Kinh Đời
Chuyện muối rang
Có một món ăn bây giờ chỉ còn trong ký ức. Nó không khi nào xuất hiện nữa, mặc dù từng tồn tại cả chục năm. Đó là muối rang.
Có một món ăn bây giờ chỉ còn trong ký ức. Nó không khi nào xuất hiện nữa, mặc dù từng tồn tại cả chục năm. Đó là muối rang.
Một thời, có những món dân dã, đậm chất nông thôn, như ngọn khoai lang luộc, mắm cáy, khoai khô bung, canh rau tập tàng (nhiều loại rau hoang dã) vốn là món chính trong bữa ăn của nông dân, đến khi cuộc sống phát triển, khá giả hơn thì người ta bỏ, quên nó đi. Rồi một ngày nào đó, bất chợt mấy anh nhà giàu no xôi chán chè, chán ngán thịt cá giò chả bỗng thòm thèm tuổi thơ, thì nó hiện về các bàn ăn sang trọng, thành món đặc sản. Tôi từng thấy những món như vậy ngay trong cả khách sạn 5 sao, thậm chí đĩa rau muống xào tỏi, ngọn bí luộc, bát canh hoa bí giá đến cả chục đô. Người ta ăn, người ta nhấm nháp quá khứ, tấm tắc khen ngon. Tôi thầm nghĩ, có cho ông cũng thèm vào, còn ngán đến tận cổ đây này, bởi đã ăn quá nhiều, suốt cả tuổi hoa niên nghèo khó.
Nhưng món muối rang thì chả ai nhớ, chả ai thèm. Nó gợi một thời khủng khiếp, thiếu thốn, đói kém, thèm thịt thèm cá, cái bụng lúc nào cũng lép kèm kẹp. Cơm đã chả đủ no, tuổi thiếu niên thanh niên “nam thực như hổ” vậy mà cơm độn chỉ chưa đầy 3 lưng bát, thức ăn nhì nhằng rau cỏ trong vườn, con tép con tôm đánh dậm được ngoài đồng. Ở nhà với thày bu thì còn có chút đỉnh linh tinh vậy, chứ đi học trọ xa nhà, khẩu phần kém hẳn, cơm cũng ít đi, còn thức ăn chủ yếu chỉ 2 món: cá khô và muối rang.
Anh Uy anh trai tôi suốt 3 năm học cấp 3 (1966 – 1969), trường huyện Kiến Thụy (cả huyện chỉ có một trường cấp 3, riêng huyện Thủy Nguyên chả hiểu sao ngoài trường Thủy Nguyên có thêm trường Thủy Sơn nữa), máy bay Mỹ đánh rát quá, sơ tán về xã Tân Phong gần biển. Lão ở trọ trên đó, mỗi tuần một lần đạp xe thiếu nhi Liên Xô về nhà lấy gạo và cá khô. Chục con cá khô, mỗi con bằng 2 ngón tay ăn cả tuần, chả bõ bèn gì. Anh tôi bèn chế món muối rang. Mà chả riêng ông Uy, ông nào cũng biết làm món này, chẳng ai giữ bản quyền. Nguyên liệu gồm 3 thứ: muối (đương nhiên), hành, và mỡ. Hiếm nhất là mỡ. Hồi ấy chưa có dầu thực vật, chất béo chỉ trông vào con lợn. Nếu HTX mua bán giết lợn, chen mua được ký mỡ không khác gì hoàn thành kế hoạch nửa năm. Rán tất lên thành mỡ nước ăn dần. Mùa hè nóng nên mỡ lỏng, đổ vào chai, mùa đông lạnh thì nó đông trắng như tuyết trong cạp lồng. Mỗi lần nấu, chỉ nhón ra chút ít, gọi là chạy qua hàng mỡ, cốt sao bát canh nổi lên vài cái váng cho hấp dẫn, món xào có tí mỡ trông bóng bẩy bắt mắt. Muối thì chỉ có loại muối cục, trông như tinh thể kim cương, to bằng hạt đỗ xanh, màu hơi vàng, rất ít khi có muối trắng.
