Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Chuyện những con tàu: Trợ Chiến Hạm - Trần Lý
Trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai, HQ Hoa Kỳ đã sử dụng nhiều loại chiến hạm đổ bộ gọi chung là Landing Ship như LST (Landing Ship Tank), LCT (Landing Craft Tank), LSD (Landing Ship Dock)..
Trong số những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, Trợ Chiến Hạm có lẽ là loại chiến hạm có mặt từ ngày thành lập HQVNCH và tiếp tục hoạt động cho đến ngày VNCH kh6ng còn là một quốc gia. Trợ Chiến Hạm là tên Việt cho các tàu đổ bộ loại LSSL (Landing Ship Support Large) của HQ Hoa Kỳ.
Trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai, HQ Hoa Kỳ đã sử dụng nhiều loại chiến hạm đổ bộ gọi chung là Landing Ship như LST (Landing Ship Tank), LCT (Landing Craft Tank), LSD (Landing Ship Dock)..sau đó phát triển thêm những loại LCI (L) =Landing Craft Infantry (Large)… Những LCI này được gắn nhiều loại súng khác nhau từ phóng rocket, súng cối, đại liên, đại bác… Và sau cùng được bổ sung và phát triển hơn nữa thành một loại chiến hạm có cấu trúc lớn hơn, trang bị hỏa lực mạnh hơn để trở thành đúng nghĩa là một chiến hạm LCS (L) với tên phụ là Mighty Midget.
Khi Thế Chiến II chấm dứt 123 chiếc LCS(L) ở trong tình trạng còn hoạt động được, sau đó do nhu cầu của cuộc Chiến Tranh 'Lạnh' giữa hai khối Tự Do và Cộng Sản, các LCS(L) được đưa ra tái sử dụng dưới ký danh mới LSSL và Hoa Kỳ đã viện trợ những chiến hạm này cho các quốc gia đồng minh như Pháp, Ý, Nhật, Đài Loan.. qua các chương trình quân viện như Mutual Defence Assistance, SecurityAssistance.
Trợ Chiến Hạm trong Hải Quân Pháp tại Việt Nam
Trong chiến tranh VN, Pháp đã nhận được quân viện từ Hoa Kỳ và Hải Quân Pháp cũng nhận một số chiên hạm để sử dụng tại chiến trường Đông Dương.
Ngày 25 tháng7 năm 1950, 6 chiếc LSSL được bàn giao cho Pháp tại Puget Sound: đó là những chiếc LSSLs 2, 4, 9, 10, 28 và 80. Sau chuyến hải hành vượt Thái Bình Dương, các chiến hạm này cặp bến SàiGòn vào ngày 17 tháng 9. Lúc đầu HQ Pháp đánh số các chiến hạm này từ 1 đến 6, nhưng sau đó (cuối 1951) đổi thành các số 9021 đến 9026 và đến 1953 dùng tên các võ khi thời Trung Cổ để đặt cho các chiến hạm này. (Trước đó HQ Pháp đã có 3 chiếc LSSL, với 6 chiếc mới nhận HQ Pháp có được 9 LSSL để sử dụng trên chiến trường Đông Dương)
Các chiến hạm của HQ Pháp mang những tên: Arbalete (9021), Arquebuse (9022), Hallebarde (9023), Javeline (9024), Pertuisane (9025), Rapière (9026) và vào 1953 thêm 3 chiếc được Hoa Kỳ chuyển cho Pháp là những chiếc Etendard, Oriflamme và Framée.
Các LSSL được dùng để yểm trợ cho các Dinassault (Hải đoàn xung phong) trong các trận đánh chống lại lực lượng Việt Minh tại những vùng sông rạch Bắc VN như các khu vực Sông Đáy, Sông Hồng. đồg thời hoạt động tuần phòng ven biển từ Trung ra Bắc và trên sông Cửu Long tại miền Nam.
Trong thời gian từ 1952-1954, các chiến hạm này đã yểm trợ nhiều cuộc hành quân của Lực lượng Liên Hiệp Pháp.
Sau khi Hiệp Định Geneve được ký kết, phân chia VN thành hai miền, chiến hạm Pertuisane đã được dùng để chuyên chở người di cư từ Bắc vào Nam.
Trợ Chiến Hạm của Hải Quân VNCH:
- Các Trợ Chiến Hạm do Pháp chuyển giao: Khi vai trò của Pháp chấm dứt, họ đã chuyển một số chiến hạm trong đó có các LSSL cho Việt Nam.
