Cà Kê Dê Ngỗng
Cái chết của ông Hoàng đế Đỏ ( Toàn tập)
1976: Mao qua đời
Cay Rademacher
Phan Ba dịch
Mao nằm chờ chết trong mùa hè năm 1976, – và các cán bộ chóp bu trong ĐCS chuẩn bị cho trận tranh giành quyền lực sắp tới. Khi cuối cùng rồi thời điểm đó cũng đến, một người đàn ông chớp lấy thời cơ, người mà trước đó vài tháng đã không có ai nghĩ đến.
Trung Nam Hải là một khu phố đầy bí ẩn ở rìa phía Tây của “Cấm Thành” trong Bắc Kinh. Trước đây, đó là khu vườn hoa của các hoàng đế, một công viên với hai hồ nước – hồ Trung, Trung Hải, và hồ Nam, Nam Hải. Cây thông và bách cho bóng mát, nằm cạnh hồ là những ngôi nhà lộng lẫy từ thời của hoàng đế Càn Long với mái ngói xám và những sân trong nhiều bóng mát: ví dụ như “nhà màn hương” hay “đại sảnh của hồ yên tịnh”. Ở giữa đó là những công trình xây dựng hiện đại – nhà ở cho người phục vụ hay văn phòng, trại lính, hai nhà tắm.
Một bức tường màu đỏ son che chắn khu Trung Nam Hải trước những cái nhìn tò mò. Đứng gác ở cổng là lính của đơn vị tinh nhuệ 8341, và ngay cả trong những đường phố xung quanh đấy cũng có lực lượng an ninh trang bị vũ khí đi tuần.
Sống ở đây là người đàn ông có nhiều quyền lực nhất của Trái Đất, thống trị gần một tỉ con người và là thần tượng cho hàng triệu người ở khắp nơi trên thế giới: Mao Trạch Đông.
Nhưng đã từ lâu, Mao không còn để ý tới nét đẹp của Trung Nam Hải nữa. Vào cái ngày thứ tư 8 tháng 9 năm 1976 đấy, ông ấy nằm bất lực trong “Nhà 202″, một khối nhà hiện đại bên cạnh bể tắm, không còn khả năng tự ăn uống và nói cho rõ ràng.
Đó là một ngày hè nóng nực. Mãi cho tới bây giờ, ngay trước nửa đêm, trời mới dịu mát đi một chút. Bác sĩ riêng Lý Chí Tuy được gọi tới chỗ Mao. Các bác sĩ trực đã tiêm cho bệnh nhân một loại thuốc hỗ trợ tuần hoàn máu, nhưng họ không còn có thể làm ổn định nhịp tim và huyết áp của ông ấy được nữa.
Tiếng kêu rì rì của máy hô hấp vang lên trong căn phòng. Hầu như không còn có thể nhận ra được gương mặt của Mao ở phía sau chiếc mặt nạ thở ô xy đã bị trượt ra một chút được nữa. Quan chức cao cấp trong Đảng đứng canh bên cạnh bác sĩ và y tá. Một người kéo riêng bác sĩ Lý ra một bên và thì thầm: “Anh còn có thể làm gì được nữa không?”
Sau khi im lặng một lúc lâu, người bác sĩ riêng trả lời yếu ớt với “chúng tôi đã làm tất cả những gì chúng tôi có thể làm”. Dù trong bất cứ trường hợp nào, ông ấy cũng không muốn nói ra cái từ “chết”, mặc dù ông ấy biết rõ là Mao chỉ còn sống thêm được vài phút ít ỏi nữa thôi.
Những gì sẽ xảy ra sau đó, với các bác sĩ, với các quan chức cao cấp, với Đảng, với cả vương quốc khổng lồ, là hoàn toàn không thể biết được – mặc dù bóng tối của cái chết đã lơ lững trên ĐCS Trung Quốc từ đầu năm: đúng tám tháng trước đó, một người sắp chết khác của Trung Quốc đã rung chuông báo hiệu cho “năm bước ngoặc” lịch sử của Trung Quốc.
THỨ NĂM, NGÀY 8 THÁNG 1 NĂM 1976: trong một gian phòng tranh sáng tranh tối, được trang bị sơ sài trong Bệnh viện Bắc Kinh 305 có một người đàn ông già, mảnh khảnh nằm từ hai năm nay. Màng xám kéo qua trên mái tóc dầy màu đen, cơ thể chỉ còn xương với da. Cuộc đấu tranh kéo dài chống ung thư bọng đái, ung thư ruột và ung thư phổi đã chấm dứt: Chu Ân Lai, Thủ tướng Trung Quốc từ 26 năm nay, đã qua đời.
Chu tương ứng với hình ảnh lý tưởng của một người Trung Quốc có văn hóa cho tới mức ở Phương Tây, người ta không bắt buộc phải cảm nhận ông ấy là một người Cộng sản giáo điều. Ông ấy ăn nói khéo léo, có sức thu hút, thông thái, được đào tạo ở châu Âu, chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng ở đó. Ngay đến tên của ông ấy dường như cũng phù hợp – “Ân Lai” có nghĩa là “thịnh vượng xuất phát từ ông ấy”.
Mặc dù lâu nay Chu Ân Lai đã không còn có thể gây ảnh hưởng đến diễn tiến của sự việc được nữa, ông ấy vẫn là người được người dân Trung Quốc yêu mến. Ông ấy là người đã cắt xén những ý tưởng quá khích–không tưởng của Mao xuống một mức thực tế và mỗi ngày đều tận tâm làm việc nhiều đến mức đáng ngạc nhiên – con người của sự chừng mực. Sự chấm dứt của ông ấy có khiến cho Chủ nghĩa Cộng sản ở Trung Quốc trở nên cực đoan nữa hay không?
Một tuần sau đó, hàng trăm ngàn người đã đứng xếp hàng chào khi chiếc xe chở quan tài lăn đi trên đại lộ Trường An đến nghĩa trang Bát Bảo Sơn dành cho những người nổi tiếng. Có thể nhận thấy họ đau buồn thật sự, điều lại càng tăng lên sau khi ý muốn cuối cùng của Chu được loan truyền đi: không đưa tro của ông ấy vào trong một cái lăng lộng lẫy mà hãy phân tán ra tất cả các tỉnh.
Trong các chế độ độc tài, tang lễ nhà nước là những cái máy để đo địa chấn của quyền lực. Tất cả vẫn sẽ như cũ, hay sẽ có động đất chính trị? Vì thế, việc ai được phép khiêng quan tài của người quá cố hay nhận tổ chức lễ tang là một việc quan trọng – và trước hết là việc ai đọc bài diễn văn chia buồn. Vào cái ngày đấy, Chu Ân Lai được vinh danh bởi người học trò năng nổ nhất và có tài nhất của mình: Đặng Tiểu Bình.
Người đàn ông nhỏ con, gần 72 tuổi này đã trở thành tổng bí thư của ĐCS năm 1956, một quan chức đầy quyền lực. Quá nhiều quyền lực, như Mao cảm thấy chẳng bao lâu sau đó. Vào đầu cuộc Cách mạng Văn hóa, Đặng bị đày về nông thôn.
Một người đàn ông mới bước lên trong những lúc lộn xộn của cuộc Cách mạng Văn hóa – cao tới mức chẳng bao lâu sau đó ông ấy được bổ nhiệm làm người kế tục Mao trong Đảng: nguyên soái Lâm Bưu. Con người gầy gò từ giới quân đội này, sinh năm 1907, là một cựu chiến binh của cuộc Vạn Lý Trường Chinh và suốt đời là một người đi theo Mao. Thêm vào đó, ông ấy có uy tín lớn trong Quân đội Giải phóng Nhân dân, thể chế duy nhất trong đất nước này mà vào thời cao điểm của cuộc Cách mạng Văn hóa vẫn còn tương đối không bị ảnh hưởng đến.
Thế nhưng ngôi sao của Lâm chìm xuống nhanh hơn là ngôi sao của Đặng: năm 1970, viên tướng hy vọng rằng Mao sẽ nhận chức vụ chủ tịch nước đang bị bỏ trống. Nếu thế thì trên bình diện nhà nước, Lâm cũng sẽ được bước lên làm người kế nghiệp Mao. Thế nhưng Lâm đã thất vọng lớn, khi người Đại Chủ tịch để trống chức vụ chủ tịch nước: viên nguyên soái vẫn còn là Phó Thủ tướng thứ nhất. Một cấp bậc hàng đầu – nhưng vẫn ở sau thủ tướng Chu Ân Lai.
Những gì rồi xảy ra trong chín tháng đầu tiên của năm 1971 cho tới ngày nay vẫn còn bí ẩn. Chính Mao cũng gọi cách xử lý của ông ấy sau này là “ném đá, pha cát và đào góc tường”.
Ý muốn nói: lật đổ Lâm.
Rõ ràng là đối với Mao, Lâm cũng đã trở nên có quá nhiều ảnh hưởng. Ông ấy bắt buộc các sĩ quan cao cấp theo Lâm phải tự kiểm điểm công khai và qua đó chấm dứt con đường sự nghiệp của họ – những “hòn đá” mà Mao ném. Ông thay thế những người theo Lâm trong các ủy ban quân đội quan trọng bằng người mới – “pha thêm cát”. “Góc tường” cuối cùng chính là quyền chỉ huy quân khu Bắc Kinh, cái mà bây giờ Mao đưa cho những người trung thành.
Lâm Bưu, ngày càng bị cô lập trong thời gian dài của những tuần đấy, hoảng hốt chống lại sự chấm dứt của ông ấy, cả về mặt chính trị lẫn thể xác. Có lẽ là ông ấy đã tìm những người đồng tình trong số giới quan chức cao cấp để mưu lật đổ Mao. Cuối cùng, có lẽ là con trai của ông ấy đã đưa ra kế hoạch ám sát Mao trong tháng 9 năm 1971. Thế nhưng vụ mưu sát bị phản bội – có thể, theo như viên bác sĩ riêng của Mao tường thuật, là vì con gái của Lâm Bưu vô tình nói lộ ra những chi tiết quyết định.
Vào ngày 13 tháng 9 năm 1971 – ít nhất là theo phiên bản chính thức – Lâm Bưu cùng gia đình và một vài người trung thành bỏ trốn, bị ô tô cảnh sát đuổi theo, từ trung tâm Bắc Kinh ra đến một sân bay, nơi có một chiếc máy bay phản lực Trident chờ sẵn. Chiếc máy bay cất cánh và bay về hướng Liên bang Xô viết, nơi mà Lâm muốn nương náu.
Nhưng chỉ vài giờ sau đó, chiếc máy bay phản lực vỡ tan ra trên thảo nguyên Mông Cổ, không một ai sống sót. Có thể là trong lúc vội vã, chiếc máy bay đã đổ không đủ nguyên liệu; hay máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã đuổi theo nó qua cho tới nước láng giềng và đã bắn hạ nó ở đó. Hay cũng có thể là hoàn toàn khác đi.
Thế nào đi nữa thì Mao đã lại thủ tiêu thêm một người có thể kế nghiệp và cũng là đối thủ – và bây giờ nhớ lại công lao của Đặng Tiểu Bình. Năm 1973, Đặng và nhiều người theo ông ấy được phục hồi, do có sự hối thúc của Chu Ân Lai. Năm 1976, hơn phân nửa của tất cả các các bộ Đảng bị xua đuổi đi trong cuộc Cách mạng Văn hóa lại giữ chức vụ cũ của họ, trong khi những người chống họ, “Hồng Vệ Binh”, được gửi về nông thôn: một cuộc đi đày được ngụy trang như lần ban thưởng.
Thế nhưng Mao vẫn chưa xong. Chỉ một tuần sau lễ tang cho Chu Ân Lai, người ta đã biết rõ là Đặng sẽ không thể thắng thế trong Đảng.
THỨ TƯ, 21 THÁNG 1. Bộ Chính trị gặp nhau trong một gian sảnh họp của Đại Hội đường Nhân dân. Bầu không khí mang đầy tính nghi ngờ và gây gỗ. Người ta cần phải ấn định ai là người kế nhiệm Chu Ân Lai bây giờ? Đó là ai đi nữa thì người đấy sẽ có nhiều cơ hội tốt để theo Mao trong chức chủ tịch Đảng và qua đó sẽ kiểm soát được Trung Quốc nhiều năm trời.
Nhưng ai hôm nay thua cuộc thì con đường sự nghiệp chính trị của người đó sẽ chấm dứt – nếu như không có gì còn tệ hại hơn nữa sẽ đe dọa người đó.
Phe cánh tả quanh Giang Thanh vợ của Mao, tất cả đều có được quyền lực trong thời của cuộc Cách mạng Văn hóa, kiên quyết chống lại yêu cầu nắm giữ chức vụ thủ tướng của Đặng. Đặng muốn hiện đại hóa nền nông nghiệp. Thêm vào đó là cho người nông dân có nhiều tự do về kinh tế hơn. Ông ấy muốn hỗ trợ cho khoa học và công nghệ tốt hơn, mở rộng quốc phòng. Phe cánh tả ngược lại chống các cải cách kinh tế. Cách mạng liên tục và đấu tranh giai cấp – đó chính là những nguyên tắc chỉ đạo cho chính sách của họ.
Ứng cử viên của họ là Vương Hồng Văn, người đã theo Giang từ sớm và nhờ bà ấy mà tiến bước nhanh chóng trên con đường sự nghiệp trong Đảng.
Mao đích thân can thiệp. Ông cho chuyển một thông điệp, cũng giống như một mệnh lệnh: ứng cử viên của ông ấy là Hoa Quốc Phong. Một sự ngạc nhiên, vì con người xuất phát từ tỉnh này, người đã leo lên đến chức Phó Thủ tướng, không đứng trên phiếu bầu của ai cả.
Hoa độ 55 tuổi và thuộc “thế hệ 38″ – thế hệ chịu nhiều ảnh hưởng của cuộc kháng chiến chống người Nhật xâm lược và thời đấy đã tham gia phong trào cách mạng. May mắn của Hoa là ông ấy đã đảm nhiệm tỉnh có Thiều Sơn nơi sinh của Mao cũng nằm ở trong đó khi còn là một bí thư trẻ tuổi.
Trong thời gian của cuộc Cách mạng Văn hóa, ông ấy đã mở rộng ngôi nhà là nơi sinh của Mao ra thành một điểm hành hương cho Hồng Vệ Binh và lập một nhà máy sản xuất hàng năm 30 triệu cái khuy đeo có hình Mao. Năm 1973, Hoa vào Bộ Chính trị, hai năm sau đó, ông ấy trở thành Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ An ninh Công cộng – và qua đó kiểm soát công an.
Phần lớn các nhà quan sát nhìn ông như một ứng viên thỏa hiệp, người đối với các nhà cải cách quanh Đặng Tiểu Bình cũng như đối với phe cánh tả cực đoan là đều có thể chấp nhận được.
Mao phô diễn thêm một lần nữa quyền lực của mình, bằng cách lựa một ứng cử viên không có phe phái mạnh ở sau lưng. Thông điệp: Đại Chủ tịch vẫn còn cầm lái và quyết định nhân sự.
2
Thứ Bảy, ngày 31 tháng 1, Trung Nam Hải: báo động cho quân đoàn 8341. Lửa cháy và tiếng súng bắn trước nhà của Chủ tịch Mao! Những người lính cầm súng lao vào, căng thẳng, rồi báo động được bãi bỏ: năm mới của Trung Quốc sắp đến, và một vài người phục vụ cho Mao muốn làm cho ông ấy vui bằng cách đốt pháo – nhưng lại quên báo cáo trước cho lính canh nên những người này đã lo sợ một vụ mưu sát. Sau khi mọi việc đã rõ, những người lính và nhân viên phục vụ đã chạy tụ tập đến đấy lại lui về.
Thế nhưng bây giờ có một tin đồn xấu được lan truyền đi, lúc đầu là trong Trung Nam Hải, rồi đến trên đường phố Bắc Kinh: đã từ lâu, Mao không còn đánh giá cao Chu Ân Lai nữa và đã ăn mừng cái chết của ông ấy bằng cách đốt pháo. Năm con rồng bắt đầu trong một bầu không khí nghi kỵ.
