Thân Hữu Tiếp Tay...
Bài Post Cuối Ngày : Những cái nón cối đi qua đời tôi - Nguyễn Bá Chổi
( HNPĐ ) Nhiều thứ nón đã đi qua đời tôi, như Phớt, Trai, Nồi, Rừng, Trận, Nhựa, Sắt, Lá... nhưng Cối để lại trên đầu tôi nhiều dấu ấn nhất. "Hiện tượng" nhiều dấu ấn nhất về nón Cối
( HNPĐ ) Nhiều thứ nón đã đi qua đời tôi, như Phớt, Trai, Nồi, Rừng, Trận, Nhựa, Sắt, Lá... nhưng Cối để lại trên đầu tôi nhiều dấu ấn nhất. "Hiện tượng" nhiều dấu ấn nhất về nón Cối, phải chăng cũng chỉ là lẽ tự nhiên, như nỗi lòng thiếu phụ nhớ lại mối tình đầu thuở trước, vì Cối là “người” đầu tiên đi qua đời tôi, hay vì đó là cái duyên nợ đã vận vào thân.
Ngày ấy, sau Chiến Thắng Điện Biên Phủ một thời gian không lâu, quê tôi, làng Yên Phú bên bờ Sông La, lần đầu tiên đón tiếp các chú Bộ đội Cụ Hồ về đóng quân tại nhà dân. Đó cũng là lần đầu tiên tôi được thấy tận mắt cái nón cối.
“Chiến thắng Điện Biên, Bộ đội ta kéo quân trở về, giữa mùa hoa nở”. Nghe các chú ấy hát, tôi hình dung những cái nón cối nhấp nhô trên đường phố Hà Nội giữa tiếng reo hò của đồng bào Thủ Đô, thấy oai phong lẫm liệt hùng tráng làm sao; bây giờ hồi tưởng laị cảm xúc lúc ấy, tôi chỉ biết mượn mấy chữ của nhà văn Hoàng Hải Thủy để diễn tả ra đây nỗi lòng mình: “cảm khái cách gì”.
Các chú bộ đội phân tán từng nhóm ba người, ở hẳn trong hầu hết nhà dân; nhà tôi không “được” vinh dự ấy,nhưng bù lại, nhà bác tôi bên cạnh là nơi tôi được gặp các chú hằng ngày.
Năm ấy tôi là đứa bé lên mười, nhưng có lẽ “nhờ” sớm thấm đòn máy bay Pháp thường xuyên đánh phá: phải đến trường giữa đêm khuya ; ban ngày thì luôn trong tư thế chạy xuống hầm do anh em tôi đào dưới những gốc cây cổ thụ chung quanh vườn để tránh bom đạn; phải trải qua bao kinh hoàng khi nghe tiếng khu trục cơ gầm rú, tiếng bom nổ và những đám cháy ở làng trên xóm dưới và bên kia sông; lâu lâu phải chứng kiến xác người chết do máy bay trương sình đang lềnh bềnh trôi hoặc tấp vào bờ trông thấy mà rờn rợn..., nên chi sớm “giác ngộ” công ơn các chú bộ đội đã hy sinh xương máu, chiến đấu gian lao để xứ sở được hòa bình, mọi người trở lại sinh hoạt bình thường với đầy đủ quyền làm người như lời Bác Hồ mượn của ai ghi lại trong Tuyên Ngôn Độc Lập của nước ta.
Ngoài cái công ơn ấy, cách ăn ở của các chú bộ đội khiến bọn con nít có đứa nào lại không thích.Chú này làm cho con diều dấy; chú kia đẽo cho cái vụ gỗ; chiều chiều được các chú dắt ra tắm ngoài sông, đứa thì được tập bơi, đứa được các chú cho đứng trên vai nhảy cái ùm xuống nước. "Yêu ai yêu cả tông chi họ hàng", tôi yêu chú bộ đội, nên yêu luôn cái nón Cối.
