hay kiếm
Ỷ Thiên cũng không làm suy suyển được, thì những
đường nét, văn tự ấy làm sao đục thành?
Ngô Kình Thảo đáp:
- Muốn khắc hoa văn, văn tự không có gì khó. Chỉ
cần dùng sáp trắng phủ lên trên Thánh Hỏa Lệnh,
trên sáp khắc hình vẽ chữ, sau đó đem ngâm trong
cường toan, chỉ vài tháng sau sẽ ăn mòn. Sau đó
đem ra cạo hết sáp đi, các hình và chữ sẽ hiện ra.
Điều tiểu nhân không hiểu là làm sao nung cho chảy
được.
Tân Nhiên kêu lên:
- Thế thì có định làm không đây?
Ngô Kình Thảo hướng về phía Trương Vô Kỵ:
- Giáo chủ đừng ngại. Liệt hỏa của Tân huynh đệ
tuy ghê gớm thật, nhưng không tổn hại được Thánh
Hỏa Lệnh đâu.
Tân Nhiên trong lòng hơi sợ, vội nói:
- Tôi chỉ hết sức thổi lửa, nếu như làm hỏng Thánh
vật của bản giáo, thì không chịu tội đâu nhé.
Ngô Kình Thảo mỉm cười:
- Chỉ sợ ngươi không đủ nhẫn nại, có gì ta chịu
hết.
Nói rồi lấy hai miếng Thánh Hỏa Lệnh kẹp một nửa
thanh đao, sau đó dùng một chiếc kìm mới kẹp lấy
Thánh Hỏa Lệnh đưa bảo đao vào trong lò nung lần
nữa.
Lửa mỗi lúc một bốc lên cao, nung đến hơn nửa giờ,
chỉ thấy Ngô Kình Thảo, Tân Nhiên, Liệt Hỏa Kỳ phó
sứ ba người thấp thoáng trong ánh lửa, mỗi lúc một
thêm uể oải, xem chừng không còn chịu nổi.
Thiết Quan đạo nhân Trương Trung liếc mắt ra hiệu
cho Chu Điên, phất tay một cái, hai người cùng xông
lên nhảy vào thay cho Tân Nhiên và Liệt Hỏa Kỳ phó
sứ, ra sức kéo bễ. Trương Chu hai người nội lực
so với những người kia cao hơn nhiều, lửa trong
lò bốc vút lên thẳng một làn trắng xóa.
Ngô Kình Thảo bỗng dưng quát lớn:
- Cố huynh đệ, ra tay đi.
Chưởng kỳ phó sứ Nhuệ Kim Kỳ tay cầm dao nhọn, chạy
tới bên lò, chỉ thấy lấp lánh, đã giơ dao đâm thẳng
vào ngực Ngô Kình Thảo. Quần hùng đứng chung quanh
không khỏi thất sắc, đều lớn tiếng kêu la. Máu từ
trên bộ ngực trần của Ngô Kình Thảo phun ra tung
tóe trên thanh đao Đồ Long, gặp nóng lập tức bốc
lên một làn khói xanh khét lẹt. Ngô Kình Thảo la
lớn:
- Thành rồi.
Y lui lại mấy bước, ngồi phịch xuống đất, tay cầm
một thanh đao đen sì. Quả thực hai mảnh của đao
Đồ Long đã liền lại thành một. Mọi người bấy giờ
mới biết, mỗi khi những người thợ đúc đao rèn kiếm
không thành, phải nhỏ máu vào. Thời xưa, vợ chồng
Can Tương, Mạc Tà thậm chí phải nhảy vào lò, mới
đúc thành vô thượng lợi kiếm. Việc Ngô Kình Thảo
làm chính là theo phong cách của những người xưa
truyền lại.
Trương Vô Kỵ vội đỡ Ngô Kình Thảo lên, xem xét vết
thương, thấy dao đâm không sâu, chẳng có gì đáng
lo ngại. Chàng lấy kim sang rắc vào, dùng vải buộc
lại, nói:
- Ngô huynh việc gì phải làm như thế. Đao này nối
lại được hay không, không phải là quan trọng, đâu
đáng để Ngô huynh phải chịu khổ đến vậy.
Ngô Kình Thảo đáp:
- Vết thương nhỏ ngoài da thịt, có đáng gì để giáo
chủ phải lo lắng.
