Truyện Ngắn & Phóng Sự
Bờ Biển THUẬN AN - Pháp Trường Cát!
Mx Phạm Vũ Bằng.
Ngày 18/3/1975, Lữ Đoàn 258/TQLC di chuyển từ Quảng Trị về đèo Phước Tường, nằm trên QL.1, phía Bắc đèo Hải Vân để bảo vệ an toàn đoạn trục lộ nguy hiểm này hầu cho các đơn vị QLVNCH từ QT và Huế rút về Đà Nẵng. Trong thời gian này LĐ 258 đã giao tranh nhiều lần với địch nhưng vẫn giữ vững vị trí, bảo toàn trục lộ đèo Phước Tường để chờ các đơn vị bạn từ phía Bắc rút qua, nhưng cho đến sáng ngày 25/3 chúng tôi được lệnh rút khỏi đèo Phước Tường.
Lệnh này làm chúng tôi rất đỗi ngạc nhiên, bởi QL.1 đoạn chạy qua đèo PT là con đường bộ duy nhất tương đối an toàn để triệt thoái các đơn vị bạn phiá Bắc về ĐN, nếu bỏ đoạn đường này đi chẳng khác chi là “khai tử” họ!
Hay là thượng cấp đã có kế hoạch khác, đổi hướng ra biển Đông chăng? Tuy kinh ngạc nhưng là thuộc cấp, là y sĩ của LĐ và là đơn vị chuyên môn nên chúng tôi không có quyền, không có thời gian để thắc mắc, việc trước mắt là thương binh.
Tôi được lệnh mang các thương binh về tổng y viện Duy Tân (ĐN) bằng đường bộ vì trực thăng không thể đáp được. Thương binh được chở trên 3 xe GMC có một trung đội TQLC bảo vệ, rời đèo PT vào lúc 6 giờ sáng ngày 25/3/75, vì đường đi khó khăn nên đến mãi 8 giờ tối mới về được đến Đà Nẵng.
Chúng tôi đến tổng y viện Duy Tân vào lúc 9 pm, cả một vùng trời đất tối đen, trừ phòng nhận bệnh phía sau cổng chính vẫn còn ánh đèn hắt ra, một số y tá đang săn sóc thương binh, tôi nhận ra trong số đó có y-sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương, người hùng ôm lựu đạn ngồi trước Quốc Hội năm xưa để chống tham nhũng và nay tuy là trưởng khu giải phẫu của TYV nhưng vì thiếu y sĩ nên anh tham gia công tác nhận và lựa thương. Anh hứa sẽ săn sóc các thương binh TQLC thật chu đáo để tôi trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu (anh Lương đã bị VC bắt và sau đó anh tự tử trong tù).
Sau khi công tác tải thương về tổng y viện Duy Tân vừa hoàn tất vào lúc 9.30 giờ đêm 25 tháng 3 năm1975 thì qua máy truyền tin C.25 tôi nhận được lệnh phải trình diện TĐQY/TQLC ngay lập tức.
Đến 10 giờ đêm tôi mới về đến cổng căn cứ nằm trong phi trường Non Nước; Không như những nơi khác, ở đây, cổng căn cứ được canh gác cẩn mật, đèn rực sáng, nhiều lớp hàng rào kẽm gai kéo chặn ngang cửa, những quân cảnh TQLC trang bị khí giới đầy đủ, ngoài ra còn có 2 xe jeep gắn súng đại liên, tất cả trong tư thế sẵn sàng.
Bệnh viện dã chiến của SĐ/TQLC là một cái “hangar” lớn nằm phía tay phải sau cổng căn cứ; Tại đây đèn đuốc còn sáng, người ra kẻ vào tấp nập. Tôi gặp hầu hết các anh em y sĩ của bệnh viện Lê Hữu Sanh, Thủ Đức, họ chào hỏi tôi vui vẻ và cho biết vì Sư Đoàn không có đủ phương tiện tải thương về căn cứ Sóng Thần, Thủ Đức nên anh em phải ra Đà Nẵng để săn sóc thương binh tại chỗ.
Tôi nhìn vào dẫy hangar rộng lớn kê đầy giường bệnh, có đến 5, 6 trăm giường đầy ắùp thương binh, đó đây các toán y sĩ và y tá đang chăm chú làm nhiệâm vụ săn sóc anh em. Dù đã quá quen với nhiệm vụ cấp cứu nơi chiến trường, nhưng trước tình trạng quá tải, lại thiếu thốn y cụ và phương tiện tải thương về bệnh viện những trường hợp quá nặng khiến anh em y sĩ căng thẳng, phải miệt mài, tiết kiệm từng giây từng phút chiến đấu với tử thần hầu cứu lấy đồng đội.
Tôi trình diện y sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Thế, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ/QY; Trong khi tôi đứng nghiêm chào anh thì anh lại chăm chú quan sát chiếc áo giáp loang lổ vết máu mà tôi đang mặc. Sau khi biết chắc đó là máu thương binh chứ không phải tôi bị thương, anh không bắt tay như thường lệ mà nhẹ nhàng vỗ vai tôi, đôi mắt mệt mỏi nhưng cảm động nhìn “thằng em” vừa thoát chết trở về. Anh nhẹ nhàng bảo tôi để nón sắt lên bàn anh và ngồi xuống ghế đối diện rồi chậm rãi nói:
_ “Hiện giờ Lữ Đoàn 147/TQLC đang bị kẹt tại cửa Thuận An, không biết vì lý do gì mà tàu HQ không vào đón. Ngày mai SĐ/TQLC sẽ mở một cuộc hành quân về phía Bắc đèo Hải Vân để giải tỏa cho LĐ/147. Nhiệm vụ của Bằng là chỉ huy một đơn vị QY/TQLC và 5 xe tải thương của Liên Đoàn 71QY tăng phái để yểm trợ cho đơn vị tấn công. Mọi tiếp liệu về thuốc men, y cụ, lương thực thì Đại úy Sanh sĩ quan trợ y tiểu đoàn đã lo sẵn”.
Tôi nhận nhiệm vụ anh Thế giao cho với một tâm trạng nửa mừng nửa lo; Mừng vì tôi sẽ được tham dự vào cuộc hành quân giải cứu đơn vị bạn; Lo vì tôi biết đơn vị tấn công sẽ găïp rất nhiều khó khăn với địa thế phía Bắc đèo Hải Vân và chắc chắn họ sẽ chịu nhiều tổn thất nên không biết một mình tôi có thể săn sóc cấp cứu cho một số lớn thương binh không.
