Cà Kê Dê Ngỗng
Chiến tranh 1979 dưới con mắt một viên tướng TQ
Dưới đây là trích dẫn từ bài phát biểu tại căn cứ Không quân Côn Minh – Vân Nam của Lưu Á Châu, Trung tướng, Chính ủy Đại học Quốc Phòng Trung Quốc.
Lưu Á Châu
————
[i] TQ gọi là cuộc chiến “Lão Sơn (VN gọi là Núi Đất)” và “Giả Âm Sơn (VN gọi là Núi Bạc)”, tức cuộc lấn chiếm của TQ ở khu vực điểm cao 1509 huyện Vị Xuyên và Núi Bạc, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang, VN, năm 1984. Trong một bài viết khác, Lưu Á Châu từng nói do thấy lính TQ chết nhiều quá mà điểm cao này không có giá trị chiến lược lớn, ông đã viết thư cho CTTQ Dương Thượng Côn kiến nghị hủy bỏ chiến dịch này. Mấy tháng sau phía TQ đã ngừng tấn công các điểm cao nói trên. N.D
[ii] Bản dịch của TTXVN.
[iii] Bản dịch của TTXVN.
Lưu Á Châu
Dưới đây là trích dẫn từ bài phát biểu tại căn cứ Không quân Côn Minh
– Vân Nam của Lưu Á Châu, Trung tướng, Chính ủy Đại học Quốc Phòng
Trung Quốc. Qua đó bạn đọc có thể tìm hiểu một vấn đề lịch sử nhìn từ
phía bên kia và thấy rõ hơn “cung cách” Trung Quốc ứng xử với thế giới
hiện đại.
Sau khi kể “Giấc mơ quân đội và đất nước hùng mạnh”, tướng Lưu nói về
việc “quân đội Trung Quốc đã hai lần phát huy vai trò chính trị quan
trọng”.
Cuộc chiến Việt Nam 1979
Một lần Quân Giải phóng phát huy vai trò chính trị quan trọng là trong
đợt sóng gió chính trị ngày mồng 4 tháng 6 [sự kiện quân đội Trung Quốc
đàn áp cuộc biểu tình của sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn ngày
4/6/1989]. “Có thể nói, không giải quyết vấn đề mồng 4 tháng 6 thì không
có cục diện phát triển phồn vinh của Trung Quốc ngày nay; không có quân
đội [thì] sẽ không giải quyết được vấn đề ngày mồng 4 tháng 6, và cũng
không thể có 13 năm huy hoàng”.
“Một lần khác là cuộc chiến tự vệ chống Việt Nam năm 1979 và cuộc chiến
“Lưỡng Sơn” sau này.[i] Đặc biệt là cuộc chiến tự vệ đánh trả Việt Nam
năm 1979, nhiều đồng chí chưa nhận thức được ý nghĩa của cuộc chiến đó.
Khi ấy có người nói: chúng ta đánh nhau với người Việt Nam, hiện nay,
những người hy sinh là liệt sĩ, sau khi quan hệ hai nước trở lại tốt
đẹp, họ sẽ là gì? Tôi trả lời: “Vẫn là liệt sĩ!”. Vì sao? Chúng ta phải
nhìn nhận cuộc chiến này từ góc độ chính trị. Ý nghĩa của cuộc chiến này
nằm bên ngoài cuộc chiến. Cuộc chiến này của đồng chí Đặng Tiểu Bình là
đánh để hai người xem, một là Đảng Cộng sản Trung Quốc, hai là người
Mỹ.
Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại cầm quyền vào năm 1978, tháng 1/1979, ông
thăm Mỹ, tháng 2/1979 đánh Việt Nam. Về chính trị, cuộc chiến này không
thể không đánh. Vì sao? Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền,
chương trình cải cách mở cửa của Trung Quốc đã được ông vạch sẵn, muốn
thực hiện chương trình này phải xác lập quyền lực tuyệt đối trong nội bộ
Đảng. Phải đánh một trận. Khi đó, “bè lũ bốn tên” vừa bị đập tan, những
người có tư tưởng cực tả trong nội bộ Đảng còn rất đông, họ vừa chống
lại Đặng Tiểu Bình, vừa phản đối đường lối và chính sách của ông. Muốn
cải cách phải có quyền lực. Biện pháp xác định quyền lực nhanh nhất là
gây chiến tranh. Lưu Dụ (?) cũng làm như vậy. Khi đó, rất nhiều người
phản đối chiến tranh, cho rằng Quân Giải phóng vừa trải qua “Cách mạng
văn hoá”, không thể đánh trận được. Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình rất quyết
đoán, dẹp mọi tranh cãi, chỉ huy Quân Giải phóng ào ạt vượt qua biên
giới vào ngày 17/2. Thứ hai là người Mỹ, ý nghĩa của việc này cũng rất
lớn.
Đến nay, Đặng Tiểu Bình đã xa chúng ta được 5 năm, nhưng tôi cũng luôn
cảm thấy ông ở cạnh bên chúng ta. Lý Hiến Trung (Chủ nhiệm Chính trị Bộ
Tư lệnh Không quân Bắc Kinh) nói: “Mao Trạch Đông của chúng ta, càng
ngẫm càng thấy vĩ đại”. Thời gian càng lùi xa, sự vĩ đại của Đặng Tiểu
Bình càng khiến chúng ta cảm nhận rõ ràng hơn. Ông chuyển hướng cả đất
nước Trung Quốc chúng ta. Các đồng chí thấy đấy, cuộc chiến này xảy ra
năm 1979.
Năm 1975, sau khi hao binh tổn tướng, người Mỹ cuống cuồng tháo chạy
khỏi Việt Nam. Năm 1979 Đặng Tiểu Bình nói: Tôi dạy cho Việt Nam một bài
học. Khi đó, Việt Nam đang theo ai? Đang theo Liên Xô. Đặng Tiểu Bình
tấn công. Cuộc chiến phản kích tự vệ đối với Việt Nam vào lúc đó của
Đặng Tiểu Bình thực sự đã đưa Trung Quốc ra khỏi cái gọi là phe xã hội
chủ nghĩa của Liên Xô. Khi ấy, nhiều nước Đông Âu không hài lòng, nói
rằng một nước xã hội chủ nghĩa lại đánh một nước xã hội chủ nghĩa khác.
Khi đó, Đặng Tiểu Bình đã thấy rõ không cần thứ chủ nghĩa xã hội ấy của
họ. Kết quả như thế nào? Chủ nghĩa xã hội giả hiệu đã chết yểu.
