Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 tái phối trí lực lượng bảo vệ Huế mùa Hè 1972
Như đã trình bày, trong những ngày cuối của tháng 4 và đầu tháng 5/1972, tình hình chiến sự tại Quảng Trị trở nên nguy kịch. Trong khi đó tại phía Tây và Tây Nam Huế, áp lực Cộng quân gia tăng sau khi tiểu đoàn 2 Trung đoàn 54 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh triệt thoái khỏi căn cứ Bastongne và tiểu đoàn 1 của trung đoàn này rút khỏi cao điểm 342 (căn cứ Checkmate). Ngày 2 tháng 5/1972, tiếp nhận quyền chỉ huy Quân đoàn 1 vào những giờ phút nguy biến của lịch sử, Trung tướng Ngô Quang Trưởng đã khẩn cấp tái tổ chức các cơ cấu chỉ huy và tham mưu. Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1 được thành lập và được điều hành bởi các sĩ quan thâm niên giàu kinh nghiệm chiến trường và công tác tham mưu. Trong hai ngày kế tiếp, Ttướng Trưởng đã đến tận các đơn vị đang phòng thủ tại các phòng tuyến trọng yếu từ bờ Nam sông Mỹ Chánh đến Tây Nam Thừa Thiên để thị sát chiến trường và kiểm tra tại chỗ tình hình của các đơn vị.
Kiểm tra lại khả năng tham chiến của các đại đơn vị trực thuộc và tăng phái, Sư đoàn 1 Bộ binh ( BB) còn 2 trung đoàn nguyên vẹn là Trung đoàn 1 và Trung đoàn 3 BB, còn Trung đoàn 54 tổn thất gần 40%; Sư đoàn 3 BB tổn thất nặng tại Quảng Trị cần một thời gian dể tái chính trang và tái huấn luyện. Lực lượng Thiết giáp và Pháo binh tăng phái cho Sư đoàn 3 BB cũng bị thiệt hại ở mức độ phải tái trang bị gần 100%.
-Chiến xa VNCH phối trí phòng thủ Thành nội Huế mùa Hè 1972.
* Kế hoạch phòng thủ Huế và các chương trình tái chỉnh trang của bộ Tư lệnh Quân đoàn 1:
Phòng thủ Huế và tái chỉnh trang các đơn vị là hai nỗ lực chính của bộ Tư lệnh Quân đoàn 1. Theo tài liệu của Trung tướng Ngô Quang Trưởng viết cho Ủy ban Quân sử Hoa, kế hoạch tổng quát của Quân đoàn 1 vào thượng tuần tháng 5/1972 và cuộc diện chiến trường vào thời gian này được ghi nhận như sau:
Sau khi Quảng Trị thất thủ, áp lực của Cộng quân ( CQ) đã chuyển hướng vào Huế, một mục tiêu trọng điểm mà CQ cố nhắm đánh chiếm. Ngày 4 tháng 5/1972, Trung tướng Trưởng đã khởi động một kế hoạch tổng quát cho công cuộc phòng thủ bảo vệ cố đô Huế: Sư đoàn Thủy quân Lục chiến (TQLC) với 3 lữ đoàn trách nhiệm vùng Bắc và Tây Bắc Thừa Thiên, với tuyến đầu là bờ sông Mỹ Chánh, gần địa giới hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên, cách Huế khoảng 30 km đường chim bay, nhiệm vụ của lực lượng TQLC là ngăn chận tất cả các nỗ lực xâm nhập của các đơn vị CQ vào Huế. Sư đoàn 1 Bộ binh nhận trách nhiệm vùng Tây và Tây Nam Huế, phòng thủ và ngăn chận hướng xâm nhập của địch quân từ thung lũng A-Shau (An Hậu), Ngoài các nhiệm vụ chính yếu, cả hai sư đoàn được toàn quyền mở các cuộc hành quân tấn công giới hạn để triệt hạ các đơn vị CQ hoạt động trong vùng trách nhiệm.