Đúng 6 giờ sáng ngày 26/3/75, các y tá TQLC đã sẵn sàng trình diện tôi với đầy đủ lương thực, thuốc men và y cụ cứu thương. Tôi rất yên tâm và phân chia họ thành 3 toán với nhiệm vụ cụ thể rõ ràng; Toán thâu lượm thương, toán cấp cứu, toán tải thương và không quên nhắc lại cho họ biết truyền thống của quân y nói chung và của TQLC nói riêng là không bỏ sót bất cứ một thương binh nào. Tôi cũng lưu ý họ phải kiểm soát, lau chùi vũ khí cá nhân và hết sức thận trọng yểm trợ cho nhau khi tiến lên cấp cứu thương binh vì địch quân thường nhắm bắn sẻ các toán quân y tá hầu làm giảm tinh thần chiến đấu của các anh em khác.
Toán xe tải thương tăng phái cũng đã có mặt, tôi kiểm soát xe và săng nhớt thấy đầy đủ nhưng trang bị cá nhân của họ thì quá sơ sài, không nón sắt áo giáp! Tải thương trên đường đèo Hải Vân mà tài xế bị thương thì hậu quả khôn lường nên tôi yêu cầu Đại úy Sanh cung cấp cho họ nón sắt và áo giáp. Toán quân y của chúng tôi đã sẵn sàng tại chỗ để lên đường hành quân. Đến 11 giờ sáng thì lệnh hành quân được hủy bỏ mà tôi không được biết lý do nhưng toán quân y của chúng tôi lại nhận nhiệm vụ khác. Chúng tôi được lệnh đến ngay bến tầu Quân Vận ĐN (tôi không nhớ tên) để đón anh em thương binh Lữ Đoàn 147/TQLC vào lúc 1 giờ.
Khoảng 2 giờ chiều, một chiếc LCM từ từ cập bến, khi tấm bửng tầu mở ra, tôi rất mừng ứa nước mắt thấy lại những chiếc áo rằn ri quen thuộc nhưng cũng buồn ứa nước mắt khi thấy 3 tử sĩ được anh em khiêng ra trước tiên. Họ được bọc poncho cẩn thận và được đặt ngay ngắn trên cầu tầu. Nhìn các tử sĩ này mà lòng tôi buồn tê tái! Một trong 3 tử sĩ này là Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ.4/TQLC, còn 2 người kia vì lâu ngày nên tôi không còn nhớ tên (nhưng chắc chắn không có tên Đại ùy Tô Thanh Chiêu, một đại đội trưởng thuộc TĐ.4 tử trận cùng lúc với Thiếu Tá Nam). Các anh sẽ được đưa vào nhà xác Đà Nẵng.
Theo sau 3 poncho “bọc thây” là các thương binh, đầu tiên là Đại Tá Nguyễn Thế Lương LĐT/LĐ 147 được các y tá dìu xuồng cầu tầu, ông bị thương ở chân nên di chuyển rất khó khăn. Sau ông là 2 bác sĩ Rậu và Khoa cùng các y tá đi cùng với các anh em bị thương, người được đồng đội dìu, người được khiêng cáng, có tất cả khoảng hơn 100 thương binh. Tôi nhanh chóng phân loại và đưa anh em lên đoàn xe tải thương để chuyển về bệnh viện dã chiến TQLC trong căn cứ Non Nước. Sau hết là mấy trăm binh sĩ thuộc đủ mọi tiểu đoàn đã bị “kẹt” tại bờ biển Thuận An. Trông các anh mệt mỏi bơ phờ nhưng ánh mắt rực lên sự tức giận.
Tất cả mọi thành phần trên chiếc LCM này được chở về căn cứ Non Nước và tôi được biết đây là chiếc tàu duy nhất chở anh em TQLC bị kẹt tại bờ biển Thuận An trở về Đà Nẵng. Cảm khái trước sự hy sinh cao cả của 3 đồng đội tôi đã gặp trên cầu tầu, mà trong thâm tâm, tôi nghĩ sự hy sinh của anh em có phần oan uổng nên tôi làm một bài thơ để kính tặng các anh:
“Anh nằm đây vô tư không mộng mị
Nợ non sông anh mới trả hôm qua
Anh ra đi khi nước nhà nghiêng ngả
Chúng tôi còn, mang nặng hận núi sông
Tôi với anh, những người chưa quen biết
Đưa tay chào lòng đau mãi khôn nguôi!”
Chiến tranh như một cơn bão lửa tàn phá tất cả, nhưng rồi lửa cũng phải tàn, cuộc binh đao rồi cũng qua đi, nhưng những mất mát đau thương do chiến tranh gây ra sẽ còn tồn tại mãi theo giòng lịch sử. Chiến đấu bảo vệ quê hương của quân nhân là việc hệ trọng, đó không phải là một “ván cờ” mà binh sĩ không phải là những quân cờ để người chỉ huy, người chơi cờ thí tốt bắt xe! Bắt xe không được thì xóa bàn làm lại!
Gần đây trong hồi ký của một vị tướng Hải Quân, ông đã dùng câu văn của một tác giả người Ý để ám chỉ chiến tranh Viêt Nam như ván cờ mà ông quên chính ông là người cũng có phần trách nhiệm không nhỏ đối với những “con tốt” đã bị thí oan uổng!
Một người lính nằm xuống sẽ kéo theo tang tóc cho hằng trăm người liên hệ. Trong 20 năm của cuộc chiến VN, chỉ tính riêng quân đội của cả 2 bên Nam Bắc đã có tới gần 2 triệu tử sĩ! Hậu quả của cuộc chiến vẫn còn đến bây giờ và sẽ còn tồn tại vài thế hệ nữa. Một ngàn năm sau, nếu nước Việt vẫn còn, chưa bị Trung Cộng tiêu diệt thì người VN sẽ nhỏ lệ đau buồn khi đọc đến những trang sử của cuộc chiến này.
Phải chăng chúng ta mất nước chỉ vì có những cấp, tuy mang danh chỉ huy, lãnh đạo, nhưng lại mải mê “chơi cờ” mà quên đi lời dạy của Đức Trần Hưng Đạo:
“Nếu có giặc đến thì cựa gà trống sao cho đâm thủng được giáp giặc? Mẹo cờ bạc sao cho dùng nổi được quân mưu?”
Ngày nay, khi đã “bình chân như vại” tại hải ngoại, đọc lại hồi ký của những Mũ Xanh còn sống sót tại bãi biển Thuận An năm xưa, hồi tưởng lại những gì mà các anh em thương binh mà tôi đã đón và săn sóc ngày 26/3/75 thuật lại và kết hợp với những gì mắt thấy tai nghe khi tôi còn phục vụ ở ĐĐQY/LĐ.258 trên đèo Phước Tường, tôi có vài thắc mắc nêu lên với mục đích hoàn toàn mong ước lịch sử được sáng tỏ mà không hề có ý phỉ báng hay chỉ trích một cá nhân nào.