“Tình yêu nón cối” của tôi đã không qua mắt mẹ tôì dù bà luôn đi sớm về tối với đôi quang gánh trên vai lo việc buôn bán nơi chợ bên kia song. Bà đã giắt hai anh em tôi đi chợ Huyện sắm cho mỗi đứa một cái nón Cối và một đôi dép Lốp (sau này được biết còn gọi là dép Bình Trị Thiên hay dép Râu). Cái món thời trang quý hiếm này, hai anh em tôi may mắn có sớm nhất trong làng khiến những đứa khác trầm trồ càng làm tôi hãnh diện, rồi từ đó hay có cớ này cớ kia để xỏ dép râu, chụp nón cối đi xenh xang ngoài đường.
Nhưng rồi ngày vui qua mau. Làng bỗng xuất hiện một tốp người lạ cũng đội nón Cối mang dép râu, quần áo màu nâu , vai mang cái xắc cốt dây dài thượt... Rồi bổng dưng không lâu sau đó dân làng người nhìn nhau xa lạ, kẻ nói nhau xầm xì, và những cuộc đấu tố... Bữa ăn cơm phải đóng kín cửa và nghe mẹ dặn "nay con phải gọi cá bằng cà, thịt bằng dưa. Nhớ nha con, không thì chết cả nhà".
Đóng kín cửa lúc ăn cơm ,ngụy trang tiếng gọi cho miếng thịt, gắp cá vẫn chưa đủ để khỏi chết cả nhà, nên thầy mẹ tôi đã giắt con cái trốn khỏi làng Yên Phú ra đi giữa đêm khuya. Trời sáng trăng, tôi nhìn sang nhà người bác lo sợ các chú bộ đội thức giấc bắt gặp, trước khi lên được thuyền bà Ph. Đang chờ ngoài bãi.
Tôi như con chim phải rời tổ bay đi, và đã tìm được chốn đất lành. Nhưng chẳng được bao lâu lại gặp “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”. Những cái nón cối lại nhấp nhô trên đường mòn HCM. Tôi, cậu bé ngày nào mân mê cái nón cối giờ đã khôn lớn, ra trận đối đầu với đoàn quân “GPMN”, đầu óc lẫn vẩn với ý nghĩ biết đâu trong đó lại chẳng có chú bộ đội giải phóng Điện Biên một thời tôi quấn quýt.
Đội cái nón sắt made in USA trên đầu để tránh đạn AK, B,40, 41, đại pháo và hỏa tiển sản xuất từ Tiệp Khắc, Hung gia Lợi, Liên Xô... từ tay người anh em với cái nón Cối chế tạo tại Trung Quốc chụp trên đầu, đã nhiều lần tôi thèm được trở lại cậu bé năm xưa tránh bom đạn giặc Pháp bằng cách chạy xuống hầm dưới gốc cây...
Quy luật của chiến tranh là chỉ có chiến thắng trong thế công. Trong cuộc “hai mươi năm nội chiến từng ngày” trong kho tàng “Gia tài của Mẹ” vừa qua, Nón Sắt luôn ở thế thủ, nên đã thua nón Cối. Trong nhiều năm làm “Tù Binh Ngụy”, rồi đổi tên thành “Phạm Nhân”, rồi “Trại Viên”, đã bao lần tôi nhận “được” từ dưới cái nón Cối những ánh mắt gầm gừ vì đủ thứ “tội”, chẳng hạn có lần cùng hai bạn tù (Đ/Úy CVN và Đ/Úy BN) sau một ngày xách nước dưới suối lên tưới rau mệt lả, đói quá, gặp cơn mưa dông kéo đến , “cướp thời cơ” “cải thiện linh tinh” mấy cọng rau rừng chưa kịp nuốt khỏi cổ họng thì quản giáo đội mưa đến rình bắp gặp quả tang … nay đã gần bốn chục năm rôì mà y như còn đứng đó trước mặt với đôi mắt loài ác thú hàm răng mã tấu nghiến lại như phát thành tiếng, nhưng tôi vẫn không chút ân hận trước kia mình đối xử tử tế với cán binh nón Cối từ Bắc vào bị bắt làm tù binh, mặc dầu trong trận đánh họ đã gây cho chúng tôi nhiều tổn thất sinh mạng.
