Đáng lẽ ngày này phải có lễ kỷ niệm, bởi vì đó là ngày Trung Quốc xâm lược Việt Nam tàn phá biên giới giết hại nhân dân Việt Nam.  Đó là một dấu mốc mà nhân dân Việt Nam đời đời
            
                
Đáng lẽ ngày này phải có lễ kỷ niệm, bởi vì đó là ngày Trung Quốc xâm lược Việt Nam tàn phá biên giới giết hại nhân dân Việt Nam.   Đó là một dấu mốc mà nhân dân Việt Nam đời đời khắc cốt, ghi xương.   Đáng ra phải có lễ kỷ niệm, nhưng vì sao vậy? Đó là do sức ép của nhà  cầm quyền Trung Cộng đối với nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, Trung Quốc  vừa ăn cướp vừa bịt miệng  nạn nhân với những mỹ từ nào là “16 chữ  vàng” nào là “4 tốt”.
 Hơn 1/3 thế kỷ trước đây, vào sáng sớm ngày 17 tháng 2, 1979 Trung Cộng  bất ngờ mở cuộc tấn công xâm lược trên toàn tuyến biên giới đất liền  với Việt Nam thuộc địa phận 6 tỉnh  từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Phong  Thổ (Lai Châu). 
 Và sau một tháng Trung Cộng rút lui khi cả hai bên đều thiệt hại nặng nề về người, phía Việt Nam  còn bị tổn thất nặng về tài sản do bị phá hoại tại những tỉnh, làng  mạc, khu vực mà lính Trung Cộng đã chiếm đóng hoặc trên đường lui quân. Một cuộc chiến ngắn ngủi nhưng thảm khốc.
 
 Suốt bao nhiêu năm  nay, cuộc chiến tranh với Trung Cộng năm 1979 và sau đó, năm 1984, đã  trở thành một chủ đề nhạy cảm mà đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam hoàn  toàn không muốn người dân nhắc đến.
 Tất cả các báo, đài phát thanh, đài truyền hình do nhà nước cộng sản Việt Nam nắm giữ đều lặng thinh – Đó là sự quên lãng hay phản bội của Đảng Cộng  Sản Việt Nam?!
Cuộc chiến tranh chống Trung Cộng  xâm lươc chỉ được nhắc đến qua báo chí nước ngoài, báo chí của người  Việt ở hải ngoại, các diễn đàn độc lập, các trang blog cá nhân trong  nước. Nhiều tin tức, tư liệu về cuộc chiến được công bố  
Cuộc chiến biên giới Việt – Trung  2/1979 đôi điều nhớ lại
 
 
    
        
              | 
        
        
            | Bản đồ chi tiết về trục tiến quân của địch quân Trung Cộng xuống đánh nước ta vào tháng 2/1979 | 
        
    
 
 
 
  Về  phía Trung Cộng lực lượng được huy động cho chiến dịch là 28 sư đoàn bộ  binh, 2 sư đoàn và 39 trung đoàn pháo binh, 7 trung đoàn và 1 tiểu đoàn  xe tăng, 2 sư đoàn phòng không, ngoài ra còn có nhiều trung đoàn, tiểu  đoàn bộ binh địa phương, biên phòng, các đơn vị binh chủng (công binh,  thông tin, vận tải…), lực lượng dân binh tham gia trực tiếp chiến đấu và  hỗ trợ chiến đấu. Một số sư đoàn không quân và hải quân của hạm đội Nam  Hải cũng được lệnh sẵn sàng phía sau. 
Các lực  lượng trên chủ yếu được lấy từ 2 quân khu Quảng Châu và Côn Minh, nhưng  cũng có các đơn vị của các quân khu khác như Thành Đô, Thẩm Dương… tham  gia tăng cường.
 
 Lực  lượng tham chiến của Việt Nam là các đơn vị thuộc Quân khu 1  và Quân  khu 2  gồm các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, công an vũ  trang (bộ đội biên phòng), dân quân tự vệ và nhân dân 6 tỉnh biên giới  Lai Châu, Hoàng Liên Sơn (Lào Cai Yên Bái), Hà Tuyên (Hà Giang – Tuyên  Quang), Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh
  
 
 Cuộc chiến  kéo dài 16 ngày, chia thành 2 giai đoạn:
    
 
Giai đoạn 1  
 
 
 5 giờ sáng ngày 17  thang2 năm 1979 lực lượng Trung  Cộng khoảng 120.000 quân bắt đầu tiến  vào Việt Nam trên toàn tuyến biên giới, mở đầu là pháo, tiếp theo là xe  tăng và bộ binh.  Tổng cộng quân Trung Cộng xâm nhập Việt Nam trên 26  điểm, Các khu vực dân cư Việt Nam chịu thiệt hại nặng nhất từ đợt tấn  công đầu tiên này là Lào Cai, Mường Khương, Cao Bằng, Lạng Sơn và Móng  Cái   
 