Chiếc Arbalète là Trợ Chiến Hạm đầu tiên được chuyển giao cho HQVN vào ngày 12 tháng 10 năm 1954 tại Sài Gòn. HQVN đổi tên chiến hạm này thành Nỏ Thần HQ 225. Với giai đoạn đầu của tổ chức HQVN chưa đủ nhân lực và còn thiếu kinh nghiệm để điều hành nên tuy được chinh thức xem là một chiến hạm của VN nhưng vẫn do sĩ quan và thủy thủ đoàn (25 người) Pháp kiểm soát và điều hành, thêm vào đó là 30 nhân viên HQVN .xem như 'học nghề'. Đến khoảng cuối năm 1955, chiến hạm trở thành 'không thể hải hành' nên được giải ngũ, chuyển cho Đài Loan để phế thải, lấy những cơ phận còn dùng được..
Chiếc Arquebuse được chuyển giao vào năm 1955 và trở thành Linh Kiếm HQ 226.
Chiếc thứ ba được Pháp chuyển lại là chiếc Framée, chuyển vào tháng 3 năm 1956, và thay thế cho chiếc Arbalete phế thải, HQVN vẫn dùng tên Nỏ Thần HQ 225 đặt cho chiếc này.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh chống Cộng, các chiến hạm này theo Đ/Tá Đỗ Cẩm ghi lại: 'LSSL là những chiến hạm thật sự chiến đấu đầu tiên mả HQVN tiếp nhận và là niềm hãnh diện cho HQVN. Hỏa lực của chiến hạm thật ghê gơm nhất là khi yểm trợ cận mục tiêu. Chiến hạm gây kinh hoàng cho VC trong những năm 50-60, và giúp rất nhiều cho các cuộc hành quân tại các vùng sông ngòi khi khả năng của KQVN và Pháo binh còn giới hạn..'
Các Trợ Chiến Hạm do Mỹ chuyển giao: Ngoài 3 Trợ Chiến Hạm kể trên, Hoa Kỳ cũng chuyển giao cho HQVNCH 4 chiếc nữa để tổng số Trợ Chiến Hạm lên đến 7 chiếc. Từ 1957, HQVNCH đã dùng tên các chiến sĩ HQ hy sinh để đặt cho các Trợ Chiến Hạm:
HQ 225 Nguyễn văn Trụ
HQ 226 Lê Trọng Đàm
HQ 227 Lê văn Bình
HQ 228 Đoàn Ngoc Tảng
HQ 229 Lưu Phú Thọ
HQ 230 Nguyễn Ngọc Long
HQ 231 Nguyễn Đức Bổng
Đặc tính chung của các Trợ Chiến Hạm:
-Trọng tải trung bình 250 tân, tối đa 384 tấn
-Kích thước: dài 158 ft, rộng 23.7 ft
-Vận chuyển: hai máy diesel, mỗi máy 1600 mã lực
-Vận tốc trung bình 14 hải lý/giờ, tối đa 16.5 hải lý/giờ
-Hỏa lực: 1 đại bác 76.2 mm, 4 khẩu 40 mm, 4 khẩu 20 mm và nhiều đại liên.
-Thủy thủ đoàn: 60-70 người
Vai trò và Nhiệm vụ cũa Trợ Chiến Hạm:
Trong những năm 1950, các Trợ Chiến Hạm thuộc HQ Pháp hoạt động trên chiến trường Đông Dương thường được giao những nhiệm vụ như tuần phòng ven biển, và do hỏa lực trang bị trên tàu khá mạnh nên được dùng vào việc yểm trợ cho các cuộc hành quân thủy bộ. Những 'dinassaut' của Pháp gồm một số chiến đỉnh nhỏ như LCT, LCM và LCVP gắn thêm nhiều đại liên, súng cối để tăng hỏa lực..Khi hành quân thường có thêm một LSIL để dùng làm nơi đặt Bộ Chỉ Huy, và khi có mặt của Trợ Chiến Hạm thì chiếc này sẽ giữ nhiệm vụ đó. Đài chỉ huy của Trợ Chiến Hạm khá cao, giúp tăng được tầm quan sát nhưng lại trở thành mục tiêu bị địch quân nhắm bắn.. Các nhân viên quan sát trên pháo tháp dễ bị 'băn sẻ'. Các Trợ Chiến Hạm rất hữu hiệu trong công Tác bảo vệ các đoàn tàu thuyền cần di chuyển trên những dòng sông bị CQ phục kích.. Lực lượng Việt Minh trong thời gian này chưa có những vũ khí nặng để gây tổn hại cho các đoàn công-voa trên sông. Nguy hiểm nhất chỉ là mìn thả trôi hoặc đặt vào tàu để phá hoại. Một số cuộc đụng độ giữa lực lượng VM và Pháp trên những vùng sông ngòi dều đưa đến những tổn thất nặng cho VM như các trận phục kinh trên Sông Đáy (11-1952), trận giải vây Mao Khê (23-3-1951), chiến dịch Phủ Lý-Ninh Bình (29-5-1951) giữa các SĐ 308 và 304 VM và Dinassaut 3 của Pháp.