Nón Cối đã đi qua đời tôi nhiều vô kể xiết. Nhưng nay giặc Tàu bên cạnh nguy hiểm hơn giặc Tây giặc Mỹ nhiều, các chú biến đi đâu cả. Chỉ thấy mấy chú đầu tóc chải láng bóng kéo nhau đi phủ phục phương bắc và hứa hẹn “hướng dẫn dư luận nhân dân Việt Nam để ổn định; và trong nước thì nón Cối của “chiến thắng Điện Biên, Bộ đội ta kéo quân trở về giữa mùa hoa nở” bị dấu nhẹm tông tích, thay bằng Băng Đỏ Dân Phòng, hay gậy gộc côn đồ để “giữ gìn hoà bình cho thủ đô”, cho anh Ba nhi nhô “bốn tốt” với “16 chữ vàng”. Hay chính các chú cũng đã bị rút ruột như ruột tượng đài chiến sĩ Điện Biên. Ruột Việt Nam?
Nguyễn Bá Chổi
( HNPĐ )
( HNPĐ ) Nhiều thứ nón đã đi qua đời tôi, như Phớt, Trai, Nồi, Rừng, Trận, Nhựa, Sắt, Lá... nhưng Cối để lại trên đầu tôi nhiều dấu ấn nhất. "Hiện tượng" nhiều dấu ấn nhất về nón Cối, phải chăng cũng chỉ là lẽ tự nhiên, như nỗi lòng thiếu phụ nhớ lại mối tình đầu thuở trước, vì Cối là “người” đầu tiên đi qua đời tôi, hay vì đó là cái duyên nợ đã vận vào thân.
Ngày ấy, sau Chiến Thắng Điện Biên Phủ một thời gian không lâu, quê tôi, làng Yên Phú bên bờ Sông La, lần đầu tiên đón tiếp các chú Bộ đội Cụ Hồ về đóng quân tại nhà dân. Đó cũng là lần đầu tiên tôi được thấy tận mắt cái nón cối.
“Chiến thắng Điện Biên, Bộ đội ta kéo quân trở về, giữa mùa hoa nở”. Nghe các chú ấy hát, tôi hình dung những cái nón cối nhấp nhô trên đường phố Hà Nội giữa tiếng reo hò của đồng bào Thủ Đô, thấy oai phong lẫm liệt hùng tráng làm sao; bây giờ hồi tưởng laị cảm xúc lúc ấy, tôi chỉ biết mượn mấy chữ của nhà văn Hoàng Hải Thủy để diễn tả ra đây nỗi lòng mình: “cảm khái cách gì”.
Các chú bộ đội phân tán từng nhóm ba người, ở hẳn trong hầu hết nhà dân; nhà tôi không “được” vinh dự ấy,nhưng bù lại, nhà bác tôi bên cạnh là nơi tôi được gặp các chú hằng ngày.
Năm ấy tôi là đứa bé lên mười, nhưng có lẽ “nhờ” sớm thấm đòn máy bay Pháp thường xuyên đánh phá: phải đến trường giữa đêm khuya ; ban ngày thì luôn trong tư thế chạy xuống hầm do anh em tôi đào dưới những gốc cây cổ thụ chung quanh vườn để tránh bom đạn; phải trải qua bao kinh hoàng khi nghe tiếng khu trục cơ gầm rú, tiếng bom nổ và những đám cháy ở làng trên xóm dưới và bên kia sông; lâu lâu phải chứng kiến xác người chết do máy bay trương sình đang lềnh bềnh trôi hoặc tấp vào bờ trông thấy mà rờn rợn..., nên chi sớm “giác ngộ” công ơn các chú bộ đội đã hy sinh xương máu, chiến đấu gian lao để xứ sở được hòa bình, mọi người trở lại sinh hoạt bình thường với đầy đủ quyền làm người như lời Bác Hồ mượn của ai ghi lại trong Tuyên Ngôn Độc Lập của nước ta.