Vào năm 1989, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ hàng
loạt. Ngay cả Liên Xô cũng tan rã. 10 năm trước đó, Đặng Tiểu Bình đã
nhận ra vấn đề này, dùng chiến tranh để vạch rõ ranh giới với các nước
xã hội chủ nghĩa. Đặng Tiểu Bình thật là một kỳ tài! Vừa rồi, tôi nói
gây ra cuộc chiến tranh này vì người Mỹ, chính là trả hận cho người Mỹ.
Có bằng chứng không? Có đấy. Ngày hôm trước rời Nhà Trắng thì ngày hôm
sau, Đặng Tiểu Bình bắt đầu đánh Việt Nam. Vì sao có thể giúp Mỹ hả
giận? Bởi vì, người Mỹ vừa tháo chạy nhục nhã khỏi Việt Nam. Chúng ta
sao lại giúp người Mỹ hả giận? Thực ra không phải vì Mỹ, mà là vì chúng
ta, vì cải cách mở cửa. Trung Quốc không thể cải cách mở cửa mà không có
viện trợ của các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ. Nhờ cuộc chiến này,
Mỹ đã ồ ạt viện trợ kinh tế, kỹ thuật, khoa học kỹ thuật và cả viện trợ
quân sự, tiền vốn cho Trung Quốc.
Tuần trăng mật giữa Mỹ và Trung Quốc kéo dài đến mười năm, đến ngày
4/6/1989 mới tạm lắng. Cuộc chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì?
Đó là một lượng lớn thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố
này, Trung Quốc tiếp tục đứng vững sau khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành
công vĩ đại. Thậm chí có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở cửa
Trung Quốc chính là từ cuộc chiến tranh này. Với ý nghĩa đó, cống hiến
của quân đội Trung Quốc đối với công cuộc cải cách mở cửa thật to lớn vô
cùng”.[ii]
Tâm lý quân đội Trung Quốc
Khi đó, tôi đến thăm bộ đội tham gia chiến đấu, họ để lại ấn tượng rất
sâu đậm đối với tôi. Cải cách mở cửa đã bắt đầu, đặc biệt là khi tác
chiến ở “Lưỡng Sơn”, hậu phương vẫn ca hát nhảy múa trong thanh bình.
Các cán bộ chiến sĩ không những phải đối mặt với thử thách sinh tử, mà
đều có gánh nặng cuộc sống. Đặc biệt là cán bộ cơ sở, hầu hết gia đình
đều rất khó khăn. Lúc đó, tôi đến viếng một chính trị viên đại đội của
Quân đoàn 14, anh ta đã hy sinh. Vợ anh ta gặp tôi, nói rằng, trước khi
ra trận, chồng chị vẫn còn nợ tiền, khi phát lương tháng cuối cùng trước
khi ra trận, trừ hết các khoản nợ, chỉ còn 5 xu tiền lương trong túi.
Cuối cùng, cô ấy đưa cho tôi xem bản kê di vật, chỉ còn đúng 5 xu. Tôi
thấy thật xót xa.
Có một chiến sĩ gia đình nghèo đói, di chúc của họ thật đầy máu và nước
mắt. Trong di chúc của một chiến sĩ, có đoạn: Nếu tôi chết, mong công xã
hãy cho gia đình tôi một con bò. Có người khác viết, nếu tôi chết, hãy
cởi bộ quân phục của tôi đem về quê, anh em nhà tôi không có quần áo để
mặc. Xem những trang viết này thật là xót xa.
Tinh thần của các binh sĩ vĩ đại như núi Thái Sơn. Từ hậu phương đến
tiền tuyến, tôi thấy sự chênh lệch quá lớn, không thể nói lên lời! Không
chỉ là cuộc sống mà còn những cái khác. Chẳng hạn, tôi đã từng điều tra
bộ đội tham chiến ở bốn quân đoàn, những cán bộ có vợ chưa cưới thì
100% đều [bị vợ chưa cưới] từ hôn, không có trường hợp ngoại lệ. Tôi xem
một bức thư đoạn tuyệt hôn nhân của một cô gái, viết cũng rất có lý:
“Anh hy sinh không còn nữa thì chẳng sao; nếu anh bị thương mất chân mất
tay, chúng ta sẽ biết sống ra sao?”. Đây cũng là thực tế. Một chính trị
viên phó đại đội ở quân đoàn 27 dẫn đầu đội xung kích tấn công một ngọn
núi, bị hy sinh, cả đội xung kích có 30 người thì hy sinh 20.
Sau khi trở về, đại đội tập hợp những người sống sót trong toàn đại đội
điểm danh, thi thể của chính trị viên phó đại đội và hai mươi mấy chiến
sĩ đặt trên một sân phơi của dân. Vào lúc đó, thư của vợ chưa cưới chính
trị viên phó cũng vừa gửi đến. Thư gì vậy? Thư cắt đứt quan hệ hôn
nhân. Trước mặt những người sống sót và trước thi thể những người đã hy
sinh trong đó có chính trị viên phó, đại đội trưởng đã đọc bức thư ấy,
các chiến sĩ toàn đơn vị ai cũng đầm đìa nước mắt. Tôi luôn thấm thía
khung cảnh khi ấy và tâm trạng của họ. Ánh sáng tính người [nhân tính]
vào thời điểm ấy mới rực sáng nhất. Khi bước vào chiến đấu rất hiếm thấy
lời nói hùng hồn. Thật sự có thể làm rung động lòng người thì tuyệt đối
không thể tràng giang đại hải, càng không thể là đạo lý suông. Trầm
tĩnh có sức mạnh lớn hơn nhiều so với ồn ào náo động.
Tôi đi qua một đơn vị chuẩn bị bước vào chiến đấu, tâm trạng háo hức
trước khi tham chiến của bộ đội như miêu tả trong tiểu thuyết, trên phim
ảnh, truyền hình… tất cả đều chỉ là sự phóng đại. Trước khi tác chiến,
một vùng bộ đội đóng quân tĩnh lặng như tờ. Cán bộ chỉ huy đều ẩn nấp ở
nơi rất xa. Khi thời bình, số cán bộ chỉ huy này rất khí phách hào hùng.
Có một cán bộ cho đến nay vẫn còn duy trì quan hệ với tôi. Khi đó tôi
là cán bộ cấp Tiểu đoàn phó, anh là Sư đoàn trưởng. Anh gặp tôi, nói một
cách khí phách: “Tôi có 3 suy nghĩ, cậu hãy viết thành sách cho tôi!