Trong những năm 1953-54, các Trợ Chiến Hạm Pháp đã đụng độ rất nhiều trận với VM.tại những khu vực Phát Diệm, Bùi Chu, Thanh Hóa, Hưng Yên và những tiền đồn dọc Sông Hồng.
Sau Hiệp định Geneve, HQ VN tiếp nhận hai Trợ Chiến Hạm từ người Pháp và tiếp tục sử dụng các tàu này theo kiểu HQ Pháp, nghĩa là tuần ven biển, sông rạch và yểm trợ hành quân thủy bộ.
Từ 5-19 tháng 6, 1955, các giang đoàn xung phong 22, 23 và 25 được sử dụng trong các cuộc hành quân dẹp các lực lượng quân đội Giáo phái Hòa Hảo trong khu vực Cần Thơ, Long Xuyên. Bộ Chỉ Huy chiến dịch được đặt trên Chiến hạm Nỏ Thần.
Về nhiệm vụ tuần duyên, từ tháng 12-55, Nỏ Thần được giao nhiệm vụ tuần tra ven biển từ Vũng Tàu đến Mũi Bãi Bùng.
Vai trò yểm trợ hỏa lực và tiếp vận cho các tiền đồn xa xôi nơi vùng sông rạch giảm dần khi Không Quân VNCH lớn mạnh, các phi vụ Skyraider và trực thăng võ trang được sử dụng nhiều hơn.
Trong những tháng đầu năm 1970, các Trợ Chiến Hạm trỡ thành lực lượng chính bảo vệ các đoàn tàu tiếp tế cho Kampuchea trên thủy lộ Pnnompenh-NeakLuong. Chuyến tiếp vận sau cùng được thực hiện vào ngày 30 tháng Giêng 1975.
'Dự án Hải sử' (Vũ Hữu San) đã viết về sự hữu hiệu của Trợ Chiến Hạm và giang pháo hạm như sau:
' Trong vòng 25 năm chiến tranh, loại Trợ Chiến Hạm LSSL là loại chiến hạm có hỏa lực mạnh nhất trong sông ngòi VN, kế đó là các Giang phao hạm. Khi hành quân phối hợp với lực lượng bạn, hai loại tàu này thường được dùng như soái hạm lưu động cho CHT hành quân. Với hỏa lực hùng hậu, chiến hạm yểm trợ hải pháo rất đắc lực khi tiến quân..
Tuy vậy đôi khi tại vùng đồng bằng sông Cữu Long, các tàu này đã được sử dụng vào các công Tác tuần tiễu sông ngòi. Lâu lâu cấp chỉ huy còn dùng hai loại tàu này thường trực để yểm trợ cho lực lượng diện địa ven sông. Trong công Tác này chiến hạm thường đơn độc nên dễ dàng bị địch phục kích khi giang hành và cả khi neo lại nghỉ ngơi..'
Hạm đội HQVNCH được tổ chức thành 3 Hải Đội (Tuần duyên, Chuyển vận và Tuần dương). Giang pháo hạm thuộc Hải đội 1, tuần duyên (gồm cả các PGM=Tuần duyên hạm và LSIL=Giang pháo hạm).
