Kinh Đời
Bình Lê - Tại sao không được nghe đài địch?
Hồi nhỏ tôi thường thắc mắc với bố tại sao lại cấm nghe đài địch. Ông đưa ra rất nhiều giải thích khác nhau, nhưng tôi vẫn không thỏa mãn. Tôi chỉ băn khoăn nếu “muốn bắt cọp thì phải vào hang cọp” thì muốn thắng địch thì
Hồi nhỏ tôi thường thắc mắc với bố tại sao lại cấm nghe đài địch. Ông đưa ra rất nhiều giải thích khác nhau, nhưng tôi vẫn không thỏa mãn. Tôi chỉ băn khoăn nếu “muốn bắt cọp thì phải vào hang cọp” thì muốn thắng địch thì phải hiểu địch chứ. Như vậy, thì phải nghiên cứu, phân tích địch thì mới có giải pháp tốt để thắng địch, nếu không biết gì về địch thì làm sao thắng được địch?
Hồi nhỏ tôi thường thắc mắc với bố tại sao lại cấm nghe đài địch. Ông đưa ra rất nhiều giải thích khác nhau, nhưng tôi vẫn không thỏa mãn. Tôi chỉ băn khoăn nếu “muốn bắt cọp thì phải vào hang cọp” thì muốn thắng địch thì phải hiểu địch chứ. Như vậy, thì phải nghiên cứu, phân tích địch thì mới có giải pháp tốt để thắng địch, nếu không biết gì về địch thì làm sao thắng được địch?
Ngày nay câu hỏi này vẫn còn nguyên giá trị với tôi. Khi hỏi các nhà
nghiên cứu xã hội hàng đầu Việt Nam sao không nghiên cứu các chủ đề nóng
bỏng của xã hội, câu trả lời thường có là “không được đâu nhạy cảm
lắm”.
Nghe đài địch để bị xuyên tạc hay nghe đài địch để thêm thông tin? |
Xã hội dân sự là một chủ đề được bàn thảo khá nhiều trong các nhà trí
thức và vận động xã hội. Vào thế kỷ 18 và 19 ở Châu Âu, xã hội dân sự
xuất hiện trong bối cảnh thương mại phát triển và sự hình thành của nhà
nước hiện đại. Được coi là không gian của các quan hệ thị trường, xã hội
dân sự là một sự phát triển tích cực. Tương tự như vậy, khi Việt Nam
chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, các
quan hệ thương mại phát triển làm nền tảng cho xã hội dân sự phát
triển. Khi con người tự do hơn về kinh tế, không phụ thuộc vào nhà nước
như “thời tem phiếu” thì con người tự tổ chức cuộc sống dân sự của mình,
hình thành nên xã hội dân sự. Tuy nhiên, do khái niệm xã hội dân sự
được mang đến cho các lãnh đạo từ góc nhìn của các chiến sỹ an ninh nên
nhuốm màu “cách mạng lật đổ”. Chính vì vậy, xã hội dân sự trở thành một
chủ đề nhạy cảm, không được nhắc đến trên báo chí, và tất nhiên nghiên
cứu đồng nghĩa với phạm húy.
Gần đây báo chí đưa tin về nhiều vụ tự tử trong xã hội, từ các đại gia
vỡ nợ đến cộng đồng dân tộc thiểu số ở Bình Định. Bản thân tôi cũng biết
vài người đã phải tự tử vì không trả được nợ khi cơn bão vay lãi càn
quét qua xã hội Việt Nam. Rõ ràng việc nhiều người tự tử là một chỉ số
quan trọng phản ánh sự bất thường của xã hội. Cũng giống như một nghiên
cứu của Viện iSEE về tỉ lệ tự tử ở người đồng tính nữ cao gấp gần 30 lần
tỉ lệ tự tử ở lứa tuổi thanh niên chỉ ra hậu quả của kỳ thị và phân
biệt đối xử với nhóm người này. Nếu nghiên cứu sâu về hiện trạng và
nguyên nhân tự tử sẽ giúp chúng ta định hướng phát triển xã hội tốt hơn,
giải quyết những bức bối đẩy người dân vào con đường lựa chọn cái chết.
Tôi hỏi một cán bộ nghiên cứu xã hội học hàng đầu của một Viện nghiên
cứu hàng đầu của nhà nước sao không lấy đây làm đề tài nghiên cứu, tôi
cũng nhận được một câu trả lời quen thuộc “nhạy cảm lắm chú ạ, không làm
được đâu”.