Thứ nhất, tôi muốn làm George Smith Patton Jr của Trung Quốc; thứ hai,
binh sĩ được coi là gì? Binh sĩ chính là những con số Ả rập; thứ 3, tôi
mong mỏi được đánh trận. Đánh một trận [sẽ được] thăng một cấp”.
Chính vì mấy câu nói đó, tôi đã không tha thứ cho anh ấy. Anh ấy không
có thiện cảm với chiến sĩ. Thời bình, nếu Đại đội trưởng, người chỉ huy
có quan hệ tốt với chiến sĩ, thì có thể đoàn kết thành một tập thể vững
mạnh, nhưng nếu có chút mâu thuẫn, chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng mỗi
người một phách. Tuy nhiên, khi chiến tranh nổ ra, cán bộ, chiến sĩ cũng
sẽ sẵn sàng xông pha không chùn bước.
Các bạn đều biết tôi từng viết một tác phẩm có tiêu đề Vương Nhân Tiên.
Tác phẩm này đã gây tiếng vang rất lớn. Vương Nhân Tiên là Phó Tham mưu
Đại đội thuộc Sư đoàn 14, Quân đoàn 14, người Côn Minh, thuộc dòng dõi
con em cán bộ. Trước chiến tranh, Vương Nhân Tiên từng bị xử lý do vi
phạm kỷ luật, sau này hy sinh. Có người cho rằng anh ấy không phải là
anh hùng, nhưng tôi cho rằng
anh ấy là anh hùng, hơn thế nữa còn là anh hùng đích thực.
Quân đoàn trưởng Quân đoàn 14 khi đó là XXX từng nói: “Nghe nói Lưu Á
Châu muốn viết về Vương Nhân Tiên? Quân đoàn 14 có nhiều nhân vật anh
hùng như vậy sao không viết, lại đi viết về một người như thế?” Người
khác đem chuyện này kể với tôi, tôi chỉ bĩu môi một cách khinh thường.
Hugo từng nói, trong chủ nghĩa anh hùng đích thực tuyệt đối có một chủ
nghĩa nhân đạo đích thực tuyệt đối. Rủi ro của Vương Nhân Tiên chính là
điển hình của chủ nghĩa nhân đạo, đồng thời cũng là điển hình của chủ
nghĩa anh hùng.
Vương Nhân Tiên vốn yêu một bạn gái tại Côn Minh, nhưng khi quân đội di
chuyển đến Lão Sơn, cô bạn này đã cắt đứt quan hệ với anh. Sau khi quân
đội tiến vào khu vực Lão Sơn, đóng quân tại một địa phương gọi là Lạc
Thủy Động. Vương Nhân Tiên và một số cán bộ khác ở trong một gia đình
nông dân người dân tộc Miêu. Nữ chủ nhân là một cô gái dân tộc Miêu rất
xinh đẹp, vừa kết hôn không lâu, có một đứa con mới sinh. Tính cách của
cô gái này tràn đầy nhiệt huyết, rắn rỏi khí khái. Đa phần các cô gái
dân tộc thiểu số đều có đặc điểm chung như vậy. Không giống với các cô
gái dân tộc Hán, không dám yêu cũng không dám oán hận. Dân tộc Hán là
một dân tộc không có tình yêu nhất. Dù dân tộc Hán có dân số đông nhất
trên thế giới, nhưng họ không có tình yêu. Ở nước ngoài vì tình yêu có
thể gây chiến tranh, Trung Quốc có thể không? Ngô Tam Quế được coi là
nam nhi dám chiến đấu vì tình yêu, lại vẫn bị cho là Hán gian.
Cô gái người Miêu ở Lạc Thủy Động thấy Vương Nhân Tiên đẹp trai, phong
độ, cao một mét tám hai. Nghe nói khuôn mặt anh ấy luôn mỉm cười. Ban
đầu Vương Nhân Tiên không hề để ý tới cô ta. Phụ nữ nông thôn mà, gia
cảnh rất nghèo. Mặc dù lớn lên rất xinh đẹp, nhưng đã là người có con.
Trước khi bộ đội lên Lão Sơn, cô gái người Miêu đã rót nước vào bình cho
tất cả các chiến sĩ đóng quân tại nhà cô và cố ý cho thêm đường vào
bình của Vương Nhân Tiên, đường cho vào nhiều đến mức ngọt như mật ong.
Buổi tối, cô gái người Miêu bế con đến phòng của Vương Nhân Tiên. Cô đã
hành động một cách tự nhiên nhất trước mặt Vương Nhân Tiên: cởi áo cho
con bú. Hai người cứ ngồi với nhau như vậy trong căn phòng. Vương Nhân
Tiên ra sức rít thuốc. Anh ấy đang cố gắng kiềm chế. Nhưng cuối cùng
không kiềm chế nổi. Vì sao không thể? Điều này là có lý do, lý do đó
chính là ngày mai bộ đội phải lên Lão Sơn. Chuyến đi này có thể anh ấy
muốn “ghi danh”. Anh ấy là người đàn ông có tâm huyết, chính trực, chưa
từng quan hệ với phụ nữ. Anh khẳng định, nghĩ lại chuyện đó anh vẫn
không đành lòng. Đây là lẽ hết sức thường tình của con người.
Khi đó, hai người đã quan hệ trong chuồng heo. Ngày thứ 2, tình hình đột
nhiên thay đổi, các cuộc tiến công đã bị hoãn lại. Kế hoạch tác chiến
bị trì hoãn, vì vậy tình yêu của họ đã đến một cách tự nhiên như vậy.
Bất cứ việc gì đều giống nhau, đã có một lần thì sẽ có một trăm lần.
Trong những ngày đó, bất cứ nơi đâu của Lạc Thủy Động đều lưu lại những
hình ảnh yêu thương của họ. Tuy nhiên, số lần quan hệ trong chuồng heo
cũng tương đối nhiều. Vương Nhân Tiên sau mỗi lần làm chuyện đó đều hút
thuốc, hết điếu này đến điếu khác, thật là nguy hiểm. Cô gái Miêu rất
hạnh phúc, đã hát ngay tại chuồng heo. Một cô gái thật có cá tính!