Bây giờ, Mao hầu như không còn ở trong ngôi biệt thự của ông ấy nữa, mà ở trong một nhà tắm. Nhà đấy trước đây đã được xây cho tất cả các cán bộ cao cấp trong Trung Nam Hải, thế nhưng ngay từ những năm 1950, không còn ai trong số họ dám quấy rối những đường bơi của nhà yêu chuộng bơi lội Mao nữa. Thời gian sau này, các gian phòng ở, tiếp khách và làm việc được xây thêm vào, thì thế nên ngôi nhà tắm đấy thật ra là ngôi nhà tư nhân của Chủ tịch.
Mao trong cuộc sống cá nhân được che chắn hết sức kỹ lưỡng của ông ấy là một sự pha trộn giữa nhà quê và học giả, nhà chiến thuật lắm mưu mẹo và người lập dị kỳ lạ. Ông ấy có nhiều điểm chung với những nhà cai trị của các triều đại hoàng đế đã suy tàn từ lâu hơn là với những tổng bí thư Đảng tầm thường của phần lớn các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác.
Một người như vậy không cần phải tuân theo một lịch hẹn nào cả. Mao làm việc, ăn và ngủ tùy theo ý mình, nhân viên của ông ấy đã quen với việc nửa đêm bị gọi vào chỗ ông ấy – hay gọi đến điểm tận cùng của Trung Quốc, vì viên Chủ tịch hay thích tự phát đi xuyên qua đất nước trong một đoàn tàu đặc biệt, khiến cho các thư ký, nhân viên phục vụ, người chăm sóc sức khỏe và cảnh sát an ninh của ông ấy rối loạn cả lên.
Ông ấy thích các món ăn được xào nấu với nhiều dầu, trà đậm, thuốc lá “555″ của Anh.
Phòng làm việc với bàn viết, ghế và giá sách chỉ được dùng để đặt hình ảnh lên, vì ông hoàng đế đỏ thích làm việc nhất là trên chiếc giường khổng lồ của ông ấy hay ở cạnh bể bơi, nơi ông ấy đọc không biết bao nhiêu là tài liệu và bình luận bằng những dòng ghi chú ngắn, thỉnh thoảng viết những bài văn dài hay cùng với những người thân cận phác thảo các chiến dịch mới.
Thường trong lúc đó ông ấy không mặc gì nhiều hơn là một chiếc áo choàng tắm. Ông chỉ mặc bộ complê của mình trong những dịp duyệt binh, đón tiếp chính thức khách nhà nước hay ở các sự kiện chính thức khác. Cận vệ phải mang giày trước cho ông.
Có không biết bao nhiêu là “công nhân văn hóa” mà ông ấy đã “thư giãn” với họ trong những năm dài. Thiếp hầu của ông ấy hầu hết đều là những cô gái trẻ ít học từ nông thôn, những người được cơ quan an ninh điều tra về mặt chính trị và rồi dẫn đến cho ông. Họ là những người phục vụ trong chiếc tàu hỏa xa xỉ mà Mao đi xuyên qua Trung Quốc với nó, hay những người đi theo một dàn nhạc, những người mời Đại Chủ tịch khiêu vũ cho tới chừng nào mà ông ấy chọn một người trong số họ tại các buổi hòa nhạc bí mật thường được tổ chức cho các cán bộ cao cấp. Ngay trong Đại hội đường Nhân dân, nơi có sẵn nhiều phòng dành cho Chủ tịch, cũng có một doanh trại dành cho yêu đương.
Thế nhưng bắt đầu từ những năm 1970, sự thèm muốn của Mao dường như đã được thỏa mãn. Không còn có thiếp hầu mới nữa, bù vào đấy là ba người phụ nữ đồng hành, làm việc cho ông ấy như là nhân viên phục vụ, thư ký và y tá, và qua đó ngày càng kiểm soát ông ấy nhiều hơn.
Một người trong bọn họ, Trương Ngọc Phượng, gặp ông lần đầu tiên vào đầu những năm 1960, trở thành người thân cận của ông ấy. Có lần Hoa Quốc Phong muốn gặp viên Chủ tịch, nhưng để làm việc đấy thì phải đến gặp Trương Ngọc Phượng – người đang ngủ. Không ai dám đánh thức bà ấy dậy. Sau hai giờ đồng hồ, người đàn ông nhiều quyền lực thứ nhì của Trung Quốc lại phải quay về, hoài công.
Thế nhưng ngay cả khi các cô vợ bé của Mao cũng đóng những vai âm mưu mà ngày xưa thuộc về các thái giám trong triều đình – viên Chủ tịch không phải là một công cụ nhu nhược. Cả trong áo choàng tắm ở cạnh bể bơi, ông ấy thỉnh thoảng vẫn có tác động mạnh đến nhiều người khách lần đầu gặp ông ấy.
Nhà độc tài Trung Quốc là một bậc thầy về ngôn ngữ, ông ấy viết thơ, nói loại tiếng địa phương Hồ Nam có nhịp điệu và thích hình ảnh dễ hiểu: “cọp giấy” có lẽ là sáng tạo ngôn ngữ được biết đến nhiều nhất trên thế giới của ông ấy.
Ông ấy là một người đọc say mê văn học Phương Tây và Phương Đông, đánh giá cao triết học và trước hết là lịch sử. Trong số các hoàng đế Trung Quốc, ông ấy khâm phục nhất là những người bị người dân kinh sợ vì sự tàn nhẫn của họ, nhưng về chính trị thì lại thành công nhiều nhất – ví dụ như hoàng đế Tần Thủy Hoàng (thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên), người đã cho xử tử hai triệu người và trưng bày xác chết không toàn vẹn của nạn nhân, để cho những người muốn nổi loạn phải khiếp sợ – nhưng cũng là người thống nhất vương quốc và xây Vạn Lý Trường Thành.
Mao quyết định tất cả mọi việc ở xung quanh ông ấy, ngay cả về những lần mổ mà có những cán bộ cao cấp nào đó cần phải có – thường ông ấy không cho phép, vì ông ấy không tin vào y học hiện đại.
Chu Ân Lai, người mà ngay từ 1972 đã được chẩn đoán là mắc bệnh ung thư, phải chờ tới hai năm, cho tới khi vợ của ông ấy cuối cùng cũng gây ảnh hưởng đến một vợ bé của Mao nhiều cho tới mức bà ấy có thể xin ông Chủ tịch cho phép mổ để kéo dài mạng sống.
Thế nhưng bây giờ chính Mao lại ốm. Tinh thần tỉnh táo, vẫn còn biết mình có quyền lực và đa nghi, nhưng nằm trong một thân thể bây giờ suy nhược. Ngay từ thời trước, viên Đại Chủ tịch đã có vấn đề về sức khỏe, những vấn đề mà người bác sĩ riêng của ông ấy có thể kiểm soát được – hay cam chịu chấp nhận.
Từ nhiều thập niên nay, Mao mắc chứng khó ngủ và nghiện thuốc ngủ. Thỉnh thoảng ông ấy bị nhiễm bệnh giới tính từ một trong những người vợ bé của ông ấy. Cũng như nhiều người nông dân, ông ấy không đánh răng mà súc miệng mỗi sáng với trà xanh và rồi nhai lá trà sau đó. Hậu quả là một lớp cáu dầy màu xanh cũng như bệnh nha chu và sưng mủ.
“Con cọp cũng không bao giờ đánh răng nhưng răng chúng vẫn sắc bén” là lý lẽ của Mao để chống lại kem đánh răng và bàn chải. Những người sửa hình phải chỉnh lại toàn bộ những tấm hình công khai của Mao mà trên đó người ra có thể nhận ra được những cái răng đã bị nhuộm màu của ông ấy. Và một cửa hàng dược phẩm được chọn ra đặc biệt ở Bắc Kinh phải cung cấp những loại thuốc ngày càng kỳ lạ hơn.
Năm 1972, người bạo chúa bỏ hút thuốc – quá muộn cho lá phổi đã bị phá hủy của ông ấy. Có ba bong bóng khí hình thành ở bên lá phổi trái, cho nên ông ấy chỉ còn có thể thở tương đối không khó nhọc lắm khi nằm nghiên sang trái và nén các bong bóng khí lại qua trọng lượng cơ thể của ông ấy. Ông ấy bơi lần cuối cùng là trong năm 1974 – ông ấy yếu, bị tê liệt cuống họng một phần, bị uống nước và phải để cho cận vệ kéo lên khỏi nước chỉ sau vài giây.
Ngay trước đấy, các bác sĩ thần kinh đã chẩn đoán bệnh “xơ cột bên teo cơ” ở ông ấy: một bệnh dẫn đến việc các tế bào thần kinh vận động trong tủy cột sống bị phá hủy và qua đó dần đến tê liệt dần dần.
Các bác sĩ cho Mao được hai năm nữa – nhưng không nói cho ông ấy biết, vì theo các truyền thống chữa bệnh ở Trung Quốc, viễn cảnh tuyệt vọng không được thông báo cho bệnh nhân biết.
3
CHỦ NHẬT, NGÀY 4 THÁNG 4, Bắc Kinh, Thiên An Môn. Đấy là đêm trước của lễ Thanh Minh, ngày tưởng nhớ người chết của Trung Quốc. Từ giữa tháng 3, sinh viên đã tụ tập lại ở đây, trên “Quảng trường Thiên An Môn” trước cột đá ở giữa tưởng niệm những người anh hùng của cuộc Cách mạng Cộng sản. Ở mặt trước của cột có khắc một câu nói của Mao, ở mặt sau là một bài văn của Chu Ân Lai, được phỏng theo nét chữ viết tay của họ, đồ sộ và được mạ vàng.
Các sinh viên tưởng nhớ Chu Ân Lai. Thế nhưng cuộc hội họp này khác với những cuộc diễu hành của các bộ đồng phục trong thời Cách mạng Văn hóa. Nó tự phát và không có mục tiêu thật sự. Mỗi ngày càng có nhiều người đến trên quảng trường.
Vào tối của ngày 4 tháng 4, cuối cùng rồi thì không thể không nhìn thấy đám đông đó được nữa. Quanh cái cột đá và từ đó cho tới Cổng Thiên An Môn trong tường của Cấm Thành, có những vòng hoa phúng điếu nằm cao tới mười mét, được kết lại từ giấy lụa, cũng như hoa cúc. Tranh cổ động, áp phích và cờ vươn cao lên như những chiếc buồm trên biển người biểu tình. Có những người hát, trích dẫn thơ. “Chu Ân Lai hãy tỉnh dậy, hãy báo động quân đội, cảnh sát và nhân dân, để bảo vệ hiến pháp!” được viết trên một tấm áp phích.
Thật sự là quân đội và cảnh sát đã được báo động – nhưng khác với sự tưởng tượng của người dân.
Trong đêm rạng sáng ngày 5 tháng 5, theo lệnh của Bộ Chính trị, cảnh sát dọn sạch toàn bộ những vòng hoa chia buồn với 200 chiếc xe tải; Quảng trường Thiên An Môn vào sáng sớm trống vắng giống như chưa từng có một cuộc biểu tình nào ở đây.
Nhưng không được lâu.
Vì sự khiêu khích vào lúc đêm khuya khiến cho sinh viên tức giận, những người vào sáng sớm ngày 5 tháng 5 lại bước ra quảng trường. Cuộc phản đối nhanh chóng lan rộng, vào khoảng tám giờ đã có hơn 100.000 người biểu tình tụ họp lại – cho tới lúc đó là sự kiện lớn nhất không được tổ chức trước trong lịch sử của nước Cộng hòa Nhân dân.
Công nhân từ một xí nghiệp chế tạo máy đã rèn từ kim loại phế liệu một vòng hoa nặng 500 kí lô có đường kính sáu mét và chở nó trên xe đạp đi 15 kilômét xuyên qua thành phố đến Thiên An Môn.
Bây giờ, bầu không khí mang tính hung dữ. Năm chiếc xe cảnh sát bị đốt cháy, nhiều phái đoàn tiến đến Đại hội đường Nhân dân và các tòa nhà chính phủ khác, họ bị từ chối. Người biểu tình xô đẩy lính canh rớt mũ, có người ném đá. Nhưng vào khoảng 18 giờ, phần lớn đều rời quảng trường. Chỉ một vài người là muốn ở lại đấy cả đêm.
Trong lúc đó, một quan chức cao cấp của tổ chức ĐCS thành phố đã cảnh báo các sinh viên qua đài phát thanh, đừng để “những phần tử xấu” lôi kéo vào những cuộc “phá hoại phản cách mạng”. Một điềm xấu báo trước.
Sau khi màn đêm buông xuống, đèn pha bất thình lình chiếu sáng rực cả quảng trường. Vào khoảng 21 giờ, 10.000 dân quân, 3.000 cảnh sát và năm tiểu đoàn của lực lượng đặc biệt 8341 bắt đầu hành động với mọi bạo lực.
Những người biểu tình quanh cột đá bị bao vây, đánh đập và dẫn đi.
Vợ Mao đứng trong một căn phòng ở mặt tiền của Đại hội đường Nhân dân và quan sát cuộc biểu tình trên Thiên An Môn qua một cái ống nhòm.
Vào khoảng 23 giờ, bà ấy vội quay về với viên Chủ tịch và đắc thắng tường thuật lại về lần đập tan “nhóm nhỏ của những kẻ phản cách mạng”. Tiếp đó, bà ấy ăn mừng chiến thắng với một vài người trung thành, với rượu, đậu phọng và thịt. “Tôi sẽ cho rơi đầu”, bà ấy hứa hẹn. Có ít nhất là 388 người biểu tình bị bắt giam.
Vào ngày hôm sau đó, 30.000 dân quân chiếm giữ Thiên An Môn để ngăn chận những cuộc tụ tập mới. Trong tờ “Nhân dân Nhật báo” có một bài viết gay gắt chống lại những người biểu tình. Và trong Bộ Chính trị, Giang Thanh đắc thắng, vì cuối cùng bà ấy cũng thành công trong việc thuyết phục Mao tin rằng Đặng Tiểu Bình là người chịu trách nhiệm cho các sự kiện trong thời gian của Lễ Thanh Minh. Trong những ngày trước đó, người này cứ bình thản chịu đựng những đợt công kích một cách giận dữ từ Giang Thanh, trước khi đứng dậy với lời nhận xét chế giễu: “Tôi điếc rồi, tôi không hiểu gì cả.”
Vào ngày 7 tháng 4, Đặng bị tước mọi chức vụ trong Đảng. Ông ấy bay về Quảng Đông, nơi các quan chức địa phương trung thành với ông ấy và bảo vệ ông ấy không bị đánh đập. “Nếu một người bị đánh đến lần thứ nhì thì người đấy đã làm việc tốt đấy chứ”, là lời bình luận mang tính chế giễu của ông ấy.
Bây giờ, Hoa Quốc Phong được cử làm Thủ tướng và Phó Tổng bí thư Đảng – và qua đó là người được chỉ định để kế nghiệp Mao.
Thế nhưng tờ “Nhân dân Nhật báo” và đài truyền hình đưa ra bên cạnh ông ấy thêm một nhân vật thứ hai, trên thực tế là đồng cấp bậc: Giang Thanh. Thời của bà ấy dường như đang đến gần.
Phần lớn người Trung Quốc chỉ biết đến người vợ của Mao từ 1966, mặc dù bà ấy đã kết hôn với ông ấy từ tháng 11 năm 1938. Cả một thời gian dài, dường như bà ấy phải chịu đựng việc là mình không quan trọng. Giang Thanh sinh năm 1914, trong những năm 1930 đã là một nữ diễn viên sân khấu và điện ảnh hoạt động xã hội tích cực ở Sơn Đông và Thượng Hải, trước khi bà ấy đi theo những người Cộng sản và quen Mao.
Bộ Chính trị chống lại mối quan hệ với người Chủ tịch – cũng là vì theo truyền thống, diễn viên không được coi trọng trong Trung Quốc –, nhưng cuối cùng cũng đồng ý khi Mao hứa hẹn không cho bà ấy tham gia chính trị.
Giang Thanh sống trong xa xỉ. Trong những năm 1950, bà ấy còn được phép mua quần áo thanh lịch từ Phương Tây, thế nhưng cảm thấy nình thừa thãi, bị chồng bà cô lập ngày càng nhiều hơn, cảm thấy bị làm nhục bởi các áp phe của ông ấy, bị những người lính cận vệ của Mao chế diễu.
