Tham Khảo
Chính sách đất đai sẽ ly khai ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’
Thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Xuân Phúc vừa thừa nhận: “Cần phải điều chỉnh quy mô sản xuất bằng cách mở rộng hạn điền một cách phù hợp.” “Hạn điền”
Thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Xuân Phúc vừa thừa nhận: “Cần phải điều
chỉnh quy mô sản xuất bằng cách mở rộng hạn điền một cách phù hợp.” “Hạn
điền” vốn là một phần quan trọng của “định hướng xã hội chủ nghĩa.”
Người nông dân ở Việt Nam lao động cật lực nhưng càng ngày càng nghèo. (Hình: Getty Images) |
Cho đến nay, chính quyền Việt Nam vẫn xem đất đai thuộc quyền sở hữu
toàn dân. Các cá nhân và tổ chức, trong đó có doanh nghiệp không được sở
hữu mà chỉ có quyền “sử dụng đất” bởi đó là một trong những yếu tố cấu
thành nền tảng của “chủ nghĩa cộng sản.”
Tuy tuyên bố sẽ xây dựng kinh tế thị trường nhưng chính quyền Việt Nam
vẫn khẳng định, “kinh tế thị trường” ở Việt Nam là “nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.” “Hạn điền” – đặt định giới hạn
nhằm khống chế diện tích sử dụng đất nông nghiệp là một kiểu khắc họa
quyết tâm đeo đuổi “định hướng xã hội chủ nghĩa” (bất kể thế nào cũng
không được quá 33 héc ta).
Những áp đặt đối với đất đai, bao gồm cả giới hạn về diện tích lẫn cách
thức sử dụng đã được chứng minh là lý do khiến nông nghiệp Việt Nam lụn
bại, nông dân Việt Nam khốn cùng.
Một trong những bằng chứng rõ ràng nhất là cả lượng gạo lẫn giá gạo xuất
cảng của Việt Nam cùng giảm liên tục. So với năm 2015, lượng gạo xuất
cảng của Việt Nam trong năm 2016 giảm 25% và giảm đến 40% về giá trị.
Hồi thượng tuần tháng này, Viện Nghiên Cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương
(CIEM) công bố kết quả một cuộc khảo sát về những vấn đề có liên quan
đến nông nghiệp và xuất cảng gạo. Theo đó giá gạo xuất cảng của Việt Nam
giống như tự nguyện bù lỗ cho thiên hạ: Trong vài năm vừa qua, giá gạo
xuất cảng (từ 5 đến 7 triệu tấn) luôn thấp hơn giá gạo bán lẻ trong
nước!
Sự phi lý ấy đã được các chuyên gia chứng minh là lỗi lầm của chính
sách. Năm 2009, chính phủ Việt Nam ban hành một nghị quyết
(63/2009/NQ-CP) để “bảo đảm an ninh lương thực quốc gia,” buộc phải duy
trì diện tích trồng lúa ở mức 3.8 triệu héc ta, trong đó có 3.2 triệu
héc ta mỗi năm trồng ít nhất hai vụ lúa. Nghị quyết này xác định phải
duy trì sản lượng lúa ở mức đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và
xuất cảng 4 triệu tấn gạo/năm. Từ đó đến nay, nghị quyết vừa kể trở
thành “kim chỉ nam” cho hoạt động nông nghiệp nói chung, cũng như sản
xuất và xuất cảng gạo nói riêng.
Theo CIEM, do nhu cầu về gạo (cả tiêu dùng lẫn xuất cảng) không lớn như
dự báo nên sản lượng lúa – gạo trở thành dự thừa. Chính sự dư thừa này
làm giá gạo xuất cảng giảm, cả nông dân lẫn quốc gia cùng thua thiệt.
Nếu cứ tiếp tục duy trì diện tích trồng lúa và ép nông nghiệp phải đạt
sản lượng như nghị quyết 63/2009/NQ-CP đề ra từ 2009, mức độ thua thiệt
sẽ càng ngày càng lớn.
Theo nhiều chuyên gia kinh tế và nông nghiệp, việc khăng khăng duy trì
diện tích trồng lúa và tiếp tục áp đặt về sản lượng đã khiến lúa gạo trở
thành dư thừa, nông dân làm việc cực nhọc mà vẫn không đủ sống nên họ
thi nhau bỏ hoang ruộng đất.
Trên thị trường gạo thế giới, dư thừa làm gạo Việt Nam mất nhiều lợi
thế, đặc biệt là khi phải cạnh tranh với lượng gạo xuất cảng vốn càng
ngày càng cao của nhiều quốc gia khác. Đó cũng là lý do gạo xuất cảng
của Việt Nam càng ngày càng phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.