Tương tự như vậy, những vấn đề liên quan đến định kiến kỳ thị với người
dân tộc thiểu số cũng bị coi là nhạy cảm nên các Viện khoa học nhà nước
không dám nghiên cứu. Nhiều người lý luận cho rằng pháp luật Việt Nam
nghiêm cấm mọi hình thức kỳ thị và phân biệt đối xử với người dân tộc
thiểu số, vì vậy nếu nghiên cứu thì giống như “vạch áo cho người xem
lưng”. Nếu nghiên cứu chỉ ra ở Việt Nam người dân tộc thiểu số vẫn bị
định kiến kỳ thị thì phản lại đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước,
đó là chưa kể có thể bị các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, làm
suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc. Tại sao một quốc gia có luật pháp cấm
kỳ thị và phân biệt đối xử? Câu trả lời đơn giản vì định kiến và kỳ thị
vẫn tồn tại trong xã hội và vì chúng ta muốn kiểm soát và xóa bỏ nó. Có
luật cấm kỳ thị không đồng nghĩa với việc kỳ thị sẽ biến mất, giống như
có luật hình sự không có nghĩa tội phạm sẽ hết. Nếu thực sự muốn xóa bỏ
định kiền và kỳ thị, bảo vệ quyền bình đẳng cho người dân tộc thiểu số
thì chúng ta phải nghiên cứu, tìm hiểu để đưa ra các giải pháp giải
quyết vấn đề triệt để chứ không phải vì “nhạy cảm” mà bỏ qua.
Một xã hội luôn vận động thì luôn có những vấn đề mới nảy sinh. Nếu các
nhà khoa học không đi tiên phong trong việc nghiên cứu, phân tích và đề
ra giải pháp đồng nghĩa họ tự phủ nhận sự tồn tại của mình. Nếu “không
được đâu nhạy cảm lắm” trở thành bùa chú để né tránh những vấn đề gai
góc của xã hội thì xã hội sẽ tiếp tục bị méo mó và nguyên nhân gốc rễ
của khủng hoảng không được giải quyết. Đã đến lúc Việt Nam cần thúc đẩy
tự do học thuật, các nhà nghiên cứu cần xông xáo đi đầu trong việc bàn
luận về các vấn đề bức xúc của xã hội. Khi đó, chúng ta mới không bị bỏ
lại phía sau xa hơn nữa với những rào cản “nhạy cảm lắm” do chính mình
tạo ra!
Bình Lê
(Diễn Ngôn)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Có miệng như không" - by / Trần Văn Giang (ghi lại).
- 100 năm sau vẫn bồi hồi "Tôi đi học" - by Minh Tự / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Nỗi Khổ Của Người Hà Nội" - by Nguyễn Thị Thương / Trần Văn Giang (ghi lại)
Bình Lê - Tại sao không được nghe đài địch?
Hồi nhỏ tôi thường thắc mắc với bố tại sao lại cấm nghe đài địch. Ông đưa ra rất nhiều giải thích khác nhau, nhưng tôi vẫn không thỏa mãn. Tôi chỉ băn khoăn nếu “muốn bắt cọp thì phải vào hang cọp” thì muốn thắng địch thì
Hồi nhỏ tôi thường thắc mắc với bố tại sao lại cấm nghe đài địch. Ông đưa ra rất nhiều giải thích khác nhau, nhưng tôi vẫn không thỏa mãn. Tôi chỉ băn khoăn nếu “muốn bắt cọp thì phải vào hang cọp” thì muốn thắng địch thì phải hiểu địch chứ. Như vậy, thì phải nghiên cứu, phân tích địch thì mới có giải pháp tốt để thắng địch, nếu không biết gì về địch thì làm sao thắng được địch?
Ngày nay câu hỏi này vẫn còn nguyên giá trị với tôi. Khi hỏi các nhà
nghiên cứu xã hội hàng đầu Việt Nam sao không nghiên cứu các chủ đề nóng
bỏng của xã hội, câu trả lời thường có là “không được đâu nhạy cảm
lắm”.