Trong sự liên kết với các nỗ lực để phòng thủ vòng đai Huế, một chương trình khẩn cấp được tiến hành để kịp thời tái trang bị và huấn luyện cho những đơn vị đã bị tổn thất nặng nề hoặc bị tan rã trong cuộc chiến tháng 4/1972 vừa qua. Bộ Tổng tham mưu chưa kịp có một kế hoạch dự trù nào để tái tạo những đơn vị này trở thành những đơn vị thiện chiến như trước khi trận chiến xảy ra. Trong phạm vi Quân đoàn 1, đây là trách vụ ưu tiên mà Bộ Tư lệnh Quân đoàn đã nổ lực thực hiện để kịp thời có cường lực vượt qua các thử thách để tái chiếm những vùng bị CQ tạm chiếm.
Trong cuộc chiến 32 ngày tại Quảng Trị, mức tổn thất rất cao. Nhiều đơn vị phải xây dựng lại từ đầu như lữ đoàn 1 Kỵ binh-lực lượng Thiết giáp hùng mạnh thống thuộc Quân đoàn 1 đã phải bỏ lại chiến trường 43 chiến xa M 48, 66 chiến xa M-41 và 103 thiết vận xa 130, phần lớn do khô cạn nhiên liệu, về nhân mạng có 1, 171 quân sĩ bị tử trận, thương vong, mất tích. Về pháo binh tổng cộng có 140 khẩu pháo đã được phá hủy hay bỏ lại ở bên bờ Bắc sông Thạch hãn hoặc tại các căn cứ khi triệt thoái. Sư đoàn 3 BB chỉ còn lại bộ tham mưu và những thành phần còn lại của 2 trung đoàn 2 và 57 Bộ binh, tổng quân số còn khoảng 2700 quân sĩ, thiệt hại đến 75%. (Tổng quân số một Sư đoàn Bộ binh kể cả các đơn vị binh chủng cơ hữu theo bảng cấp số lý thuyết vào khoảng 11 ngàn quân sĩ. Mỗi trung đoàn Bộ binh quân số lý thuyết hơn 2 ngàn 600). Ba liên đoàn BĐQ tham chiến cũng bị thiệt hại nặng, mất trên 50% cường lực tác chiến.
- Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 (từ tháng 6/1966 đến ngày 2/5/1972)
Các nỗ lực tái trang bị được tiến hành liên tục và hữu hiệu nhờ vào khả năng cung ứng và yểm trợ của các đơn vị Tiếp vận qua sự điều động của Tổng cục Tiếp vận và các phản ứng nhanh chóng và rất hiệu quả của hệ thống Tiếp vận Hoa Kỳ dưới sự giám sát của bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại VN (MACV). Chiến cụ khẩn thiết cho nhu cầu chiến trường đã bổ sung kịp thời như đại bác 105 ly, thiết vận xa, quân xa, vũ khí cộng đồng và cá nhân, mặt nạ phòng hơi độc, ngòi nổ, mình định hướng. Tất cả các quân khí này được vận chuyển cấp tốc đến Đà Nẵng bằng các vận tải cơ khổng lồ như C 141, C-5 hay bằng các hải vận hạm. Nhờ có sự yểm trợ kịp thời và đầy đủ, trong những tháng nghiêm trọng sau đó, không có một đơn vị chiến đấu nào thiếu thốn đạn dược, đặc biệt là các tiểu đoàn Pháo binh 105 và 155 ly.
Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai (hình chụp khi còn cấp bậc Thiếu Tá)
Về thời gian, các chương trình đã được rút ngắn. Một chương trình cấp tốc 2 tuần lễ huấn luyện bổ túc đã được thực hiện cho các đơn vị do các toán huấn luyện lưu động Việt-Mỹ phụ trách. Đặc biệt trong chương trình này có phần huấn luyện quân sĩ sử dụng các vũ khí chống chiến xa địch, đặc biệt là loại hỏa tiễn có giây điều khiển TOW (Tube-launch, Optical-tracked, Wire-guided), lần đầu tiên được đưa vào chiến trường Việt Nam ngày 21 tháng 5/1972. Khởi đầu các lớp huấn luyện này do lữ đoàn 196 Bộ binh Hoa Kỳ đảm trách, khi lữ đoàn này triệt thoái khỏi Đà Nẵng, các chương trình được tái huấn luyện tại trung tâm Huấn luyện Hòa Cầm ở phía Tây vùng ngoại ô Đà Nẵng.