Y đứng dậy, cầm thanh đao Đồ long lên xem, thấy
liền lạc không dấu vết, chỉ lờ mờ một lằn máu nhỏ,
không khỏi mười phần đắc ý. Trương Vô Kỵ xem lại
hai thanh Thánh Hỏa Lệnh mới nung trong lò thấy
không suy tổn mảy may, yên chí tiếp lấy thanh đao
Đồ Long, chém xuống hai lưỡi mâu chàng vừa cướp
được của lính Mông Cổ, chỉ nghe một tiếng soẹt nhỏ,
hai món võ khí đứt ra làm đôi, đúng là chặt sắt
như bùn. (Kim Dung, Ỷ Thiên Đồ Long Ký, tập 4, Minh
Hà Xã, Hongkong, 1982 tr. 1601- 4)
Phép
tôi sắt (thối hay kiện) là sau khi rèn xong, kim
loại chưa cứng hẳn người thợ nhúng vào nước hay
dầu để cho thép cứng hơn. Tuy nhiên, nhiều khi phải
để cho nhiệt độ hạ từ từ vì nếu hạ quá nhanh, thanh
thép sẽ cứng nhưng dòn. Trong khi phương pháp đúc
kiếm có thể bị người khác bắt chước, phương pháp
tôi thép lại được giữ rất kín như một kỹ thuật bí
truyền. Tôi bằng dung dịch gì, độ nóng ra sao, cách
thức thế nào là những bí mật mà tượng nhân không
tiết lộ. Vì thế, họ ít cho ai xem cách họ tôi thép
như thế nào và việc tò mò tìm biết là một cấm kỵ,
nhất là đối với những thợ rèn Nhật Bản.
Đúc kiếm không phải chỉ là một kỹ thuật mà còn được
coi là một nghi lễ, nên không hiếm những truyện
thần kỳ về những thanh bảo kiếm. Người ta kể rằng
Can Tương khi đúc được hai thanh bảo kiếm, một âm
một dương, chỉ đem dâng lên Ngô Vương thanh âm kiếm,
giấu đi thanh dương kiếm. Khi bị truy nã, thanh
dương kiếm biến thành một con rồng xanh đưa Can
Tương bay mất. Nhiều thanh kiếm khi rút ra lại phải
uống máu người mới cho trở vào bao được. Tượng nhân
lại phải trai tịnh, kiêng cữ rượu và chuyện phòng
the, cầu đảo khi rèn đúc những thanh kiếm hay đồ
vật quí mà người ta cho rằng trở thành thần vật.
Tuy nhiên, không có sách vở nào chép về kỹ thuật
luyện kim và đúc đồng, sắt một cách chi tiết từ
thế kỷ thứ 10 trở về trước nên chúng ta không rõ
người xưa đã làm thế nào.
Theo
lịch sử, thời Xuân Thu Chiến Quốc, chiến tranh liên
tục mấy trăm năm, những tiểu quốc đều phải đặt nặng
vấn đề bố phòng chiến đấu. Khoa học quân sự phát
triển cũng chính vì liên quan trực tiếp đến sự sống
còn của một quốc gia. Trong khi những nước ở mạn
bắc và mạn tây nước Tàu chú trọng đến chiến xa do
ngựa kéo để di động nhanh trong những vùng thảo
nguyên và sa mạc, thì những nước tại đồng bằng lại
chú trọng đến phòng thủ, bộ binh và vũ khí ngắn
để chiến đấu trong những vùng núi rừng và trên sông
rạch. Tại những nước như Mân, Việt, Ngô càng ngày
vai trò của bộ binh càng quan trọng. Ngược lại,
tại các nước ở mạn bắc và tây như Thục, Tần, Ngụy,
Triệu thì kỵ binh vẫn là chính. Chính vì cận chiến
trở nên một vấn đề sinh tử, binh khí ngắn và nhẹ
để cho dễ mang theo, lại cần sắc bén và tiện dụng.
Kiếm chính là loại vũ khí có đủ các ưu điểm đó.
