Mỹ, Nhật Bản không ngại khai chiến nếu Trung Quốc manh động làm liều
VietTimes -- Những gì đang diễn ra hiện nay là
do Trung Quốc tin rằng đã trở nên đủ sức
mạnh đối trọng với Mỹ hoặc thậm chí vượt qua Mỹ. Câu hỏi hết sức quan
trọng đối với lãnh đạo Trung Quốc là làm sao có thể hất cẳng Mỹ và trật
tự khu vực do Mỹ dẫn đầu?, National Interest nhận định.
Trực thăng cánh xoay V-22 Ưng biển cất cánh từ tàu sân bay Mỹ Những
cuộc đụng độ gần đây ở Biển Đông giữa lực lượng hải quân Indonesia và
cảnh sát biển Trung Quốc đã tăng cường mối quan tâm chung đối khu vực.
Một số hoan nghênh quyết tâm của Indonesia trong việc bảo vệ toàn vẹn
lãnh thổ trên biển. Tuy nhiên một số vẫn băn khoăn về động cơ của Trung
Quốc trong việc kích động xung đột khu vực như vậy với Việt Nam,
Malaysia và Philippines. Làm thế nào để giải thích tại sao Trung Quốc
lại mạo hiểm dấn thân vào một cuộc chiến lớn có thể kéo theo sự can dự
của Mỹ vào việc tranh giành một nhúm đảo, đá?
Một vài người cho rằng các nước đang tranh giành quyền kiểm soát trữ
lượng dầu mỏ và khí đốt ở những vùng biển này. Nhưng có vẻ điều đó
không đúng với trường hợp này. Nhìn chung trong lịch sử hiện đại, các
nước lớn hiếm khi đánh nhau trong một cuộc chiến lớn để tranh giành các
nguồn lực kinh tế. Hay phải chăng vì “đường chín đoạn” ngang ngược của
Trung Quốc? Chắc chắn cần phải phân biệt các cách thức, phương tiện và
kết cục của các hiện tượng này. “Đường lưỡi bò” là phương tiện mà Trung
Quốc sử dụng để biện minh cho những chính sách tối hậu của mình. Nhưng
nó không giải thích được kết cục mà Trung Quốc muốn đạt được, do đó nó
không thể được sử dụng để lí giải cho động cơ của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Hãy nhìn lại thế chỉ XX. Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng phát khi
đế quốc Áo-Hung tuyên chiến và tấn công Serbia. Vậy có phải cuộc xâm
lược của đế chế Áo – Hung gây nên Thế chiến I? Không phải như vậy. Đúng
là đế quốc Áo – Hung phát động chiến tranh nhưng chắc chắn đó không phải
là nguyên nhân của cuộc chiến. Nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến này là
mối quan tâm của các nước lớn về trật tự khu vực thịnh hành ở châu Âu
và mong muốn thay đổi nó.
Người Đức (cùng với đế chế Áo – Hung) không thoải mái với việc thay
đổi cân bằng quyền lực nghiêng về phía liên minh Pháp – Nga- Anh. Họ
nhận ra sự thống trị của nước Đức trong trật tự châu Âu bị xói mòn và
tìm kiếm phương cách để đảo ngược xu hướng này. Pháp và Nga được cổ súy
bởi vị thế sức mạnh mới đạt được, đã từng bị nhục mạ trong trật tự do
Đức dẫn đầu trước đó và đã tìm cách để trừng phạt Đức cùng các đồng minh
của nước này.
Tương tự như Thế chiến I, Thế chiến II cũng khởi nguồn với cuộc xâm
lược Ba Lan của Hitle. Tuy nhiên, Ba Lan không phải là nguyên nhân sâu
xa của sự kình địch giữa Anh- Pháp và Đức dẫn đến leo thang thành chiến
tranh năm 1939. Mà là thực trạng Anh – Pháp lo lắng về sự chuyển dịch
cân bằng quyền lực theo hướng có lợi cho Đức và tìm cách ngăn chặn xu
thế này phát triển xa hơn. Quyết tâm đó cuối cùng đã dẫn đến cuộc chiến
vượt qua sự tồn vong của Ba Lan.
Theo National Interees, đơn giản có điểm chung giữa Serbia và Ba Lan
trước đây với biển Hoa Đông và Biển Đông hiện nay là chúng đều là sân
khấu cạnh tranh siêu cường. Nhưng chúng hoàn toàn không phải là nguyên
nhân của sự kình địch đó.
Mô phỏng cảnh quân đội Trung Quốc tấn công tiêu diệt hạm đội Mỹ của cư dân mạng Trung Quốc
Chiến
đấu cơ J-15 thử nghiêm trên tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc. Nước
này có kế hoạch tự đóng thêm hai tàu sân bay dựa trên thiết kế của tàu
Liêu Ninh
Để hiểu nguyên nhân của cuộc cạnh tranh Trung – Mỹ cần phải xem xét
lại lịch sử và bức tranh chiến lược của khu vực châu Á, hay đơn giản hơn
là trên Biển Đông. Sau thất bại của Đế quốc Nhật trong Thế chiến II, Mỹ
là siêu cường duy nhất có thể triển khai sức mạnh trong khu vực. Kể từ
đó, châu Á luôn nằm dưới trật tự khu vực do Mỹ dẫn đầu. Chỉ bằng một
phần nhỏ so với sức mạnh của Mỹ, các nước khác trong khu vực đều chấp
nhận vị thế bá chủ của Mỹ.