Victor Croizant (Đại Tá TQLC Hoa Kỳ) trong 'The Brown Water Navy' đã viết một bài 'tiêu biểu' về hoạt động của Giang Đoàn Xung Phong 23 trong trận Hàm Luông 4 tháng 10 1965 như sau: 'Chiến hạm HQ 226 được giao nhiệm vụ tuần giang trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong các tháng 9 và 10, 1965. Các báo cáo từ Cố vấn Mỹ ghi nhận chiến hạm đã yểm trợ cho 3 công Tác trục vớt các tiểu đỉnh bị chìm, yểm trợ hải pháo cho 9 cuộc hành quân, cho hai chuyến tiếp liệu và tuần tra đơn độc 9 chuyến.Hoạt động đặc biệt hữu hiệu nhất của HQ 226 là yẩm trợ cuộc hành quân của Giang đoàn 23 trong cuộc đổ quân cho TĐ 41 BĐQ tại Hàm Luông, Kiến Hòa ngày 4 và 5 tháng 10. Trong trận này 21 chiến sĩ BĐQ và HQ hy sinh cùng 57 bị thương.. Cuộc hành quân bắt đầu từ 7 giờ sáng, xuất phát tại Bến Tre. BĐQ dùng tàu xuôi dòng để đổ bộ vào khu vực tìm và diệt một lực lượng VC đã bao vây tấn công một tiền đồn và xã ấp đêm hôm trước. Thời tiết không cho phép dùng trực thăng để đổ quân như dự trù.Lực lượng giang đoàn tiên công lúc 11 giờ sáng, hộ tống bởi một phi cơ quan sát của LQ HK. Phi cơ không ghi nhận được hoạt động của CQ. Lúc 12 giờ , HQ 226 dẫn đầu khởi pháo vào một mục tiêu nghi ngờ, lập tức VC nổ súng dự dội vào đoàn tàu từ bờ bên phải và vào HQ 226 từ bờ trái.Hai LCM chở quân trúng đạn, một ở tình trạng gần chìm phải kéo: cả hai ủi bãi vào bờ trái, BĐQ đổ bộ và tạo một vòng đai phòng thủ, các tiểu đỉnh tạm rút chỉ HQ 226 trụ lại để yẩm trợ cho toán BĐQ và phi cơ được gọi đến để oanh kích..Các LCM trở lại đổ thêm quân tiếp viện. HQ 226 ở lại chiến trường suốt đêm..Sáng 5/10, lực lượng VNCH thanh toán chiến trường..'
Lược sử và hoạt dộng của các Trợ Chiến Hạm
1) HQ 225 Nguyễn văn Trụ:
-Chiến hạm được khởi đóng ngày 27 tháng Giêng 1945 tại cơ xưởng Commercial Iron Works, Portland (Oregon).
-Hạ thủy ngày 7 tháng Hai, 1945.
-Gia nhập HQHK ngày 5 tháng 3, 1945 và nhận ký hiệu USS LCS(L)(3)-105 sử dụng cho Lực lượng trừ bị.
-Danh hiệu đổi thành Landing Ship Support Large USS LSSL-105 vào ngày 28 tháng Hai, 1949.
-Chuyển cho Lực lượng Tuần Duyên Ryukyu ngày 12-03-1952
-Chuyển cho HQ Pháp ngày 28 tháng 12, 1953 , được đặt tên là RFS Framée.
-Chuyển cho HQ VNCH năm 1957, cũng đặt tên là Nỏ Thần (HQ 225) , sau đó năm 1970 đổi tên thành Nguyễn văn Trụ. (HQ Trung Úy Nguyễn văn Trụ, Khóa 2 HQ/VN hy sinh trong một trận đánh thuộc chiến dịch Nguyễn Huệ tại Long xuyên vào tháng 12/1955).
-Bị đặc công CS đánh chìm ngày 30 tháng 7 năm 1970
Vài hoạt động của HQ 225:
(Danh số HQ 225 đã được dùng cho hai LSSL,chiếc thứ nhất tiền thân là Arbalète. Hoạt động của Nỏ thần (LSSL-2) được tóm lược trong phần trên).
-Từ 1956-57, HQ 225 thứ nhì thay cho chiếc thứ nhất phế thài, vẫn được đặt tên là Nỏ Thần, nhận những nhiệm vụ như tuần tra trên sông Cửu Long và dọc duyên hải Nam VN từ Vũng Tàu đến Hà Tiên, bảo vệ các thuyền đánh cá VN trong khu vực Vịnh Thái Lan chống các vi phạm của Cambodia.
- 16 tháng Hai-1969 HQ 225 dùng hải pháo giúp đẩy lui cuộc tấn công của VC tại Vĩnh Long và 28 tháng 11 cũng đẩy lui cuộc phục kích của VC tại Tam Giang, Đầm Dơi.