Cuộc Cách mạng Văn hóa đã làm thay đổi tất cả. Cuộc đấu tranh của Mao chống lại Đảng đã kết nối vợ của ông ấy lại với một vài người quá khích, những người từ các lý do ý thức hệ cũng như từ các lý do về tuổi tác mà nổi dậy chống lại tổ chức Đảng: những người trẻ muốn vứt bỏ giới cách mạng già.
Giang Thanh trở thành nữ thủ lĩnh của nhóm này, nhóm mà chẳng bao lâu sau đó đã kiểm soát được các giới truyền thông đại chúng và tổ chức Đảng trong Thượng Hải, nói chung là thành phố duy nhất có được một giới vô sản công nghiệp cách mạng.
Bây giờ, Giang Thanh hy vọng rằng sau cái chết của Mao, con đường đi lên hàng đầu đã mở ra cho mình. Trong lịch sử Trung Quốc có một vài ví dụ về những người cai trị là những người phụ nữ đầy quyền lực – tại sao điều đấy lại không thể dưới những người cộng sản?
Mặt khác, có phải là quyền lực của bà ấy chỉ dựa trên việc bà ấy là người vợ của Mao hay không? Với cái chết của ông ấy, liệu bà ấy cũng mất đi tính chính danh của mình hay không? Giang Thanh dao động giữa hy vọng cuồng loạn và sợ hãi vô cùng. Cái chết của Mao sẽ có ảnh hưởng đến số phận của tất cả các cán bộ cao cấp, nhưng không ai đặt cược cao như vợ của ông ấy.
Mao cũng biết điều đó. Trong những tháng này, ông ấy đọc cho người thân cận của ông ấy là Trương Ngọc Phượng nhiều lá thư ngắn, bởi vì ngoài bà ấy ra thì không ai có thể hiểu được những âm từ lắp bắp của ông ấy. Giang Thanh khéo léo sử dụng tình trạng đấy cho mục đích riêng của mình.
Ví dụ như bà ấy quả quyết rằng Mao đã nhờ Trương Ngọc Phượng đưa cho bà thông tin này: “Trong cuộc đấu tranh của mười năm qua, anh đã cố gắng đi đến đỉnh cao của cuộc cách mạng, nhưng anh không thành công. Nhưng em có thể đến được đỉnh cao.”
4
THỨ BA, NGÀY 11 THÁNG 5, Trung Nam Hải. Một nữ y tá chạy đến chỗ bác sĩ Lý Chí Tuy, vì viên Chủ tịch lại lên cơn tim. Người bác sĩ riêng của Mao, một vài đồng nghiệp và nữ y tá cố ổn định tình trạng của bệnh nhân và trong lúc hấp tấp đã làm một việc mà họ đã không dám làm trong vòng hai năm vừa qua: họ đẩy Trương Ngọc Phượng, người đứng cản đường họ, sang một bên.
Con người 32 tuổi này, người mà Mao đã biết đến cách đây 14 năm như là nhân viên phục vụ trên chiếc tàu hỏa đặc biệt của ông ấy, là cơn ác mộng của các bác sĩ. Từ năm 1974, trên thực tế là bà ấy nắm độc quyền tiếp xúc với ông Chủ tịch, điều không những khiến cho Hoa Quốc Phong và Giang Thanh hết sức bực tức, mà cả bác sĩ Lý chịu trách nhiệm về sức khỏe của Mao nữa.
Ông hầu như không còn có thể chẩn đoán cho bệnh nhân nổi tiếng của ông ấy được nữa, vì người này từ chối những cuộc điều trị kéo dài. Thường thì sau nhiều ngày thúc dục, người bác sĩ chỉ có thể thuyết phục được Mao và người vợ bé của ông ấy ít nhất là để cho lấy vài mẫu máu.
Y tá bí mật mang nước tiểu của Mao ra, để các bác sĩ có thể cho người phân tích được. Nhưng Trương Ngọc Phượng cứ đơn giản là từ chối nhiều đề nghị chữa bệnh và cưỡng lại các bác sĩ bằng cách chỉ cho truyền dịch glucose.
Vào ngày 11 tháng 5 đó, Mao ốm yếu. Ông ấy bồn chồn cho tới mức những người phục vụ của ông ấy đặt thêm một cái giường to thứ nhì vào trong ngôi nhà tắm và thường xuyên kéo ông ấy đi từ giường này sang giường kia, để làm giảm bớt sự bức rứt của ông ấy. Ông ấy chỉ còn có thể ăn xúp gà hay xúp bò mà một người nữ y tá nhỏ từng giọt vào cho ông. Với thực phẩm qua tĩnh mạch, bác sĩ Lý có thể cải thiện tình trạng đôi chút – sau khi ông ấy phải thuyết phục Trương Ngọc Phượng về tính không nguy hiểm của dịch truyền, bằng cách tự thử cho mình trước mắt của bà ấy.
Cơn đau tim tuy qua được, thế nhưng nó là lần khởi đầu của sự chấm dứt. Quyền lực kỳ lạ của Trương Ngọc Phượng ở xung quanh Mao bây giờ bị giới hạn, vì sự sa sút về thân thể của viên Chủ tịch đã khiến cho sự tiếp cận trực tiếp của các bác sĩ trở nên cần thiết.
Bộ Chính trị, cho tới nay đều trình ra tất cả các nghị quyết để được ông cho phép, quyết định dưỡng sức cho Mao và chỉ còn quấy rầy ông ấy trong những trường hợp đặc biệt. Qua đó, viên Đại Chủ tịch dần mất đi sự kiểm soát Đảng của ông ấy.
Ông ấy đánh mất sự kiểm soát cơ thể mình vào ngày 26 tháng 6, khi lại một cơn đau tim hạ gục ông ấy. Trung ương Đảng loan báo, rằng từ bây giờ Mao không tiếp khách nước ngoài nữa. Người ta không đưa ra lý do, nhưng nhiều người hiểu việc đấy như là lần loan báo cái chết sắp đến của ông ấy.
Cứ tám tiếng một, một đội năm bác sĩ và tám nữ y tá bây giờ lo cho sức khỏe của người bạo chúa. Bác sĩ Lý dọn vào một gian phòng cạnh những phòng của Mao và túc trực sẵn sàng. Từ quan điểm y học, ít bác sĩ hơn cũng đã đủ, nhưng từ quan điểm chính trị thì không: ngay khi tình trạng của Mao xấu đi thấy rõ trong năm 1972, Giang Thanh đã gọi bác sĩ Lý là thành viên của một “nhóm điệp viên” muốn tiêu diệt Mao.
Càng có nhiều chuyên gia thì mối nguy hiểm bị hy sinh như là người phải chịu tội sau khi Mao chết lại càng ít đi.
Cộng thêm vào số bác sĩ và y tá là bốn chính khách, những người thay nhau trong ca mười hai tiếng để canh chừng: Hoa Quốc Phong và người phe cánh tả Trương Xuân Kiều cũng như người ủng hộ Hoa là Uông Đông Hưng và ứng cử viên cánh tả Vương Hồng Văn.
Cạnh bên giường người chết của Mao, cuộc tranh giành quyền lực đã bắt đầu.
Khi bác sĩ Lý báo cáo về tình trạng của người Chủ tịch trước Bộ Chính trị, ông ấy chỉ có thể trình bày những dự đoán đen tối: Mao bị nhiễm trùng đường hô hấp, có một trái tim yếu và chức năng thận bị giới hạn.
Vì thế mà Giang Thanh đã quở trách ông ấy: “Rõ ràng là anh không được cải tạo tốt. Trong xã hội tư bản, bác sĩ là chủ và y tá là những người phục vụ. Vì thế mà Chủ tịch luôn khuyên rằng chúng tôi chỉ nên tin một phần ba những gì các bác sĩ nói.”
THỨ TƯ, NGÀY 28 THÁNG 6, tỉnh Hà Bắc. Mặt đất rung chuyển vào ngày đầu tiên của tháng 7 theo lịch Trung Quốc, tháng mà các hồn ma xấu xa hoạt động. Cơn động đất mạnh 8,2 độ trên thang Richter – đó là một trong những trận động đất tồi tệ nhất trong lịch sử của Trung Quốc. Vào ban đêm của ngày hôm đó có thêm một trận nữa, chỉ nhẹ hơn không đáng kể.
Nhà cửa và cầu của thành phố công nghiệp Đường Sơn sụp đổ, hỏa hoạn lớn hoành hành. Đại diện chính quyền sau này nói là có 242.000 người chết và 164.000 người bị thương nặng, các nhà quan sát người nước ngoài còn cho rằng có hơn 600.000 người chết.
Cả ở Bắc Kinh mặt đất cũng rung động, tuy vậy, với những hậu quả ít tàn khốc hơn rất nhiều. Cư dân của Trung Nam Hải bị lay dậy từ trong giấc ngủ và một vài ngôi nhà bị hư hại nhẹ, trong đó có ngôi nhà tắm của Mao.
Bác sĩ, y tá và cận vệ chuyển chiếc giường với viên Chủ tịch – người vẫn rất tỉnh táo và ghi nhận rõ rệt những gì đang xảy ra – qua một lối đi sang căn nhà số 202 nằm ở bên cạnh, mới xây xong năm 1974 và được cho là có thể chịu đựng được động đất.
Hoa Quốc Phong cố lợi dụng trận động đất cho các mục đích chính trị. Vào ngày 1 tháng 9, ông ấy – “nhân danh Mao” – công khai khen ngợi các biện pháp cứu trợ, cho là những biện pháp đó có tác động nhiều hơn là các biện pháp sau thảm họa đầu những năm 60 rất nhiều.
Thế nhưng muốn trục lợi về mặt chính trị qua một trận động đất là một việc làm hết sức không khéo léo. Vì ở Trung Quốc, thiên tai được xem như là điềm báo trước cho lần thay đổi người cai trị sắp sửa đến, và lần nhắc đến Mao đã bệnh không cứu chữa được nữa hẳn phải khiến cho người Trung Quốc nào cũng phải khiếp sợ.
THỨ TƯ, 8 THÁNG 9, Trung Nam Hải, ngay trước nửa đêm. Mặc dù đã muộn, nhưng phía sau tấm bình phong che giường của Mao lại trước phần còn lại của căn phòng vẫn đầy người, vì 24 giờ là lúc đổi ca. Mười bác sĩ và sáu y tá thì thầm trao đổi những báo cáo thường nhật, thêm vào đó là bác sĩ Lý, Hoa Quốc Phong, thêm các thành viên Bộ Chính trị khác, cận vệ và Trương Ngọc Phượng.
Người vợ bé lắng nghe những âm thanh từ miệng của Mao, rồi bà ấy gọi viên bác sĩ riêng đến giường: “Chủ tịch muốn nói chuyện với anh!”
Bác sĩ Lý cầm tay Mao, nhưng mặc dù cố gắng ông ấy vẫn không thể hiểu được viên Chủ tịch đang muốn nói gì với mình, và vì thế nên lầm bầm một vài điều không quan trọng để trấn an – Mao vẫn còn chưa biết ông ấy bị bệnh gì và tình trạng của mình ra sao.
Có lộn xộn ngắn khi Giang Thanh chạy vào. Cho tới lúc đó, tất cả những người có mặt đều nói thì thầm, thế nhưng bây giờ bà ấy với giọng nói bồn chồn đã át cả tiếng rì rì của cái máy hô hấp. “Ai đó có thể nói cho tôi biết có việc gì không?” Hoa Quốc Phong, người đã cho gọi bà ấy vì phỏng đoán rằng Mao sẽ chết, trấn an bà ấy mà không giải thích lý do cho lời yêu cầu của mình hay còn nói cả cái từ “chết” gây kinh sợ đấy ra nữa.
Gương mặt vào lúc trước đã từng tròn trĩnh của Mao bây giờ chảy xệ xuống và xám xịt, mắt của ông ấy không còn tinh anh nữa. Thế nhưng trong một khoảng khắc, viên Chủ tịch dường như hài lòng, đôi má hồng lên.
Nhưng rồi thân thể của ông ấy nhũn xuống: mười phút sau nửa đêm, Mao Trạch Đông chết. Đó là ngày thứ năm, 9 tháng 9 năm 1976.
Trong số người đang hiện diện, hầu như không có ai xúc động thật sự. Giang Thanh la mắng các bác sĩ, nhưng bất thình lình trấn tỉnh lại. Các bác sĩ lo sợ sẽ bị bắt giữ như những “kẻ có tội”, đồng thời phải lo sao cho xác chết còn hơi ấm này được bảo tồn. Các nhà giải phẫu và mô học của Viện Y Khoa Bắc Kinh bị gọi dậy vào lúc nửa đêm và bị triệu đến Trung Nam Hải. Đồng thời, Bộ Chính trị họp hội nghị.
Vào khoảng bốn giờ sáng, bác sĩ Lý nhẹ nhỏm vì biết tin, rằng Bộ Chính trị sẽ không lên án các bác sĩ – và kinh hoàng vì biết tin, rằng Bộ Chính trị đã quyết định bảo tồn xác chết không chỉ một tuần mà là mãi mãi. Ý muốn được thiêu của Mao bị phớt lờ đi.
Các bác sĩ đều bất lực. Không một ai trong số họ có kinh nghiệm trong việc bảo tồn lâu dài một xác chết. Một nữ chuyên gia được gửi đến thư viện chuyên môn gần nhất để tìm kiếm các tài liệu thích hợp, những người khác thương lượng với các quan chức cao cấp đang tụ tập trong nhà 202, cho tới khi những người này cuối cùng rồi cũng cho phép hạ máy điều hòa từ 25 xuống 10 độ Celsius.
Điều duy nhất mà bác sĩ Lý biết, là ba người thánh cộng sản được ướp xác “vĩnh cửu” khác đã có nhiều vấn đề: ở Lênin và Stalin – cho tới khi ông ta biết mất dưới thời Khrushchev – trong Liên Bang Xô viết cũng như ở Hồ Chí Minh tại Bắc Việt Nam, tai và mũi ngay sau một thời gian ngắn đã thối rữa và phải được thay thế bằng những mô hình bằng sáp.
Các bác sĩ đọc trong một tờ báo Phương Tây, rằng phải xử lý xác chết với 12 đến 16 lít formaldehyde, tiêm vào một vài giờ sau khi chết. Nhưng bác sĩ Lý muốn cho chắc ăn và cho bơm 22 lít vào trong xác của Mao.
Vào khoảng mười giờ sáng, công việc đấy chấm dứt – với kết quả đáng sợ: mặt, cổ và thân thể của Mao sưng phồng lên một cách kỳ quái, chất formaldehyde trào từng giọt một ra từ lỗ chân lông như mồ hôi.
Thế là các bác sĩ phải cực nhọc dùng khăn và bông để chậm hết chất lỏng ấy trên gương mặt và nhét thân xác đấy vào trong một bộ quần áo của Mao, cái được xẻ ra ở lưng để nó vừa với thân hình đã phồng lên.
Trong lúc đấy, da ở má phải của Mao vỡ ra; nơi hư hỏng đấy được che lại bằng Vaseline và phấn. Vào khoảng 15 giờ, người chết trông có vẻ chấp nhận được, vài giờ sau đấy, ông ấy được đặt vào trong một cái quan tài bằng kính, kín khí và được chở vào trong Đại hội đường Nhân dân.
Từ năm 1930, Mao đã bị giới báo chí quốc tế tuyên bố chết tám lần, thế nhưng tin lần thứ chín, được chính thức tuyên bố vào cái ngày đấy lúc 16 giờ, là đúng.
Người ta tuyên bố quốc tang một tuần. Trong tuần đó, 300.000 người dân được lựa chọn ra để đi ngang qua chiếc quan tài bằng kính với xác chết được xử lý một cách cực nhọc ở trong đó – thế nhưng thiếu sự xúc động như sau cái chết của Chu Ân Lai.
Liên bang Xô viết thù địch với Bắc Kinh loan tin Mao chết trong một bài báo ở trang ba của tờ Izvestia và không gửi lời chia buồn từ chính phủ đến chính phủ, mà chỉ từ ĐCS đến ĐCS – việc bị người Trung Quốc từ chối một các thô lỗ vào ngày 14 tháng 9.