Muối đem giã nhỏ. Lấy cái chảo, đặt nóng trên bếp, quẹt mỡ rồi phi hành (củ) cho thơm, đổ muối vào đảo đều lên. Bao giờ hạt muối thấm đều mỡ đều hành thì bắc ra. Có thêm vài miếng tóp mỡ trông càng hấp dẫn. Để nguội, cho vào cái lọ thủy tinh, chỉ cần một lọ to bằng cốc vại thì có mà ăn ròng rã cả tháng.
Ngoài Bắc, khi bọn trẻ con ăn hơi nhiều thức ăn thì người ta gọi là ăn mặn. Chẳng hạn 1 con tôm đáng nhẽ phải gánh hết nửa bát cơm thì chỉ làm 2 và cơm, đứa này mách thày bu rằng đứa kia ăn mặn, tốn thức ăn. Riêng món muối rang, chả đứa nào dám ăn mặn. Cơm không thì khó nuốt, có tí muối rang cũng dễ trôi, nhưng khát nước suốt ngày.
Anh Uy tôi đi bộ đội, tôi lại tiếp tục sự nghiệp muối rang. Trường huyện chuyển lại về thị trấn Thọ Xuân – núi Đối năm 1969 khi Mỹ tạm ngưng ném bom miền Bắc nhưng đến đến năm lớp 10 học căng thẳng tôi cũng chả dám đi về nhà hằng ngày nên đành trọ học. Cũng vẫn cá khô và muối rang. Đằng đẵng gần 1 năm trời, muối rang là món chính trong khẩu phần. Thế rồi cũng sống được, cũng vượt qua cái thời tao loạn, thiếu thốn ấy. Chỉ có điều, nhớ lại vẫn thấy rùng mình.
Nguyễn Thông
Chuyện muối rang
Một thời, có những món dân dã, đậm chất nông thôn, như ngọn khoai lang luộc, mắm cáy, khoai khô bung, canh rau tập tàng (nhiều loại rau hoang dã) vốn là món chính trong bữa ăn của nông dân, đến khi cuộc sống phát triển, khá giả hơn thì người ta bỏ, quên nó đi. Rồi một ngày nào đó, bất chợt mấy anh nhà giàu no xôi chán chè, chán ngán thịt cá giò chả bỗng thòm thèm tuổi thơ, thì nó hiện về các bàn ăn sang trọng, thành món đặc sản. Tôi từng thấy những món như vậy ngay trong cả khách sạn 5 sao, thậm chí đĩa rau muống xào tỏi, ngọn bí luộc, bát canh hoa bí giá đến cả chục đô. Người ta ăn, người ta nhấm nháp quá khứ, tấm tắc khen ngon. Tôi thầm nghĩ, có cho ông cũng thèm vào, còn ngán đến tận cổ đây này, bởi đã ăn quá nhiều, suốt cả tuổi hoa niên nghèo khó.
Nhưng món muối rang thì chả ai nhớ, chả ai thèm. Nó gợi một thời khủng khiếp, thiếu thốn, đói kém, thèm thịt thèm cá, cái bụng lúc nào cũng lép kèm kẹp. Cơm đã chả đủ no, tuổi thiếu niên thanh niên “nam thực như hổ” vậy mà cơm độn chỉ chưa đầy 3 lưng bát, thức ăn nhì nhằng rau cỏ trong vườn, con tép con tôm đánh dậm được ngoài đồng. Ở nhà với thày bu thì còn có chút đỉnh linh tinh vậy, chứ đi học trọ xa nhà, khẩu phần kém hẳn, cơm cũng ít đi, còn thức ăn chủ yếu chỉ 2 món: cá khô và muối rang.