Do quá chú trọng vào sản xuất và xuất cảng lúa gạo, các lĩnh vực khác
của nông nghiệp Việt Nam không được đầu tư, hỗ trợ thỏa đáng nên tiếp
tục “giậm chân tại chỗ.” Sử dụng đất đai trở thành thiếu hiệu quả, không
thu hút được đầu tư vào nông nghiệp.
CIEM đã đưa ra nhiều khuyến cáo, theo đó, không cần phải duy trì đến 3.8
triệu héc ta đất chỉ để trồng lúa. Hủy bỏ hạn điền, hủy bỏ các qui định
khiến giới đầu tư hoang mang vì quyền tài sản đối với đất nông nghiệp
mập mờ (khống chế thời hạn sử dụng, nếu bị thu hồi thì chỉ được bồi
thường với giá rất thấp,…).
Trước đây, những khuyến cáo của các chuyên gia không được xem xét nhưng
vào lúc này, sự bi đát của nông nghiệp và nông dân Việt Nam đã đẩy chính
quyền Việt Nam đến chỗ phải “xét lại.”
Tại một hội nghị bàn về giải pháp phát triển bền vững cho lúa gạo vùng
đồng bằng sông Cửu Long, diễn ra ở An Giang, ông Nguyễn Xuân Phúc thừa
nhận, lúa gạo vẫn là một loại nông sản chiến lược mà Việt Nam có nhiều
lợi thế, nếu “sản xuất lớn, áp dụng công nghệ, quản lý phù hợp và tiếp
thị tốt” thì hiệu quả kinh tế của sản xuất lúa gạo sẽ tăng nhiều lần so
với hiện nay. Cũng vì vậy “phải điều chỉnh quy mô sản xuất bằng cách mở
rộng hạn điền một cách phù hợp.”
Ông Phúc nhấn mạnh, các bộ Nông Nghiệp – Phát Triển Nông Thôn, Tài
Nguyên – Môi Trường phải sớm soạn thảo – trình chính sách phù hợp để mở
rộng hạn điền song song với kế hoạch sửa Hiến Pháp để chính phủ Việt Nam
trình Quốc Hội.
(Người Việt)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Chính sách đất đai sẽ ly khai ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’
Thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Xuân Phúc vừa thừa nhận: “Cần phải điều chỉnh quy mô sản xuất bằng cách mở rộng hạn điền một cách phù hợp.” “Hạn điền”
Thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Xuân Phúc vừa thừa nhận: “Cần phải điều
chỉnh quy mô sản xuất bằng cách mở rộng hạn điền một cách phù hợp.” “Hạn
điền” vốn là một phần quan trọng của “định hướng xã hội chủ nghĩa.”
Người nông dân ở Việt Nam lao động cật lực nhưng càng ngày càng nghèo. (Hình: Getty Images) |
Cho đến nay, chính quyền Việt Nam vẫn xem đất đai thuộc quyền sở hữu
toàn dân. Các cá nhân và tổ chức, trong đó có doanh nghiệp không được sở
hữu mà chỉ có quyền “sử dụng đất” bởi đó là một trong những yếu tố cấu
thành nền tảng của “chủ nghĩa cộng sản.”
Tuy tuyên bố sẽ xây dựng kinh tế thị trường nhưng chính quyền Việt Nam
vẫn khẳng định, “kinh tế thị trường” ở Việt Nam là “nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.” “Hạn điền” – đặt định giới hạn
nhằm khống chế diện tích sử dụng đất nông nghiệp là một kiểu khắc họa
quyết tâm đeo đuổi “định hướng xã hội chủ nghĩa” (bất kể thế nào cũng
không được quá 33 héc ta).
Những áp đặt đối với đất đai, bao gồm cả giới hạn về diện tích lẫn cách
thức sử dụng đã được chứng minh là lý do khiến nông nghiệp Việt Nam lụn
bại, nông dân Việt Nam khốn cùng.
Một trong những bằng chứng rõ ràng nhất là cả lượng gạo lẫn giá gạo xuất
cảng của Việt Nam cùng giảm liên tục. So với năm 2015, lượng gạo xuất
cảng của Việt Nam trong năm 2016 giảm 25% và giảm đến 40% về giá trị.