Đỉnh cao của các nghi thức diễn ra vào ngày 18 tháng 9 trên Thiên An Môn. Đài phát thanh và truyền hình truyền trực tiếp, khoảng 500.000 người đã tụ họp lại trên quảng trường. Trời nóng bức. Vào lúc 15 giờ, còi nhà máy và còi tàu thủy kêu vang ba phút, rồi sự yên lặng thống trị ba phút liền.
Sau đó, Hoa Quốc Phong đọc một bài diễn văn dài ca ngợi người chết, trong đó có một vài mũi nhọn gần như không che đậy hướng đến Đặng Tiểu Bình và Giang Thanh.
Thế nhưng người vợ góa của Mao – người gửi chồng mình vòng hoa chia buồn với dòng chữ “Người học trò và bạn chiến đấu của anh” – được chiếu thật lâu trong truyền hình cùng với những người nổi tiếng theo bà ấy.
Cuộc tranh giành quyền lực quanh người kế nghiệp Mao đang tiến đến gần đỉnh cao của nó.
5 ( Hết )
Thứ tư, ngày 6 tháng 10, Trung Nam Hải. Giang Thanh và ba người trung thành nhất với bà ấy trong Bộ Chính trị – Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn – được Hoa Quốc Phong triệu tập vào gian sảnh Huairen vào lúc 20 giờ. Người ta nêu lý do là sẽ có một cuộc họp của Bộ Chính trị để bàn về việc xuất bản quyển thứ năm của Mao Toàn tập.
Thực ra đấy là một cái bẫy.
Sau cái chết của Mao, phần lớn thành viên của Bộ Chính trị đã vứt bỏ sự tôn trọng Giang Thanh một cách mù quáng và ít nhiều đều thể hiện sự coi thường bà ấy. Người vợ của viên Chủ tịch cảm nhận được rằng bà ấy nhanh chóng mất đi ảnh hưởng. Lúc trước, các vụ việc tước quyền, bắt bớ và xử tử do bà ấy yêu cầu chỉ được tiến hành vì có những tổ chức do Mao ủy quyền, ví dụ như Hồng Vệ Binh của Cách mạng Văn hóa, đội thực hiện các khẩu hiệu của Giang Thanh một cách tận tâm. Thế nhưng bây giờ Hồng Vệ Binh đã bị đày về vùng nông thôn và cảnh sát thì do Hoa Quốc Phong kiểm soát.
“Quyền lực chính trị đến từ nòng súng!” Tất cả các quan chức cao cấp mà ngoài ra thì thù địch với nhau đều đồng ý với câu nói nổi tiếng đấy của Mao. Câu hỏi chỉ là: từ những nòng súng của ai?
Hay chính xác hơn: ai có thể bắt giam ai trước hết?
Giang Thanh và những người theo bà hy vọng trước hết là ở lực lượng dân quân: một tổ chức bán quân sự có tròn 100 triệu nam nữ – công nhân, nông dân, nhân viên, sinh viên –, những người mà ĐCS có thể động viên vào bất cứ lúc nào. Thế nhưng không thể tổ chức lẫn trang bị vũ khí một cách đàng hoàng cho một đạo quân 100 triệu người trong một thời gian ngắn được.
Hoa Quốc Phong và người sếp an ninh thì ngược lại dựa trên 3,5 triệu người lính của quân đội chính quy. Họ thố lộ kế hoạch của họ cho người nguyên soái già Diệp Kiếm Anh, mắc chứng bệnh
Vào tối đó, Hoa Quốc Phong và người nguyên soái già chờ đợi nạn nhân của họ, trong khi Uông Đông Hưng với những người lính được lựa chọn từ quân đoàn 8341 của ông ấy ẩn nấp.
Trương Xuân Kiều vào điện Huairen đầu tiên. Cận vệ và thư ký của ông ấy bị viện cớ tách ra, rồi người ta bắt ông ấy trong gian phòng của Bộ Chính trị. Ông ấy không chống cự.
Vương Hồng Văn đến vài phút sau đó, phản đối, khi nhìn thấy những người lính, tuyệt vọng chống cự không lâu, rồi sự phản kháng của ông ấy cũng bị bẽ gãy, cả về thân thể lẫn tinh thần. Ông ấy để mặc cho dẫn đi.
Nhưng Giang Thanh và Diêu Văn Nguyên không đến. Không ai trong những người âm mưu biết được họ đang làm gì trong khoảng khắc đấy. Họ đã được cảnh báo trước? Họ cũng chuẩn bị lật đổ về phía họ?
Hoa Quốc Phong căng thẳng chờ cho tới 22 giờ, rồi ông ấy gửi lính của đoàn 8341 đến nhà của hai người đó. Những người đàn ông bao quanh nhà, xông vào – và hoàn toàn không gặp sự chống cự.
“Tôi đã tiên đoán trước cái ngày này từ lâu rồi”, Giang Thanh nói, mặc dù bà ấy bị bất ngờ cho tới mức bị bắt từ trên giường.
Vào thời gian đó tại những địa điểm khác trong Bắc Kinh, các đơn vị đặc nhiệm bắt giữ 30 đến 40 cán bộ ĐCS cao cấp khác, trong đó có cháu trai của Mao. Chiến dịch trong đêm đó, mà nạn nhân là toàn bộ chóp bu phe tả cực đoan của Đảng, bí mật cho tới mức ngay đến các thành viên khác của Bộ Chính trị cũng không biết gì về việc đấy.
Đấy không chỉ là đỉnh cao của một cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng. Lần bắt bớ bí mật, tàn bạo và hiệu quả này quyết định số phận của gần một tỉ người, vâng, có thể là của cả Trái đất.
Nếu Giang Thanh và phái cánh tả cực đoan của bà ấy thắng thế, thì điều đấy có thể sẽ dẫn đến một tái bản của cuộc Cách mạng Văn hóa và qua đó là đến nội chiến – với những hậu quả không thể đoán trước được cho các nước khác, vì cuối cùng thì Trung Quốc cũng là một cường quốc nguyên tử.
Vào sáng hôm sau, các thành viên của Bộ Chính trị bất ngờ bị Hoa Quốc Phong đặt trước những sự việc đã rồi, và họ đủ khôn ngoan để đồng ý mà không chống đối. Vì ai trong số họ cũng đều biết rằng nếu không thì họ có thể sẽ bị bắt. Trong những ngày sau đó, giới công khai từng bước biết được vụ lật đổ – Hoa Quốc Phong củng cố quyền lực của mình càng tốt thì ông ấy càng để cho truyền ra ngoài nhiều hơn.
Đầu tiên, Đảng loan báo ngắn gọn vào ngày 8 tháng 10, rằng Hoa Quốc Phong đã nhận lấy trách nhiệm xuất bản bộ Mao Toàn tập. Điều đọc giống như là một ghi chú, nhiều nhất là chỉ đáng để cho các nhà ngữ văn quan tâm đến, trong thực tế có nghĩa là từ bây giờ Hoa chứ không phải Giang Thanh sẽ giảng giải các tác phẩm của Mao và qua đó có thể sử dụng những từ ngữ của người Chủ tịch được xem như thượng đế vào trong cuộc đấu tranh chính trị.
Vào ngày 9 tháng 10, một tờ báo tường ở Bắc Kinh lần đầu tiên gọi Hoa là “Chủ tịch Quân ủy” và của Trung ương Đảng – mặc dù TƯ còn chưa hề họp lại và thật ra là phải bổ nhiệm ông ấy đã.
Ngày sau đó – một ngày chủ nhật – có tin đồn về những vụ bắt bớ các quan chức cao cấp, những tờ báo lớn cảnh báo một cách mơ hồ về “Chủ nghĩa Xét lại và Ly khai.” Vào ngày 11 tháng 10, đại diện ngoại giao do an ninh Trung Quốc lựa chọn ra bắt đầu được phép đưa cho nhân viên của các đại sứ quán Phương Tây những thông tin không chính thức về vụ lật đổ đấy. Khi có những tờ báo tường ủng hộ Giang Thanh xuất hiện ở Thượng Hải, chúng bị nhanh chóng xé xuống. Cảnh sát và quân đội hiện diện nhiều hơn là bình thường.
Vào ngày 13 tháng 10, tất cả các hình ảnh của Giang Thanh đều biến mất ra khỏi các cửa hiệu của Bắc Kinh, thông tấn xã nhà nước Tân Hoa Xã không đưa ra ảnh của bà ấy nữa. Đài phát thanh Bắc Kinh bất ngờ tường thuật về một vụ việc mờ ám từ năm 1935 mà trong đó Mao nhờ vào quân đội để chống lại những kẻ lầm đường trong Đảng.
Vào ngày 15 tháng 10, ở Bắc Kinh và Vũ Hán xuất hiện những tờ báo tường tố cáo Giang Thanh và những người theo bà ấy đã dự định ám sát Hoa Quốc Phong cũng như âm mưu đảo chính. Một chiến dịch kích động chưa từng có bắt đầu, cả trong truyền hình và trong tất cả các tờ báo lớn (khắp nơi đều có tổng biên tập mới).
Từ ngữ “Tứ Nhân Bang” [Bè lũ bốn tên] ám chỉ Giang Thanh và những người đồng minh thân cận nhất của bà ấy trong Bộ Chính trị (được Mao sử dụng lần đầu tiên năm 1975 trong một lá thư mật) xuất hiện trong giới công khai.
Bốn người bị bắt giữ này – và cả sau khi chiến dịch bắt đầu cũng không công khai biết được điều gì về số phận của họ cả – trong lúc đó đang ngồi trong phòng biệt giam ở khu “19 tháng 5″, một công sự khổng lồ dưới Thiên An Môn.
Khu bí mật khổng lồ này có nhiệm vụ tiếp nhận các quan chức chóp bu và giới quân đội cao cấp trong trường hợp xảy ra chiến tranh nguyên tử, thế nhưng bây giờ thì các tù nhân chính trị nổi tiếng nhất của Trung Quốc đang bị bắt giam ở đó – điều mỉa mai là chỉ cách Mao có vài mét. Xác chết ông ấy sau tuần lễ trưng bày công khai đã được bí mật mang vào bệnh viện của công sự, nơi bây giờ nó được xử lý nhiều tháng trời.
Thứ hai, ngày 18 tháng 10, Thượng Hải. Các ngôi nhà phô trương cạnh con đường đi dạo dọc theo sông, các ngân hàng, khách sạn và câu lạc bộ xưa cũ, bây giờ đã xuống cấp. Vữa bong ra từ những mặt tiền Tân Hy Lạp, cửa sổ giả kiểu thành Tudor bị đóng kín bằng ván. Và tuy vậy, thành phố lớn mười một triệu dân này vẫn còn là trung tâm công nghiệp và thương mại của Trung Quốc –– và thành trì của Tứ Nhân Bang: nếu như những người theo họ chống cự lại ở đâu đó và có thể gây ra cuộc nội chiến mà Chu Ân Lai đã lo sợ, thì đấy là ở Thượng Hải.
Bầu không khí căng thẳng. Quân lính từ tất cả các miền của đất nước được chuyển vào trong thành phố. Theo chỉ thị của Bắc Kinh, Đảng đã tổ chức những cuộc biểu tình ủng hộ Hoa và chống lại Tứ Nhân Bang. Hai đến ba triệu người kéo xuyên qua thành phố và hô lớn theo nhịp: “Đả đảo Giang Thanh!”.
Khắp nơi ở trên tường hay trên những chiếc chiếu được dựng lên cho việc này đều treo những tờ báo chữ to mà trên đó Giang Thanh và những người theo bà bị biếm họa nhưng những con rắn bị hầm trong chảo, tên bị viết đảo ngược lại và bị gạch ngang bằng mực đỏ – giống như bằng máu.
Giang Thanh bây giờ là một con điếm và nữ hoàng, Vương Hồng Văn là một kẻ kiêu ngạo tiêu xài phung phí. Có những lời lên án tương tự như thế cho rất nhiều quan chức địa phương. Khi một người đàn ông trẻ xé những bài viết phỉ báng ấy xuống, anh ấy bị đám đông hành hung.
Mặc cho những lần cố gắng kích động và những cuộc biểu tình kéo dài, sự căng thẳng tan biến nhanh chóng. Trẻ em chạy theo sau, các cửa hàng trên đại lộ Nam Kinh bất thình lình có nhiều hàng hóa để bán, lôi kéo người đến xem và khách mua hàng. Các cuộc biểu tình chống Tứ Nhân Bang bắt đầu mang tính lễ hội nhân dân.
Các cán bộ cao cấp nhẹ nhỏm, Thanh Giang nhất định đã thua cuộc rồi.
NHƯNG MÃI BỐN NĂM SAU ĐÓ, trong mùa Đông 1980/81, Tứ Nhân Bang và sáu người theo họ nổi tiếng nhất mới bị mang ra xử. Mười bị cáo bị lên án là đã “truy nã cho tới chết” 34.800 người trong thời gian của cuộc Cách mạng Văn hóa, “phỉ báng” thêm 729.511 người nữa.
Lời buộc tội này tuy cũng hợp lý, thế nhưng nó không thể làm thay đổi gì về việc, rằng vụ xét xử này đã trở thành một màn kịch mà trong đó đặc biệt là Giang Thanh vẫn không chịu khuất phục tuy đã bị giam giữ nghiêm ngặt nhiều năm liền và chửi rủa những người lên án bà là “phát xít” và “thành viên của Quốc Dân Đảng”.
Người vợ góa của Mao bị tuyên án tử hình, cũng như Trương Xuân Kiều; hai thành viên còn lại của Tứ Nhân Bang nhận án nặng. Sau đấy, người ta chuyển giảm án tử hình thành tù chung thân. Thế nhưng cả bốn người đều được trả tự do trước khi chết. Giang Thanh, đơn độc và cay đắng, tự tử năm 1991.
Chỉ một năm sau cái chết của Mao, Đặng Tiểu Bình đã được phục hồi nhờ vào sự giúp đỡ của viên chỉ huy quân đội nhiều quyền lực của tỉnh Quảng Đông và trở về Bắc Kinh. Ngược lại, thanh thế Hoa Quốc Phong lu mờ – điều ngược đời là cũng bởi vì màn kịch xử án chống “Tứ Nhân Bang”, việc không những làm mất uy tín của Giang Thanh và những người theo bà ấy mà cả Chủ nghĩa Mao nói chung.
Cho tới 1981, Đặng có thể đẩy những người cạnh tranh của ông ấy ra khỏi tất cả các chức vụ quan trọng mà không dẫn đến bắt bớ hay đấu tranh. Hoa mất chức vụ chủ tịch đảng, thủ tướng và chủ tịch quân ủy, nhưng vẫn được phép giữ chỗ đứng của ông ấy trong Trung ương Đảng.
Đại đa số đảng viên đi theo đường lối của Đặng mà không hề càu nhàu, vì họ muốn cắt đứt với cuộc Cách mạng Văn hóa đầy bất hạnh một cách kiên quyết hơn nữa, hơn là có thể với một nhân vật tạm thời như Hoa.
Trong 15 năm sau đấy, Đặng bây giờ trở thành người thống trị Trung Quốc. Trong lúc đó, ông ấy đủ khôn ngoan để không thu tóm tất cả các chức vụ quan trọng về cho mình, mà phân bổ những người trung thành vào đó: Triệu Tử Dương trở thành thủ tướng, Hồ Diệu Bang tổng bí thư Đảng. Tuy vậy, viên quan chức nhỏ người, bị lật đổ hai lần Đặng Tiểu Bình thật ra vẫn trở thành người kế nhiệm Mao.
Và ông ấy có nhiều dự định với Trung Quốc.
Cay Rademacher
Phan Ba dịch
Giới thiệu tài liệu: Lý Chí Tuy, “Hồi ký bác sĩ riêng của Mao”. Frederick C. Teiwes, Warren Sun, “The End of the Maoist Era”, Sharpe: nghiên cứu khoa học tỉ mỉ về những năm cuối đời của Mao và các cuộc tranh giành quyền lực trong những tháng sau cái chết của ông ấy.
http://phanba.wordpress.com/2012/12/31/cai-chet-cua-ong-hoang-de-do-het/
Song Phương chuyển
T. Post
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Cái chết của ông Hoàng đế Đỏ ( Toàn tập)
1976: Mao qua đời
Cay Rademacher
Phan Ba dịch
Mao nằm chờ chết trong mùa hè năm 1976, – và các cán bộ chóp bu trong ĐCS chuẩn bị cho trận tranh giành quyền lực sắp tới. Khi cuối cùng rồi thời điểm đó cũng đến, một người đàn ông chớp lấy thời cơ, người mà trước đó vài tháng đã không có ai nghĩ đến.