Ngoài cái công ơn ấy, cách ăn ở của các chú bộ đội khiến bọn con nít có đứa nào lại không thích.Chú này làm cho con diều dấy; chú kia đẽo cho cái vụ gỗ; chiều chiều được các chú dắt ra tắm ngoài sông, đứa thì được tập bơi, đứa được các chú cho đứng trên vai nhảy cái ùm xuống nước. "Yêu ai yêu cả tông chi họ hàng", tôi yêu chú bộ đội, nên yêu luôn cái nón Cối.
“Tình yêu nón cối” của tôi đã không qua mắt mẹ tôì dù bà luôn đi sớm về tối với đôi quang gánh trên vai lo việc buôn bán nơi chợ bên kia song. Bà đã giắt hai anh em tôi đi chợ Huyện sắm cho mỗi đứa một cái nón Cối và một đôi dép Lốp (sau này được biết còn gọi là dép Bình Trị Thiên hay dép Râu). Cái món thời trang quý hiếm này, hai anh em tôi may mắn có sớm nhất trong làng khiến những đứa khác trầm trồ càng làm tôi hãnh diện, rồi từ đó hay có cớ này cớ kia để xỏ dép râu, chụp nón cối đi xenh xang ngoài đường.
Nhưng rồi ngày vui qua mau. Làng bỗng xuất hiện một tốp người lạ cũng đội nón Cối mang dép râu, quần áo màu nâu , vai mang cái xắc cốt dây dài thượt... Rồi bổng dưng không lâu sau đó dân làng người nhìn nhau xa lạ, kẻ nói nhau xầm xì, và những cuộc đấu tố... Bữa ăn cơm phải đóng kín cửa và nghe mẹ dặn "nay con phải gọi cá bằng cà, thịt bằng dưa. Nhớ nha con, không thì chết cả nhà".
Đóng kín cửa lúc ăn cơm ,ngụy trang tiếng gọi cho miếng thịt, gắp cá vẫn chưa đủ để khỏi chết cả nhà, nên thầy mẹ tôi đã giắt con cái trốn khỏi làng Yên Phú ra đi giữa đêm khuya. Trời sáng trăng, tôi nhìn sang nhà người bác lo sợ các chú bộ đội thức giấc bắt gặp, trước khi lên được thuyền bà Ph. Đang chờ ngoài bãi.
Tôi như con chim phải rời tổ bay đi, và đã tìm được chốn đất lành. Nhưng chẳng được bao lâu lại gặp “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”. Những cái nón cối lại nhấp nhô trên đường mòn HCM. Tôi, cậu bé ngày nào mân mê cái nón cối giờ đã khôn lớn, ra trận đối đầu với đoàn quân “GPMN”, đầu óc lẫn vẩn với ý nghĩ biết đâu trong đó lại chẳng có chú bộ đội giải phóng Điện Biên một thời tôi quấn quýt.
Đội cái nón sắt made in USA trên đầu để tránh đạn AK, B,40, 41, đại pháo và hỏa tiển sản xuất từ Tiệp Khắc, Hung gia Lợi, Liên Xô... từ tay người anh em với cái nón Cối chế tạo tại Trung Quốc chụp trên đầu, đã nhiều lần tôi thèm được trở lại cậu bé năm xưa tránh bom đạn giặc Pháp bằng cách chạy xuống hầm dưới gốc cây...