    
    
        
              | 
        
        
            | Mặt trận Lào Cai (2/1979) | 
        
    
 Không quân và hải quân không được sử  dụng trong toàn bộ cuộc chiến. Tất cả các hướng tấn công đều có xe  tăng, pháo binh hỗ trợ. Quân Trung Quốc vừa chiếm ưu thế về lực lượng,  vừa chủ động về thời gian tiến công, lại còn có "lực lượng thứ năm" gồm  những người Việt gốc Hoa cài cắm từ lâu trên đất Việt Nam. Từ đêm 16  tháng 2, các tổ thám báo Trung Quốc đã mang theo bộc phá luồn sâu vào  nội địa Việt Nam móc nối với "lực lượng thứ năm" này lập thành các toán  vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu để ngăn chặn  quân tiếp viện của Việt Nam từ phía sau lên. Trước giờ nổ súng, các lực  lượng này cũng bí mật cắt các đường dây điện thoại để cô lập chỉ huy sư  đoàn với các chốt, trận địa pháo.
 
 Tiến nhanh lúc khởi đầu, nhưng quân  Trung Cộng nhanh chóng phải giảm tốc độ do gặp nhiều trở ngại về địa  hình và hệ thống hậu cần  Hệ thống phòng thủ của Việt Nam dọc theo biên  giới rất mạnh, với các hầm hào hang động tại các điểm cao dọc biên giới  do lực lượng quân sự có trang bị và huấn luyện tốt trấn giữ. Kết quả là  Trung Cộng phải chịu thương vong lớn. Chiến sự ác liệt nhất diễn ra tại  các vùng Bát Xát, Mường Khương, Đồng Đăng, Ở Đông Bắc. quân Trung Cộng  cũng đã vượt sông Hồng và đánh mạnh về phía Lào Cai. 
 Trong hai ngày 18 và 19 tháng 2, chiến sự lan rộng hơn. Quân Việt Nam  kháng cự rất mạnh và với tinh thần chiến đấu cao. Quân Trung Cộng hầu  như không thể sử dụng lực lượng ở mức sư đoàn mà phải dùng đội hình nhỏ  và thay đổi chiến thuật tiến chậm chạp, giành giật từng đường hầm, từng  điểm cao, và cuối cùng cũng chiếm được Mường Khương, Trùng Khánh, và  Đồng Đăng. Tại Móng Cái, hai bên giành giật dai dẳng. Cả hai bên đều  phải chịu thương vong cao, có ít nhất 4.000 lính Trung Cộng chết trong  hai ngày đầu này.
 
    
        
              | 
        
        
            | Mặt trận Cao Bằng (2/1979) | 
        
    
 Trận chiến tại Đồng Đăng bắt đầu  ngay từ ngày 17 và là trận ác liệt nhất.Đây là trận địa phòng thủ của  Trung đoàn 12 Tây Sơn, Sư đoàn Sao Vàng, Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tấn  công vào Đồng Đăng là 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, và chi  viện của 6 trung đoàn pháo binh Trung Quốc Cụm điểm tựa Thâm Mô, Pháo  Đài, 339 tạo thế chân kiềng bảo vệ phía Tây Nam thị xã Đồng Đăng, do lực  lượng của 2 tiểu đoàn 4, 6, Trung đoàn 12 trấn giữ, bị Trung Quốc bao  vây và tấn công dồn dập ngay từ đầu với lực lượng cấp sư đoàn. Lực lượng  phòng thủ không được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối  cùng, trụ được cho đến ngày 22. Ngày cuối cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ  thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân  Trung Cộng chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả  lựu đạn, bắn đạn hóa chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả  thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn.
 Ngày 19 tháng 2, Đặng Tiểu Bình   tuyên bố đây là cuộc chiến tranh hạn chế và Trung Quốc sẽ rút quân ngay  sau khi đạt được mục tiêu giới hạn,
 Trong giai đoạn đầu đến ngày  28/2/1979 quân Trung Cộng chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, và  một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy  triệt để. Tuy nhiên, do vấp phải sự phòng ngự có hiệu quả của Việt Nam  nên quân Trung Cộng tiến rất chậm và bị thiệt hại nặng. Việt Nam còn phản kích đánh cả vào hai thị trấn biên giới của Trung Quốc 
 Giai đoạn 2:  
 