Tại sao Bộ Tư Lệnh Tiền Phương QĐI không rút quân theo đội hình từ Huế về đèo Hải Vân (ĐN) trên QL1? Vào thời điểm của cuộc rút quân, đoạn đường này còn được bảo vệ bởi Liên Đoàn 5/BĐQ, Lữ Đoàn 258/TQLC và LĐ 468/TQLC? Cả đoạn đường dài vẫn an toàn ngoại trừ một vài cái chốt nhỏ cấp trung đội như tại địa điểm cầu Đá Bạc. Những chốt này không đáng quan tâm đối với TQLC và LĐ.1 Kỵ Binh.
Nếu giới chức có thẩm quyền BTLQĐ/TP rút quân theo đội hình trên QL.1 thì quý vị ấy chắc chắn đã mang về Đà Nẵng, không những LĐ147/TQLC mà còn có SĐ 1/BB, LĐ 1/KB, LĐ 14-15/BĐQ và các tiểu đoàn Pháo Binh. Đây là những đơn vị hàng đầu của QLVNCH và nếu được như thế thì hẳn cuộc chiến tại QK I sẽ thay đổi hay cũng tránh được thiệt hại lớn, nhất là đối với các TQLC dọc theo bờ biển Thuận An.
Tối 24/3/75, Bộ TLTP/QĐI ra lệnh cho LĐ 147/TQLC, trang bị nhẹ, đoạn chiến với những sư đoàn của CSBV để di chuyển về tập trung tại cửa biển Thuận An, nhưng QĐ đã không chuẩn bị và sử dụng những phương tiện có sẵn trong tay như Quân Vận, Công Binh và Hải Quân để yểm trợ cho LĐ 147/TQLC. Quân Đoàn có nghĩ đến khả năng truy kích của những sư đoàn CSBV không?
Vùng bãi biển Thuận An là một bãi cát trống trải bao quanh tứ bề là nước và nước! Phía trước là biển Đông, phía sau là Phá Tam Giang, đầm Thanh Lâm, đầm Hà Trung, phía Bắc là cửa Thuận An, phía Nam là cửa Tư Hiền. Vùng biển nước này được bảo vệ bởi 2 duyên đoàn và một giang đoàn, những đơn vị này đã rút đi trước khi LĐ 147 tới cửa Thuận An. Ai đã ra lệnh cho họ rút đi? Bởi vì nếu các đơn vị này còn hiện diện tại vùng trách nhiệm thì quân truy kích của CSBV không thể nào vượt qua được Phá Tam Giang và cửa Thuận An để bao vây và tấn công LĐ 147/TQLC.
Sáng 25/3/75 trong khi LĐ 147 dừng quân tại bãi biển, trật tự an ninh còn tốt vì quân truy kích CS chưa tới trong khi đó thì ngoài khơi có chiếc LST 801 và một đoàn 5 chiếc LCM nhưng không có một chiếc tầu nào vào đón TQLC! Lý do?
Chỉ huy là tiên liệu, nếu nói rằng LST 801 không vào sát bờ được để đón TQLC thì tại sao lại không dùng những tàu nhỏ hơn có khả năng vào sát bờ? Và còn những LCM thì sao? Rồi sau đó thì ai ra lệnh cho những tầu này bỏ đi, xuôi Nam? Theo nguyên tắc chỉ huy thì những đơn vị này chỉ nhận lệnh trực tiếp từ BTL/Hải Quân vùng I Duyên Hải hoặc BTL/QĐI mà thôi.
Đêm tối 25/3/75 quân truy kích của CSBV đã tới, phiá Bắc chúng vuợt qua cửa Thuận An, phiá Tây qua bến phà Tân Mỹ, vượt phá Tam Giang, chiếm các đồi cao, bao vây LĐ 147/TQLC. Chúng được trang bị hùng hậu, đủ mọi loại vũ khí từ đại bác không giật 75 ly, súng cối 61 và 82 ly, hỏa tiễn tầm nhiệt AT.3 v.v.. Trong khi anh em TQLC chỉ còn súng cá nhân M.16 trong tình trạng thiếu đạn, thiếu nước thiếu lương thực, thiếu tất cả để chống trả và chuyện gì đã xẩy ra chắc không cần phải nói thêm làm chi cho đau lòng. Cuộc “tàn sát” kéo dài từ chiếu tối 25/3 cho tới rạng sáng 27/3 thì toàn bộ Lữ Đoàn 147 còn lại bị chúng bắt.!
Điều đặc biệt khó hiểu là suốt trong thời gian chiến đấu trong tuyệt vọng này, anh em TQLC không hề được tiếp tế đạn dược và lương thực! Không hề được yểm trợ hỏa lực nào của hải pháo và không yểm? Trong khi đó thì “tầu cỡi ngựa xem hoa” ngoài khơi và trực thăng, A.37 v.v. thì đã bay về trời! Đã bay đi trước khi địch đến!
Nên nhớ rằng vào thời điểm này HQ và KQ vẫn còn nguyên vẹn và người có thẩm quyền ra lệnh cho các đơn vị này thi hành nhiệm vụ là giới chức cao cấp BTL/Quân Đoàn, là của Tư Lệnh HQ vùng I Duyên Hải, là của Tư Lệnh SĐ.1 KQ chứ không phải các cấp chỉ huy của TQLC, một lực lượng tăng phái. Xin quý Tư lệânh Tiền Phương, KQ, HQ vùng I giải thích sự kiện kỳ cục lạ lùng trong cuộc chiến này.
Sau khi Đại Tá Nguyễn thế Lương LĐT/LĐ 147 bị thương, Thiếu tá Phạm Cang TĐT/TĐ7 được đề cử xử lý thường vụ LĐT/LĐ 147 (và sau cùng T/T Cang bị VC bắt) đã ghi lại chi tiết mọi diễn biến trong thời gian LĐ kẹt trên bãi biển T.A, xin trích:
_ “Đây là một trận chiến vô cùng phức tạp chưa từng thấy trong chiến tranh. Không phòng tuyến rõ ràng, số người dân và các đơn vị bạn di chuyển theo TQLC quá đông, không phân biệt được ai là bạn ai là địch, mỗi khi nghe súng nổ thì họ chạy hỗn loạn, gây khó khăn cho TQLC. Một khu vực chưa đầy một cây số vuông nhưng hơn 3000 người trong đó. Khi TĐ.7 đưa M.113 lên tấn công thì địch pháo kích, tôi bị thương vì mảnh 82, tuy nhiên TĐ.7 đã chiếm được một số cao điểm nhằm giữ an toàn cho phía mặt biển để Lữ Đoàn dùng làm bãi đáp hầu thực hiện kế hoạch Alpha, rút quân bằng Hải Quân VN vào lúc 12 giờ đêm.
Kế hoạch xuống tàu theo thứ tự như sau: BCH/LĐ+TĐ.2PB, TĐ.4, TĐ.3, TĐ.5 và cuối cùng là TĐ.7.