Trung Nam Hải là một khu phố đầy bí ẩn ở rìa phía Tây của “Cấm Thành” trong Bắc Kinh. Trước đây, đó là khu vườn hoa của các hoàng đế, một công viên với hai hồ nước – hồ Trung, Trung Hải, và hồ Nam, Nam Hải. Cây thông và bách cho bóng mát, nằm cạnh hồ là những ngôi nhà lộng lẫy từ thời của hoàng đế Càn Long với mái ngói xám và những sân trong nhiều bóng mát: ví dụ như “nhà màn hương” hay “đại sảnh của hồ yên tịnh”. Ở giữa đó là những công trình xây dựng hiện đại – nhà ở cho người phục vụ hay văn phòng, trại lính, hai nhà tắm.
Một bức tường màu đỏ son che chắn khu Trung Nam Hải trước những cái nhìn tò mò. Đứng gác ở cổng là lính của đơn vị tinh nhuệ 8341, và ngay cả trong những đường phố xung quanh đấy cũng có lực lượng an ninh trang bị vũ khí đi tuần.
Sống ở đây là người đàn ông có nhiều quyền lực nhất của Trái Đất, thống trị gần một tỉ con người và là thần tượng cho hàng triệu người ở khắp nơi trên thế giới: Mao Trạch Đông.
Nhưng đã từ lâu, Mao không còn để ý tới nét đẹp của Trung Nam Hải nữa. Vào cái ngày thứ tư 8 tháng 9 năm 1976 đấy, ông ấy nằm bất lực trong “Nhà 202″, một khối nhà hiện đại bên cạnh bể tắm, không còn khả năng tự ăn uống và nói cho rõ ràng.
Đó là một ngày hè nóng nực. Mãi cho tới bây giờ, ngay trước nửa đêm, trời mới dịu mát đi một chút. Bác sĩ riêng Lý Chí Tuy được gọi tới chỗ Mao. Các bác sĩ trực đã tiêm cho bệnh nhân một loại thuốc hỗ trợ tuần hoàn máu, nhưng họ không còn có thể làm ổn định nhịp tim và huyết áp của ông ấy được nữa.
Tiếng kêu rì rì của máy hô hấp vang lên trong căn phòng. Hầu như không còn có thể nhận ra được gương mặt của Mao ở phía sau chiếc mặt nạ thở ô xy đã bị trượt ra một chút được nữa. Quan chức cao cấp trong Đảng đứng canh bên cạnh bác sĩ và y tá. Một người kéo riêng bác sĩ Lý ra một bên và thì thầm: “Anh còn có thể làm gì được nữa không?”
Sau khi im lặng một lúc lâu, người bác sĩ riêng trả lời yếu ớt với “chúng tôi đã làm tất cả những gì chúng tôi có thể làm”. Dù trong bất cứ trường hợp nào, ông ấy cũng không muốn nói ra cái từ “chết”, mặc dù ông ấy biết rõ là Mao chỉ còn sống thêm được vài phút ít ỏi nữa thôi.
Những gì sẽ xảy ra sau đó, với các bác sĩ, với các quan chức cao cấp, với Đảng, với cả vương quốc khổng lồ, là hoàn toàn không thể biết được – mặc dù bóng tối của cái chết đã lơ lững trên ĐCS Trung Quốc từ đầu năm: đúng tám tháng trước đó, một người sắp chết khác của Trung Quốc đã rung chuông báo hiệu cho “năm bước ngoặc” lịch sử của Trung Quốc.
THỨ NĂM, NGÀY 8 THÁNG 1 NĂM 1976: trong một gian phòng tranh sáng tranh tối, được trang bị sơ sài trong Bệnh viện Bắc Kinh 305 có một người đàn ông già, mảnh khảnh nằm từ hai năm nay. Màng xám kéo qua trên mái tóc dầy màu đen, cơ thể chỉ còn xương với da. Cuộc đấu tranh kéo dài chống ung thư bọng đái, ung thư ruột và ung thư phổi đã chấm dứt: Chu Ân Lai, Thủ tướng Trung Quốc từ 26 năm nay, đã qua đời.
Chu tương ứng với hình ảnh lý tưởng của một người Trung Quốc có văn hóa cho tới mức ở Phương Tây, người ta không bắt buộc phải cảm nhận ông ấy là một người Cộng sản giáo điều. Ông ấy ăn nói khéo léo, có sức thu hút, thông thái, được đào tạo ở châu Âu, chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng ở đó. Ngay đến tên của ông ấy dường như cũng phù hợp – “Ân Lai” có nghĩa là “thịnh vượng xuất phát từ ông ấy”.
Mặc dù lâu nay Chu Ân Lai đã không còn có thể gây ảnh hưởng đến diễn tiến của sự việc được nữa, ông ấy vẫn là người được người dân Trung Quốc yêu mến. Ông ấy là người đã cắt xén những ý tưởng quá khích–không tưởng của Mao xuống một mức thực tế và mỗi ngày đều tận tâm làm việc nhiều đến mức đáng ngạc nhiên – con người của sự chừng mực. Sự chấm dứt của ông ấy có khiến cho Chủ nghĩa Cộng sản ở Trung Quốc trở nên cực đoan nữa hay không?
Một tuần sau đó, hàng trăm ngàn người đã đứng xếp hàng chào khi chiếc xe chở quan tài lăn đi trên đại lộ Trường An đến nghĩa trang Bát Bảo Sơn dành cho những người nổi tiếng. Có thể nhận thấy họ đau buồn thật sự, điều lại càng tăng lên sau khi ý muốn cuối cùng của Chu được loan truyền đi: không đưa tro của ông ấy vào trong một cái lăng lộng lẫy mà hãy phân tán ra tất cả các tỉnh.
Trong các chế độ độc tài, tang lễ nhà nước là những cái máy để đo địa chấn của quyền lực. Tất cả vẫn sẽ như cũ, hay sẽ có động đất chính trị? Vì thế, việc ai được phép khiêng quan tài của người quá cố hay nhận tổ chức lễ tang là một việc quan trọng – và trước hết là việc ai đọc bài diễn văn chia buồn. Vào cái ngày đấy, Chu Ân Lai được vinh danh bởi người học trò năng nổ nhất và có tài nhất của mình: Đặng Tiểu Bình.
Người đàn ông nhỏ con, gần 72 tuổi này đã trở thành tổng bí thư của ĐCS năm 1956, một quan chức đầy quyền lực. Quá nhiều quyền lực, như Mao cảm thấy chẳng bao lâu sau đó. Vào đầu cuộc Cách mạng Văn hóa, Đặng bị đày về nông thôn.
Một người đàn ông mới bước lên trong những lúc lộn xộn của cuộc Cách mạng Văn hóa – cao tới mức chẳng bao lâu sau đó ông ấy được bổ nhiệm làm người kế tục Mao trong Đảng: nguyên soái Lâm Bưu. Con người gầy gò từ giới quân đội này, sinh năm 1907, là một cựu chiến binh của cuộc Vạn Lý Trường Chinh và suốt đời là một người đi theo Mao. Thêm vào đó, ông ấy có uy tín lớn trong Quân đội Giải phóng Nhân dân, thể chế duy nhất trong đất nước này mà vào thời cao điểm của cuộc Cách mạng Văn hóa vẫn còn tương đối không bị ảnh hưởng đến.
Thế nhưng ngôi sao của Lâm chìm xuống nhanh hơn là ngôi sao của Đặng: năm 1970, viên tướng hy vọng rằng Mao sẽ nhận chức vụ chủ tịch nước đang bị bỏ trống. Nếu thế thì trên bình diện nhà nước, Lâm cũng sẽ được bước lên làm người kế nghiệp Mao. Thế nhưng Lâm đã thất vọng lớn, khi người Đại Chủ tịch để trống chức vụ chủ tịch nước: viên nguyên soái vẫn còn là Phó Thủ tướng thứ nhất. Một cấp bậc hàng đầu – nhưng vẫn ở sau thủ tướng Chu Ân Lai.
Những gì rồi xảy ra trong chín tháng đầu tiên của năm 1971 cho tới ngày nay vẫn còn bí ẩn. Chính Mao cũng gọi cách xử lý của ông ấy sau này là “ném đá, pha cát và đào góc tường”.
Ý muốn nói: lật đổ Lâm.
Rõ ràng là đối với Mao, Lâm cũng đã trở nên có quá nhiều ảnh hưởng. Ông ấy bắt buộc các sĩ quan cao cấp theo Lâm phải tự kiểm điểm công khai và qua đó chấm dứt con đường sự nghiệp của họ – những “hòn đá” mà Mao ném. Ông thay thế những người theo Lâm trong các ủy ban quân đội quan trọng bằng người mới – “pha thêm cát”. “Góc tường” cuối cùng chính là quyền chỉ huy quân khu Bắc Kinh, cái mà bây giờ Mao đưa cho những người trung thành.
Lâm Bưu, ngày càng bị cô lập trong thời gian dài của những tuần đấy, hoảng hốt chống lại sự chấm dứt của ông ấy, cả về mặt chính trị lẫn thể xác. Có lẽ là ông ấy đã tìm những người đồng tình trong số giới quan chức cao cấp để mưu lật đổ Mao. Cuối cùng, có lẽ là con trai của ông ấy đã đưa ra kế hoạch ám sát Mao trong tháng 9 năm 1971. Thế nhưng vụ mưu sát bị phản bội – có thể, theo như viên bác sĩ riêng của Mao tường thuật, là vì con gái của Lâm Bưu vô tình nói lộ ra những chi tiết quyết định.
Vào ngày 13 tháng 9 năm 1971 – ít nhất là theo phiên bản chính thức – Lâm Bưu cùng gia đình và một vài người trung thành bỏ trốn, bị ô tô cảnh sát đuổi theo, từ trung tâm Bắc Kinh ra đến một sân bay, nơi có một chiếc máy bay phản lực Trident chờ sẵn. Chiếc máy bay cất cánh và bay về hướng Liên bang Xô viết, nơi mà Lâm muốn nương náu.
Nhưng chỉ vài giờ sau đó, chiếc máy bay phản lực vỡ tan ra trên thảo nguyên Mông Cổ, không một ai sống sót. Có thể là trong lúc vội vã, chiếc máy bay đã đổ không đủ nguyên liệu; hay máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã đuổi theo nó qua cho tới nước láng giềng và đã bắn hạ nó ở đó. Hay cũng có thể là hoàn toàn khác đi.
Thế nào đi nữa thì Mao đã lại thủ tiêu thêm một người có thể kế nghiệp và cũng là đối thủ – và bây giờ nhớ lại công lao của Đặng Tiểu Bình. Năm 1973, Đặng và nhiều người theo ông ấy được phục hồi, do có sự hối thúc của Chu Ân Lai. Năm 1976, hơn phân nửa của tất cả các các bộ Đảng bị xua đuổi đi trong cuộc Cách mạng Văn hóa lại giữ chức vụ cũ của họ, trong khi những người chống họ, “Hồng Vệ Binh”, được gửi về nông thôn: một cuộc đi đày được ngụy trang như lần ban thưởng.
Thế nhưng Mao vẫn chưa xong. Chỉ một tuần sau lễ tang cho Chu Ân Lai, người ta đã biết rõ là Đặng sẽ không thể thắng thế trong Đảng.
THỨ TƯ, 21 THÁNG 1. Bộ Chính trị gặp nhau trong một gian sảnh họp của Đại Hội đường Nhân dân. Bầu không khí mang đầy tính nghi ngờ và gây gỗ. Người ta cần phải ấn định ai là người kế nhiệm Chu Ân Lai bây giờ? Đó là ai đi nữa thì người đấy sẽ có nhiều cơ hội tốt để theo Mao trong chức chủ tịch Đảng và qua đó sẽ kiểm soát được Trung Quốc nhiều năm trời.
Nhưng ai hôm nay thua cuộc thì con đường sự nghiệp chính trị của người đó sẽ chấm dứt – nếu như không có gì còn tệ hại hơn nữa sẽ đe dọa người đó.
Phe cánh tả quanh Giang Thanh vợ của Mao, tất cả đều có được quyền lực trong thời của cuộc Cách mạng Văn hóa, kiên quyết chống lại yêu cầu nắm giữ chức vụ thủ tướng của Đặng. Đặng muốn hiện đại hóa nền nông nghiệp. Thêm vào đó là cho người nông dân có nhiều tự do về kinh tế hơn. Ông ấy muốn hỗ trợ cho khoa học và công nghệ tốt hơn, mở rộng quốc phòng. Phe cánh tả ngược lại chống các cải cách kinh tế. Cách mạng liên tục và đấu tranh giai cấp – đó chính là những nguyên tắc chỉ đạo cho chính sách của họ.
Ứng cử viên của họ là Vương Hồng Văn, người đã theo Giang từ sớm và nhờ bà ấy mà tiến bước nhanh chóng trên con đường sự nghiệp trong Đảng.
Mao đích thân can thiệp. Ông cho chuyển một thông điệp, cũng giống như một mệnh lệnh: ứng cử viên của ông ấy là Hoa Quốc Phong. Một sự ngạc nhiên, vì con người xuất phát từ tỉnh này, người đã leo lên đến chức Phó Thủ tướng, không đứng trên phiếu bầu của ai cả.
Hoa độ 55 tuổi và thuộc “thế hệ 38″ – thế hệ chịu nhiều ảnh hưởng của cuộc kháng chiến chống người Nhật xâm lược và thời đấy đã tham gia phong trào cách mạng. May mắn của Hoa là ông ấy đã đảm nhiệm tỉnh có Thiều Sơn nơi sinh của Mao cũng nằm ở trong đó khi còn là một bí thư trẻ tuổi.
Trong thời gian của cuộc Cách mạng Văn hóa, ông ấy đã mở rộng ngôi nhà là nơi sinh của Mao ra thành một điểm hành hương cho Hồng Vệ Binh và lập một nhà máy sản xuất hàng năm 30 triệu cái khuy đeo có hình Mao. Năm 1973, Hoa vào Bộ Chính trị, hai năm sau đó, ông ấy trở thành Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ An ninh Công cộng – và qua đó kiểm soát công an.
Phần lớn các nhà quan sát nhìn ông như một ứng viên thỏa hiệp, người đối với các nhà cải cách quanh Đặng Tiểu Bình cũng như đối với phe cánh tả cực đoan là đều có thể chấp nhận được.
Mao phô diễn thêm một lần nữa quyền lực của mình, bằng cách lựa một ứng cử viên không có phe phái mạnh ở sau lưng. Thông điệp: Đại Chủ tịch vẫn còn cầm lái và quyết định nhân sự.
2
Thứ Bảy, ngày 31 tháng 1, Trung Nam Hải: báo động cho quân đoàn 8341. Lửa cháy và tiếng súng bắn trước nhà của Chủ tịch Mao! Những người lính cầm súng lao vào, căng thẳng, rồi báo động được bãi bỏ: năm mới của Trung Quốc sắp đến, và một vài người phục vụ cho Mao muốn làm cho ông ấy vui bằng cách đốt pháo – nhưng lại quên báo cáo trước cho lính canh nên những người này đã lo sợ một vụ mưu sát. Sau khi mọi việc đã rõ, những người lính và nhân viên phục vụ đã chạy tụ tập đến đấy lại lui về.
Thế nhưng bây giờ có một tin đồn xấu được lan truyền đi, lúc đầu là trong Trung Nam Hải, rồi đến trên đường phố Bắc Kinh: đã từ lâu, Mao không còn đánh giá cao Chu Ân Lai nữa và đã ăn mừng cái chết của ông ấy bằng cách đốt pháo. Năm con rồng bắt đầu trong một bầu không khí nghi kỵ.