-Từ 1970, HQ 225 được đặt dưới sự chỉ huy của Hải đội tại Căn cứ Năm Căn. Rạng sáng ngày 30 tháng 7 năm 1970, HQ 225 thả neo, cột giây tại căn cứ Năm Căn, nơi cửa sông Bồ Đề, và bị đặt mìn phá hoại, phát nổ lúc 2 giờ sáng. Tàu chìm nhanh xuống đáy nước. Hạm Trưởng Nguyễn Ngọc Quyền kể lại: ' Tôi cho lệnh đào thoát, bỏ tàu khi nước ngập 1/3 tàu trong vài phút; một số thủy thủ không thoát kịp vì lo thu nhặt vật dụng cá nhân' . Công cuộc tiếp cứu tuy diễn ra nhanh chóng, tuy nhiên 17 nhân viên thũy thủ đoàn bị mất tích và được xem là hy sinh theo tàu.. Do nước chảy xiết và khu vực kém an toàn nên việc trục vớt chiến hạm không được thực hiện. Điều tra sau đó tìm thấy những sợi dây nylông dài cột theo dây neo và tàu bị chìm do đặc công 'thủy' VC gài mìn.
Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng trong 'Năm Căn, vùng xôi đậu' đã kể lại vụ chìm tàu như sau: 'Đêm thứ hai của một chuyến nghỉ bến sau đó, giữa lúc Hải và Trung sĩ Hoan đang đội mưa đi từ câu lạc bộ về phòng, thì bỗng giật mình vì hai tiếng nổ liên tiếp kinh hồn xen lẫn với những tiếng sấm chớp ầm ầm của cơn mưa miền nhiệt đới, cả hai chạy vội ra cầu tầu. Cảnh náo loạn hãi hùng đang diễn ra trước măt mọi người: chiếc LSSL, nằm giữa giòng sông, nghiêng hẳn phía tả hạm; trên boong chính nhân viên nhôn nháo, cố kiếm cách nhảy xuống..Chiếc PCF trực ứng chiến rà đến. Hải và Hoan cũng vội vã nhảy xuông PCF của mình, gỡ dây, nổ máy phóng ra chiến hạm, chỉ đủ thì giờ cùng chiếc PCF trực, đón được một số nhân viên và vị hạm trưởng ..vẫn còn ngơ ngác chưa hoàn hồn vì chấn động của tiếng nổ..'
2) HQ 226 Lê Trọng Đàm:
-Khởi đóng ngày 5 tháng 7, 1944 tại George Lawley&Sons Corp. Neponset, MA.
-Hạ thủy: 15 tháng 7, 1944
-Gia nhập HQHK ngày 11 tháng 8 1944 , nhận ký hiệu USS LCS(L)(3)-4
-Hoạt động trong khu vực Thái bình dương trong Thế chiến 2
-Đình động sau thế chiến, lưu giữ tại LL Trừ bị (Columbia Reserve Group, Astoria OR
-Nhận ký hiệu mới USS LSSL-4 ngày 28 tháng Hai, 1949.
-Chuyển cho HQ Pháp ngày 15-8-1950 đổi thành RFS LSSL-2 và sau đó thành RFS Arquebuse (L-9022)
-Chuyển cho HQVN năm 1955, đổi tên là RVNS Linh Kiếm (HQ-226) và sau đó đổi thành Lê Trọng Đàm
-Bị đánh chìm ngày 3 tháng 10, 1970
Vài hoạt động:
HQ 226 Linh Kiếm được giao nhiệm vụ thuộc Hải lực HQVN. Một trong những nhiệm vụ của Lực lượng này là tuần phòng trên sông và yểm trợ cho các Giang đoàn xung phong trong các cuộc hành quân.
Vai trò yểm trợ của Trợ Chiến Hạm được chứng minh cụ thể trong trận Hàm Luông (4-5 tháng 10, 1965): Trong trận này Giang đoàn Xung phong 23 được giao nhiệm vụ đổ bộ TĐ 41 BĐQ gần khu vực Bến Tre nơi sông Hàm Luông (Kiến Hòa) để tìm và diệt một TĐ Công quân hoạt động tại đây. Chiến hạm Linh Kiếm đã được sử dụng làm hỏa lực yểm trợ, giúp đẩy lui lực lượng Cộng quân đang phục kích đoàn tàu từ cả hai ven bờ.
HQ 226 cũng nhận nhiệm vụ tuần tra trên sông Sài Gòn bảo vệ tàu thuyền di chuyển qua khu vực Rừng Sát.
Trong năm 1968, HQ 226 Linh Kiếm luôn luôn 'bận rộn'. Hạm Trưởng Lê văn Rạng điều khiển chiến hạm tham dự nhiều cuộc hành quân trong khu vực sông Cửu Long, kể cả yểm trợ bảo vệ các tỉnh, thị xã trong Tết Mậu Thân. Từ 3 đến 5 tháng Hai, HQ 226 ngăn chặn các cuộc tấn công của VC vào Vĩnh Long từ ngã sông Cổ Chiên. Riêng trong thời gian từ cuối tháng Giêng đến đầu tháng 3/68, Chiến hạm đã yểm trợ hỏa lực trong 36 vụ đụng độ với CQ.. do những chiến công này Đ/Úy Rạng đã được ân thưởng huy chương Bronze Star with Combat V của TT HK.