Đêm 14 âm lịch, trăng sáng vằng vặc, không gian đắm chìm trong không khí vô cùng ngột ngạt, mọi người đang chờ đợi, không nghe một tiếng động hay chỉ vì tiếng sóng gầm thét át tiếng người.
Như kế hoạch Alpha đã vạch ra, 12 giờ đêm đã điểm, rồi 1 giờ, 3 giờ sáng .. các con tàu vẫn không vào bờ (!). Xa xa ngoài khơi ánh đèn tàu vẫn còn đó nhưng mọi vật như bất động. Trong đêm, địch đã vượt cửa Thuận An, tăng cường quân số quyết tấn công LĐ.147 và ngăn không cho xuống tàu. Vì thế vào lúc 8 giờ sáng 26/3, một LCM vào đón thương binh và BCH/LĐ thì địch đã sử dụng hỏa tiễn tầm nhiệt và đại bác 12.7 tác xạ vào điểm tập trung và tàu HQ nên tàu phải rút ra, đem theo được một số thương binh. Đây là chiếc tàu duy nhất bất ngờ cập bờ và cũng vội vàng xa bờ!
Nếu đêm qua (25/3) kế hoạch Alpha được thi hành thì ít nhất một nửa Lữ Đoàn có thể thoát khỏi khu vực này để lên tàu. Nhưng không rõ vì LÝ DO gì mà không thực hiện được?” (MX Pham Cang, Tuyển tập 21 năm chiến trận của TQLC).
Một Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng mà còn không được thông báo, “không rõ vì lý do gì” mà tàu HQ không vào đón như kế hoạch Alpha đã đề ra thì một người lính chuyên môn như tôi làm sao hiểu nổi lý do! Nhưng với một căn bản quân sự sơ đăûng tôi hiểu rằng nếu chờ tới sáng, mục tiêu rõ ràng và địch quân đã được tăng cường, đã sẵn sàng “thế bắn nằm thủ thế”, hướng hỏa tiễn vào tàu thì coi như “vô kế khả thi”, rút đi là phải, để lại pháp trường cát!
Ngày 27/3/1975 là ngày kết thúc LĐ.147/TQLC một cách đau thương! Số phận của SĐ.1/BB, LĐ.1 Thiết Kỵ, LĐ.14/BĐQ và các lực lượng ĐPQ+NQ phía Bắc đèo Hải Vân chắc chắn cũng không khá hơn!
Như vậy chỉ trong vòng 2 ngày, cả một lực lượng quân sự hùng mạnh nhất Quân Khu I đã bị tan rã một cách vô lý khó hiểu.
Pháp trường cát, theo định nghĩa, là nơi người bị bắn bị trói tay, bịt miệng bịt mắt để toán hành quyết bắn mà những người đứng xem không có một hành động can thiệp nào. Cái pháp trường cát này, năm xưa ông Tướng NCK đã lập ra tại trung tâm thành phố Sài Gòn để xử bắn một tên gian thương làm hại đất nước. Cái pháp trường cát đó cả nước đều biết nhưng rất nhiều người miền Nam Tự Do đã không biết có một pháp trường cát thứ hai tại một bãi cát xa xăm vùng địa đầu giới tuyến vào tháng 3 năm 1975 mang tên “Bãi Biển Thuận An”.
Trong những ngày cuối cùng của “Tháng Ba Gãy Súng” đau buồn ấy, người bị đưa ra pháp trường cát đẫm máu này không phải là tội phạm mà trái lại, lại là những đứa con ngoan của mẹ Việt Nam. Những đứa con này đã bỏ gia đình, bỏ tuổi thanh xuân đầy mộng đẹp, bỏ ăn bỏ ngủ để ngày đêm chiến đấu bảo vệ miền Nam Tự Do trong suốt 20 năm dài. Những người này là hằng ngàn TQLC của Lữ Đoàn 147/TQLC thuộc các TĐ 3,4,5,7 và TĐ.2/PB.
Ai là người đã đem họ ra pháp trường cát này?
“Bến Tân-Mỹ phà xưa không trở lại
Đầm Hà-Trung lặng lẽ tiễn anh qua
Phá Tam-Giang sao muôn đời sầu thảm
Máu Thủy-Thần nhuộm đỏ sóng Thuận An!”
Tôi viết đoạn hồi ký này để kính tặng các đồng đội TQLC cũng như các anh BB, các anh hùng đơn vị bạn đã bị hy sinh oan uổng trên bờ biển Thuận An. Ước mong linh hồn các anh được thanh thản nơi cửa Phật hoặc đất Chúa.
Người xưa có nói “nhất tướng công thành vạn cốt khô”! Vậy thì những ông .. không thành công thì cần bao nhiêu vạn cốt khô?
Để kết thúc những ngổn ngang tâm sự, những câu hỏi không, chưa có người trả lời, tôi xin ghi lại, cũng tâm sự của một người lính mũ xanh, hiện còn ở trong nước, tháng 3 năm xưa đã cùng đồng đội ngồi lại trên bãi cát bên bờ biển Đông để cùng rút chốt, chia nhau một trái lựu đạn! Nhưng anh đã kém may mắn hơn đồng đội, đành lê kiếp sống tàn tạ như người xa lạ trên chính quê hương mình. MX Đoàn Văn Tuấn viết:
- “Một mùa đại giỗ nữa của gia đình anh em Mũ Xanh lại đến. Đã trên 33 năm trôi qua mà sao vẫn nhớ mãi cái cảnh những người lớn chơi trò trẻ con! Họ ngồi quây quần bên nhau, úp lá khoai môn lên trái mãng cầu. Những lời bình thản:
- “Ê, từ từ đã mày, chờ thằng Toàn đang chạy đến tham gia kia kìa”.
Rồi sau đó.. “BÙM”!!!
Trời Ơi! Đó là thực tế của bạn bè anh em chúng tôi, những người lính Mũ Xanh kiêu hùng nhưng họ đã phải đi nhặt những viên đạn để chống trả với quân thù! Dùng hàm răng làm vũ khí và sau cùng thì đành trở về với tuổi thơ, ngồi xúm lại trên bãi cát trắng bờ biển Thuận An miền Trung thơ mộng.
Trời vẫn xanh, biển vẫn rì rào lời mời gọi. Đường về! Oâi quá xa.
“BÙM”, những thân người đổ vật ra! Anh em ta đã về NHÀ, về với đất Mẹ thân yêu. Một thực tế mà trên thế giới ít một nước nào có. Sự tự sát tập thể không khác gì với những huyền thoại của những người võ sĩ đạo của xứ Phù-Tang. Tinh thần bất khuất ấy vẫn sống mãi trong ký ức những người còn lại.
Hôm nay ngồi đây, tôi viết những dòng này gửi đến các anh, đến bạn bè, những người lính MX năm xưa để chúng ta cùng cúi đầu dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ những người đã nằm xuống tháng 3, tháng gió lớn của gia đình Mũ Xanh
Sinh Tồn chuyển
Bờ Biển THUẬN AN - Pháp Trường Cát!