Quy luật của chiến tranh là chỉ có chiến thắng trong thế công. Trong cuộc “hai mươi năm nội chiến từng ngày” trong kho tàng “Gia tài của Mẹ” vừa qua, Nón Sắt luôn ở thế thủ, nên đã thua nón Cối. Trong nhiều năm làm “Tù Binh Ngụy”, rồi đổi tên thành “Phạm Nhân”, rồi “Trại Viên”, đã bao lần tôi nhận “được” từ dưới cái nón Cối những ánh mắt gầm gừ vì đủ thứ “tội”, chẳng hạn có lần cùng hai bạn tù (Đ/Úy CVN và Đ/Úy BN) sau một ngày xách nước dưới suối lên tưới rau mệt lả, đói quá, gặp cơn mưa dông kéo đến , “cướp thời cơ” “cải thiện linh tinh” mấy cọng rau rừng chưa kịp nuốt khỏi cổ họng thì quản giáo đội mưa đến rình bắp gặp quả tang … nay đã gần bốn chục năm rôì mà y như còn đứng đó trước mặt với đôi mắt loài ác thú hàm răng mã tấu nghiến lại như phát thành tiếng, nhưng tôi vẫn không chút ân hận trước kia mình đối xử tử tế với cán binh nón Cối từ Bắc vào bị bắt làm tù binh, mặc dầu trong trận đánh họ đã gây cho chúng tôi nhiều tổn thất sinh mạng.
Nón Cối đã đi qua đời tôi nhiều vô kể xiết. Nhưng nay giặc Tàu bên cạnh nguy hiểm hơn giặc Tây giặc Mỹ nhiều, các chú biến đi đâu cả. Chỉ thấy mấy chú đầu tóc chải láng bóng kéo nhau đi phủ phục phương bắc và hứa hẹn “hướng dẫn dư luận nhân dân Việt Nam để ổn định; và trong nước thì nón Cối của “chiến thắng Điện Biên, Bộ đội ta kéo quân trở về giữa mùa hoa nở” bị dấu nhẹm tông tích, thay bằng Băng Đỏ Dân Phòng, hay gậy gộc côn đồ để “giữ gìn hoà bình cho thủ đô”, cho anh Ba nhi nhô “bốn tốt” với “16 chữ vàng”. Hay chính các chú cũng đã bị rút ruột như ruột tượng đài chiến sĩ Điện Biên. Ruột Việt Nam?
Nguyễn Bá Chổi
( HNPĐ )
Bài Post Cuối Ngày : Những cái nón cối đi qua đời tôi - Nguyễn Bá Chổi
( HNPĐ ) Nhiều thứ nón đã đi qua đời tôi, như Phớt, Trai, Nồi, Rừng, Trận, Nhựa, Sắt, Lá... nhưng Cối để lại trên đầu tôi nhiều dấu ấn nhất. "Hiện tượng" nhiều dấu ấn nhất về nón Cối
( HNPĐ ) Nhiều thứ nón đã đi qua đời tôi, như Phớt, Trai, Nồi, Rừng, Trận, Nhựa, Sắt, Lá... nhưng Cối để lại trên đầu tôi nhiều dấu ấn nhất. "Hiện tượng" nhiều dấu ấn nhất về nón Cối, phải chăng cũng chỉ là lẽ tự nhiên, như nỗi lòng thiếu phụ nhớ lại mối tình đầu thuở trước, vì Cối là “người” đầu tiên đi qua đời tôi, hay vì đó là cái duyên nợ đã vận vào thân.
Ngày ấy, sau Chiến Thắng Điện Biên Phủ một thời gian không lâu, quê tôi, làng Yên Phú bên bờ Sông La, lần đầu tiên đón tiếp các chú Bộ đội Cụ Hồ về đóng quân tại nhà dân. Đó cũng là lần đầu tiên tôi được thấy tận mắt cái nón cối.