Vì thế hai nước đặt nặng việc chế tạo binh khí cho
bộ binh là Ngô và Việt, là những nước ở khu vực
đồng bằng. Cho đến nay, địa khu của hai nước này
vẫn là nơi đào thấy nhiều binh khí nhất. Những truyện
truyền kỳ cũng phát xuất từ đây. Kỹ thuật đúc kiếm
bằng đồng (thanh đồng kiếm) vẫn được truyền tụng
tới nay. Ngoài binh khí, kỹ thuật và một số mặt
khoa học xã hội cũng phát triển. Người ta đã biết
làm nỏ, kể cả liên châu tuy cồng kềnh hơn cung nhưng
có thể để một chỗ mà ngự địch. Cung dùng cho kỵ
binh nên phải gọn nhẹ, trong khi nỏ là một loại
cung dương sẵn, bao gồm cả việc phóng tên ra lẫn
kỹ thuật làm lẫy (thường là kim loại nên việc rèn
đúc phải đạt tới một trình độ khá cao mới có được,
truyện nỏ thần của ta cũng nói lên dân Việt đã biết
áp dụng kỹ thuật đúc đồng vào việc chế tạo vũ khí).
Trong Khảo Công Ký, có chép:
“Ngô Việt chi kiếm, biến hồ kỳ địa nhi phí năng
lương. (kiếm ở đất Ngô và đất Việt không những chỗ
nào cũng có mà lại tốt)
Cuối đời Chiến Quốc, người Trung Hoa đã phát triển
việc khai thác quặng mỏ, phối hợp việc đúc đồng
với đúc sắt và việc sử dụng vũ khí đã khá phức tạp.
Nhiều lò đúc mướn đến hơn 200 công nhân và nhiều
người trong kỹ nghệ này trở nên giàu có lớn, đóng
một vai trò quan trọng trong xã hội (Patricia B.
Ebrey, Illustrated History China, Cambridge University
Press, 1996 tr. 41).
Kỹ thuật đúc đồng đúc sắt của người Trung Hoa đã
có từ lâu. Cứ theo những khí cụ khai quật được,
và sử sách còn ghi chép, việc đúc đồng có từ thời
nhà Ân, Thương. Hiện nay trong viện bảo tàng của
Trung Hoa và nhiều nước khác còn trưng bày những
đồ đồng có từ thời kỳ này. Đầu thế kỷ 20, khi khai
quật những cổ tích vùng An Dương, đã tìm thấy những
phường đúc, cho biết một số phương thức kỹ thuật
đúc đồng thời kỳ ấy. Theo những di chỉ, hơn 2000
năm trước, người Trung Hoa đã đúc được những khí
vật rất tinh xảo, và có thể nói là nhất thế giới.
Từ kỹ thuật đúc đồng, người Tàu đã tiến sang kỹ
thuật đúc các kim loại khác, nhất là sắt. Việc đúc
các khí cụ bằng sắt một cách qui mô đã trở nên một
kỹ nghệ quan trọng của Trung Hoa hồi thế kỷ thứ
tư trước Tây Lịch (Jacques Gernet, Le Monde Chinois
A History of Chinese Civilization, trans. By J.R.
Foster, Cambridge University Press, 1986 trang 28).
Trong khi nhiều dân tộc khác phải mất một thời gian
dài, có khi hàng mấy nghìn năm cách khoảng giữa
thời điểm tìm ra sắt đến khi biết cách đúc và rèn
kim loại thì người Tàu gần như không bị trở ngại
đó. Không những họ nắm vững kỹ thuật nấu và đúc
bằng khuôn, mà còn biết cách pha các kim loại, thêm
hay bớt carbon để có những loại thép có độ cứng
khác nhau, đồng thời lại tìm cách giảm thiểu cái
bất lợi của chất thép khi quá nhiều than để thành
gang tuy cứng nhưng hóa dòn. Theo những khai quật
mới đây ở Giang Tô (Trình Kiều), người ta đã đào
được một khối gang từ cuối thời Xuân Thu, tính ra
người Trung Hoa đi sớm hơn các dân tộc Âu Châu đến
gần 2000 năm, mặc dầu người Âu biết dùng sắt trước.(Trung
Quốc Đích Thế Giới Đệ Nhất, Thiểm Tây 1987 tr.228)
Nhiều học giả đã đặt câu hỏi tại sao người Trung
Hoa lại biết đúc sắt sớm như thế. Một số yếu tố
được đưa ra làm giả thuyết cho sự phát triển này.
Thứ nhất, nước Tàu có những loại đất sét tốt dùng
làm vách cho những lò luyện kim.
Người Tàu lại biết cách đưa độ nóng chảy của quặng
sắt xuống thấp để việc đúc được thuận tiện hơn.