Sau này, người chồng của cô đã phát hiện ra, hỏi cô đã quan hệ với ai,
cô không nói, cuối cùng chồng cô đã báo cáo vụ việc lên đơn vị. Tập đoàn
quân 14 cảm thấy đây là một sự việc hết sức nghiêm trọng, phá hoại kỷ
luật quần chúng. Quân đoàn trưởng Quân đoàn 14 XXX ra lệnh xử nghiêm.
Quân đội đã triệu tập tất cả các cán bộ và binh lính đóng gần nhà cô gái
Miêu, xếp thành hàng, gọi cho cô gái đến nhận mặt. Cô gái người Miêu
thật cương nghị, hôm đó tôi cảm thấy còn phải cung kính nể phục. Cô bước
tới phía trước Vương Nhân Tiên, chỉ tay nói: “Chính là anh ấy” rồi lại
nói một câu gì đó, tôi nghe không hết, nhưng ý nói là tôi thích anh ấy,
tôi yêu anh ấy. Trưởng ban Bảo vệ nói: “Tôi đã sớm đoán được là Vương
Nhân Tiên. Tôi đã nhìn thấy đầu thuốc lá cao cấp có ở khắp nơi trong
chuồng heo. Mùi thơm của những đầu thuốc này chỉ có anh ta hút”.
Vương Nhân Tiên bị kỷ luật và giáng cấp từ Đại đội phó xuống cấp Trung
đội. Ngày tấn công Lão Sơn, Trung đoàn điều Vương Nhân Tiên lên tuyến
đầu. Ngày 12/7, một sư đoàn của Việt Nam và quân ta đã xảy ra một cuộc
chiến giằng co quyết liệt tại khu vực Lão Sơn. Pháo bắn suốt ngày đêm.
Vì Lạc Thủy Động cách tuyến đầu rất gần, có thể nhìn thấy một vùng trời
rực lửa đạn bom. Cô gái người Miêu cứ ngồi ở đầu thôn, ngóng về phía Lão
Sơn. Người chồng đã đánh cô, xuống tay rất nặng. Đầu và miệng cô đều bị
chảy máu, làm cô bất động. Vương Nhân Tiên đang chiến đấu tại điểm cao
nhất của mặt trận. Anh là tham mưu pháo binh, đã kịp thời báo cáo hàng
nghìn tình huống cho pháo binh tuyến sau. Hoả lực pháo binh của quân ta
dài như tầm mắt, dội lên đầu kẻ địch.
Tháng 8, tôi leo lên Lão Sơn, nhìn xuống phía dưới, vẫn còn nhìn thấy
cảnh thây xác. Đó đều là xác quân địch bị bắn chết trong cuộc chiến
“12/7”. Sau này, quân địch phát hiện trên địa phương này có căn cứ, đã
tập trung hoả lực đánh vào đây. Vương Nhân Tiên đã hy sinh. Đồng đội của
anh ấy nói rằng, khi chết, anh đang dựa vào một gốc cây và cứ đứng chết
như vậy. Sau khi bộ đội rút đi, vẫn đi qua Lạc Thủy Động. Cô gái người
Miêu đứng ở đầu thôn, tìm từng người, từng người một. Các sĩ quan binh
lính đi ngang qua cô, họ đều cúi đầu, giống như đã phạm một lỗi lầm. Họ
đã thay đổi quan điểm về Vương Nhân Tiên và khi đó đã có một tâm trạng
hoàn toàn thay đổi.
Cuối cùng, cô gái cũng biết Vương Nhân Tiên đã hy sinh. Bạn xem cô gái
đó sẽ làm gì? Cô đã bán tài sản trong nhà lấy tiền mặt, mua hai tút
thuốc lá đầu lọc tương đối cao cấp, đến trước mộ của Vương Nhân Tiên,
bóc hết hai tút thuốc, rồi châm lửa từng điếu từng điếu một, cắm lên mộ.
Trên mộ đã cắm đầy thuốc. Khi nghe kể chuyện ấy, tôi hết sức cảm động.
Năm 1984, khi tôi đến Lão Sơn thì mộ của Vương Nhân Tiên đã được xây
rồi. Ban đầu, trong quân đội không ghi công cho Vương Nhân Tiên, sau
này, do yêu cầu mạnh mẽ của các nhà văn như chúng tôi, Vương Nhân Tiên
đã được ghi công, đại để được ghi công hạng nhất. Khi đó, tôi đi tìm bia
mộ tại nghĩa trang liệt sĩ và tôi đã tìm thấy. Tôi đã học theo cách của
cô gái người Miêu, bóc một bao thuốc lá, đốt từng điếu và cắm lên mộ
anh. Hồi ấy tôi là Tiểu đoàn phó Ban Liên lạc Không quân.
Năm 1999, tức 15 năm sau đó, khi đang đảm nhiệm cương vị Chủ nhiệm Chính
trị Không quân Bắc Kinh, tôi lại cùng một vài đồng chí Trưởng ban như
Vương Xuân Ba, Lưu Phan đến nghĩa trang liệt sĩ Ma Lật Pha. Lão Sơn vẫn
xanh tươi như xưa. Lần đó, tôi chỉ mang rượu, thuốc lá từ Bắc Kinh,
trước mộ Vương Nhân Tiên tôi đã rót rượu và châm thuốc mời anh. Tôi và
các đồng chí đi cùng đều không cầm được nước mắt. Họ nói, Chủ nhiệm vẫn
còn tình cảm sâu đậm với vùng đất này quá! Sau khi tôi đến công tác tại
Không quân Thành Đô, tạm thời tôi vẫn chưa đi [Ma Lật Pha]. Đương nhiên
là tôi muốn đi. Bia mộ ngàn năm vẫn biết nói. Khu vực Ma Lật Pha có vài
nghìn ngôi mộ, đến gần mỗi ngôi mộ là đến gần một linh hồn. Đến gần
nghĩa trang liệt sĩ Ma Lật Pha, những toan tính đời thường trong đầu
không còn tồn tại nữa.[iii]
Bài đã đăng lần đầu tại trang Đông Tác Giao lưu (http://dongtac.hncity.org/) dưới tiêu đề “Vì sao Trung Quốc đánh Việt Nam?”.