Ngày 6 tháng 5, 1968, HQ 226 bị VC phục kích trên sông Cổ Chiên từ cả hai bên bờ. Chiến hạm phản kích diệt nhiều VC để chỉ bị tổn thất nhẹ với 5 chiến sĩ bị thương.
Ngày 3 tháng 10 năm 1970, HQ 226 trong khi đang thả neo trên sông Cổ Chiên, đã bị đặc công thủy VC bơi lặn, thả trôi xuôi giòng từ Cồn Giai, đặt mìn vào giây neo. Vụ nổ gây một lỗ hổng lớn nơi mũi tàu, gây tử thương cho hai thủy thủ và làm tảu chìm sâu dưới 8m. Chiến hạm bị hủy bỏ và không được trục vớt.
3) HQ 227 Lê văn Bình:
-Khởi đóng ngày 10 tháng 8, 1944 tại George Lawley & Sons Corp, Neponset, MA
-Hạ thủy: 19 tháng 8, 1944
-Gia nhập HQ HK ngày 10 -9- 1944, ký hiệu USS LCS(L)(3)-10 sau đó đưa vào đình động trong Lực lượng HQ Trừ Bị thuộc Hạm đội Thái Bình Dương. Ký hiệu được đổi thành USS LSSL-10 ngày 28 tháng Hai, 1949.
-Đưa ra tái hoạt động và chuyển (cho mượn) cho HQ Pháp ngày 15 tháng 8 năm 1950, đặt tên là RFS Javeline (L-9024)
-Pháp trả lại HK vào năm 1955
-HK chuyển cho Nhật ngày 7 tháng 5, 1956, đặt tên là JSDFS Hinageshi.
-Nhật trả lại HK và HK chuyển cho HQVN ngày 15 tháng 9,1956 và trở thành HQ-227 Lê văn Bình. (HQ Trung Úy Lê văn Bình, Khóa 10 HQ/Nha trang thuộc GĐ 28 XP, tử trận tại Cà Mau năm 1965 khi chiếc LCM 6 chở Pháo Binh đi hành quân bị trúng mìn.)
-Bị chìm ngày 2 tháng 10, 1966.
Vài hoạt động:
Vào lúc 2 giờ 31 sáng ngày 2 tháng 10, 1966: HQ 227 thả neo ở khoảng 800 m trên sông, phia Tây Căn cứ Giang đoàn27 ở Mỹ Tho. Chiến hạm đã bị đặc công VC (giả dạng binh sĩ Điạ Phương Quân đi trên tàu) đặt mìn phá hoại. Hai quả mìn phát nổ gây tàu chìm, nhưng vì mực nước không sâu nên phần boong còn trên mặt nước. Nhân viên cơ khí đã dùng bơm để tháo nước, vá tạm lỗ thủng để đưa tàu lên mặt nước. HQ Trung Tá Trần văn Triết, Tư lệnh GĐ 27 đã trực tiếp chỉ huy cuộc trục vớt, sau đó HQ 227 được LCM 8 kéo về Sai Gon để sửa chữa, nhưng vì tổn thất quá nặng nên đành bị phế thải.
4) HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng:
-Khởi đóng 7-7-1944 tại George Lawley & Sons corp
-Hạ thủy: 17-8-1944
-Gia nhập HQ HK 6 tháng 9, 1944. Ký hiệu USS LCS(L)(3)-9
-Tham dự các cuộc hành quân trong vùng biển Thái bình Dương, sau đó được đình động và tồn trữ trong LL Trừ bị.
-Ký hiệu đổi thành USS LSSL-9 ngày 28-9-1949
-Chuyển cho HQ Pháp ngày 15-8-1950, thành RFS Hallebarde (L-9023)
-Trả lại HK năm 1955
-HK chuyển cho Nhật (7-5-56) đổi tên thành JFDSF Asagao
-Nhật trả lại HK để HK chuyển cho HQVN (15-9-56) để trở thành HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng
-Di tản đến Philippines (4-1975), HQ Phi đổi tên thành RPS La-Union (LF-50), dùng lấy cơ phận và phế thải vào năm 1980.