Anh Uy anh trai tôi suốt 3 năm học cấp 3 (1966 – 1969), trường huyện Kiến Thụy (cả huyện chỉ có một trường cấp 3, riêng huyện Thủy Nguyên chả hiểu sao ngoài trường Thủy Nguyên có thêm trường Thủy Sơn nữa), máy bay Mỹ đánh rát quá, sơ tán về xã Tân Phong gần biển. Lão ở trọ trên đó, mỗi tuần một lần đạp xe thiếu nhi Liên Xô về nhà lấy gạo và cá khô. Chục con cá khô, mỗi con bằng 2 ngón tay ăn cả tuần, chả bõ bèn gì. Anh tôi bèn chế món muối rang. Mà chả riêng ông Uy, ông nào cũng biết làm món này, chẳng ai giữ bản quyền. Nguyên liệu gồm 3 thứ: muối (đương nhiên), hành, và mỡ. Hiếm nhất là mỡ. Hồi ấy chưa có dầu thực vật, chất béo chỉ trông vào con lợn. Nếu HTX mua bán giết lợn, chen mua được ký mỡ không khác gì hoàn thành kế hoạch nửa năm. Rán tất lên thành mỡ nước ăn dần. Mùa hè nóng nên mỡ lỏng, đổ vào chai, mùa đông lạnh thì nó đông trắng như tuyết trong cạp lồng. Mỗi lần nấu, chỉ nhón ra chút ít, gọi là chạy qua hàng mỡ, cốt sao bát canh nổi lên vài cái váng cho hấp dẫn, món xào có tí mỡ trông bóng bẩy bắt mắt. Muối thì chỉ có loại muối cục, trông như tinh thể kim cương, to bằng hạt đỗ xanh, màu hơi vàng, rất ít khi có muối trắng.
Muối đem giã nhỏ. Lấy cái chảo, đặt nóng trên bếp, quẹt mỡ rồi phi hành (củ) cho thơm, đổ muối vào đảo đều lên. Bao giờ hạt muối thấm đều mỡ đều hành thì bắc ra. Có thêm vài miếng tóp mỡ trông càng hấp dẫn. Để nguội, cho vào cái lọ thủy tinh, chỉ cần một lọ to bằng cốc vại thì có mà ăn ròng rã cả tháng.
Ngoài Bắc, khi bọn trẻ con ăn hơi nhiều thức ăn thì người ta gọi là ăn mặn. Chẳng hạn 1 con tôm đáng nhẽ phải gánh hết nửa bát cơm thì chỉ làm 2 và cơm, đứa này mách thày bu rằng đứa kia ăn mặn, tốn thức ăn. Riêng món muối rang, chả đứa nào dám ăn mặn. Cơm không thì khó nuốt, có tí muối rang cũng dễ trôi, nhưng khát nước suốt ngày.
Anh Uy tôi đi bộ đội, tôi lại tiếp tục sự nghiệp muối rang. Trường huyện chuyển lại về thị trấn Thọ Xuân – núi Đối năm 1969 khi Mỹ tạm ngưng ném bom miền Bắc nhưng đến đến năm lớp 10 học căng thẳng tôi cũng chả dám đi về nhà hằng ngày nên đành trọ học. Cũng vẫn cá khô và muối rang. Đằng đẵng gần 1 năm trời, muối rang là món chính trong khẩu phần. Thế rồi cũng sống được, cũng vượt qua cái thời tao loạn, thiếu thốn ấy. Chỉ có điều, nhớ lại vẫn thấy rùng mình.
Nguyễn Thông
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Có miệng như không" - by / Trần Văn Giang (ghi lại).
- 100 năm sau vẫn bồi hồi "Tôi đi học" - by Minh Tự / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Nỗi Khổ Của Người Hà Nội" - by Nguyễn Thị Thương / Trần Văn Giang (ghi lại)
Chuyện muối rang
Có một món ăn bây giờ chỉ còn trong ký ức. Nó không khi nào xuất hiện nữa, mặc dù từng tồn tại cả chục năm. Đó là muối rang.
Chuyện muối rang
Một thời, có những món dân dã, đậm chất nông thôn, như ngọn khoai lang luộc, mắm cáy, khoai khô bung, canh rau tập tàng (nhiều loại rau hoang dã) vốn là món chính trong bữa ăn của nông dân, đến khi cuộc sống phát triển, khá giả hơn thì người ta bỏ, quên nó đi. Rồi một ngày nào đó, bất chợt mấy anh nhà giàu no xôi chán chè, chán ngán thịt cá giò chả bỗng thòm thèm tuổi thơ, thì nó hiện về các bàn ăn sang trọng, thành món đặc sản. Tôi từng thấy những món như vậy ngay trong cả khách sạn 5 sao, thậm chí đĩa rau muống xào tỏi, ngọn bí luộc, bát canh hoa bí giá đến cả chục đô. Người ta ăn, người ta nhấm nháp quá khứ, tấm tắc khen ngon. Tôi thầm nghĩ, có cho ông cũng thèm vào, còn ngán đến tận cổ đây này, bởi đã ăn quá nhiều, suốt cả tuổi hoa niên nghèo khó.