Bây giờ, Mao hầu như không còn ở trong ngôi biệt thự của ông ấy nữa, mà ở trong một nhà tắm. Nhà đấy trước đây đã được xây cho tất cả các cán bộ cao cấp trong Trung Nam Hải, thế nhưng ngay từ những năm 1950, không còn ai trong số họ dám quấy rối những đường bơi của nhà yêu chuộng bơi lội Mao nữa. Thời gian sau này, các gian phòng ở, tiếp khách và làm việc được xây thêm vào, thì thế nên ngôi nhà tắm đấy thật ra là ngôi nhà tư nhân của Chủ tịch.
Mao trong cuộc sống cá nhân được che chắn hết sức kỹ lưỡng của ông ấy là một sự pha trộn giữa nhà quê và học giả, nhà chiến thuật lắm mưu mẹo và người lập dị kỳ lạ. Ông ấy có nhiều điểm chung với những nhà cai trị của các triều đại hoàng đế đã suy tàn từ lâu hơn là với những tổng bí thư Đảng tầm thường của phần lớn các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác.
Một người như vậy không cần phải tuân theo một lịch hẹn nào cả. Mao làm việc, ăn và ngủ tùy theo ý mình, nhân viên của ông ấy đã quen với việc nửa đêm bị gọi vào chỗ ông ấy – hay gọi đến điểm tận cùng của Trung Quốc, vì viên Chủ tịch hay thích tự phát đi xuyên qua đất nước trong một đoàn tàu đặc biệt, khiến cho các thư ký, nhân viên phục vụ, người chăm sóc sức khỏe và cảnh sát an ninh của ông ấy rối loạn cả lên.
Ông ấy thích các món ăn được xào nấu với nhiều dầu, trà đậm, thuốc lá “555″ của Anh.
Phòng làm việc với bàn viết, ghế và giá sách chỉ được dùng để đặt hình ảnh lên, vì ông hoàng đế đỏ thích làm việc nhất là trên chiếc giường khổng lồ của ông ấy hay ở cạnh bể bơi, nơi ông ấy đọc không biết bao nhiêu là tài liệu và bình luận bằng những dòng ghi chú ngắn, thỉnh thoảng viết những bài văn dài hay cùng với những người thân cận phác thảo các chiến dịch mới.
Thường trong lúc đó ông ấy không mặc gì nhiều hơn là một chiếc áo choàng tắm. Ông chỉ mặc bộ complê của mình trong những dịp duyệt binh, đón tiếp chính thức khách nhà nước hay ở các sự kiện chính thức khác. Cận vệ phải mang giày trước cho ông.
Có không biết bao nhiêu là “công nhân văn hóa” mà ông ấy đã “thư giãn” với họ trong những năm dài. Thiếp hầu của ông ấy hầu hết đều là những cô gái trẻ ít học từ nông thôn, những người được cơ quan an ninh điều tra về mặt chính trị và rồi dẫn đến cho ông. Họ là những người phục vụ trong chiếc tàu hỏa xa xỉ mà Mao đi xuyên qua Trung Quốc với nó, hay những người đi theo một dàn nhạc, những người mời Đại Chủ tịch khiêu vũ cho tới chừng nào mà ông ấy chọn một người trong số họ tại các buổi hòa nhạc bí mật thường được tổ chức cho các cán bộ cao cấp. Ngay trong Đại hội đường Nhân dân, nơi có sẵn nhiều phòng dành cho Chủ tịch, cũng có một doanh trại dành cho yêu đương.
Thế nhưng bắt đầu từ những năm 1970, sự thèm muốn của Mao dường như đã được thỏa mãn. Không còn có thiếp hầu mới nữa, bù vào đấy là ba người phụ nữ đồng hành, làm việc cho ông ấy như là nhân viên phục vụ, thư ký và y tá, và qua đó ngày càng kiểm soát ông ấy nhiều hơn.
Một người trong bọn họ, Trương Ngọc Phượng, gặp ông lần đầu tiên vào đầu những năm 1960, trở thành người thân cận của ông ấy. Có lần Hoa Quốc Phong muốn gặp viên Chủ tịch, nhưng để làm việc đấy thì phải đến gặp Trương Ngọc Phượng – người đang ngủ. Không ai dám đánh thức bà ấy dậy. Sau hai giờ đồng hồ, người đàn ông nhiều quyền lực thứ nhì của Trung Quốc lại phải quay về, hoài công.
Thế nhưng ngay cả khi các cô vợ bé của Mao cũng đóng những vai âm mưu mà ngày xưa thuộc về các thái giám trong triều đình – viên Chủ tịch không phải là một công cụ nhu nhược. Cả trong áo choàng tắm ở cạnh bể bơi, ông ấy thỉnh thoảng vẫn có tác động mạnh đến nhiều người khách lần đầu gặp ông ấy.
Nhà độc tài Trung Quốc là một bậc thầy về ngôn ngữ, ông ấy viết thơ, nói loại tiếng địa phương Hồ Nam có nhịp điệu và thích hình ảnh dễ hiểu: “cọp giấy” có lẽ là sáng tạo ngôn ngữ được biết đến nhiều nhất trên thế giới của ông ấy.
Ông ấy là một người đọc say mê văn học Phương Tây và Phương Đông, đánh giá cao triết học và trước hết là lịch sử. Trong số các hoàng đế Trung Quốc, ông ấy khâm phục nhất là những người bị người dân kinh sợ vì sự tàn nhẫn của họ, nhưng về chính trị thì lại thành công nhiều nhất – ví dụ như hoàng đế Tần Thủy Hoàng (thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên), người đã cho xử tử hai triệu người và trưng bày xác chết không toàn vẹn của nạn nhân, để cho những người muốn nổi loạn phải khiếp sợ – nhưng cũng là người thống nhất vương quốc và xây Vạn Lý Trường Thành.
Mao quyết định tất cả mọi việc ở xung quanh ông ấy, ngay cả về những lần mổ mà có những cán bộ cao cấp nào đó cần phải có – thường ông ấy không cho phép, vì ông ấy không tin vào y học hiện đại.
Chu Ân Lai, người mà ngay từ 1972 đã được chẩn đoán là mắc bệnh ung thư, phải chờ tới hai năm, cho tới khi vợ của ông ấy cuối cùng cũng gây ảnh hưởng đến một vợ bé của Mao nhiều cho tới mức bà ấy có thể xin ông Chủ tịch cho phép mổ để kéo dài mạng sống.
Thế nhưng bây giờ chính Mao lại ốm. Tinh thần tỉnh táo, vẫn còn biết mình có quyền lực và đa nghi, nhưng nằm trong một thân thể bây giờ suy nhược. Ngay từ thời trước, viên Đại Chủ tịch đã có vấn đề về sức khỏe, những vấn đề mà người bác sĩ riêng của ông ấy có thể kiểm soát được – hay cam chịu chấp nhận.
Từ nhiều thập niên nay, Mao mắc chứng khó ngủ và nghiện thuốc ngủ. Thỉnh thoảng ông ấy bị nhiễm bệnh giới tính từ một trong những người vợ bé của ông ấy. Cũng như nhiều người nông dân, ông ấy không đánh răng mà súc miệng mỗi sáng với trà xanh và rồi nhai lá trà sau đó. Hậu quả là một lớp cáu dầy màu xanh cũng như bệnh nha chu và sưng mủ.
“Con cọp cũng không bao giờ đánh răng nhưng răng chúng vẫn sắc bén” là lý lẽ của Mao để chống lại kem đánh răng và bàn chải. Những người sửa hình phải chỉnh lại toàn bộ những tấm hình công khai của Mao mà trên đó người ra có thể nhận ra được những cái răng đã bị nhuộm màu của ông ấy. Và một cửa hàng dược phẩm được chọn ra đặc biệt ở Bắc Kinh phải cung cấp những loại thuốc ngày càng kỳ lạ hơn.
Năm 1972, người bạo chúa bỏ hút thuốc – quá muộn cho lá phổi đã bị phá hủy của ông ấy. Có ba bong bóng khí hình thành ở bên lá phổi trái, cho nên ông ấy chỉ còn có thể thở tương đối không khó nhọc lắm khi nằm nghiên sang trái và nén các bong bóng khí lại qua trọng lượng cơ thể của ông ấy. Ông ấy bơi lần cuối cùng là trong năm 1974 – ông ấy yếu, bị tê liệt cuống họng một phần, bị uống nước và phải để cho cận vệ kéo lên khỏi nước chỉ sau vài giây.
Ngay trước đấy, các bác sĩ thần kinh đã chẩn đoán bệnh “xơ cột bên teo cơ” ở ông ấy: một bệnh dẫn đến việc các tế bào thần kinh vận động trong tủy cột sống bị phá hủy và qua đó dần đến tê liệt dần dần.
Các bác sĩ cho Mao được hai năm nữa – nhưng không nói cho ông ấy biết, vì theo các truyền thống chữa bệnh ở Trung Quốc, viễn cảnh tuyệt vọng không được thông báo cho bệnh nhân biết.
3
CHỦ NHẬT, NGÀY 4 THÁNG 4, Bắc Kinh, Thiên An Môn. Đấy là đêm trước của lễ Thanh Minh, ngày tưởng nhớ người chết của Trung Quốc. Từ giữa tháng 3, sinh viên đã tụ tập lại ở đây, trên “Quảng trường Thiên An Môn” trước cột đá ở giữa tưởng niệm những người anh hùng của cuộc Cách mạng Cộng sản. Ở mặt trước của cột có khắc một câu nói của Mao, ở mặt sau là một bài văn của Chu Ân Lai, được phỏng theo nét chữ viết tay của họ, đồ sộ và được mạ vàng.
Các sinh viên tưởng nhớ Chu Ân Lai. Thế nhưng cuộc hội họp này khác với những cuộc diễu hành của các bộ đồng phục trong thời Cách mạng Văn hóa. Nó tự phát và không có mục tiêu thật sự. Mỗi ngày càng có nhiều người đến trên quảng trường.
Vào tối của ngày 4 tháng 4, cuối cùng rồi thì không thể không nhìn thấy đám đông đó được nữa. Quanh cái cột đá và từ đó cho tới Cổng Thiên An Môn trong tường của Cấm Thành, có những vòng hoa phúng điếu nằm cao tới mười mét, được kết lại từ giấy lụa, cũng như hoa cúc. Tranh cổ động, áp phích và cờ vươn cao lên như những chiếc buồm trên biển người biểu tình. Có những người hát, trích dẫn thơ. “Chu Ân Lai hãy tỉnh dậy, hãy báo động quân đội, cảnh sát và nhân dân, để bảo vệ hiến pháp!” được viết trên một tấm áp phích.
Thật sự là quân đội và cảnh sát đã được báo động – nhưng khác với sự tưởng tượng của người dân.
Trong đêm rạng sáng ngày 5 tháng 5, theo lệnh của Bộ Chính trị, cảnh sát dọn sạch toàn bộ những vòng hoa chia buồn với 200 chiếc xe tải; Quảng trường Thiên An Môn vào sáng sớm trống vắng giống như chưa từng có một cuộc biểu tình nào ở đây.
Nhưng không được lâu.
Vì sự khiêu khích vào lúc đêm khuya khiến cho sinh viên tức giận, những người vào sáng sớm ngày 5 tháng 5 lại bước ra quảng trường. Cuộc phản đối nhanh chóng lan rộng, vào khoảng tám giờ đã có hơn 100.000 người biểu tình tụ họp lại – cho tới lúc đó là sự kiện lớn nhất không được tổ chức trước trong lịch sử của nước Cộng hòa Nhân dân.
Công nhân từ một xí nghiệp chế tạo máy đã rèn từ kim loại phế liệu một vòng hoa nặng 500 kí lô có đường kính sáu mét và chở nó trên xe đạp đi 15 kilômét xuyên qua thành phố đến Thiên An Môn.
Bây giờ, bầu không khí mang tính hung dữ. Năm chiếc xe cảnh sát bị đốt cháy, nhiều phái đoàn tiến đến Đại hội đường Nhân dân và các tòa nhà chính phủ khác, họ bị từ chối. Người biểu tình xô đẩy lính canh rớt mũ, có người ném đá. Nhưng vào khoảng 18 giờ, phần lớn đều rời quảng trường. Chỉ một vài người là muốn ở lại đấy cả đêm.
Trong lúc đó, một quan chức cao cấp của tổ chức ĐCS thành phố đã cảnh báo các sinh viên qua đài phát thanh, đừng để “những phần tử xấu” lôi kéo vào những cuộc “phá hoại phản cách mạng”. Một điềm xấu báo trước.
Sau khi màn đêm buông xuống, đèn pha bất thình lình chiếu sáng rực cả quảng trường. Vào khoảng 21 giờ, 10.000 dân quân, 3.000 cảnh sát và năm tiểu đoàn của lực lượng đặc biệt 8341 bắt đầu hành động với mọi bạo lực.
Những người biểu tình quanh cột đá bị bao vây, đánh đập và dẫn đi.
Vợ Mao đứng trong một căn phòng ở mặt tiền của Đại hội đường Nhân dân và quan sát cuộc biểu tình trên Thiên An Môn qua một cái ống nhòm.
Vào khoảng 23 giờ, bà ấy vội quay về với viên Chủ tịch và đắc thắng tường thuật lại về lần đập tan “nhóm nhỏ của những kẻ phản cách mạng”. Tiếp đó, bà ấy ăn mừng chiến thắng với một vài người trung thành, với rượu, đậu phọng và thịt. “Tôi sẽ cho rơi đầu”, bà ấy hứa hẹn. Có ít nhất là 388 người biểu tình bị bắt giam.
Vào ngày hôm sau đó, 30.000 dân quân chiếm giữ Thiên An Môn để ngăn chận những cuộc tụ tập mới. Trong tờ “Nhân dân Nhật báo” có một bài viết gay gắt chống lại những người biểu tình. Và trong Bộ Chính trị, Giang Thanh đắc thắng, vì cuối cùng bà ấy cũng thành công trong việc thuyết phục Mao tin rằng Đặng Tiểu Bình là người chịu trách nhiệm cho các sự kiện trong thời gian của Lễ Thanh Minh. Trong những ngày trước đó, người này cứ bình thản chịu đựng những đợt công kích một cách giận dữ từ Giang Thanh, trước khi đứng dậy với lời nhận xét chế giễu: “Tôi điếc rồi, tôi không hiểu gì cả.”
Vào ngày 7 tháng 4, Đặng bị tước mọi chức vụ trong Đảng. Ông ấy bay về Quảng Đông, nơi các quan chức địa phương trung thành với ông ấy và bảo vệ ông ấy không bị đánh đập. “Nếu một người bị đánh đến lần thứ nhì thì người đấy đã làm việc tốt đấy chứ”, là lời bình luận mang tính chế giễu của ông ấy.
Bây giờ, Hoa Quốc Phong được cử làm Thủ tướng và Phó Tổng bí thư Đảng – và qua đó là người được chỉ định để kế nghiệp Mao.
Thế nhưng tờ “Nhân dân Nhật báo” và đài truyền hình đưa ra bên cạnh ông ấy thêm một nhân vật thứ hai, trên thực tế là đồng cấp bậc: Giang Thanh. Thời của bà ấy dường như đang đến gần.
Phần lớn người Trung Quốc chỉ biết đến người vợ của Mao từ 1966, mặc dù bà ấy đã kết hôn với ông ấy từ tháng 11 năm 1938. Cả một thời gian dài, dường như bà ấy phải chịu đựng việc là mình không quan trọng. Giang Thanh sinh năm 1914, trong những năm 1930 đã là một nữ diễn viên sân khấu và điện ảnh hoạt động xã hội tích cực ở Sơn Đông và Thượng Hải, trước khi bà ấy đi theo những người Cộng sản và quen Mao.
Bộ Chính trị chống lại mối quan hệ với người Chủ tịch – cũng là vì theo truyền thống, diễn viên không được coi trọng trong Trung Quốc –, nhưng cuối cùng cũng đồng ý khi Mao hứa hẹn không cho bà ấy tham gia chính trị.
Giang Thanh sống trong xa xỉ. Trong những năm 1950, bà ấy còn được phép mua quần áo thanh lịch từ Phương Tây, thế nhưng cảm thấy nình thừa thãi, bị chồng bà cô lập ngày càng nhiều hơn, cảm thấy bị làm nhục bởi các áp phe của ông ấy, bị những người lính cận vệ của Mao chế diễu.