[i] TQ gọi là cuộc chiến “Lão Sơn (VN gọi là Núi Đất)” và “Giả Âm Sơn (VN gọi là Núi Bạc)”, tức cuộc lấn chiếm của TQ ở khu vực điểm cao 1509 huyện Vị Xuyên và Núi Bạc, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang, VN, năm 1984. Trong một bài viết khác, Lưu Á Châu từng nói do thấy lính TQ chết nhiều quá mà điểm cao này không có giá trị chiến lược lớn, ông đã viết thư cho CTTQ Dương Thượng Côn kiến nghị hủy bỏ chiến dịch này. Mấy tháng sau phía TQ đã ngừng tấn công các điểm cao nói trên. N.D
[ii] Bản dịch của TTXVN.
[iii] Bản dịch của TTXVN.
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Chiến tranh 1979 dưới con mắt một viên tướng TQ
Dưới đây là trích dẫn từ bài phát biểu tại căn cứ Không quân Côn Minh – Vân Nam của Lưu Á Châu, Trung tướng, Chính ủy Đại học Quốc Phòng Trung Quốc.
Lưu Á Châu
Dưới đây là trích dẫn từ bài phát biểu tại căn cứ Không quân Côn Minh
– Vân Nam của Lưu Á Châu, Trung tướng, Chính ủy Đại học Quốc Phòng
Trung Quốc. Qua đó bạn đọc có thể tìm hiểu một vấn đề lịch sử nhìn từ
phía bên kia và thấy rõ hơn “cung cách” Trung Quốc ứng xử với thế giới
hiện đại.
Sau khi kể “Giấc mơ quân đội và đất nước hùng mạnh”, tướng Lưu nói về
việc “quân đội Trung Quốc đã hai lần phát huy vai trò chính trị quan
trọng”.
Cuộc chiến Việt Nam 1979
Một lần Quân Giải phóng phát huy vai trò chính trị quan trọng là trong
đợt sóng gió chính trị ngày mồng 4 tháng 6 [sự kiện quân đội Trung Quốc
đàn áp cuộc biểu tình của sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn ngày
4/6/1989]. “Có thể nói, không giải quyết vấn đề mồng 4 tháng 6 thì không
có cục diện phát triển phồn vinh của Trung Quốc ngày nay; không có quân
đội [thì] sẽ không giải quyết được vấn đề ngày mồng 4 tháng 6, và cũng
không thể có 13 năm huy hoàng”.
“Một lần khác là cuộc chiến tự vệ chống Việt Nam năm 1979 và cuộc chiến
“Lưỡng Sơn” sau này.[i] Đặc biệt là cuộc chiến tự vệ đánh trả Việt Nam
năm 1979, nhiều đồng chí chưa nhận thức được ý nghĩa của cuộc chiến đó.
Khi ấy có người nói: chúng ta đánh nhau với người Việt Nam, hiện nay,
những người hy sinh là liệt sĩ, sau khi quan hệ hai nước trở lại tốt
đẹp, họ sẽ là gì? Tôi trả lời: “Vẫn là liệt sĩ!”. Vì sao? Chúng ta phải
nhìn nhận cuộc chiến này từ góc độ chính trị. Ý nghĩa của cuộc chiến này
nằm bên ngoài cuộc chiến. Cuộc chiến này của đồng chí Đặng Tiểu Bình là
đánh để hai người xem, một là Đảng Cộng sản Trung Quốc, hai là người
Mỹ.
Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại cầm quyền vào năm 1978, tháng 1/1979, ông
thăm Mỹ, tháng 2/1979 đánh Việt Nam. Về chính trị, cuộc chiến này không
thể không đánh. Vì sao? Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền,
chương trình cải cách mở cửa của Trung Quốc đã được ông vạch sẵn, muốn
thực hiện chương trình này phải xác lập quyền lực tuyệt đối trong nội bộ
Đảng. Phải đánh một trận. Khi đó, “bè lũ bốn tên” vừa bị đập tan, những
người có tư tưởng cực tả trong nội bộ Đảng còn rất đông, họ vừa chống
lại Đặng Tiểu Bình, vừa phản đối đường lối và chính sách của ông. Muốn
cải cách phải có quyền lực. Biện pháp xác định quyền lực nhanh nhất là
gây chiến tranh. Lưu Dụ (?) cũng làm như vậy. Khi đó, rất nhiều người
phản đối chiến tranh, cho rằng Quân Giải phóng vừa trải qua “Cách mạng
văn hoá”, không thể đánh trận được. Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình rất quyết
đoán, dẹp mọi tranh cãi, chỉ huy Quân Giải phóng ào ạt vượt qua biên
giới vào ngày 17/2. Thứ hai là người Mỹ, ý nghĩa của việc này cũng rất
lớn.
Đến nay, Đặng Tiểu Bình đã xa chúng ta được 5 năm, nhưng tôi cũng luôn
cảm thấy ông ở cạnh bên chúng ta. Lý Hiến Trung (Chủ nhiệm Chính trị Bộ
Tư lệnh Không quân Bắc Kinh) nói: “Mao Trạch Đông của chúng ta, càng
ngẫm càng thấy vĩ đại”. Thời gian càng lùi xa, sự vĩ đại của Đặng Tiểu
Bình càng khiến chúng ta cảm nhận rõ ràng hơn. Ông chuyển hướng cả đất
nước Trung Quốc chúng ta. Các đồng chí thấy đấy, cuộc chiến này xảy ra
năm 1979.
Năm 1975, sau khi hao binh tổn tướng, người Mỹ cuống cuồng tháo chạy
khỏi Việt Nam. Năm 1979 Đặng Tiểu Bình nói: Tôi dạy cho Việt Nam một bài
học. Khi đó, Việt Nam đang theo ai? Đang theo Liên Xô. Đặng Tiểu Bình
tấn công. Cuộc chiến phản kích tự vệ đối với Việt Nam vào lúc đó của
Đặng Tiểu Bình thực sự đã đưa Trung Quốc ra khỏi cái gọi là phe xã hội
chủ nghĩa của Liên Xô. Khi ấy, nhiều nước Đông Âu không hài lòng, nói
rằng một nước xã hội chủ nghĩa lại đánh một nước xã hội chủ nghĩa khác.
Khi đó, Đặng Tiểu Bình đã thấy rõ không cần thứ chủ nghĩa xã hội ấy của
họ. Kết quả như thế nào? Chủ nghĩa xã hội giả hiệu đã chết yểu.
Vào năm 1989, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ hàng
loạt. Ngay cả Liên Xô cũng tan rã. 10 năm trước đó, Đặng Tiểu Bình đã
nhận ra vấn đề này, dùng chiến tranh để vạch rõ ranh giới với các nước
xã hội chủ nghĩa. Đặng Tiểu Bình thật là một kỳ tài! Vừa rồi, tôi nói
gây ra cuộc chiến tranh này vì người Mỹ, chính là trả hận cho người Mỹ.