Họ cho vào lò chất gọi là "đất đen", chứa
nhiều phốt phát sắt (iron phosphate, một loại hợp
chất màu vàng khoa học gọi là lân toan thiết). Nếu
cho vào khoảng 6% lân tinh (phosphorus) vào hỗn
hợp sắt, độ nóng chảy của sắt thay vì là 11300C
sẽ chỉ còn là 9500C. Kỹ thuật này được áp dụng cho
tới tận thế kỷ thứ 6 sau TL, cho tới khi họ đã tìm
được cách làm nóng chảy sắt mà không phải pha chất
lân tinh. Than đá cũng được sử dụng từ lâu, vào
khoảng thế kỷ thứ 4 sau Công Nguyên hay trước nữa.
Việc luyện kim trước đây do một số giòng họ bí truyền,
nhưng tới đời Hán (119 BC) tất cả đều bị xung công
và biến thành những cơ quan độc quyền của triều
đình. Chính sự phát triển trong ngành luyện kim
đã đưa đến những tiến bộ trong nông nghiệp, việc
sử dụng lưỡi cày một cách rộng rãi hơn và phát minh
thêm nhiều nông cụ khác. Ngoài các loại búa, dao,
đục, cưa người ta còn tìm thấy những nồi và cả những
tượng bằng sắt trong những mộ đời Hán. Từ kỹ thuật
dát sắt, người Tàu lại biết cách khai thác muối
và khí đốt (Robert Temple, sdd. tr. 42-43)
Tuy các vùng duyên hải và các dân tộc Ngô Việt có
một nền văn minh sớm hơn những khu vực khác nhưng
cũng sớm tàn lụi, cái tàn lụi thường có sau một
thời bình trị. Việt diệt Ngô rồi sau lại bị Sở diệt.
Sở là một quốc gia ở vùng Ba Thục, hiếu chiến, luôn
luôn dòm ngó trung nguyên. Chính vì thế, những bảo
kiếm, đồng kiếm của Ngô Việt đều nằm trong các cổ
mộ của Sở chứ không phải tại bản quốc, có lẽ là
chiến lợi phẩm mà các vương tôn nước Sở tịch thu
khi xâm chiếm hai nước này và rất được ưa chuộng
nên chôn theo trong mộ mình. Có ngôi tìm thấy được
hơn ba mươi thanh kiếm. Điều này cũng dễ hiểu vì
Sở, Tần vốn dĩ là những dân tộc miền rừng núi Tây
Vực, tuy thiện chiến nhưng văn minh đi sau các quốc
gia vùng đồng bằng, điển hình là những dân tộc ven
biển như Nam Việt, Mân Việt. Sterling Seagrave,
một tác giả nổi tiếng chuyên viết về Trung Hoa,
đã khẳng định rằng những người thuộc các bộ tộc
Việt miền nam sông Dương Tử, từ thời Tần Hán về
sau đã là nạn nhân của nhiều vụ xâm lăng có tính
diệt chủng của người Tàu phương Bắc, phương Tây
và nhiều cuộc di cư qui mô đã đưa những người dân
tháo vát, thông minh nhưng hiếu hòa này xuống vùng
Đông Nam Á, kể cả Đài Loan, Philippines tạo thành
một tầng lớp thương nhân có sức mạnh kinh tế vô
cùng to lớn. Thuyết của Seagrave có nhiều điểm tương
đồng với thuyết cho rằng dân tộc Việt Nam cũng khởi
nguyên từ vùng hạ lưu sông Dương Tử. (The Invisible
Empire of the Overseas Chinese: Lord of the Rim,
Children of Yueh, G.P. Putnam's Son, 1995)
Ở
nước ta, truyền thuyết về bảo đao bảo kiếm ít người
nói tới. Những bảo kiếm trong lịch sử Việt Nam phần
lớn không nói tới sự sắc bén mà nói tới giá trị
pháp lý, tượng trưng cho một triều đại hay uy quyền.