National Interest nhận định, những gì đang diễn ra hiện nay là do
Trung Quốc tin rằng đã trở nên đủ sức mạnh đối trọng với Mỹ hoặc thậm
chí vượt qua Mỹ để có thể phóng chiếu sức mạnh ở châu Á. Lịch sử đã
chứng minh rằng nước nào có sức mạnh, nước ấy có quyền lãnh đạo. Và với
sức mạnh mới đạt được, Trung Quốc muốn có vai trò lãnh đạo lớn hơn trong
khu vực.
Nhà lãnh đạo Singapore Lý Quang Diệu đã từng nhấn mạnh rằng Trung
Quốc đã thiết lập tầm nhìn của mình về việc thay thế Mỹ trở thành siêu
cường nổi trội quyết định trật tự ở châu Á. Tham vọng của Trung Quốc với
quyền lãnh đạo cao hơn trong khu vực thật không may lại gặp phải những
thách thức gay gắt từ phía Mỹ cũng như các nước lớn khác trong khu vực
như Nhật Bản và Ấn Độ.
Sau những tuyên bố chủ quyền ngày càng gia tăng của Trung Quốc, Mỹ đã
cho ra đời chính sách “xoay trục châu Á” (về sau được đổi tên là “tái
cân bằng”). Trong khi đồng minh của Mỹ là Nhật Bản đã diễn giải hiến
pháp, cho phép Tokyo chủ động hơn cả về chính trị lẫn quân sự ở bên
ngoài lãnh thổ. Ấn Độ về phần mình cho ra đời chính sách hướng Đông
trong khi cố gắng để củng cố sức mạnh hàng hải để ngăn chặn sự xâm nhập
của Trung Quốc vào Ấn Độ Dương.
Đối mặt với nguy cơ ngăn chặn, câu hỏi hết sức quan trọng đối với
lãnh đạo Trung Quốc là làm thế nào để Trung Quốc có thể hất cẳng Mỹ và
trật tự khu vực do Mỹ dẫn đầu khỏi châu Á?
Trung Quốc có vẻ tin rằng trật tự khu vực do Mỹ dẫn đầu dựa trên trật
tự an ninh chính trị khu vực do nước này tạo ra. Trật tự an ninh chính
trị này lại dựa vào hệ thống đồng minh khu vực của Mỹ bao gồm Nhật Bản,
Hàn Quốc, Úc, Philippines và Thái Lan. Hệ thống liên minh này cho phép
Mỹ tiếp cận các căn cứ tiền đồn, đảm bảo cho Mỹ khả năng nhanh chóng
triển khai sức mạnh trong khu vực bất cứ khi nào có khủng hoảng nổ ra.
Không có những căn cứ như vậy, Mỹ sẽ không thể triển khai lực lượng
một cách hiệu quả, và do đó sẽ chỉ có ảnh hưởng bên lề trong một cuộc
khủng hoảng. Việc giảm bớt khả năng đối phó của Mỹ đối với một cuộc
khủng hoảng khu vực đồng nghĩa với việc giảm đi rất nhiều ảnh hưởng của
Mỹ đối với trật tự khu vực.
Theo logic, phá vỡ hệ thống liên minh này sẽ dẫn tới sự đổ vỡ trật tự
khu vực do Mỹ lãnh đạo. Câu hỏi hiện nay là làm sao Trung Quốc có thể
phá vỡ hệ thống liên minh này?
Theo National Interest, liên minh về bản chất là một sự đảm bảo. Bằng
việc ký kết một liên minh, Mỹ đã bảo đảm với đồng minh của mình rằng
nước này sẽ giúp họ bảo vệ đất nước trong các cuộc khủng hoảng. Giống
như một công ty bảo hiểm thương mại, sự thành công của việc kinh doanh
phụ thuộc vào mức độ tín nhiệm của công ty. Miễn là các đồng minh của Mỹ
tin rằng Mỹ sẽ thực hiện lời hứa của mình, hệ thống liên minh này sẽ
được duy trì. Tuy nhiên nếu các đồng minh của Mỹ không tin vào những lời
hứa, nghi ngờ vào độ tin cậy của những lời nói này thì hệ thống liên
minh sẽ bị phá vỡ.
Cụm tác chiến tàu sân bay Mỹ thường trực tại Biển Đông thời gian gần đây, gửi thông điệp không thể nhầm lẫn tới Trung Quốc
Hệ quả lại nảy sinh một câu hỏi mới: Làm thế nào để Trung Quốc có thể
hủy hoại tín nhiệm của Mỹ đến mức mà có thể dẫn tới sự phá vỡ hệ thống
liên minh khu vực? Chắc chắn không có cách nào tốt hơn là làm giảm độ
tin cậy của một ai đó hơn là chứng tỏ rằng ai đó không đủ khả năng để
thực hiện lời hứa. Nói một cách khác, Trung Quốc phải chỉ ra cho các
đồng minh của Mỹ thấy rằng Mỹ sẽ không ở bên khi họ cần. Điều đó có
nghĩa là phải kích động một cuộc xung đột với các đồng minh của Mỹ, đảm
bảo rằng các nước này sẽ kêu gọi sự hỗ trợ từ Mỹ và cùng lúc đó đảm bảo
rằng Mỹ sẽ không thực hiện chính sách bảo hiểm của mình.
Đây là một trò chơi nguy hiểm. Trung Quốc phải nỗ lực hết sức để đảm
bảo rằng Mỹ sẽ không ủng hộ đồng minh của mình. Nếu không, Trung Quốc sẽ
phải đối mặt với một cuộc chiến với Mỹ - một tình huống nghiệt ngã cho
cả hai bên khi cả hai đều sở hữu vũ khí hạt nhân, National Interest cảnh
báo.
Nhat Lung chuyen