Có bằng chứng không? Có đấy. Ngày hôm trước rời Nhà Trắng thì ngày hôm
sau, Đặng Tiểu Bình bắt đầu đánh Việt Nam. Vì sao có thể giúp Mỹ hả
giận? Bởi vì, người Mỹ vừa tháo chạy nhục nhã khỏi Việt Nam. Chúng ta
sao lại giúp người Mỹ hả giận? Thực ra không phải vì Mỹ, mà là vì chúng
ta, vì cải cách mở cửa. Trung Quốc không thể cải cách mở cửa mà không có
viện trợ của các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ. Nhờ cuộc chiến này,
Mỹ đã ồ ạt viện trợ kinh tế, kỹ thuật, khoa học kỹ thuật và cả viện trợ
quân sự, tiền vốn cho Trung Quốc.
Tuần trăng mật giữa Mỹ và Trung Quốc kéo dài đến mười năm, đến ngày
4/6/1989 mới tạm lắng. Cuộc chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì?
Đó là một lượng lớn thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố
này, Trung Quốc tiếp tục đứng vững sau khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành
công vĩ đại. Thậm chí có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở cửa
Trung Quốc chính là từ cuộc chiến tranh này. Với ý nghĩa đó, cống hiến
của quân đội Trung Quốc đối với công cuộc cải cách mở cửa thật to lớn vô
cùng”.[ii]
Tâm lý quân đội Trung Quốc
Khi đó, tôi đến thăm bộ đội tham gia chiến đấu, họ để lại ấn tượng rất
sâu đậm đối với tôi. Cải cách mở cửa đã bắt đầu, đặc biệt là khi tác
chiến ở “Lưỡng Sơn”, hậu phương vẫn ca hát nhảy múa trong thanh bình.
Các cán bộ chiến sĩ không những phải đối mặt với thử thách sinh tử, mà
đều có gánh nặng cuộc sống. Đặc biệt là cán bộ cơ sở, hầu hết gia đình
đều rất khó khăn. Lúc đó, tôi đến viếng một chính trị viên đại đội của
Quân đoàn 14, anh ta đã hy sinh. Vợ anh ta gặp tôi, nói rằng, trước khi
ra trận, chồng chị vẫn còn nợ tiền, khi phát lương tháng cuối cùng trước
khi ra trận, trừ hết các khoản nợ, chỉ còn 5 xu tiền lương trong túi.
Cuối cùng, cô ấy đưa cho tôi xem bản kê di vật, chỉ còn đúng 5 xu. Tôi
thấy thật xót xa.
Có một chiến sĩ gia đình nghèo đói, di chúc của họ thật đầy máu và nước
mắt. Trong di chúc của một chiến sĩ, có đoạn: Nếu tôi chết, mong công xã
hãy cho gia đình tôi một con bò. Có người khác viết, nếu tôi chết, hãy
cởi bộ quân phục của tôi đem về quê, anh em nhà tôi không có quần áo để
mặc. Xem những trang viết này thật là xót xa.
Tinh thần của các binh sĩ vĩ đại như núi Thái Sơn. Từ hậu phương đến
tiền tuyến, tôi thấy sự chênh lệch quá lớn, không thể nói lên lời! Không
chỉ là cuộc sống mà còn những cái khác. Chẳng hạn, tôi đã từng điều tra
bộ đội tham chiến ở bốn quân đoàn, những cán bộ có vợ chưa cưới thì
100% đều [bị vợ chưa cưới] từ hôn, không có trường hợp ngoại lệ. Tôi xem
một bức thư đoạn tuyệt hôn nhân của một cô gái, viết cũng rất có lý:
“Anh hy sinh không còn nữa thì chẳng sao; nếu anh bị thương mất chân mất
tay, chúng ta sẽ biết sống ra sao?”. Đây cũng là thực tế. Một chính trị
viên phó đại đội ở quân đoàn 27 dẫn đầu đội xung kích tấn công một ngọn
núi, bị hy sinh, cả đội xung kích có 30 người thì hy sinh 20.
Sau khi trở về, đại đội tập hợp những người sống sót trong toàn đại đội
điểm danh, thi thể của chính trị viên phó đại đội và hai mươi mấy chiến
sĩ đặt trên một sân phơi của dân. Vào lúc đó, thư của vợ chưa cưới chính
trị viên phó cũng vừa gửi đến. Thư gì vậy? Thư cắt đứt quan hệ hôn
nhân. Trước mặt những người sống sót và trước thi thể những người đã hy
sinh trong đó có chính trị viên phó, đại đội trưởng đã đọc bức thư ấy,
các chiến sĩ toàn đơn vị ai cũng đầm đìa nước mắt. Tôi luôn thấm thía
khung cảnh khi ấy và tâm trạng của họ. Ánh sáng tính người [nhân tính]
vào thời điểm ấy mới rực sáng nhất. Khi bước vào chiến đấu rất hiếm thấy
lời nói hùng hồn. Thật sự có thể làm rung động lòng người thì tuyệt đối
không thể tràng giang đại hải, càng không thể là đạo lý suông. Trầm
tĩnh có sức mạnh lớn hơn nhiều so với ồn ào náo động.
Tôi đi qua một đơn vị chuẩn bị bước vào chiến đấu, tâm trạng háo hức
trước khi tham chiến của bộ đội như miêu tả trong tiểu thuyết, trên phim
ảnh, truyền hình… tất cả đều chỉ là sự phóng đại. Trước khi tác chiến,
một vùng bộ đội đóng quân tĩnh lặng như tờ. Cán bộ chỉ huy đều ẩn nấp ở
nơi rất xa. Khi thời bình, số cán bộ chỉ huy này rất khí phách hào hùng.
Có một cán bộ cho đến nay vẫn còn duy trì quan hệ với tôi. Khi đó tôi
là cán bộ cấp Tiểu đoàn phó, anh là Sư đoàn trưởng. Anh gặp tôi, nói một
cách khí phách: “Tôi có 3 suy nghĩ, cậu hãy viết thành sách cho tôi!
Thứ nhất, tôi muốn làm George Smith Patton Jr của Trung Quốc; thứ hai,
binh sĩ được coi là gì? Binh sĩ chính là những con số Ả rập; thứ 3, tôi
mong mỏi được đánh trận. Đánh một trận [sẽ được] thăng một cấp”.