Vài hoạt động:
- 4 tháng 6-1967, HQ 228 giúp đẩy lui cuộc tấn công của một đại đội VC vào đồn Đức Mỷ, khoảng 26 km phia Nam Vĩnh Long, và ngày 17 tháng 6 , HQ 228 cùng hai PBR giúp giữ vững tiền đồn Lo Xe bị hai ĐĐ VC bao vây.
5) HQ 229 Lưu Phú Thọ:
-Khởi đóng ngày 6 tháng Giêng,1945 tại Commercial Iron Works, Portland Oregon
-Hạ thủy 27-1-45
-Gia nhập HQ HK 13-2-45, ký hiệu USS LCS(L)(3)-101
-Đình động và tồn trữ trong LL Trừ bị Astoria OR
-Đổi ký hiệu (28-2-49): USS LSSL-101
-Chuyển cho HQ Nhật (30-4-53) thành JDS Tsutsuji
-Nhật trả lại HK để chuyển cho HQ VN (28-4-56) trở thành HQ 229 Lưu Phú Thọ (Khóa 10 HQ/NT)
-Di tản sang Philippines (4-75), phế thải để lấy cơ phận rời.
Vài hoạt động:
HQ 229 ngoài những nhiệm vụ yểm trợ hành quân, lịch sử chiến hạm còn có thêm một 'sự kiện' đặc biệt: Tháng 12, 1966 Hạm Trưởng HQ 229 nhận được lời yêu cầu của một quận trưỏng (bạn thân của Hạm Trưởng) chở tiếp liệu đến cho một tiền đồn trong vùng xa xôi nơi VC bao vây cắt cả đường bộ lẫn đường sông. Đây không phải là nhiệm vụ của chiến hạm. Trong chuyến tiếp tế này tàu còn chở thêm 1 bò đực và 4 bò cái để binh sĩ tiền đồn nuôi thêm, làm thực phẩm dự trữ. Chuyến đi gặp trở ngại do sóng gió nên hai con bò sút giây, chạy loạn trong tầu và bị gẫy chân; tuy cả 5 con đều đến được tiền đồn nhưng tin bị lộ nên Hạm Trưởng bị truy tố ra tòa án Quân Sự về tội danh 'chở súc vật trái phép'. Hạm Trưởng sau đó được miễn tố nhưng vẫn bị phạt.
6) HQ 230 Nguyễn ngọc Long:
-Khởi đóng 18-12-44 tại Commercial Iron Works
-Hạ thủy 6-1- 45
-Gia nhập HQ HK 24-1-45 ký hiệu USS LCS(L)(3)-96
-Hoạt động tại vùng Thái Bình Dương
-Đình đông và đổi ký hiệu (28-2-49) thành USS LSSL-96
-Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Shobu
-Trả lại HK để chuyển cho VN ngày 28-4-65 trở thành HQ 230 Nguyễn ngọc Long
-Di tản đến Philippines (4-75) HQ Phi đổi thành RPS Sulu (LF-49)
7) HQ 231 Nguyễn Đức Bổng:
-Khởi đóng 5-12-44 tại George Lawley & Sons Corp.
-Hạ thủy 13-12-44
-Gia nhập HQ HK 31-12-44 ký hiệu USS LCS(L)(3)-129
-Hoạt động trong khu vực Viễn Đông Thái Bình Dương cho đến đầu năm 1946 để đình động và xếp vào LL Trừ Bị.
-Đổi ký hiệu thành USS LSSL-129 (28-2-49)
-Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Botan
-Trả lại HK 28-4-65 và HK chuyển cho HQVN ngày 19-6-66 để trở thành HQ 231 Nguyễn Đức Bổng. (HQ Trung Úy Nguyễn Đức Bổng, Khóa 10 HQ/NT hy sinh năm 1965 tại Bãi Ngao, Kiến Hòa).
-Di tản sang Phi (4-75) trở thành BRF Camarines Sur (LF-48)
Chuyến hải hành sau cùng của các Trợ Chiến Hạm:
Trong tổng số 7 Trợ Chiến Hạm của HQVNCH, ngoài 3 chiếc bị chìm do đặc công VC đặt mìn, 4 chiếc còn lại đều di tản được sang Philippines.
HQ 228:
-Thàng 4-1975: HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng do HQ Thiếu Tá Nguyễn Hoàng Be làm hạm trưởng được điều động về công tác tại Vùng 4 Sông ngòi với nhiệm vụ chính yếu là yểm trợ Hạm đội 21. Chiến hạm thường xuyên hoạt động tại căn cứ HQ Cần Thơ.