    
        
              | 
        
        
            | Mặt trận Lạng Sơn (2/1979) | 
        
    
 Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày 27/2.  Chiến sự tập trung tại Lạng Sơn tuy giao tranh tại Lào Cai, Cao Bằng, và  Móng Cái vẫn tiếp diễn. . Suốt ngày 27, ở hướng Cao Lộc, sư đoàn 129  Trung Quốc không phá nổi trận địa phòng thủ của trung đoàn 141; ở hướng  đường 1B, sư đoàn 161 bị trung đoàn 12 ghìm chân; ở hướng đường 1A,  trung đoàn 2 vừa chặn đánh sư đoàn 160 từ phía Bắc vừa chống lại cánh  quân vu hồi của sư đoàn 161 từ hướng Tây Bắc thọc sang. Trong suốt các  ngày từ 28 tháng 2 đến 2 tháng 3, quân Trung Cộng vẫn không vượt qua  được đoạn đường 4 km để vào thị xã Lạng Sơn, tuy đã dùng cho hướng tiến  công này gần 5 sư đoàn bộ binh. nhiều trận đánh đẫm máu giành giật các  điểm cao quanh Lạng Sơn, mà có trận quân phòng thủ Việt Nam đánh đến viên đạn cuối cùng,  
 
 
 Đến đây, phía Việt Nam  đã điều các sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo binh, không quân hỗ trợ áp  sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng.  Quân đoàn 14 với các sư đoàn 337, 327, 338 hầu như còn nguyên vẹn đang  bố trí quân quanh thị xã Lạng Sơn. Quân đoàn 2, chủ lực của Quân đội  Nhân dân Việt Nam, đã tập kết sau lưng Quân đoàn 14.
 
Rút quân
 
 Ngày 5 tháng 3 năm 1979,Bắc Kinh tuyên bố đã "hoàn thành mục tiêu chiến tranh và bắt đầu rút quân. 
    
        
              | 
        
        
            | Tù binh Tàu Cộng | 
        
    
    
        
              | 
        
        
            | Tù binh Tàu Cộng | 
        
    
 Mặc dù Trung Cộng tuyên bố rút quân,  chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi. Dân thường Việt Nam vẫn tiếp tục  bị giết, chẳng hạn như vụ thảm sát ngày 8/3 tại thôn Đổng Chúc, xã Hưng  Đạo, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng  khi quân Trung Cộng đã dùng búa và dao  giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang  mang thai, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc rồi vứt hai  bên bờ suối.  Trong thời gian chuẩn bị rút quân, Trung Cộng còn phá hủy  một cách có hệ thống toàn bộ các công trình xây dựng, từ nhà dân hay cột  điện, tại các thị xã thị trấn Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn,... 
 Ngày18 tháng 3 năm 1979, Trung Cộng hoàn tất việc rút quân khỏi Việt Nam.
Trở lại câu hỏi - đây là:
 
Một cuộc chiến cố tình bị lãng quên hay là sự phản bội của Đảng Cộng sản Việt Nam ?
 
  Ba mươi ba năm về trước, lúc 5g25’  sáng ngày 17/2/1979, tiếng đại pháo của quân Trung Công đồng loạt khai  hỏa trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, từ Phong Thổ, Lai Châu đến địa  đầu Móng Cái, mở đầu một cuộc chiến, mà đối với giới lãnh đạo Bắc Kinh  là “dạy cho quân côn đồ Việt Nam một bài học” (Đặng Tiểu Bình); đối với  giới lãnh đạo Việt Nam là “trận đánh xâm lược của bọn bá quyền Trung  Quốc” (Lê Duẫn). Còn đối với quốc tế thì đó là cuộc chiến tranh Đông  Dương lần thứ ba.
 
 
  
Dù gọi dưới danh xưng gì đi  nữa thì cuộc chiến này vẫn là một trong những trận chiến thảm khốc nhất  Việt Nam dưới gốc độ hủy diệt và dã man trong một khoảng thời gian rất  ngắn.
 
 
 Không có bất cứ số  liệu nào chính thức và đáng tín cậy về con số thương vong của quân dân  hai bên tham chiến, tuy nhiên con số mà người ta ước lượng là trên 100  ngàn người cho cả hai phía sau gần 30 ngày giao tranh đẫm máu sau khi  Trung Quốc chính thức rút quân vào ngày 16/3/1979.
 
Trên  đường tấn công, quân Trung Cộng nã súng không thương tiếc đối với bất  kỳ ai, bất kỳ vật gì mà họ gặp trên đường tiến quân. Sư đoàn 163 (Trung  Quốc) nhận được lệnh từ cấp trên là “sát cách vô luận” (giết người không  bi buộc tội) do vậy lính Trung Cộng vô tư, “rộng rãi” sử dụng đại bác,  hỏa tiển, súng phun lửa, mìn và kể cả xăng để tiêu diệt từ làng này sang  làng khác, hết chục người này đến trăm, ngàn người khác. 
 
 Nếu  như, ở Bát Xát (Lào Cai), hàng trăm phụ nữ bị hãm hiếp, bị giết một  cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang, thì tại  thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày  9/3/1979, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người gồm 23 phụ  nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết  bằng dao như Pol Pốt. 10 người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác,  xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.”
   