Cuộc Cách mạng Văn hóa đã làm thay đổi tất cả. Cuộc đấu tranh của Mao chống lại Đảng đã kết nối vợ của ông ấy lại với một vài người quá khích, những người từ các lý do ý thức hệ cũng như từ các lý do về tuổi tác mà nổi dậy chống lại tổ chức Đảng: những người trẻ muốn vứt bỏ giới cách mạng già.
Giang Thanh trở thành nữ thủ lĩnh của nhóm này, nhóm mà chẳng bao lâu sau đó đã kiểm soát được các giới truyền thông đại chúng và tổ chức Đảng trong Thượng Hải, nói chung là thành phố duy nhất có được một giới vô sản công nghiệp cách mạng.
Bây giờ, Giang Thanh hy vọng rằng sau cái chết của Mao, con đường đi lên hàng đầu đã mở ra cho mình. Trong lịch sử Trung Quốc có một vài ví dụ về những người cai trị là những người phụ nữ đầy quyền lực – tại sao điều đấy lại không thể dưới những người cộng sản?
Mặt khác, có phải là quyền lực của bà ấy chỉ dựa trên việc bà ấy là người vợ của Mao hay không? Với cái chết của ông ấy, liệu bà ấy cũng mất đi tính chính danh của mình hay không? Giang Thanh dao động giữa hy vọng cuồng loạn và sợ hãi vô cùng. Cái chết của Mao sẽ có ảnh hưởng đến số phận của tất cả các cán bộ cao cấp, nhưng không ai đặt cược cao như vợ của ông ấy.
Mao cũng biết điều đó. Trong những tháng này, ông ấy đọc cho người thân cận của ông ấy là Trương Ngọc Phượng nhiều lá thư ngắn, bởi vì ngoài bà ấy ra thì không ai có thể hiểu được những âm từ lắp bắp của ông ấy. Giang Thanh khéo léo sử dụng tình trạng đấy cho mục đích riêng của mình.
Ví dụ như bà ấy quả quyết rằng Mao đã nhờ Trương Ngọc Phượng đưa cho bà thông tin này: “Trong cuộc đấu tranh của mười năm qua, anh đã cố gắng đi đến đỉnh cao của cuộc cách mạng, nhưng anh không thành công. Nhưng em có thể đến được đỉnh cao.”
4
THỨ BA, NGÀY 11 THÁNG 5, Trung Nam Hải. Một nữ y tá chạy đến chỗ bác sĩ Lý Chí Tuy, vì viên Chủ tịch lại lên cơn tim. Người bác sĩ riêng của Mao, một vài đồng nghiệp và nữ y tá cố ổn định tình trạng của bệnh nhân và trong lúc hấp tấp đã làm một việc mà họ đã không dám làm trong vòng hai năm vừa qua: họ đẩy Trương Ngọc Phượng, người đứng cản đường họ, sang một bên.
Con người 32 tuổi này, người mà Mao đã biết đến cách đây 14 năm như là nhân viên phục vụ trên chiếc tàu hỏa đặc biệt của ông ấy, là cơn ác mộng của các bác sĩ. Từ năm 1974, trên thực tế là bà ấy nắm độc quyền tiếp xúc với ông Chủ tịch, điều không những khiến cho Hoa Quốc Phong và Giang Thanh hết sức bực tức, mà cả bác sĩ Lý chịu trách nhiệm về sức khỏe của Mao nữa.
Ông hầu như không còn có thể chẩn đoán cho bệnh nhân nổi tiếng của ông ấy được nữa, vì người này từ chối những cuộc điều trị kéo dài. Thường thì sau nhiều ngày thúc dục, người bác sĩ chỉ có thể thuyết phục được Mao và người vợ bé của ông ấy ít nhất là để cho lấy vài mẫu máu.
Y tá bí mật mang nước tiểu của Mao ra, để các bác sĩ có thể cho người phân tích được. Nhưng Trương Ngọc Phượng cứ đơn giản là từ chối nhiều đề nghị chữa bệnh và cưỡng lại các bác sĩ bằng cách chỉ cho truyền dịch glucose.
Vào ngày 11 tháng 5 đó, Mao ốm yếu. Ông ấy bồn chồn cho tới mức những người phục vụ của ông ấy đặt thêm một cái giường to thứ nhì vào trong ngôi nhà tắm và thường xuyên kéo ông ấy đi từ giường này sang giường kia, để làm giảm bớt sự bức rứt của ông ấy. Ông ấy chỉ còn có thể ăn xúp gà hay xúp bò mà một người nữ y tá nhỏ từng giọt vào cho ông. Với thực phẩm qua tĩnh mạch, bác sĩ Lý có thể cải thiện tình trạng đôi chút – sau khi ông ấy phải thuyết phục Trương Ngọc Phượng về tính không nguy hiểm của dịch truyền, bằng cách tự thử cho mình trước mắt của bà ấy.
Cơn đau tim tuy qua được, thế nhưng nó là lần khởi đầu của sự chấm dứt. Quyền lực kỳ lạ của Trương Ngọc Phượng ở xung quanh Mao bây giờ bị giới hạn, vì sự sa sút về thân thể của viên Chủ tịch đã khiến cho sự tiếp cận trực tiếp của các bác sĩ trở nên cần thiết.
Bộ Chính trị, cho tới nay đều trình ra tất cả các nghị quyết để được ông cho phép, quyết định dưỡng sức cho Mao và chỉ còn quấy rầy ông ấy trong những trường hợp đặc biệt. Qua đó, viên Đại Chủ tịch dần mất đi sự kiểm soát Đảng của ông ấy.
Ông ấy đánh mất sự kiểm soát cơ thể mình vào ngày 26 tháng 6, khi lại một cơn đau tim hạ gục ông ấy. Trung ương Đảng loan báo, rằng từ bây giờ Mao không tiếp khách nước ngoài nữa. Người ta không đưa ra lý do, nhưng nhiều người hiểu việc đấy như là lần loan báo cái chết sắp đến của ông ấy.
Cứ tám tiếng một, một đội năm bác sĩ và tám nữ y tá bây giờ lo cho sức khỏe của người bạo chúa. Bác sĩ Lý dọn vào một gian phòng cạnh những phòng của Mao và túc trực sẵn sàng. Từ quan điểm y học, ít bác sĩ hơn cũng đã đủ, nhưng từ quan điểm chính trị thì không: ngay khi tình trạng của Mao xấu đi thấy rõ trong năm 1972, Giang Thanh đã gọi bác sĩ Lý là thành viên của một “nhóm điệp viên” muốn tiêu diệt Mao.
Càng có nhiều chuyên gia thì mối nguy hiểm bị hy sinh như là người phải chịu tội sau khi Mao chết lại càng ít đi.
Cộng thêm vào số bác sĩ và y tá là bốn chính khách, những người thay nhau trong ca mười hai tiếng để canh chừng: Hoa Quốc Phong và người phe cánh tả Trương Xuân Kiều cũng như người ủng hộ Hoa là Uông Đông Hưng và ứng cử viên cánh tả Vương Hồng Văn.
Cạnh bên giường người chết của Mao, cuộc tranh giành quyền lực đã bắt đầu.
Khi bác sĩ Lý báo cáo về tình trạng của người Chủ tịch trước Bộ Chính trị, ông ấy chỉ có thể trình bày những dự đoán đen tối: Mao bị nhiễm trùng đường hô hấp, có một trái tim yếu và chức năng thận bị giới hạn.
Vì thế mà Giang Thanh đã quở trách ông ấy: “Rõ ràng là anh không được cải tạo tốt. Trong xã hội tư bản, bác sĩ là chủ và y tá là những người phục vụ. Vì thế mà Chủ tịch luôn khuyên rằng chúng tôi chỉ nên tin một phần ba những gì các bác sĩ nói.”
THỨ TƯ, NGÀY 28 THÁNG 6, tỉnh Hà Bắc. Mặt đất rung chuyển vào ngày đầu tiên của tháng 7 theo lịch Trung Quốc, tháng mà các hồn ma xấu xa hoạt động. Cơn động đất mạnh 8,2 độ trên thang Richter – đó là một trong những trận động đất tồi tệ nhất trong lịch sử của Trung Quốc. Vào ban đêm của ngày hôm đó có thêm một trận nữa, chỉ nhẹ hơn không đáng kể.
Nhà cửa và cầu của thành phố công nghiệp Đường Sơn sụp đổ, hỏa hoạn lớn hoành hành. Đại diện chính quyền sau này nói là có 242.000 người chết và 164.000 người bị thương nặng, các nhà quan sát người nước ngoài còn cho rằng có hơn 600.000 người chết.
Cả ở Bắc Kinh mặt đất cũng rung động, tuy vậy, với những hậu quả ít tàn khốc hơn rất nhiều. Cư dân của Trung Nam Hải bị lay dậy từ trong giấc ngủ và một vài ngôi nhà bị hư hại nhẹ, trong đó có ngôi nhà tắm của Mao.
Bác sĩ, y tá và cận vệ chuyển chiếc giường với viên Chủ tịch – người vẫn rất tỉnh táo và ghi nhận rõ rệt những gì đang xảy ra – qua một lối đi sang căn nhà số 202 nằm ở bên cạnh, mới xây xong năm 1974 và được cho là có thể chịu đựng được động đất.
Hoa Quốc Phong cố lợi dụng trận động đất cho các mục đích chính trị. Vào ngày 1 tháng 9, ông ấy – “nhân danh Mao” – công khai khen ngợi các biện pháp cứu trợ, cho là những biện pháp đó có tác động nhiều hơn là các biện pháp sau thảm họa đầu những năm 60 rất nhiều.
Thế nhưng muốn trục lợi về mặt chính trị qua một trận động đất là một việc làm hết sức không khéo léo. Vì ở Trung Quốc, thiên tai được xem như là điềm báo trước cho lần thay đổi người cai trị sắp sửa đến, và lần nhắc đến Mao đã bệnh không cứu chữa được nữa hẳn phải khiến cho người Trung Quốc nào cũng phải khiếp sợ.
THỨ TƯ, 8 THÁNG 9, Trung Nam Hải, ngay trước nửa đêm. Mặc dù đã muộn, nhưng phía sau tấm bình phong che giường của Mao lại trước phần còn lại của căn phòng vẫn đầy người, vì 24 giờ là lúc đổi ca. Mười bác sĩ và sáu y tá thì thầm trao đổi những báo cáo thường nhật, thêm vào đó là bác sĩ Lý, Hoa Quốc Phong, thêm các thành viên Bộ Chính trị khác, cận vệ và Trương Ngọc Phượng.
Người vợ bé lắng nghe những âm thanh từ miệng của Mao, rồi bà ấy gọi viên bác sĩ riêng đến giường: “Chủ tịch muốn nói chuyện với anh!”
Bác sĩ Lý cầm tay Mao, nhưng mặc dù cố gắng ông ấy vẫn không thể hiểu được viên Chủ tịch đang muốn nói gì với mình, và vì thế nên lầm bầm một vài điều không quan trọng để trấn an – Mao vẫn còn chưa biết ông ấy bị bệnh gì và tình trạng của mình ra sao.
Có lộn xộn ngắn khi Giang Thanh chạy vào. Cho tới lúc đó, tất cả những người có mặt đều nói thì thầm, thế nhưng bây giờ bà ấy với giọng nói bồn chồn đã át cả tiếng rì rì của cái máy hô hấp. “Ai đó có thể nói cho tôi biết có việc gì không?” Hoa Quốc Phong, người đã cho gọi bà ấy vì phỏng đoán rằng Mao sẽ chết, trấn an bà ấy mà không giải thích lý do cho lời yêu cầu của mình hay còn nói cả cái từ “chết” gây kinh sợ đấy ra nữa.
Gương mặt vào lúc trước đã từng tròn trĩnh của Mao bây giờ chảy xệ xuống và xám xịt, mắt của ông ấy không còn tinh anh nữa. Thế nhưng trong một khoảng khắc, viên Chủ tịch dường như hài lòng, đôi má hồng lên.
Nhưng rồi thân thể của ông ấy nhũn xuống: mười phút sau nửa đêm, Mao Trạch Đông chết. Đó là ngày thứ năm, 9 tháng 9 năm 1976.
Trong số người đang hiện diện, hầu như không có ai xúc động thật sự. Giang Thanh la mắng các bác sĩ, nhưng bất thình lình trấn tỉnh lại. Các bác sĩ lo sợ sẽ bị bắt giữ như những “kẻ có tội”, đồng thời phải lo sao cho xác chết còn hơi ấm này được bảo tồn. Các nhà giải phẫu và mô học của Viện Y Khoa Bắc Kinh bị gọi dậy vào lúc nửa đêm và bị triệu đến Trung Nam Hải. Đồng thời, Bộ Chính trị họp hội nghị.
Vào khoảng bốn giờ sáng, bác sĩ Lý nhẹ nhỏm vì biết tin, rằng Bộ Chính trị sẽ không lên án các bác sĩ – và kinh hoàng vì biết tin, rằng Bộ Chính trị đã quyết định bảo tồn xác chết không chỉ một tuần mà là mãi mãi. Ý muốn được thiêu của Mao bị phớt lờ đi.
Các bác sĩ đều bất lực. Không một ai trong số họ có kinh nghiệm trong việc bảo tồn lâu dài một xác chết. Một nữ chuyên gia được gửi đến thư viện chuyên môn gần nhất để tìm kiếm các tài liệu thích hợp, những người khác thương lượng với các quan chức cao cấp đang tụ tập trong nhà 202, cho tới khi những người này cuối cùng rồi cũng cho phép hạ máy điều hòa từ 25 xuống 10 độ Celsius.
Điều duy nhất mà bác sĩ Lý biết, là ba người thánh cộng sản được ướp xác “vĩnh cửu” khác đã có nhiều vấn đề: ở Lênin và Stalin – cho tới khi ông ta biết mất dưới thời Khrushchev – trong Liên Bang Xô viết cũng như ở Hồ Chí Minh tại Bắc Việt Nam, tai và mũi ngay sau một thời gian ngắn đã thối rữa và phải được thay thế bằng những mô hình bằng sáp.
Các bác sĩ đọc trong một tờ báo Phương Tây, rằng phải xử lý xác chết với 12 đến 16 lít formaldehyde, tiêm vào một vài giờ sau khi chết. Nhưng bác sĩ Lý muốn cho chắc ăn và cho bơm 22 lít vào trong xác của Mao.
Vào khoảng mười giờ sáng, công việc đấy chấm dứt – với kết quả đáng sợ: mặt, cổ và thân thể của Mao sưng phồng lên một cách kỳ quái, chất formaldehyde trào từng giọt một ra từ lỗ chân lông như mồ hôi.
Thế là các bác sĩ phải cực nhọc dùng khăn và bông để chậm hết chất lỏng ấy trên gương mặt và nhét thân xác đấy vào trong một bộ quần áo của Mao, cái được xẻ ra ở lưng để nó vừa với thân hình đã phồng lên.
Trong lúc đấy, da ở má phải của Mao vỡ ra; nơi hư hỏng đấy được che lại bằng Vaseline và phấn. Vào khoảng 15 giờ, người chết trông có vẻ chấp nhận được, vài giờ sau đấy, ông ấy được đặt vào trong một cái quan tài bằng kính, kín khí và được chở vào trong Đại hội đường Nhân dân.
Từ năm 1930, Mao đã bị giới báo chí quốc tế tuyên bố chết tám lần, thế nhưng tin lần thứ chín, được chính thức tuyên bố vào cái ngày đấy lúc 16 giờ, là đúng.
Người ta tuyên bố quốc tang một tuần. Trong tuần đó, 300.000 người dân được lựa chọn ra để đi ngang qua chiếc quan tài bằng kính với xác chết được xử lý một cách cực nhọc ở trong đó – thế nhưng thiếu sự xúc động như sau cái chết của Chu Ân Lai.
Liên bang Xô viết thù địch với Bắc Kinh loan tin Mao chết trong một bài báo ở trang ba của tờ Izvestia và không gửi lời chia buồn từ chính phủ đến chính phủ, mà chỉ từ ĐCS đến ĐCS – việc bị người Trung Quốc từ chối một các thô lỗ vào ngày 14 tháng 9.