“Chiến thắng Điện Biên, Bộ đội ta kéo quân trở về, giữa mùa hoa nở”. Nghe các chú ấy hát, tôi hình dung những cái nón cối nhấp nhô trên đường phố Hà Nội giữa tiếng reo hò của đồng bào Thủ Đô, thấy oai phong lẫm liệt hùng tráng làm sao; bây giờ hồi tưởng laị cảm xúc lúc ấy, tôi chỉ biết mượn mấy chữ của nhà văn Hoàng Hải Thủy để diễn tả ra đây nỗi lòng mình: “cảm khái cách gì”.
Các chú bộ đội phân tán từng nhóm ba người, ở hẳn trong hầu hết nhà dân; nhà tôi không “được” vinh dự ấy,nhưng bù lại, nhà bác tôi bên cạnh là nơi tôi được gặp các chú hằng ngày.
Năm ấy tôi là đứa bé lên mười, nhưng có lẽ “nhờ” sớm thấm đòn máy bay Pháp thường xuyên đánh phá: phải đến trường giữa đêm khuya ; ban ngày thì luôn trong tư thế chạy xuống hầm do anh em tôi đào dưới những gốc cây cổ thụ chung quanh vườn để tránh bom đạn; phải trải qua bao kinh hoàng khi nghe tiếng khu trục cơ gầm rú, tiếng bom nổ và những đám cháy ở làng trên xóm dưới và bên kia sông; lâu lâu phải chứng kiến xác người chết do máy bay trương sình đang lềnh bềnh trôi hoặc tấp vào bờ trông thấy mà rờn rợn..., nên chi sớm “giác ngộ” công ơn các chú bộ đội đã hy sinh xương máu, chiến đấu gian lao để xứ sở được hòa bình, mọi người trở lại sinh hoạt bình thường với đầy đủ quyền làm người như lời Bác Hồ mượn của ai ghi lại trong Tuyên Ngôn Độc Lập của nước ta.
Ngoài cái công ơn ấy, cách ăn ở của các chú bộ đội khiến bọn con nít có đứa nào lại không thích.Chú này làm cho con diều dấy; chú kia đẽo cho cái vụ gỗ; chiều chiều được các chú dắt ra tắm ngoài sông, đứa thì được tập bơi, đứa được các chú cho đứng trên vai nhảy cái ùm xuống nước. "Yêu ai yêu cả tông chi họ hàng", tôi yêu chú bộ đội, nên yêu luôn cái nón Cối.
“Tình yêu nón cối” của tôi đã không qua mắt mẹ tôì dù bà luôn đi sớm về tối với đôi quang gánh trên vai lo việc buôn bán nơi chợ bên kia song. Bà đã giắt hai anh em tôi đi chợ Huyện sắm cho mỗi đứa một cái nón Cối và một đôi dép Lốp (sau này được biết còn gọi là dép Bình Trị Thiên hay dép Râu). Cái món thời trang quý hiếm này, hai anh em tôi may mắn có sớm nhất trong làng khiến những đứa khác trầm trồ càng làm tôi hãnh diện, rồi từ đó hay có cớ này cớ kia để xỏ dép râu, chụp nón cối đi xenh xang ngoài đường.
Nhưng rồi ngày vui qua mau. Làng bỗng xuất hiện một tốp người lạ cũng đội nón Cối mang dép râu, quần áo màu nâu , vai mang cái xắc cốt dây dài thượt... Rồi bổng dưng không lâu sau đó dân làng người nhìn nhau xa lạ, kẻ nói nhau xầm xì, và những cuộc đấu tố... Bữa ăn cơm phải đóng kín cửa và nghe mẹ dặn "nay con phải gọi cá bằng cà, thịt bằng dưa. Nhớ nha con, không thì chết cả nhà".