Thượng Phương bảo kiếm là kiếm mà nhà vua thường
ban cho đại thần cái quyền tiền trảm hậu tấu (giết
người trước rồi tâu vua sau, như một ủy thác toàn
quyền hành động không giới hạn) khi thống lãnh binh
đội đi dẹp giặc. Thanh kiếm của triều Nguyễn có
chuôi nạm ngọc, lưỡi bằng thép, vỏ kiếm có khắc
"Khải Định niên chế" và "Trọng Kim
Tứ Lạng Thất Ngũ Phân" (trọng lượng 4 lạng
7 chỉ 5 phân). Thanh kiếm này cùng với ấn của triều
Nguyễn được trao lại cho chính quyền Việt Minh năm
1945 khi vua Bảo Đại thoái vị. Về sau người Pháp
lại tìm thấy và trả lại cho Cựu Hoàng. Hiện nay
không biết ở đâu, nhưng nhiều người cho rằng do
Thái Tử Bảo Long thủ quản (Lê Văn Lân, Chiếc Bảo
Ấn cuối cùng của Hoàng Đế Việt Nam, Làng Magazine,
1998 tr. 18-26).
Kiếm của ta cũng khác của Tàu. Trong khi kiếm Trung
Hoa là loại hai lưỡi, kiếm của Việt Nam lại giống
như một con dao dài, một bên là lưỡi, một bên là
sống, đầu hơi cong lên, và thường được gọi là gươm
hay quất. Gươm chủ yếu để chém trong khi kiếm lại
dùng để đâm. Khi sử dụng làm võ khí, nếu dùng một
thanh kiếm thì gọi là đơn kiếm, nếu sử dụng hai
tay hai thanh kiếm thì gọi là song kiếm. Nhiều môn
phái của Trung Hoa có những đường kiếm nổi danh,
hoặc luyện tập cá nhân hay dùng trong trận thế.
Hiện nay trên núi Võ Đương người ta vẫn còn tập
những bài kiếm trận. Trong dân gian kiếm thường
chỉ được dùng như một cánh tay nối dài chẳng hạn
như trong bài Thái Cực Kiếm.
[1] thanh đao Đồ Long là vật cao quí nhất trong
võ lâm, hiệu lệnh thiên hạ, không ai dám không theo
[2] Cưu Thiển là chữ cổ, nay đọc là Câu Tiễn
[3] Theo sử sách Bessemer đã học cách của William
Kelly, mà ông này lại học cách làm thép từ 4 chuyên
gia Trung Hoa đến Kentucky năm 1845 để trình bày
phương pháp cổ truyền của họ.
T ÀI LIỆU THAM KHẢO
Bottomley I & A P Hopson, Arms and Armor of
the Samurai; The History of Weaponry in Ancient
Japan, Crescent Books, NY 1996
Cotterell, Arthur, China: A Cultural History, Mentor
Book, 1988
Dương Hoằng, Văn Minh Đích Quĩ Tích, Trung Hoa Thư
Cục, Hongkong 1988
Dương Kim Đỉnh, Trung quốc văn hóa sử đại từ điển,
Viễn Lưu, Đài Loan 1990
Ebery, Patricia Buckley, Cambridge Illustrated History:
China, Cambridge University Press, 1996
Hoàn Hoa Bách Khoa Toàn Thư (Pan-Chinese Encyclopedia)
vol. 5, 11 Đài Bắc 1982
Jacques Gernet, A History of Chinese Civilization
(trans. Le Monde Chinois by J.R. Foster), Cambridge
University Press, 1986
Kim Dung, Ỷ Thiên Đồ Long Ký (1-4), Minh Hà Xã,
Hongkong 1978
Lê, Văn Lân, Chiếc Bảo Ấn Cuối Cùng Của Hoàng Đế
Việt Nam, Làng, California 1998
Lu Hsun, Selected Stories of Lu Hsun, Ngoại Văn
Xuất Bản Xã, Bắc Kinh, 1978
Merson, John, The Genius That Was China,The Overlook
Press, NY 1990
Temple, Robert, The Genius of China, 3000 years
of Science, Discovery and Invention, Prion Books
Limited, London 1991
The Cambridge Encyclopedia of China, Brian Hook
editor, Cambridge University Press, 2nd Ed. 1991
Tống, Ứng Tinh, Thiên Công Khai Vật (Sái Nhân Hiền
tuyển) Thời Báo, Đài Bắc 1983
Trung Hoa Nhi Đồng Bách Khoa Toàn Thư, vol. 8, Bộ
Giáo Dục, Đài Loan, 1983
Trung Quốc Lịch Sử Từ Điển, Trương Tác Huy chủ biên,
Văn Hóa, Bắc Kinh 1991
Trung Quốc Thế Giới Đệ Nhất, Nhân Dân xb, Thiểm
Tây, 1988