Mx Phạm Vũ Bằng.
Ngày 18/3/1975, Lữ Đoàn 258/TQLC di chuyển từ Quảng Trị về đèo Phước Tường, nằm trên QL.1, phía Bắc đèo Hải Vân để bảo vệ an toàn đoạn trục lộ nguy hiểm này hầu cho các đơn vị QLVNCH từ QT và Huế rút về Đà Nẵng. Trong thời gian này LĐ 258 đã giao tranh nhiều lần với địch nhưng vẫn giữ vững vị trí, bảo toàn trục lộ đèo Phước Tường để chờ các đơn vị bạn từ phía Bắc rút qua, nhưng cho đến sáng ngày 25/3 chúng tôi được lệnh rút khỏi đèo Phước Tường.
Lệnh này làm chúng tôi rất đỗi ngạc nhiên, bởi QL.1 đoạn chạy qua đèo PT là con đường bộ duy nhất tương đối an toàn để triệt thoái các đơn vị bạn phiá Bắc về ĐN, nếu bỏ đoạn đường này đi chẳng khác chi là “khai tử” họ!
Hay là thượng cấp đã có kế hoạch khác, đổi hướng ra biển Đông chăng? Tuy kinh ngạc nhưng là thuộc cấp, là y sĩ của LĐ và là đơn vị chuyên môn nên chúng tôi không có quyền, không có thời gian để thắc mắc, việc trước mắt là thương binh.
Tôi được lệnh mang các thương binh về tổng y viện Duy Tân (ĐN) bằng đường bộ vì trực thăng không thể đáp được. Thương binh được chở trên 3 xe GMC có một trung đội TQLC bảo vệ, rời đèo PT vào lúc 6 giờ sáng ngày 25/3/75, vì đường đi khó khăn nên đến mãi 8 giờ tối mới về được đến Đà Nẵng.
Chúng tôi đến tổng y viện Duy Tân vào lúc 9 pm, cả một vùng trời đất tối đen, trừ phòng nhận bệnh phía sau cổng chính vẫn còn ánh đèn hắt ra, một số y tá đang săn sóc thương binh, tôi nhận ra trong số đó có y-sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương, người hùng ôm lựu đạn ngồi trước Quốc Hội năm xưa để chống tham nhũng và nay tuy là trưởng khu giải phẫu của TYV nhưng vì thiếu y sĩ nên anh tham gia công tác nhận và lựa thương. Anh hứa sẽ săn sóc các thương binh TQLC thật chu đáo để tôi trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu (anh Lương đã bị VC bắt và sau đó anh tự tử trong tù).
Sau khi công tác tải thương về tổng y viện Duy Tân vừa hoàn tất vào lúc 9.30 giờ đêm 25 tháng 3 năm1975 thì qua máy truyền tin C.25 tôi nhận được lệnh phải trình diện TĐQY/TQLC ngay lập tức.
Đến 10 giờ đêm tôi mới về đến cổng căn cứ nằm trong phi trường Non Nước; Không như những nơi khác, ở đây, cổng căn cứ được canh gác cẩn mật, đèn rực sáng, nhiều lớp hàng rào kẽm gai kéo chặn ngang cửa, những quân cảnh TQLC trang bị khí giới đầy đủ, ngoài ra còn có 2 xe jeep gắn súng đại liên, tất cả trong tư thế sẵn sàng.
Bệnh viện dã chiến của SĐ/TQLC là một cái “hangar” lớn nằm phía tay phải sau cổng căn cứ; Tại đây đèn đuốc còn sáng, người ra kẻ vào tấp nập. Tôi gặp hầu hết các anh em y sĩ của bệnh viện Lê Hữu Sanh, Thủ Đức, họ chào hỏi tôi vui vẻ và cho biết vì Sư Đoàn không có đủ phương tiện tải thương về căn cứ Sóng Thần, Thủ Đức nên anh em phải ra Đà Nẵng để săn sóc thương binh tại chỗ.
Tôi nhìn vào dẫy hangar rộng lớn kê đầy giường bệnh, có đến 5, 6 trăm giường đầy ắùp thương binh, đó đây các toán y sĩ và y tá đang chăm chú làm nhiệâm vụ săn sóc anh em. Dù đã quá quen với nhiệm vụ cấp cứu nơi chiến trường, nhưng trước tình trạng quá tải, lại thiếu thốn y cụ và phương tiện tải thương về bệnh viện những trường hợp quá nặng khiến anh em y sĩ căng thẳng, phải miệt mài, tiết kiệm từng giây từng phút chiến đấu với tử thần hầu cứu lấy đồng đội.
Tôi trình diện y sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Thế, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ/QY; Trong khi tôi đứng nghiêm chào anh thì anh lại chăm chú quan sát chiếc áo giáp loang lổ vết máu mà tôi đang mặc. Sau khi biết chắc đó là máu thương binh chứ không phải tôi bị thương, anh không bắt tay như thường lệ mà nhẹ nhàng vỗ vai tôi, đôi mắt mệt mỏi nhưng cảm động nhìn “thằng em” vừa thoát chết trở về. Anh nhẹ nhàng bảo tôi để nón sắt lên bàn anh và ngồi xuống ghế đối diện rồi chậm rãi nói:
_ “Hiện giờ Lữ Đoàn 147/TQLC đang bị kẹt tại cửa Thuận An, không biết vì lý do gì mà tàu HQ không vào đón. Ngày mai SĐ/TQLC sẽ mở một cuộc hành quân về phía Bắc đèo Hải Vân để giải tỏa cho LĐ/147. Nhiệm vụ của Bằng là chỉ huy một đơn vị QY/TQLC và 5 xe tải thương của Liên Đoàn 71QY tăng phái để yểm trợ cho đơn vị tấn công. Mọi tiếp liệu về thuốc men, y cụ, lương thực thì Đại úy Sanh sĩ quan trợ y tiểu đoàn đã lo sẵn”.
Tôi nhận nhiệm vụ anh Thế giao cho với một tâm trạng nửa mừng nửa lo; Mừng vì tôi sẽ được tham dự vào cuộc hành quân giải cứu đơn vị bạn; Lo vì tôi biết đơn vị tấn công sẽ găïp rất nhiều khó khăn với địa thế phía Bắc đèo Hải Vân và chắc chắn họ sẽ chịu nhiều tổn thất nên không biết một mình tôi có thể săn sóc cấp cứu cho một số lớn thương binh không.