Chính vì mấy câu nói đó, tôi đã không tha thứ cho anh ấy. Anh ấy không
có thiện cảm với chiến sĩ. Thời bình, nếu Đại đội trưởng, người chỉ huy
có quan hệ tốt với chiến sĩ, thì có thể đoàn kết thành một tập thể vững
mạnh, nhưng nếu có chút mâu thuẫn, chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng mỗi
người một phách. Tuy nhiên, khi chiến tranh nổ ra, cán bộ, chiến sĩ cũng
sẽ sẵn sàng xông pha không chùn bước.
Các bạn đều biết tôi từng viết một tác phẩm có tiêu đề Vương Nhân Tiên.
Tác phẩm này đã gây tiếng vang rất lớn. Vương Nhân Tiên là Phó Tham mưu
Đại đội thuộc Sư đoàn 14, Quân đoàn 14, người Côn Minh, thuộc dòng dõi
con em cán bộ. Trước chiến tranh, Vương Nhân Tiên từng bị xử lý do vi
phạm kỷ luật, sau này hy sinh. Có người cho rằng anh ấy không phải là
anh hùng, nhưng tôi cho rằng
anh ấy là anh hùng, hơn thế nữa còn là anh hùng đích thực.
Quân đoàn trưởng Quân đoàn 14 khi đó là XXX từng nói: “Nghe nói Lưu Á
Châu muốn viết về Vương Nhân Tiên? Quân đoàn 14 có nhiều nhân vật anh
hùng như vậy sao không viết, lại đi viết về một người như thế?” Người
khác đem chuyện này kể với tôi, tôi chỉ bĩu môi một cách khinh thường.
Hugo từng nói, trong chủ nghĩa anh hùng đích thực tuyệt đối có một chủ
nghĩa nhân đạo đích thực tuyệt đối. Rủi ro của Vương Nhân Tiên chính là
điển hình của chủ nghĩa nhân đạo, đồng thời cũng là điển hình của chủ
nghĩa anh hùng.
Vương Nhân Tiên vốn yêu một bạn gái tại Côn Minh, nhưng khi quân đội di
chuyển đến Lão Sơn, cô bạn này đã cắt đứt quan hệ với anh. Sau khi quân
đội tiến vào khu vực Lão Sơn, đóng quân tại một địa phương gọi là Lạc
Thủy Động. Vương Nhân Tiên và một số cán bộ khác ở trong một gia đình
nông dân người dân tộc Miêu. Nữ chủ nhân là một cô gái dân tộc Miêu rất
xinh đẹp, vừa kết hôn không lâu, có một đứa con mới sinh. Tính cách của
cô gái này tràn đầy nhiệt huyết, rắn rỏi khí khái. Đa phần các cô gái
dân tộc thiểu số đều có đặc điểm chung như vậy. Không giống với các cô
gái dân tộc Hán, không dám yêu cũng không dám oán hận. Dân tộc Hán là
một dân tộc không có tình yêu nhất. Dù dân tộc Hán có dân số đông nhất
trên thế giới, nhưng họ không có tình yêu. Ở nước ngoài vì tình yêu có
thể gây chiến tranh, Trung Quốc có thể không? Ngô Tam Quế được coi là
nam nhi dám chiến đấu vì tình yêu, lại vẫn bị cho là Hán gian.
Cô gái người Miêu ở Lạc Thủy Động thấy Vương Nhân Tiên đẹp trai, phong
độ, cao một mét tám hai. Nghe nói khuôn mặt anh ấy luôn mỉm cười. Ban
đầu Vương Nhân Tiên không hề để ý tới cô ta. Phụ nữ nông thôn mà, gia
cảnh rất nghèo. Mặc dù lớn lên rất xinh đẹp, nhưng đã là người có con.
Trước khi bộ đội lên Lão Sơn, cô gái người Miêu đã rót nước vào bình cho
tất cả các chiến sĩ đóng quân tại nhà cô và cố ý cho thêm đường vào
bình của Vương Nhân Tiên, đường cho vào nhiều đến mức ngọt như mật ong.
Buổi tối, cô gái người Miêu bế con đến phòng của Vương Nhân Tiên. Cô đã
hành động một cách tự nhiên nhất trước mặt Vương Nhân Tiên: cởi áo cho
con bú. Hai người cứ ngồi với nhau như vậy trong căn phòng. Vương Nhân
Tiên ra sức rít thuốc. Anh ấy đang cố gắng kiềm chế. Nhưng cuối cùng
không kiềm chế nổi. Vì sao không thể? Điều này là có lý do, lý do đó
chính là ngày mai bộ đội phải lên Lão Sơn. Chuyến đi này có thể anh ấy
muốn “ghi danh”. Anh ấy là người đàn ông có tâm huyết, chính trực, chưa
từng quan hệ với phụ nữ. Anh khẳng định, nghĩ lại chuyện đó anh vẫn
không đành lòng. Đây là lẽ hết sức thường tình của con người.
Khi đó, hai người đã quan hệ trong chuồng heo. Ngày thứ 2, tình hình đột
nhiên thay đổi, các cuộc tiến công đã bị hoãn lại. Kế hoạch tác chiến
bị trì hoãn, vì vậy tình yêu của họ đã đến một cách tự nhiên như vậy.
Bất cứ việc gì đều giống nhau, đã có một lần thì sẽ có một trăm lần.
Trong những ngày đó, bất cứ nơi đâu của Lạc Thủy Động đều lưu lại những
hình ảnh yêu thương của họ. Tuy nhiên, số lần quan hệ trong chuồng heo
cũng tương đối nhiều. Vương Nhân Tiên sau mỗi lần làm chuyện đó đều hút
thuốc, hết điếu này đến điếu khác, thật là nguy hiểm. Cô gái Miêu rất
hạnh phúc, đã hát ngay tại chuồng heo. Một cô gái thật có cá tính!
Sau này, người chồng của cô đã phát hiện ra, hỏi cô đã quan hệ với ai,
cô không nói, cuối cùng chồng cô đã báo cáo vụ việc lên đơn vị. Tập đoàn
quân 14 cảm thấy đây là một sự việc hết sức nghiêm trọng, phá hoại kỷ
luật quần chúng. Quân đoàn trưởng Quân đoàn 14 XXX ra lệnh xử nghiêm.