Các đơn vị như Thiết đoàn 20 Kỵ binh, Trung đoàn 56 BB và các tiểu đoàn Địa phương quân bắt buộc phải trải qua một chương trình đầy đủ thời lượng để tái trang bị và huấn luyện. Các đơn vị được tập trung tại trung tâm Huấn luyện Đống Đa ở Phú Bài và tại trại Văn Thánh (doanh trại cũ của trung tâm Huấn luyện Sư đoàn 1 Bộ binh). Riêng Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB tạm thời đóng tại một khu vực ở Phú Bài của Quân đội Hoa Kỳ để lại.
* Tình trạng Sư đoàn 3 BB:
Cũng cần ghi nhận rằng sau khi Sư đoàn 3 triệt thoái khỏi Quảng Trị, Tổng thống Thiệu cũng muốn xóa đi khỏi Quân Lực danh hiệu của Sư đoàn này và tái tổ chức sư đoàn này thành Sư đoàn 27 Bộ binh, vì Tổng thống Thiệu cho rằng con số 3 xui xẻo, cần phải xóa đi.
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.
Trung tướng Trưởng cho biết ông đã nhận được nhiều cú điện thoại của trung tướng Nguyễn Văn Mạnh-tham mưu trưởng Liên quân-thông báo ý định của Tổng thống Thiệu về việc xóa danh hiệu Sư đoàn 3 BB. Ông đã phải tranh đấu và giải trình rất nhiều lần để giữ lại danh hiệu của sư đoàn này. Cuối cùng Tổng thống Thiệu đã đồng ý.
Theo Trung tướng Trưởng thì vị tư lệnh tiền nhiệm Quân đoàn 1 & Quân khu 1 là trung tướng Hoàng Xuân Lãm đã gây khó khăn cho Tướng Giai trong kế hoạch điều quân khi Trung tướng Lãm "tự mình thường xuyên ra chỉ thị bằng cách điện thoại hay gọi qua máy truyền tin thẳng với trung đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng". Tướng Giai chỉ biết nội dung các chỉ thị của Tướng Lãm, sau khi các chỉ thị này đã được các đơn vị trưởng (nhận lệnh của Tướng Lãm) thi hành xong xuôi. Tướng Trưởng nhận xét rằng việc làm của Tướng Lãm đã làm thương tổn đến quyền chỉ huy của Tướng Giai.
Vương Hồng Anh
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 tái phối trí lực lượng bảo vệ Huế mùa Hè 1972
Như đã trình bày, trong những ngày cuối của tháng 4 và đầu tháng 5/1972, tình hình chiến sự tại Quảng Trị trở nên nguy kịch. Trong khi đó tại phía Tây và Tây Nam Huế, áp lực Cộng quân gia tăng sau khi tiểu đoàn 2 Trung đoàn 54 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh triệt thoái khỏi căn cứ Bastongne và tiểu đoàn 1 của trung đoàn này rút khỏi cao điểm 342 (căn cứ Checkmate). Ngày 2 tháng 5/1972, tiếp nhận quyền chỉ huy Quân đoàn 1 vào những giờ phút nguy biến của lịch sử, Trung tướng Ngô Quang Trưởng đã khẩn cấp tái tổ chức các cơ cấu chỉ huy và tham mưu. Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1 được thành lập và được điều hành bởi các sĩ quan thâm niên giàu kinh nghiệm chiến trường và công tác tham mưu. Trong hai ngày kế tiếp, Ttướng Trưởng đã đến tận các đơn vị đang phòng thủ tại các phòng tuyến trọng yếu từ bờ Nam sông Mỹ Chánh đến Tây Nam Thừa Thiên để thị sát chiến trường và kiểm tra tại chỗ tình hình của các đơn vị.
Kiểm tra lại khả năng tham chiến của các đại đơn vị trực thuộc và tăng phái, Sư đoàn 1 Bộ binh ( BB) còn 2 trung đoàn nguyên vẹn là Trung đoàn 1 và Trung đoàn 3 BB, còn Trung đoàn 54 tổn thất gần 40%; Sư đoàn 3 BB tổn thất nặng tại Quảng Trị cần một thời gian dể tái chính trang và tái huấn luyện. Lực lượng Thiết giáp và Pháo binh tăng phái cho Sư đoàn 3 BB cũng bị thiệt hại ở mức độ phải tái trang bị gần 100%.
-Chiến xa VNCH phối trí phòng thủ Thành nội Huế mùa Hè 1972.