Đúng 6 giờ sáng ngày 26/3/75, các y tá TQLC đã sẵn sàng trình diện tôi với đầy đủ lương thực, thuốc men và y cụ cứu thương. Tôi rất yên tâm và phân chia họ thành 3 toán với nhiệm vụ cụ thể rõ ràng; Toán thâu lượm thương, toán cấp cứu, toán tải thương và không quên nhắc lại cho họ biết truyền thống của quân y nói chung và của TQLC nói riêng là không bỏ sót bất cứ một thương binh nào. Tôi cũng lưu ý họ phải kiểm soát, lau chùi vũ khí cá nhân và hết sức thận trọng yểm trợ cho nhau khi tiến lên cấp cứu thương binh vì địch quân thường nhắm bắn sẻ các toán quân y tá hầu làm giảm tinh thần chiến đấu của các anh em khác.
Toán xe tải thương tăng phái cũng đã có mặt, tôi kiểm soát xe và săng nhớt thấy đầy đủ nhưng trang bị cá nhân của họ thì quá sơ sài, không nón sắt áo giáp! Tải thương trên đường đèo Hải Vân mà tài xế bị thương thì hậu quả khôn lường nên tôi yêu cầu Đại úy Sanh cung cấp cho họ nón sắt và áo giáp. Toán quân y của chúng tôi đã sẵn sàng tại chỗ để lên đường hành quân. Đến 11 giờ sáng thì lệnh hành quân được hủy bỏ mà tôi không được biết lý do nhưng toán quân y của chúng tôi lại nhận nhiệm vụ khác. Chúng tôi được lệnh đến ngay bến tầu Quân Vận ĐN (tôi không nhớ tên) để đón anh em thương binh Lữ Đoàn 147/TQLC vào lúc 1 giờ.
Khoảng 2 giờ chiều, một chiếc LCM từ từ cập bến, khi tấm bửng tầu mở ra, tôi rất mừng ứa nước mắt thấy lại những chiếc áo rằn ri quen thuộc nhưng cũng buồn ứa nước mắt khi thấy 3 tử sĩ được anh em khiêng ra trước tiên. Họ được bọc poncho cẩn thận và được đặt ngay ngắn trên cầu tầu. Nhìn các tử sĩ này mà lòng tôi buồn tê tái! Một trong 3 tử sĩ này là Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ.4/TQLC, còn 2 người kia vì lâu ngày nên tôi không còn nhớ tên (nhưng chắc chắn không có tên Đại ùy Tô Thanh Chiêu, một đại đội trưởng thuộc TĐ.4 tử trận cùng lúc với Thiếu Tá Nam). Các anh sẽ được đưa vào nhà xác Đà Nẵng.
Theo sau 3 poncho “bọc thây” là các thương binh, đầu tiên là Đại Tá Nguyễn Thế Lương LĐT/LĐ 147 được các y tá dìu xuồng cầu tầu, ông bị thương ở chân nên di chuyển rất khó khăn. Sau ông là 2 bác sĩ Rậu và Khoa cùng các y tá đi cùng với các anh em bị thương, người được đồng đội dìu, người được khiêng cáng, có tất cả khoảng hơn 100 thương binh. Tôi nhanh chóng phân loại và đưa anh em lên đoàn xe tải thương để chuyển về bệnh viện dã chiến TQLC trong căn cứ Non Nước. Sau hết là mấy trăm binh sĩ thuộc đủ mọi tiểu đoàn đã bị “kẹt” tại bờ biển Thuận An. Trông các anh mệt mỏi bơ phờ nhưng ánh mắt rực lên sự tức giận.
Tất cả mọi thành phần trên chiếc LCM này được chở về căn cứ Non Nước và tôi được biết đây là chiếc tàu duy nhất chở anh em TQLC bị kẹt tại bờ biển Thuận An trở về Đà Nẵng. Cảm khái trước sự hy sinh cao cả của 3 đồng đội tôi đã gặp trên cầu tầu, mà trong thâm tâm, tôi nghĩ sự hy sinh của anh em có phần oan uổng nên tôi làm một bài thơ để kính tặng các anh:
“Anh nằm đây vô tư không mộng mị
Nợ non sông anh mới trả hôm qua
Anh ra đi khi nước nhà nghiêng ngả
Chúng tôi còn, mang nặng hận núi sông
Tôi với anh, những người chưa quen biết
Đưa tay chào lòng đau mãi khôn nguôi!”
Chiến tranh như một cơn bão lửa tàn phá tất cả, nhưng rồi lửa cũng phải tàn, cuộc binh đao rồi cũng qua đi, nhưng những mất mát đau thương do chiến tranh gây ra sẽ còn tồn tại mãi theo giòng lịch sử. Chiến đấu bảo vệ quê hương của quân nhân là việc hệ trọng, đó không phải là một “ván cờ” mà binh sĩ không phải là những quân cờ để người chỉ huy, người chơi cờ thí tốt bắt xe! Bắt xe không được thì xóa bàn làm lại!
Gần đây trong hồi ký của một vị tướng Hải Quân, ông đã dùng câu văn của một tác giả người Ý để ám chỉ chiến tranh Viêt Nam như ván cờ mà ông quên chính ông là người cũng có phần trách nhiệm không nhỏ đối với những “con tốt” đã bị thí oan uổng!
Một người lính nằm xuống sẽ kéo theo tang tóc cho hằng trăm người liên hệ. Trong 20 năm của cuộc chiến VN, chỉ tính riêng quân đội của cả 2 bên Nam Bắc đã có tới gần 2 triệu tử sĩ! Hậu quả của cuộc chiến vẫn còn đến bây giờ và sẽ còn tồn tại vài thế hệ nữa. Một ngàn năm sau, nếu nước Việt vẫn còn, chưa bị Trung Cộng tiêu diệt thì người VN sẽ nhỏ lệ đau buồn khi đọc đến những trang sử của cuộc chiến này.
Phải chăng chúng ta mất nước chỉ vì có những cấp, tuy mang danh chỉ huy, lãnh đạo, nhưng lại mải mê “chơi cờ” mà quên đi lời dạy của Đức Trần Hưng Đạo:
“Nếu có giặc đến thì cựa gà trống sao cho đâm thủng được giáp giặc? Mẹo cờ bạc sao cho dùng nổi được quân mưu?”
Ngày nay, khi đã “bình chân như vại” tại hải ngoại, đọc lại hồi ký của những Mũ Xanh còn sống sót tại bãi biển Thuận An năm xưa, hồi tưởng lại những gì mà các anh em thương binh mà tôi đã đón và săn sóc ngày 26/3/75 thuật lại và kết hợp với những gì mắt thấy tai nghe khi tôi còn phục vụ ở ĐĐQY/LĐ.258 trên đèo Phước Tường, tôi có vài thắc mắc nêu lên với mục đích hoàn toàn mong ước lịch sử được sáng tỏ mà không hề có ý phỉ báng hay chỉ trích một cá nhân nào.