 Kết quả đó đã được Đặng Tiểu Bình hả  hê xác nhận chủ tâm dã man này trong một bài nói chuyện đúng vào ngày  rút quân của Trung Quốc: “Mười  một ngày này trên đường trở về đã quét dọn một số hang, có một số vật tư  giấu ở hang này hang nọ, một số thôn trang, cũng quét dọn mấy ngàn  người, trên vạn người.” 
 
 
 
 17/2/1979 
 
 Ngày này, ba mươi bốn năm sau, dường như không còn chút vết tích gì về cuộc chiến đó trên quê hương Việt Nam. Đối với mỗi người Việt Nam  yêu nước câu hỏi lớn và đau đớn nhất trong ngày này - đây là một sự  lãng quên vô tình hay phản bội ? Bởi toàn bộ hệ thống truyền thông, báo  chí chính thống của nhà nước không hề nêu lên một chữ dù chỉ để nhắc nhớ  như đã từng nhắc nhớ về những cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ?
 
 Trong hàng loạt những hoạt động  tưởng nhớ, đền ơn những người có công với đất nước người ta không hề  nghe đến những người đã hy sinh cho Tổ quốc trong trận chiến với “quân  Trung Quốc xâm lược”. vào tháng 2 năm 1979. Trên các tỉnh phía Bắc, nơi  xảy ra cuộc chiến, những tấm bía nào có ghi dồng chữ “quân Trung Quốc xâm lươc” đều bị xóa sạch.
    
        
              | 
        
        
            | 4 chữ "TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC" đã bị đục bỏ | 
        
    
  Cũng có những nghĩa trang chôn  cất những người đã hy sinh trong trận chiến nhưng lại đìu hiu đến ngậm  ngùi. Nghĩa trang Duyên Hải, Lào Cai là một điển hình chua xót. Cũng từ  chủ nghĩa ấy các anh đã cầm súng và hy sinh, và sự hy sinh của các anh  ngày hôm nay đã biến vào hư không, âm thầm như nhũng cái chết vô danh.  Những nấm mộ này vẫn đang nằm trong lãng quên của nhiều người, ngoại trừ  nỗi buồn đau của người thân các anh.  
 
 Đáng lẽ ngày này phải có lễ kỷ niệm, bởi vì đó là ngày Trung Quốc xâm lược Việt Nam  tàn phá biên giới  giết hại nhân dân Việt Nam.   Đó là một dấu mốc mà nhân dân Việt Nam đời đời khắc cốt, ghi xương.   Đáng ra phải có lễ kỷ niệm, nhưng vì sao vậy? Đó là do sức ép của nhà  cầm quyền Trung Cộng đối với nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, Trung Quốc  vừa ăn cướp vừa bịt miệng  nạn nhân với những mỹ từ nào là “16 chữ  vàng” nào là “4 tốt”
 
 
 Hình bên: Những con buôn chính trị Đặng Tiểu Bình (Tàu Cộng - bên trái) TT Jimmy Carter (Hoa Kỳ - bên phải)
 
Liệu pháp “16 chữ vàng” và “4 tốt”  xuất hiện trong bối cảnh nào mà đã xóa sạch mọi vết tích của trận chiến  ngày 17/2/1979. Thậm chí nó còn muốn hủy diệt sức đề kháng trước ngoại  xâm của dân tộc Việt Nam? 
 Vì sao hình ảnh “16 chữ vàng”  và “4  tốt”đã  thay chỗ cho những khuôn mặt đau thương, những thân hình tàn  phế cùng những hy sinh không đếm được của hàng chục vạn chiến sĩ, đồng  bào trong cuộc chiến 17 tháng 2  năm 1979 – Nguyên do là vì nhóm cầm đầu  Đảng Cộng sản Việt Nam đã cam tâm cúi đầu làm tay sai tập đoàn bành  trướng, bà  quyền Đại Hán.
Hàng ngàn năm sống bên cạnh Trung Quốc đã cho người Việt Nam  quá nhiều kinh nghiệm và bài học. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam từ  trước đến nay vì luôn luôn đặt quyền lợi của đảng lên trên quyền lợi của  dân tộc nên mới nhận kẻ thù truyền kiếp của dân tộc làm bạn, rồi bây  giờ cũng vì quyền lợi riêng,  nên cúi đầu cam tâm thần phục Bắc Kinh. Và  ép buộcnhân dân phải đớn hèn theo họ! 
 
  
 
  Cuộc chiến biên giới tháng 2/1979 chống quân Trung Quốc xâm lược là  Một cuộc chiến cố tình bị lãng quên hay là sự phản bội của Đảng Cộng sản Việt Nam ?! 
Thụy Giang 
Nhớ lại ngày 17/2/1979    
Trí Nhân Media