* Kế hoạch phòng thủ Huế và các chương trình tái chỉnh trang của bộ Tư lệnh Quân đoàn 1:
Phòng thủ Huế và tái chỉnh trang các đơn vị là hai nỗ lực chính của bộ Tư lệnh Quân đoàn 1. Theo tài liệu của Trung tướng Ngô Quang Trưởng viết cho Ủy ban Quân sử Hoa, kế hoạch tổng quát của Quân đoàn 1 vào thượng tuần tháng 5/1972 và cuộc diện chiến trường vào thời gian này được ghi nhận như sau:
Sau khi Quảng Trị thất thủ, áp lực của Cộng quân ( CQ) đã chuyển hướng vào Huế, một mục tiêu trọng điểm mà CQ cố nhắm đánh chiếm. Ngày 4 tháng 5/1972, Trung tướng Trưởng đã khởi động một kế hoạch tổng quát cho công cuộc phòng thủ bảo vệ cố đô Huế: Sư đoàn Thủy quân Lục chiến (TQLC) với 3 lữ đoàn trách nhiệm vùng Bắc và Tây Bắc Thừa Thiên, với tuyến đầu là bờ sông Mỹ Chánh, gần địa giới hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên, cách Huế khoảng 30 km đường chim bay, nhiệm vụ của lực lượng TQLC là ngăn chận tất cả các nỗ lực xâm nhập của các đơn vị CQ vào Huế. Sư đoàn 1 Bộ binh nhận trách nhiệm vùng Tây và Tây Nam Huế, phòng thủ và ngăn chận hướng xâm nhập của địch quân từ thung lũng A-Shau (An Hậu), Ngoài các nhiệm vụ chính yếu, cả hai sư đoàn được toàn quyền mở các cuộc hành quân tấn công giới hạn để triệt hạ các đơn vị CQ hoạt động trong vùng trách nhiệm.
Trong sự liên kết với các nỗ lực để phòng thủ vòng đai Huế, một chương trình khẩn cấp được tiến hành để kịp thời tái trang bị và huấn luyện cho những đơn vị đã bị tổn thất nặng nề hoặc bị tan rã trong cuộc chiến tháng 4/1972 vừa qua. Bộ Tổng tham mưu chưa kịp có một kế hoạch dự trù nào để tái tạo những đơn vị này trở thành những đơn vị thiện chiến như trước khi trận chiến xảy ra. Trong phạm vi Quân đoàn 1, đây là trách vụ ưu tiên mà Bộ Tư lệnh Quân đoàn đã nổ lực thực hiện để kịp thời có cường lực vượt qua các thử thách để tái chiếm những vùng bị CQ tạm chiếm.
Trong cuộc chiến 32 ngày tại Quảng Trị, mức tổn thất rất cao. Nhiều đơn vị phải xây dựng lại từ đầu như lữ đoàn 1 Kỵ binh-lực lượng Thiết giáp hùng mạnh thống thuộc Quân đoàn 1 đã phải bỏ lại chiến trường 43 chiến xa M 48, 66 chiến xa M-41 và 103 thiết vận xa 130, phần lớn do khô cạn nhiên liệu, về nhân mạng có 1, 171 quân sĩ bị tử trận, thương vong, mất tích. Về pháo binh tổng cộng có 140 khẩu pháo đã được phá hủy hay bỏ lại ở bên bờ Bắc sông Thạch hãn hoặc tại các căn cứ khi triệt thoái. Sư đoàn 3 BB chỉ còn lại bộ tham mưu và những thành phần còn lại của 2 trung đoàn 2 và 57 Bộ binh, tổng quân số còn khoảng 2700 quân sĩ, thiệt hại đến 75%. (Tổng quân số một Sư đoàn Bộ binh kể cả các đơn vị binh chủng cơ hữu theo bảng cấp số lý thuyết vào khoảng 11 ngàn quân sĩ. Mỗi trung đoàn Bộ binh quân số lý thuyết hơn 2 ngàn 600). Ba liên đoàn BĐQ tham chiến cũng bị thiệt hại nặng, mất trên 50% cường lực tác chiến.
- Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 (từ tháng 6/1966 đến ngày 2/5/1972)
Các nỗ lực tái trang bị được tiến hành liên tục và hữu hiệu nhờ vào khả năng cung ứng và yểm trợ của các đơn vị Tiếp vận qua sự điều động của Tổng cục Tiếp vận và các phản ứng nhanh chóng và rất hiệu quả của hệ thống Tiếp vận Hoa Kỳ dưới sự giám sát của bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại VN (MACV). Chiến cụ khẩn thiết cho nhu cầu chiến trường đã bổ sung kịp thời như đại bác 105 ly, thiết vận xa, quân xa, vũ khí cộng đồng và cá nhân, mặt nạ phòng hơi độc, ngòi nổ, mình định hướng. Tất cả các quân khí này được vận chuyển cấp tốc đến Đà Nẵng bằng các vận tải cơ khổng lồ như C 141, C-5 hay bằng các hải vận hạm. Nhờ có sự yểm trợ kịp thời và đầy đủ, trong những tháng nghiêm trọng sau đó, không có một đơn vị chiến đấu nào thiếu thốn đạn dược, đặc biệt là các tiểu đoàn Pháo binh 105 và 155 ly.
Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai (hình chụp khi còn cấp bậc Thiếu Tá)
Về thời gian, các chương trình đã được rút ngắn. Một chương trình cấp tốc 2 tuần lễ huấn luyện bổ túc đã được thực hiện cho các đơn vị do các toán huấn luyện lưu động Việt-Mỹ phụ trách. Đặc biệt trong chương trình này có phần huấn luyện quân sĩ sử dụng các vũ khí chống chiến xa địch, đặc biệt là loại hỏa tiễn có giây điều khiển TOW (Tube-launch, Optical-tracked, Wire-guided), lần đầu tiên được đưa vào chiến trường Việt Nam ngày 21 tháng 5/1972. Khởi đầu các lớp huấn luyện này do lữ đoàn 196 Bộ binh Hoa Kỳ đảm trách, khi lữ đoàn này triệt thoái khỏi Đà Nẵng, các chương trình được tái huấn luyện tại trung tâm Huấn luyện Hòa Cầm ở phía Tây vùng ngoại ô Đà Nẵng.
Các đơn vị như Thiết đoàn 20 Kỵ binh, Trung đoàn 56 BB và các tiểu đoàn Địa phương quân bắt buộc phải trải qua một chương trình đầy đủ thời lượng để tái trang bị và huấn luyện. Các đơn vị được tập trung tại trung tâm Huấn luyện Đống Đa ở Phú Bài và tại trại Văn Thánh (doanh trại cũ của trung tâm Huấn luyện Sư đoàn 1 Bộ binh). Riêng Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB tạm thời đóng tại một khu vực ở Phú Bài của Quân đội Hoa Kỳ để lại.
* Tình trạng Sư đoàn 3 BB:
Cũng cần ghi nhận rằng sau khi Sư đoàn 3 triệt thoái khỏi Quảng Trị, Tổng thống Thiệu cũng muốn xóa đi khỏi Quân Lực danh hiệu của Sư đoàn này và tái tổ chức sư đoàn này thành Sư đoàn 27 Bộ binh, vì Tổng thống Thiệu cho rằng con số 3 xui xẻo, cần phải xóa đi.
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.
Trung tướng Trưởng cho biết ông đã nhận được nhiều cú điện thoại của trung tướng Nguyễn Văn Mạnh-tham mưu trưởng Liên quân-thông báo ý định của Tổng thống Thiệu về việc xóa danh hiệu Sư đoàn 3 BB. Ông đã phải tranh đấu và giải trình rất nhiều lần để giữ lại danh hiệu của sư đoàn này. Cuối cùng Tổng thống Thiệu đã đồng ý.
Theo Trung tướng Trưởng thì vị tư lệnh tiền nhiệm Quân đoàn 1 & Quân khu 1 là trung tướng Hoàng Xuân Lãm đã gây khó khăn cho Tướng Giai trong kế hoạch điều quân khi Trung tướng Lãm "tự mình thường xuyên ra chỉ thị bằng cách điện thoại hay gọi qua máy truyền tin thẳng với trung đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng". Tướng Giai chỉ biết nội dung các chỉ thị của Tướng Lãm, sau khi các chỉ thị này đã được các đơn vị trưởng (nhận lệnh của Tướng Lãm) thi hành xong xuôi. Tướng Trưởng nhận xét rằng việc làm của Tướng Lãm đã làm thương tổn đến quyền chỉ huy của Tướng Giai.
Vương Hồng Anh
Sinh Tồn chuyển