Tại sao Bộ Tư Lệnh Tiền Phương QĐI không rút quân theo đội hình từ Huế về đèo Hải Vân (ĐN) trên QL1? Vào thời điểm của cuộc rút quân, đoạn đường này còn được bảo vệ bởi Liên Đoàn 5/BĐQ, Lữ Đoàn 258/TQLC và LĐ 468/TQLC? Cả đoạn đường dài vẫn an toàn ngoại trừ một vài cái chốt nhỏ cấp trung đội như tại địa điểm cầu Đá Bạc. Những chốt này không đáng quan tâm đối với TQLC và LĐ.1 Kỵ Binh.
Nếu giới chức có thẩm quyền BTLQĐ/TP rút quân theo đội hình trên QL.1 thì quý vị ấy chắc chắn đã mang về Đà Nẵng, không những LĐ147/TQLC mà còn có SĐ 1/BB, LĐ 1/KB, LĐ 14-15/BĐQ và các tiểu đoàn Pháo Binh. Đây là những đơn vị hàng đầu của QLVNCH và nếu được như thế thì hẳn cuộc chiến tại QK I sẽ thay đổi hay cũng tránh được thiệt hại lớn, nhất là đối với các TQLC dọc theo bờ biển Thuận An.
Tối 24/3/75, Bộ TLTP/QĐI ra lệnh cho LĐ 147/TQLC, trang bị nhẹ, đoạn chiến với những sư đoàn của CSBV để di chuyển về tập trung tại cửa biển Thuận An, nhưng QĐ đã không chuẩn bị và sử dụng những phương tiện có sẵn trong tay như Quân Vận, Công Binh và Hải Quân để yểm trợ cho LĐ 147/TQLC. Quân Đoàn có nghĩ đến khả năng truy kích của những sư đoàn CSBV không?
Vùng bãi biển Thuận An là một bãi cát trống trải bao quanh tứ bề là nước và nước! Phía trước là biển Đông, phía sau là Phá Tam Giang, đầm Thanh Lâm, đầm Hà Trung, phía Bắc là cửa Thuận An, phía Nam là cửa Tư Hiền. Vùng biển nước này được bảo vệ bởi 2 duyên đoàn và một giang đoàn, những đơn vị này đã rút đi trước khi LĐ 147 tới cửa Thuận An. Ai đã ra lệnh cho họ rút đi? Bởi vì nếu các đơn vị này còn hiện diện tại vùng trách nhiệm thì quân truy kích của CSBV không thể nào vượt qua được Phá Tam Giang và cửa Thuận An để bao vây và tấn công LĐ 147/TQLC.
Sáng 25/3/75 trong khi LĐ 147 dừng quân tại bãi biển, trật tự an ninh còn tốt vì quân truy kích CS chưa tới trong khi đó thì ngoài khơi có chiếc LST 801 và một đoàn 5 chiếc LCM nhưng không có một chiếc tầu nào vào đón TQLC! Lý do?
Chỉ huy là tiên liệu, nếu nói rằng LST 801 không vào sát bờ được để đón TQLC thì tại sao lại không dùng những tàu nhỏ hơn có khả năng vào sát bờ? Và còn những LCM thì sao? Rồi sau đó thì ai ra lệnh cho những tầu này bỏ đi, xuôi Nam? Theo nguyên tắc chỉ huy thì những đơn vị này chỉ nhận lệnh trực tiếp từ BTL/Hải Quân vùng I Duyên Hải hoặc BTL/QĐI mà thôi.
Đêm tối 25/3/75 quân truy kích của CSBV đã tới, phiá Bắc chúng vuợt qua cửa Thuận An, phiá Tây qua bến phà Tân Mỹ, vượt phá Tam Giang, chiếm các đồi cao, bao vây LĐ 147/TQLC. Chúng được trang bị hùng hậu, đủ mọi loại vũ khí từ đại bác không giật 75 ly, súng cối 61 và 82 ly, hỏa tiễn tầm nhiệt AT.3 v.v.. Trong khi anh em TQLC chỉ còn súng cá nhân M.16 trong tình trạng thiếu đạn, thiếu nước thiếu lương thực, thiếu tất cả để chống trả và chuyện gì đã xẩy ra chắc không cần phải nói thêm làm chi cho đau lòng. Cuộc “tàn sát” kéo dài từ chiếu tối 25/3 cho tới rạng sáng 27/3 thì toàn bộ Lữ Đoàn 147 còn lại bị chúng bắt.!
Điều đặc biệt khó hiểu là suốt trong thời gian chiến đấu trong tuyệt vọng này, anh em TQLC không hề được tiếp tế đạn dược và lương thực! Không hề được yểm trợ hỏa lực nào của hải pháo và không yểm? Trong khi đó thì “tầu cỡi ngựa xem hoa” ngoài khơi và trực thăng, A.37 v.v. thì đã bay về trời! Đã bay đi trước khi địch đến!
Nên nhớ rằng vào thời điểm này HQ và KQ vẫn còn nguyên vẹn và người có thẩm quyền ra lệnh cho các đơn vị này thi hành nhiệm vụ là giới chức cao cấp BTL/Quân Đoàn, là của Tư Lệnh HQ vùng I Duyên Hải, là của Tư Lệnh SĐ.1 KQ chứ không phải các cấp chỉ huy của TQLC, một lực lượng tăng phái. Xin quý Tư lệânh Tiền Phương, KQ, HQ vùng I giải thích sự kiện kỳ cục lạ lùng trong cuộc chiến này.
Sau khi Đại Tá Nguyễn thế Lương LĐT/LĐ 147 bị thương, Thiếu tá Phạm Cang TĐT/TĐ7 được đề cử xử lý thường vụ LĐT/LĐ 147 (và sau cùng T/T Cang bị VC bắt) đã ghi lại chi tiết mọi diễn biến trong thời gian LĐ kẹt trên bãi biển T.A, xin trích:
_ “Đây là một trận chiến vô cùng phức tạp chưa từng thấy trong chiến tranh. Không phòng tuyến rõ ràng, số người dân và các đơn vị bạn di chuyển theo TQLC quá đông, không phân biệt được ai là bạn ai là địch, mỗi khi nghe súng nổ thì họ chạy hỗn loạn, gây khó khăn cho TQLC. Một khu vực chưa đầy một cây số vuông nhưng hơn 3000 người trong đó. Khi TĐ.7 đưa M.113 lên tấn công thì địch pháo kích, tôi bị thương vì mảnh 82, tuy nhiên TĐ.7 đã chiếm được một số cao điểm nhằm giữ an toàn cho phía mặt biển để Lữ Đoàn dùng làm bãi đáp hầu thực hiện kế hoạch Alpha, rút quân bằng Hải Quân VN vào lúc 12 giờ đêm.
Kế hoạch xuống tàu theo thứ tự như sau: BCH/LĐ+TĐ.2PB, TĐ.4, TĐ.3, TĐ.5 và cuối cùng là TĐ.7.