Hồi thượng tuần tháng này, Viện Nghiên Cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương
(CIEM) công bố kết quả một cuộc khảo sát về những vấn đề có liên quan
đến nông nghiệp và xuất cảng gạo. Theo đó giá gạo xuất cảng của Việt Nam
giống như tự nguyện bù lỗ cho thiên hạ: Trong vài năm vừa qua, giá gạo
xuất cảng (từ 5 đến 7 triệu tấn) luôn thấp hơn giá gạo bán lẻ trong
nước!
Sự phi lý ấy đã được các chuyên gia chứng minh là lỗi lầm của chính
sách. Năm 2009, chính phủ Việt Nam ban hành một nghị quyết
(63/2009/NQ-CP) để “bảo đảm an ninh lương thực quốc gia,” buộc phải duy
trì diện tích trồng lúa ở mức 3.8 triệu héc ta, trong đó có 3.2 triệu
héc ta mỗi năm trồng ít nhất hai vụ lúa. Nghị quyết này xác định phải
duy trì sản lượng lúa ở mức đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và
xuất cảng 4 triệu tấn gạo/năm. Từ đó đến nay, nghị quyết vừa kể trở
thành “kim chỉ nam” cho hoạt động nông nghiệp nói chung, cũng như sản
xuất và xuất cảng gạo nói riêng.
Theo CIEM, do nhu cầu về gạo (cả tiêu dùng lẫn xuất cảng) không lớn như
dự báo nên sản lượng lúa – gạo trở thành dự thừa. Chính sự dư thừa này
làm giá gạo xuất cảng giảm, cả nông dân lẫn quốc gia cùng thua thiệt.
Nếu cứ tiếp tục duy trì diện tích trồng lúa và ép nông nghiệp phải đạt
sản lượng như nghị quyết 63/2009/NQ-CP đề ra từ 2009, mức độ thua thiệt
sẽ càng ngày càng lớn.
Theo nhiều chuyên gia kinh tế và nông nghiệp, việc khăng khăng duy trì
diện tích trồng lúa và tiếp tục áp đặt về sản lượng đã khiến lúa gạo trở
thành dư thừa, nông dân làm việc cực nhọc mà vẫn không đủ sống nên họ
thi nhau bỏ hoang ruộng đất.
Trên thị trường gạo thế giới, dư thừa làm gạo Việt Nam mất nhiều lợi
thế, đặc biệt là khi phải cạnh tranh với lượng gạo xuất cảng vốn càng
ngày càng cao của nhiều quốc gia khác. Đó cũng là lý do gạo xuất cảng
của Việt Nam càng ngày càng phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.
Do quá chú trọng vào sản xuất và xuất cảng lúa gạo, các lĩnh vực khác
của nông nghiệp Việt Nam không được đầu tư, hỗ trợ thỏa đáng nên tiếp
tục “giậm chân tại chỗ.” Sử dụng đất đai trở thành thiếu hiệu quả, không
thu hút được đầu tư vào nông nghiệp.
CIEM đã đưa ra nhiều khuyến cáo, theo đó, không cần phải duy trì đến 3.8
triệu héc ta đất chỉ để trồng lúa. Hủy bỏ hạn điền, hủy bỏ các qui định
khiến giới đầu tư hoang mang vì quyền tài sản đối với đất nông nghiệp
mập mờ (khống chế thời hạn sử dụng, nếu bị thu hồi thì chỉ được bồi
thường với giá rất thấp,…).
Trước đây, những khuyến cáo của các chuyên gia không được xem xét nhưng
vào lúc này, sự bi đát của nông nghiệp và nông dân Việt Nam đã đẩy chính
quyền Việt Nam đến chỗ phải “xét lại.”
Tại một hội nghị bàn về giải pháp phát triển bền vững cho lúa gạo vùng
đồng bằng sông Cửu Long, diễn ra ở An Giang, ông Nguyễn Xuân Phúc thừa
nhận, lúa gạo vẫn là một loại nông sản chiến lược mà Việt Nam có nhiều
lợi thế, nếu “sản xuất lớn, áp dụng công nghệ, quản lý phù hợp và tiếp
thị tốt” thì hiệu quả kinh tế của sản xuất lúa gạo sẽ tăng nhiều lần so
với hiện nay. Cũng vì vậy “phải điều chỉnh quy mô sản xuất bằng cách mở
rộng hạn điền một cách phù hợp.”
Ông Phúc nhấn mạnh, các bộ Nông Nghiệp – Phát Triển Nông Thôn, Tài
Nguyên – Môi Trường phải sớm soạn thảo – trình chính sách phù hợp để mở
rộng hạn điền song song với kế hoạch sửa Hiến Pháp để chính phủ Việt Nam
trình Quốc Hội.
(Người Việt)