Nghe đài địch để bị xuyên tạc hay nghe đài địch để thêm thông tin? |
Xã hội dân sự là một chủ đề được bàn thảo khá nhiều trong các nhà trí
thức và vận động xã hội. Vào thế kỷ 18 và 19 ở Châu Âu, xã hội dân sự
xuất hiện trong bối cảnh thương mại phát triển và sự hình thành của nhà
nước hiện đại. Được coi là không gian của các quan hệ thị trường, xã hội
dân sự là một sự phát triển tích cực. Tương tự như vậy, khi Việt Nam
chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, các
quan hệ thương mại phát triển làm nền tảng cho xã hội dân sự phát
triển. Khi con người tự do hơn về kinh tế, không phụ thuộc vào nhà nước
như “thời tem phiếu” thì con người tự tổ chức cuộc sống dân sự của mình,
hình thành nên xã hội dân sự. Tuy nhiên, do khái niệm xã hội dân sự
được mang đến cho các lãnh đạo từ góc nhìn của các chiến sỹ an ninh nên
nhuốm màu “cách mạng lật đổ”. Chính vì vậy, xã hội dân sự trở thành một
chủ đề nhạy cảm, không được nhắc đến trên báo chí, và tất nhiên nghiên
cứu đồng nghĩa với phạm húy.
Gần đây báo chí đưa tin về nhiều vụ tự tử trong xã hội, từ các đại gia
vỡ nợ đến cộng đồng dân tộc thiểu số ở Bình Định. Bản thân tôi cũng biết
vài người đã phải tự tử vì không trả được nợ khi cơn bão vay lãi càn
quét qua xã hội Việt Nam. Rõ ràng việc nhiều người tự tử là một chỉ số
quan trọng phản ánh sự bất thường của xã hội. Cũng giống như một nghiên
cứu của Viện iSEE về tỉ lệ tự tử ở người đồng tính nữ cao gấp gần 30 lần
tỉ lệ tự tử ở lứa tuổi thanh niên chỉ ra hậu quả của kỳ thị và phân
biệt đối xử với nhóm người này. Nếu nghiên cứu sâu về hiện trạng và
nguyên nhân tự tử sẽ giúp chúng ta định hướng phát triển xã hội tốt hơn,
giải quyết những bức bối đẩy người dân vào con đường lựa chọn cái chết.
Tôi hỏi một cán bộ nghiên cứu xã hội học hàng đầu của một Viện nghiên
cứu hàng đầu của nhà nước sao không lấy đây làm đề tài nghiên cứu, tôi
cũng nhận được một câu trả lời quen thuộc “nhạy cảm lắm chú ạ, không làm
được đâu”.
Tương tự như vậy, những vấn đề liên quan đến định kiến kỳ thị với người
dân tộc thiểu số cũng bị coi là nhạy cảm nên các Viện khoa học nhà nước
không dám nghiên cứu. Nhiều người lý luận cho rằng pháp luật Việt Nam
nghiêm cấm mọi hình thức kỳ thị và phân biệt đối xử với người dân tộc
thiểu số, vì vậy nếu nghiên cứu thì giống như “vạch áo cho người xem
lưng”. Nếu nghiên cứu chỉ ra ở Việt Nam người dân tộc thiểu số vẫn bị
định kiến kỳ thị thì phản lại đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước,
đó là chưa kể có thể bị các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, làm
suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc. Tại sao một quốc gia có luật pháp cấm
kỳ thị và phân biệt đối xử? Câu trả lời đơn giản vì định kiến và kỳ thị
vẫn tồn tại trong xã hội và vì chúng ta muốn kiểm soát và xóa bỏ nó. Có
luật cấm kỳ thị không đồng nghĩa với việc kỳ thị sẽ biến mất, giống như
có luật hình sự không có nghĩa tội phạm sẽ hết. Nếu thực sự muốn xóa bỏ
định kiền và kỳ thị, bảo vệ quyền bình đẳng cho người dân tộc thiểu số
thì chúng ta phải nghiên cứu, tìm hiểu để đưa ra các giải pháp giải
quyết vấn đề triệt để chứ không phải vì “nhạy cảm” mà bỏ qua.
Một xã hội luôn vận động thì luôn có những vấn đề mới nảy sinh. Nếu các
nhà khoa học không đi tiên phong trong việc nghiên cứu, phân tích và đề
ra giải pháp đồng nghĩa họ tự phủ nhận sự tồn tại của mình. Nếu “không
được đâu nhạy cảm lắm” trở thành bùa chú để né tránh những vấn đề gai
góc của xã hội thì xã hội sẽ tiếp tục bị méo mó và nguyên nhân gốc rễ
của khủng hoảng không được giải quyết. Đã đến lúc Việt Nam cần thúc đẩy
tự do học thuật, các nhà nghiên cứu cần xông xáo đi đầu trong việc bàn
luận về các vấn đề bức xúc của xã hội. Khi đó, chúng ta mới không bị bỏ
lại phía sau xa hơn nữa với những rào cản “nhạy cảm lắm” do chính mình
tạo ra!
Bình Lê
(Diễn Ngôn)