Đêm 14 âm lịch, trăng sáng vằng vặc, không gian đắm chìm trong không khí vô cùng ngột ngạt, mọi người đang chờ đợi, không nghe một tiếng động hay chỉ vì tiếng sóng gầm thét át tiếng người.
Như kế hoạch Alpha đã vạch ra, 12 giờ đêm đã điểm, rồi 1 giờ, 3 giờ sáng .. các con tàu vẫn không vào bờ (!). Xa xa ngoài khơi ánh đèn tàu vẫn còn đó nhưng mọi vật như bất động. Trong đêm, địch đã vượt cửa Thuận An, tăng cường quân số quyết tấn công LĐ.147 và ngăn không cho xuống tàu. Vì thế vào lúc 8 giờ sáng 26/3, một LCM vào đón thương binh và BCH/LĐ thì địch đã sử dụng hỏa tiễn tầm nhiệt và đại bác 12.7 tác xạ vào điểm tập trung và tàu HQ nên tàu phải rút ra, đem theo được một số thương binh. Đây là chiếc tàu duy nhất bất ngờ cập bờ và cũng vội vàng xa bờ!
Nếu đêm qua (25/3) kế hoạch Alpha được thi hành thì ít nhất một nửa Lữ Đoàn có thể thoát khỏi khu vực này để lên tàu. Nhưng không rõ vì LÝ DO gì mà không thực hiện được?” (MX Pham Cang, Tuyển tập 21 năm chiến trận của TQLC).
Một Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng mà còn không được thông báo, “không rõ vì lý do gì” mà tàu HQ không vào đón như kế hoạch Alpha đã đề ra thì một người lính chuyên môn như tôi làm sao hiểu nổi lý do! Nhưng với một căn bản quân sự sơ đăûng tôi hiểu rằng nếu chờ tới sáng, mục tiêu rõ ràng và địch quân đã được tăng cường, đã sẵn sàng “thế bắn nằm thủ thế”, hướng hỏa tiễn vào tàu thì coi như “vô kế khả thi”, rút đi là phải, để lại pháp trường cát!
Ngày 27/3/1975 là ngày kết thúc LĐ.147/TQLC một cách đau thương! Số phận của SĐ.1/BB, LĐ.1 Thiết Kỵ, LĐ.14/BĐQ và các lực lượng ĐPQ+NQ phía Bắc đèo Hải Vân chắc chắn cũng không khá hơn!
Như vậy chỉ trong vòng 2 ngày, cả một lực lượng quân sự hùng mạnh nhất Quân Khu I đã bị tan rã một cách vô lý khó hiểu.
Pháp trường cát, theo định nghĩa, là nơi người bị bắn bị trói tay, bịt miệng bịt mắt để toán hành quyết bắn mà những người đứng xem không có một hành động can thiệp nào. Cái pháp trường cát này, năm xưa ông Tướng NCK đã lập ra tại trung tâm thành phố Sài Gòn để xử bắn một tên gian thương làm hại đất nước. Cái pháp trường cát đó cả nước đều biết nhưng rất nhiều người miền Nam Tự Do đã không biết có một pháp trường cát thứ hai tại một bãi cát xa xăm vùng địa đầu giới tuyến vào tháng 3 năm 1975 mang tên “Bãi Biển Thuận An”.
Trong những ngày cuối cùng của “Tháng Ba Gãy Súng” đau buồn ấy, người bị đưa ra pháp trường cát đẫm máu này không phải là tội phạm mà trái lại, lại là những đứa con ngoan của mẹ Việt Nam. Những đứa con này đã bỏ gia đình, bỏ tuổi thanh xuân đầy mộng đẹp, bỏ ăn bỏ ngủ để ngày đêm chiến đấu bảo vệ miền Nam Tự Do trong suốt 20 năm dài. Những người này là hằng ngàn TQLC của Lữ Đoàn 147/TQLC thuộc các TĐ 3,4,5,7 và TĐ.2/PB.
Ai là người đã đem họ ra pháp trường cát này?
“Bến Tân-Mỹ phà xưa không trở lại
Đầm Hà-Trung lặng lẽ tiễn anh qua
Phá Tam-Giang sao muôn đời sầu thảm
Máu Thủy-Thần nhuộm đỏ sóng Thuận An!”
Tôi viết đoạn hồi ký này để kính tặng các đồng đội TQLC cũng như các anh BB, các anh hùng đơn vị bạn đã bị hy sinh oan uổng trên bờ biển Thuận An. Ước mong linh hồn các anh được thanh thản nơi cửa Phật hoặc đất Chúa.
Người xưa có nói “nhất tướng công thành vạn cốt khô”! Vậy thì những ông .. không thành công thì cần bao nhiêu vạn cốt khô?
Để kết thúc những ngổn ngang tâm sự, những câu hỏi không, chưa có người trả lời, tôi xin ghi lại, cũng tâm sự của một người lính mũ xanh, hiện còn ở trong nước, tháng 3 năm xưa đã cùng đồng đội ngồi lại trên bãi cát bên bờ biển Đông để cùng rút chốt, chia nhau một trái lựu đạn! Nhưng anh đã kém may mắn hơn đồng đội, đành lê kiếp sống tàn tạ như người xa lạ trên chính quê hương mình. MX Đoàn Văn Tuấn viết:
- “Một mùa đại giỗ nữa của gia đình anh em Mũ Xanh lại đến. Đã trên 33 năm trôi qua mà sao vẫn nhớ mãi cái cảnh những người lớn chơi trò trẻ con! Họ ngồi quây quần bên nhau, úp lá khoai môn lên trái mãng cầu. Những lời bình thản:
- “Ê, từ từ đã mày, chờ thằng Toàn đang chạy đến tham gia kia kìa”.
Rồi sau đó.. “BÙM”!!!
Trời Ơi! Đó là thực tế của bạn bè anh em chúng tôi, những người lính Mũ Xanh kiêu hùng nhưng họ đã phải đi nhặt những viên đạn để chống trả với quân thù! Dùng hàm răng làm vũ khí và sau cùng thì đành trở về với tuổi thơ, ngồi xúm lại trên bãi cát trắng bờ biển Thuận An miền Trung thơ mộng.
Trời vẫn xanh, biển vẫn rì rào lời mời gọi. Đường về! Oâi quá xa.
“BÙM”, những thân người đổ vật ra! Anh em ta đã về NHÀ, về với đất Mẹ thân yêu. Một thực tế mà trên thế giới ít một nước nào có. Sự tự sát tập thể không khác gì với những huyền thoại của những người võ sĩ đạo của xứ Phù-Tang. Tinh thần bất khuất ấy vẫn sống mãi trong ký ức những người còn lại.
Hôm nay ngồi đây, tôi viết những dòng này gửi đến các anh, đến bạn bè, những người lính MX năm xưa để chúng ta cùng cúi đầu dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ những người đã nằm xuống tháng 3, tháng gió lớn của gia đình Mũ Xanh
Sinh Tồn chuyển