Nhưng món muối rang thì chả ai nhớ, chả ai thèm. Nó gợi một thời khủng khiếp, thiếu thốn, đói kém, thèm thịt thèm cá, cái bụng lúc nào cũng lép kèm kẹp. Cơm đã chả đủ no, tuổi thiếu niên thanh niên “nam thực như hổ” vậy mà cơm độn chỉ chưa đầy 3 lưng bát, thức ăn nhì nhằng rau cỏ trong vườn, con tép con tôm đánh dậm được ngoài đồng. Ở nhà với thày bu thì còn có chút đỉnh linh tinh vậy, chứ đi học trọ xa nhà, khẩu phần kém hẳn, cơm cũng ít đi, còn thức ăn chủ yếu chỉ 2 món: cá khô và muối rang.
Anh Uy anh trai tôi suốt 3 năm học cấp 3 (1966 – 1969), trường huyện Kiến Thụy (cả huyện chỉ có một trường cấp 3, riêng huyện Thủy Nguyên chả hiểu sao ngoài trường Thủy Nguyên có thêm trường Thủy Sơn nữa), máy bay Mỹ đánh rát quá, sơ tán về xã Tân Phong gần biển. Lão ở trọ trên đó, mỗi tuần một lần đạp xe thiếu nhi Liên Xô về nhà lấy gạo và cá khô. Chục con cá khô, mỗi con bằng 2 ngón tay ăn cả tuần, chả bõ bèn gì. Anh tôi bèn chế món muối rang. Mà chả riêng ông Uy, ông nào cũng biết làm món này, chẳng ai giữ bản quyền. Nguyên liệu gồm 3 thứ: muối (đương nhiên), hành, và mỡ. Hiếm nhất là mỡ. Hồi ấy chưa có dầu thực vật, chất béo chỉ trông vào con lợn. Nếu HTX mua bán giết lợn, chen mua được ký mỡ không khác gì hoàn thành kế hoạch nửa năm. Rán tất lên thành mỡ nước ăn dần. Mùa hè nóng nên mỡ lỏng, đổ vào chai, mùa đông lạnh thì nó đông trắng như tuyết trong cạp lồng. Mỗi lần nấu, chỉ nhón ra chút ít, gọi là chạy qua hàng mỡ, cốt sao bát canh nổi lên vài cái váng cho hấp dẫn, món xào có tí mỡ trông bóng bẩy bắt mắt. Muối thì chỉ có loại muối cục, trông như tinh thể kim cương, to bằng hạt đỗ xanh, màu hơi vàng, rất ít khi có muối trắng.
Muối đem giã nhỏ. Lấy cái chảo, đặt nóng trên bếp, quẹt mỡ rồi phi hành (củ) cho thơm, đổ muối vào đảo đều lên. Bao giờ hạt muối thấm đều mỡ đều hành thì bắc ra. Có thêm vài miếng tóp mỡ trông càng hấp dẫn. Để nguội, cho vào cái lọ thủy tinh, chỉ cần một lọ to bằng cốc vại thì có mà ăn ròng rã cả tháng.
Ngoài Bắc, khi bọn trẻ con ăn hơi nhiều thức ăn thì người ta gọi là ăn mặn. Chẳng hạn 1 con tôm đáng nhẽ phải gánh hết nửa bát cơm thì chỉ làm 2 và cơm, đứa này mách thày bu rằng đứa kia ăn mặn, tốn thức ăn. Riêng món muối rang, chả đứa nào dám ăn mặn. Cơm không thì khó nuốt, có tí muối rang cũng dễ trôi, nhưng khát nước suốt ngày.
Anh Uy tôi đi bộ đội, tôi lại tiếp tục sự nghiệp muối rang. Trường huyện chuyển lại về thị trấn Thọ Xuân – núi Đối năm 1969 khi Mỹ tạm ngưng ném bom miền Bắc nhưng đến đến năm lớp 10 học căng thẳng tôi cũng chả dám đi về nhà hằng ngày nên đành trọ học. Cũng vẫn cá khô và muối rang. Đằng đẵng gần 1 năm trời, muối rang là món chính trong khẩu phần. Thế rồi cũng sống được, cũng vượt qua cái thời tao loạn, thiếu thốn ấy. Chỉ có điều, nhớ lại vẫn thấy rùng mình.
Nguyễn Thông