Đỉnh cao của các nghi thức diễn ra vào ngày 18 tháng 9 trên Thiên An Môn. Đài phát thanh và truyền hình truyền trực tiếp, khoảng 500.000 người đã tụ họp lại trên quảng trường. Trời nóng bức. Vào lúc 15 giờ, còi nhà máy và còi tàu thủy kêu vang ba phút, rồi sự yên lặng thống trị ba phút liền.
Sau đó, Hoa Quốc Phong đọc một bài diễn văn dài ca ngợi người chết, trong đó có một vài mũi nhọn gần như không che đậy hướng đến Đặng Tiểu Bình và Giang Thanh.
Thế nhưng người vợ góa của Mao – người gửi chồng mình vòng hoa chia buồn với dòng chữ “Người học trò và bạn chiến đấu của anh” – được chiếu thật lâu trong truyền hình cùng với những người nổi tiếng theo bà ấy.
Cuộc tranh giành quyền lực quanh người kế nghiệp Mao đang tiến đến gần đỉnh cao của nó.
5 ( Hết )
Thứ tư, ngày 6 tháng 10, Trung Nam Hải. Giang Thanh và ba người trung thành nhất với bà ấy trong Bộ Chính trị – Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn – được Hoa Quốc Phong triệu tập vào gian sảnh Huairen vào lúc 20 giờ. Người ta nêu lý do là sẽ có một cuộc họp của Bộ Chính trị để bàn về việc xuất bản quyển thứ năm của Mao Toàn tập.
Thực ra đấy là một cái bẫy.
Sau cái chết của Mao, phần lớn thành viên của Bộ Chính trị đã vứt bỏ sự tôn trọng Giang Thanh một cách mù quáng và ít nhiều đều thể hiện sự coi thường bà ấy. Người vợ của viên Chủ tịch cảm nhận được rằng bà ấy nhanh chóng mất đi ảnh hưởng. Lúc trước, các vụ việc tước quyền, bắt bớ và xử tử do bà ấy yêu cầu chỉ được tiến hành vì có những tổ chức do Mao ủy quyền, ví dụ như Hồng Vệ Binh của Cách mạng Văn hóa, đội thực hiện các khẩu hiệu của Giang Thanh một cách tận tâm. Thế nhưng bây giờ Hồng Vệ Binh đã bị đày về vùng nông thôn và cảnh sát thì do Hoa Quốc Phong kiểm soát.
“Quyền lực chính trị đến từ nòng súng!” Tất cả các quan chức cao cấp mà ngoài ra thì thù địch với nhau đều đồng ý với câu nói nổi tiếng đấy của Mao. Câu hỏi chỉ là: từ những nòng súng của ai?
Hay chính xác hơn: ai có thể bắt giam ai trước hết?
Giang Thanh và những người theo bà hy vọng trước hết là ở lực lượng dân quân: một tổ chức bán quân sự có tròn 100 triệu nam nữ – công nhân, nông dân, nhân viên, sinh viên –, những người mà ĐCS có thể động viên vào bất cứ lúc nào. Thế nhưng không thể tổ chức lẫn trang bị vũ khí một cách đàng hoàng cho một đạo quân 100 triệu người trong một thời gian ngắn được.
Hoa Quốc Phong và người sếp an ninh thì ngược lại dựa trên 3,5 triệu người lính của quân đội chính quy. Họ thố lộ kế hoạch của họ cho người nguyên soái già Diệp Kiếm Anh, mắc chứng bệnh
Vào tối đó, Hoa Quốc Phong và người nguyên soái già chờ đợi nạn nhân của họ, trong khi Uông Đông Hưng với những người lính được lựa chọn từ quân đoàn 8341 của ông ấy ẩn nấp.
Trương Xuân Kiều vào điện Huairen đầu tiên. Cận vệ và thư ký của ông ấy bị viện cớ tách ra, rồi người ta bắt ông ấy trong gian phòng của Bộ Chính trị. Ông ấy không chống cự.
Vương Hồng Văn đến vài phút sau đó, phản đối, khi nhìn thấy những người lính, tuyệt vọng chống cự không lâu, rồi sự phản kháng của ông ấy cũng bị bẽ gãy, cả về thân thể lẫn tinh thần. Ông ấy để mặc cho dẫn đi.
Nhưng Giang Thanh và Diêu Văn Nguyên không đến. Không ai trong những người âm mưu biết được họ đang làm gì trong khoảng khắc đấy. Họ đã được cảnh báo trước? Họ cũng chuẩn bị lật đổ về phía họ?
Hoa Quốc Phong căng thẳng chờ cho tới 22 giờ, rồi ông ấy gửi lính của đoàn 8341 đến nhà của hai người đó. Những người đàn ông bao quanh nhà, xông vào – và hoàn toàn không gặp sự chống cự.
“Tôi đã tiên đoán trước cái ngày này từ lâu rồi”, Giang Thanh nói, mặc dù bà ấy bị bất ngờ cho tới mức bị bắt từ trên giường.
Vào thời gian đó tại những địa điểm khác trong Bắc Kinh, các đơn vị đặc nhiệm bắt giữ 30 đến 40 cán bộ ĐCS cao cấp khác, trong đó có cháu trai của Mao. Chiến dịch trong đêm đó, mà nạn nhân là toàn bộ chóp bu phe tả cực đoan của Đảng, bí mật cho tới mức ngay đến các thành viên khác của Bộ Chính trị cũng không biết gì về việc đấy.
Đấy không chỉ là đỉnh cao của một cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng. Lần bắt bớ bí mật, tàn bạo và hiệu quả này quyết định số phận của gần một tỉ người, vâng, có thể là của cả Trái đất.
Nếu Giang Thanh và phái cánh tả cực đoan của bà ấy thắng thế, thì điều đấy có thể sẽ dẫn đến một tái bản của cuộc Cách mạng Văn hóa và qua đó là đến nội chiến – với những hậu quả không thể đoán trước được cho các nước khác, vì cuối cùng thì Trung Quốc cũng là một cường quốc nguyên tử.
Vào sáng hôm sau, các thành viên của Bộ Chính trị bất ngờ bị Hoa Quốc Phong đặt trước những sự việc đã rồi, và họ đủ khôn ngoan để đồng ý mà không chống đối. Vì ai trong số họ cũng đều biết rằng nếu không thì họ có thể sẽ bị bắt. Trong những ngày sau đó, giới công khai từng bước biết được vụ lật đổ – Hoa Quốc Phong củng cố quyền lực của mình càng tốt thì ông ấy càng để cho truyền ra ngoài nhiều hơn.
Đầu tiên, Đảng loan báo ngắn gọn vào ngày 8 tháng 10, rằng Hoa Quốc Phong đã nhận lấy trách nhiệm xuất bản bộ Mao Toàn tập. Điều đọc giống như là một ghi chú, nhiều nhất là chỉ đáng để cho các nhà ngữ văn quan tâm đến, trong thực tế có nghĩa là từ bây giờ Hoa chứ không phải Giang Thanh sẽ giảng giải các tác phẩm của Mao và qua đó có thể sử dụng những từ ngữ của người Chủ tịch được xem như thượng đế vào trong cuộc đấu tranh chính trị.
Vào ngày 9 tháng 10, một tờ báo tường ở Bắc Kinh lần đầu tiên gọi Hoa là “Chủ tịch Quân ủy” và của Trung ương Đảng – mặc dù TƯ còn chưa hề họp lại và thật ra là phải bổ nhiệm ông ấy đã.
Ngày sau đó – một ngày chủ nhật – có tin đồn về những vụ bắt bớ các quan chức cao cấp, những tờ báo lớn cảnh báo một cách mơ hồ về “Chủ nghĩa Xét lại và Ly khai.” Vào ngày 11 tháng 10, đại diện ngoại giao do an ninh Trung Quốc lựa chọn ra bắt đầu được phép đưa cho nhân viên của các đại sứ quán Phương Tây những thông tin không chính thức về vụ lật đổ đấy. Khi có những tờ báo tường ủng hộ Giang Thanh xuất hiện ở Thượng Hải, chúng bị nhanh chóng xé xuống. Cảnh sát và quân đội hiện diện nhiều hơn là bình thường.
Vào ngày 13 tháng 10, tất cả các hình ảnh của Giang Thanh đều biến mất ra khỏi các cửa hiệu của Bắc Kinh, thông tấn xã nhà nước Tân Hoa Xã không đưa ra ảnh của bà ấy nữa. Đài phát thanh Bắc Kinh bất ngờ tường thuật về một vụ việc mờ ám từ năm 1935 mà trong đó Mao nhờ vào quân đội để chống lại những kẻ lầm đường trong Đảng.
Vào ngày 15 tháng 10, ở Bắc Kinh và Vũ Hán xuất hiện những tờ báo tường tố cáo Giang Thanh và những người theo bà ấy đã dự định ám sát Hoa Quốc Phong cũng như âm mưu đảo chính. Một chiến dịch kích động chưa từng có bắt đầu, cả trong truyền hình và trong tất cả các tờ báo lớn (khắp nơi đều có tổng biên tập mới).
Từ ngữ “Tứ Nhân Bang” [Bè lũ bốn tên] ám chỉ Giang Thanh và những người đồng minh thân cận nhất của bà ấy trong Bộ Chính trị (được Mao sử dụng lần đầu tiên năm 1975 trong một lá thư mật) xuất hiện trong giới công khai.
Bốn người bị bắt giữ này – và cả sau khi chiến dịch bắt đầu cũng không công khai biết được điều gì về số phận của họ cả – trong lúc đó đang ngồi trong phòng biệt giam ở khu “19 tháng 5″, một công sự khổng lồ dưới Thiên An Môn.
Khu bí mật khổng lồ này có nhiệm vụ tiếp nhận các quan chức chóp bu và giới quân đội cao cấp trong trường hợp xảy ra chiến tranh nguyên tử, thế nhưng bây giờ thì các tù nhân chính trị nổi tiếng nhất của Trung Quốc đang bị bắt giam ở đó – điều mỉa mai là chỉ cách Mao có vài mét. Xác chết ông ấy sau tuần lễ trưng bày công khai đã được bí mật mang vào bệnh viện của công sự, nơi bây giờ nó được xử lý nhiều tháng trời.
Thứ hai, ngày 18 tháng 10, Thượng Hải. Các ngôi nhà phô trương cạnh con đường đi dạo dọc theo sông, các ngân hàng, khách sạn và câu lạc bộ xưa cũ, bây giờ đã xuống cấp. Vữa bong ra từ những mặt tiền Tân Hy Lạp, cửa sổ giả kiểu thành Tudor bị đóng kín bằng ván. Và tuy vậy, thành phố lớn mười một triệu dân này vẫn còn là trung tâm công nghiệp và thương mại của Trung Quốc –– và thành trì của Tứ Nhân Bang: nếu như những người theo họ chống cự lại ở đâu đó và có thể gây ra cuộc nội chiến mà Chu Ân Lai đã lo sợ, thì đấy là ở Thượng Hải.
Bầu không khí căng thẳng. Quân lính từ tất cả các miền của đất nước được chuyển vào trong thành phố. Theo chỉ thị của Bắc Kinh, Đảng đã tổ chức những cuộc biểu tình ủng hộ Hoa và chống lại Tứ Nhân Bang. Hai đến ba triệu người kéo xuyên qua thành phố và hô lớn theo nhịp: “Đả đảo Giang Thanh!”.
Khắp nơi ở trên tường hay trên những chiếc chiếu được dựng lên cho việc này đều treo những tờ báo chữ to mà trên đó Giang Thanh và những người theo bà bị biếm họa nhưng những con rắn bị hầm trong chảo, tên bị viết đảo ngược lại và bị gạch ngang bằng mực đỏ – giống như bằng máu.
Giang Thanh bây giờ là một con điếm và nữ hoàng, Vương Hồng Văn là một kẻ kiêu ngạo tiêu xài phung phí. Có những lời lên án tương tự như thế cho rất nhiều quan chức địa phương. Khi một người đàn ông trẻ xé những bài viết phỉ báng ấy xuống, anh ấy bị đám đông hành hung.
Mặc cho những lần cố gắng kích động và những cuộc biểu tình kéo dài, sự căng thẳng tan biến nhanh chóng. Trẻ em chạy theo sau, các cửa hàng trên đại lộ Nam Kinh bất thình lình có nhiều hàng hóa để bán, lôi kéo người đến xem và khách mua hàng. Các cuộc biểu tình chống Tứ Nhân Bang bắt đầu mang tính lễ hội nhân dân.
Các cán bộ cao cấp nhẹ nhỏm, Thanh Giang nhất định đã thua cuộc rồi.
NHƯNG MÃI BỐN NĂM SAU ĐÓ, trong mùa Đông 1980/81, Tứ Nhân Bang và sáu người theo họ nổi tiếng nhất mới bị mang ra xử. Mười bị cáo bị lên án là đã “truy nã cho tới chết” 34.800 người trong thời gian của cuộc Cách mạng Văn hóa, “phỉ báng” thêm 729.511 người nữa.
Lời buộc tội này tuy cũng hợp lý, thế nhưng nó không thể làm thay đổi gì về việc, rằng vụ xét xử này đã trở thành một màn kịch mà trong đó đặc biệt là Giang Thanh vẫn không chịu khuất phục tuy đã bị giam giữ nghiêm ngặt nhiều năm liền và chửi rủa những người lên án bà là “phát xít” và “thành viên của Quốc Dân Đảng”.
Người vợ góa của Mao bị tuyên án tử hình, cũng như Trương Xuân Kiều; hai thành viên còn lại của Tứ Nhân Bang nhận án nặng. Sau đấy, người ta chuyển giảm án tử hình thành tù chung thân. Thế nhưng cả bốn người đều được trả tự do trước khi chết. Giang Thanh, đơn độc và cay đắng, tự tử năm 1991.
Chỉ một năm sau cái chết của Mao, Đặng Tiểu Bình đã được phục hồi nhờ vào sự giúp đỡ của viên chỉ huy quân đội nhiều quyền lực của tỉnh Quảng Đông và trở về Bắc Kinh. Ngược lại, thanh thế Hoa Quốc Phong lu mờ – điều ngược đời là cũng bởi vì màn kịch xử án chống “Tứ Nhân Bang”, việc không những làm mất uy tín của Giang Thanh và những người theo bà ấy mà cả Chủ nghĩa Mao nói chung.
Cho tới 1981, Đặng có thể đẩy những người cạnh tranh của ông ấy ra khỏi tất cả các chức vụ quan trọng mà không dẫn đến bắt bớ hay đấu tranh. Hoa mất chức vụ chủ tịch đảng, thủ tướng và chủ tịch quân ủy, nhưng vẫn được phép giữ chỗ đứng của ông ấy trong Trung ương Đảng.
Đại đa số đảng viên đi theo đường lối của Đặng mà không hề càu nhàu, vì họ muốn cắt đứt với cuộc Cách mạng Văn hóa đầy bất hạnh một cách kiên quyết hơn nữa, hơn là có thể với một nhân vật tạm thời như Hoa.
Trong 15 năm sau đấy, Đặng bây giờ trở thành người thống trị Trung Quốc. Trong lúc đó, ông ấy đủ khôn ngoan để không thu tóm tất cả các chức vụ quan trọng về cho mình, mà phân bổ những người trung thành vào đó: Triệu Tử Dương trở thành thủ tướng, Hồ Diệu Bang tổng bí thư Đảng. Tuy vậy, viên quan chức nhỏ người, bị lật đổ hai lần Đặng Tiểu Bình thật ra vẫn trở thành người kế nhiệm Mao.
Và ông ấy có nhiều dự định với Trung Quốc.
Cay Rademacher
Phan Ba dịch
Giới thiệu tài liệu: Lý Chí Tuy, “Hồi ký bác sĩ riêng của Mao”. Frederick C. Teiwes, Warren Sun, “The End of the Maoist Era”, Sharpe: nghiên cứu khoa học tỉ mỉ về những năm cuối đời của Mao và các cuộc tranh giành quyền lực trong những tháng sau cái chết của ông ấy.
http://phanba.wordpress.com/2012/12/31/cai-chet-cua-ong-hoang-de-do-het/
Song Phương chuyển
T. Post