Đóng kín cửa lúc ăn cơm ,ngụy trang tiếng gọi cho miếng thịt, gắp cá vẫn chưa đủ để khỏi chết cả nhà, nên thầy mẹ tôi đã giắt con cái trốn khỏi làng Yên Phú ra đi giữa đêm khuya. Trời sáng trăng, tôi nhìn sang nhà người bác lo sợ các chú bộ đội thức giấc bắt gặp, trước khi lên được thuyền bà Ph. Đang chờ ngoài bãi.
Tôi như con chim phải rời tổ bay đi, và đã tìm được chốn đất lành. Nhưng chẳng được bao lâu lại gặp “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”. Những cái nón cối lại nhấp nhô trên đường mòn HCM. Tôi, cậu bé ngày nào mân mê cái nón cối giờ đã khôn lớn, ra trận đối đầu với đoàn quân “GPMN”, đầu óc lẫn vẩn với ý nghĩ biết đâu trong đó lại chẳng có chú bộ đội giải phóng Điện Biên một thời tôi quấn quýt.
Đội cái nón sắt made in USA trên đầu để tránh đạn AK, B,40, 41, đại pháo và hỏa tiển sản xuất từ Tiệp Khắc, Hung gia Lợi, Liên Xô... từ tay người anh em với cái nón Cối chế tạo tại Trung Quốc chụp trên đầu, đã nhiều lần tôi thèm được trở lại cậu bé năm xưa tránh bom đạn giặc Pháp bằng cách chạy xuống hầm dưới gốc cây...
Quy luật của chiến tranh là chỉ có chiến thắng trong thế công. Trong cuộc “hai mươi năm nội chiến từng ngày” trong kho tàng “Gia tài của Mẹ” vừa qua, Nón Sắt luôn ở thế thủ, nên đã thua nón Cối. Trong nhiều năm làm “Tù Binh Ngụy”, rồi đổi tên thành “Phạm Nhân”, rồi “Trại Viên”, đã bao lần tôi nhận “được” từ dưới cái nón Cối những ánh mắt gầm gừ vì đủ thứ “tội”, chẳng hạn có lần cùng hai bạn tù (Đ/Úy CVN và Đ/Úy BN) sau một ngày xách nước dưới suối lên tưới rau mệt lả, đói quá, gặp cơn mưa dông kéo đến , “cướp thời cơ” “cải thiện linh tinh” mấy cọng rau rừng chưa kịp nuốt khỏi cổ họng thì quản giáo đội mưa đến rình bắp gặp quả tang … nay đã gần bốn chục năm rôì mà y như còn đứng đó trước mặt với đôi mắt loài ác thú hàm răng mã tấu nghiến lại như phát thành tiếng, nhưng tôi vẫn không chút ân hận trước kia mình đối xử tử tế với cán binh nón Cối từ Bắc vào bị bắt làm tù binh, mặc dầu trong trận đánh họ đã gây cho chúng tôi nhiều tổn thất sinh mạng.
Nón Cối đã đi qua đời tôi nhiều vô kể xiết. Nhưng nay giặc Tàu bên cạnh nguy hiểm hơn giặc Tây giặc Mỹ nhiều, các chú biến đi đâu cả. Chỉ thấy mấy chú đầu tóc chải láng bóng kéo nhau đi phủ phục phương bắc và hứa hẹn “hướng dẫn dư luận nhân dân Việt Nam để ổn định; và trong nước thì nón Cối của “chiến thắng Điện Biên, Bộ đội ta kéo quân trở về giữa mùa hoa nở” bị dấu nhẹm tông tích, thay bằng Băng Đỏ Dân Phòng, hay gậy gộc côn đồ để “giữ gìn hoà bình cho thủ đô”, cho anh Ba nhi nhô “bốn tốt” với “16 chữ vàng”. Hay chính các chú cũng đã bị rút ruột như ruột tượng đài chiến sĩ Điện Biên. Ruột Việt Nam?
Nguyễn Bá Chổi
( HNPĐ )