Quân đội đã triệu tập tất cả các cán bộ và binh lính đóng gần nhà cô gái
Miêu, xếp thành hàng, gọi cho cô gái đến nhận mặt. Cô gái người Miêu
thật cương nghị, hôm đó tôi cảm thấy còn phải cung kính nể phục. Cô bước
tới phía trước Vương Nhân Tiên, chỉ tay nói: “Chính là anh ấy” rồi lại
nói một câu gì đó, tôi nghe không hết, nhưng ý nói là tôi thích anh ấy,
tôi yêu anh ấy. Trưởng ban Bảo vệ nói: “Tôi đã sớm đoán được là Vương
Nhân Tiên. Tôi đã nhìn thấy đầu thuốc lá cao cấp có ở khắp nơi trong
chuồng heo. Mùi thơm của những đầu thuốc này chỉ có anh ta hút”.
Vương Nhân Tiên bị kỷ luật và giáng cấp từ Đại đội phó xuống cấp Trung
đội. Ngày tấn công Lão Sơn, Trung đoàn điều Vương Nhân Tiên lên tuyến
đầu. Ngày 12/7, một sư đoàn của Việt Nam và quân ta đã xảy ra một cuộc
chiến giằng co quyết liệt tại khu vực Lão Sơn. Pháo bắn suốt ngày đêm.
Vì Lạc Thủy Động cách tuyến đầu rất gần, có thể nhìn thấy một vùng trời
rực lửa đạn bom. Cô gái người Miêu cứ ngồi ở đầu thôn, ngóng về phía Lão
Sơn. Người chồng đã đánh cô, xuống tay rất nặng. Đầu và miệng cô đều bị
chảy máu, làm cô bất động. Vương Nhân Tiên đang chiến đấu tại điểm cao
nhất của mặt trận. Anh là tham mưu pháo binh, đã kịp thời báo cáo hàng
nghìn tình huống cho pháo binh tuyến sau. Hoả lực pháo binh của quân ta
dài như tầm mắt, dội lên đầu kẻ địch.
Tháng 8, tôi leo lên Lão Sơn, nhìn xuống phía dưới, vẫn còn nhìn thấy
cảnh thây xác. Đó đều là xác quân địch bị bắn chết trong cuộc chiến
“12/7”. Sau này, quân địch phát hiện trên địa phương này có căn cứ, đã
tập trung hoả lực đánh vào đây. Vương Nhân Tiên đã hy sinh. Đồng đội của
anh ấy nói rằng, khi chết, anh đang dựa vào một gốc cây và cứ đứng chết
như vậy. Sau khi bộ đội rút đi, vẫn đi qua Lạc Thủy Động. Cô gái người
Miêu đứng ở đầu thôn, tìm từng người, từng người một. Các sĩ quan binh
lính đi ngang qua cô, họ đều cúi đầu, giống như đã phạm một lỗi lầm. Họ
đã thay đổi quan điểm về Vương Nhân Tiên và khi đó đã có một tâm trạng
hoàn toàn thay đổi.
Cuối cùng, cô gái cũng biết Vương Nhân Tiên đã hy sinh. Bạn xem cô gái
đó sẽ làm gì? Cô đã bán tài sản trong nhà lấy tiền mặt, mua hai tút
thuốc lá đầu lọc tương đối cao cấp, đến trước mộ của Vương Nhân Tiên,
bóc hết hai tút thuốc, rồi châm lửa từng điếu từng điếu một, cắm lên mộ.
Trên mộ đã cắm đầy thuốc. Khi nghe kể chuyện ấy, tôi hết sức cảm động.
Năm 1984, khi tôi đến Lão Sơn thì mộ của Vương Nhân Tiên đã được xây
rồi. Ban đầu, trong quân đội không ghi công cho Vương Nhân Tiên, sau
này, do yêu cầu mạnh mẽ của các nhà văn như chúng tôi, Vương Nhân Tiên
đã được ghi công, đại để được ghi công hạng nhất. Khi đó, tôi đi tìm bia
mộ tại nghĩa trang liệt sĩ và tôi đã tìm thấy. Tôi đã học theo cách của
cô gái người Miêu, bóc một bao thuốc lá, đốt từng điếu và cắm lên mộ
anh. Hồi ấy tôi là Tiểu đoàn phó Ban Liên lạc Không quân.
Năm 1999, tức 15 năm sau đó, khi đang đảm nhiệm cương vị Chủ nhiệm Chính
trị Không quân Bắc Kinh, tôi lại cùng một vài đồng chí Trưởng ban như
Vương Xuân Ba, Lưu Phan đến nghĩa trang liệt sĩ Ma Lật Pha. Lão Sơn vẫn
xanh tươi như xưa. Lần đó, tôi chỉ mang rượu, thuốc lá từ Bắc Kinh,
trước mộ Vương Nhân Tiên tôi đã rót rượu và châm thuốc mời anh. Tôi và
các đồng chí đi cùng đều không cầm được nước mắt. Họ nói, Chủ nhiệm vẫn
còn tình cảm sâu đậm với vùng đất này quá! Sau khi tôi đến công tác tại
Không quân Thành Đô, tạm thời tôi vẫn chưa đi [Ma Lật Pha]. Đương nhiên
là tôi muốn đi. Bia mộ ngàn năm vẫn biết nói. Khu vực Ma Lật Pha có vài
nghìn ngôi mộ, đến gần mỗi ngôi mộ là đến gần một linh hồn. Đến gần
nghĩa trang liệt sĩ Ma Lật Pha, những toan tính đời thường trong đầu
không còn tồn tại nữa.[iii]
Bài đã đăng lần đầu tại trang Đông Tác Giao lưu (http://dongtac.hncity.org/) dưới tiêu đề “Vì sao Trung Quốc đánh Việt Nam?”.
[i] TQ gọi là cuộc chiến “Lão Sơn (VN gọi là Núi Đất)” và “Giả Âm Sơn (VN gọi là Núi Bạc)”, tức cuộc lấn chiếm của TQ ở khu vực điểm cao 1509 huyện Vị Xuyên và Núi Bạc, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang, VN, năm 1984. Trong một bài viết khác, Lưu Á Châu từng nói do thấy lính TQ chết nhiều quá mà điểm cao này không có giá trị chiến lược lớn, ông đã viết thư cho CTTQ Dương Thượng Côn kiến nghị hủy bỏ chiến dịch này. Mấy tháng sau phía TQ đã ngừng tấn công các điểm cao nói trên. N.D
[ii] Bản dịch của TTXVN.
[iii] Bản dịch của TTXVN.