-HQ 228 Tách bến Cần Thơ lúc 00 giờ 20 ngày 30 tháng 4-75 mang theo Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Tư lệnh Hạm đội 21 cùng Bộ Tham mưu, trên chiến hạm còn có Chuẩn tướng Chương Dzềnh Quay, Tham mưu trưởng Quân đoàn 4. Chiến hạm trên đường ra biển dù 'trên máy PRC-46 của tàu vẫn phát lời kêu gọi cũa Tướng Nguyễn Khoa Nam..các quân nhân không được tự ý rời nhiệm sở..' Chiến hạm..giữ im lặng vô tuyến trên suốt thủy lộ đường ra biển. HQ 228 đến điểm tập trung ngoài khơi Côn Sơn và theo đoàn chiến hạm HQVN hải hành đến Subic Bay.
-HQ 228 đến Phi mang theo 149 người trong đó có 37 nhân viên thủy thủ đoàn..
HQ 229:
-HQ 229 Lưu Phú Thọ do HQ Th/Tá Vương Thế Tuấn lảm Hạm trưởng rởi VN theo Cửa Tiểu đến Subic Bay với 37 người gồm 34 thủy thủ và 3 người tị nạn (?)
-HQ 230:
Trong những ngày cuối cùng của VNCH, HQ 230 được Bộ tư lệnh Hạm đội biệt phái cho Bộ Tư lệnh Vùng 4 Duyên Hải.cùng 3 chiến hạm khác là các Giang pháo hạm HQ 330 và 331, Tuần duyên hạm HQ 602.
Tư lệnh V4 Duyên Hải là Đại Tá Nguyễn văn Thiện. Hạm trưởng HQ 230 là Thiếu Tá Nguyễn Nguyên
Cuộc di tản ngày 30 tháng 4 của Vùng 4 Duyên Hải đã được ghi nhận với nhiều điểm trái ngược của những người trong cuộc.
- Đại Tá Thiện trong bài hồi ký '4 chiến hạm di tản từ đảo Phú Quôc ' (Trang Lưu niệm Khóa 7 Đệ Nhất Thiên Xứng) ghi lại: Ông đã họp với các Hạm trưởng của 4 Chiến hạm để định điểm hẹn là ngoải khơi cách Hòn Thơm chừng một hải lý về phía Tây. Ông đã dùng LCM 8 để cùng gia đình rời Bộ Tư lệnh sau khi họp tuyên bố giải tán Vùng 4 Duyên Hải, đến HQ 230 và di chuyển ngay về Poulo Panjiang. Ông cho biết là 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5, một số gần 40 PCF từ Hải đội 5 Duyên Phòng (Năm Căn) và HĐ 4 DP do dò tìm tần số trên máy PRC-25 nghe được sự liên lạc giựa 4 chiến hạm nên đến với đoàn tàu (?) và được vớt lên các chiến hạm di tản. Đoàn tảu 4 chiếc do HQ 230 dẫn đầu, theo sau là HQ 330 giòng theo HQ 331 (dùng làm chiến hạm dự trữ) và sau cùng là HQ 602 hải hành về hướng Singapore.
- Trong bài 'Trong cảnh sống còn' phổ biến trên nhiều website hải ngoại và trong tập sách 'Một thuở làm trùm' tác giả Nguyễn Tấn Hưng, Trưởng Phòng 2 Bộ Tư lệnh V4 Duyên Hải đã ghi lại nhiều điều khác biệt hơn: ..' Trợ Chiến Hạm HQ 230 vừa kéo neo, chúng tôi chạy ra vừa kịp lúc. Cho ghe rà lại bên hông định cặp nhưng bị bắn đuổi. Tôi nhìn lên đài chỉ huy thấy ông hạm trưởng Nguyễn Nguyên (mới vài ngày qua dã đich thân lên xin tôi bản đồ vùng TBD). Tôi tin tưởng ở mình, đưa tay vẫy rồi kêu to: Commandant..cho tụi tôi lên với.. nhưng bị bắn đuổi..'
-Tác giả Nguyễn Hữu Duyệt trên HQ 330 ghi lại trong' Vùng 4 DH những ngày cuối' (Lướt sóng 40) : 'Sau khi Tách bến HQ 330 chạy vòng quanh phía Nam Phú Quốc để phối trí và đến điểm hẹn là Hòn Khoai, vớt được khoảng 400 người. HQ 331 bị cháy cả hai máy, bất khiển dụng, trên tàu có khoảng 300 người nên được HQ 330 kéo theo, dự trù sẽ chuyển số người này khi gặp được một dương vận hạm. HQ 330 dẫn đầu toán. Kéo theo HQ 331, sau đó là HQ 230 và HQ 602 đi về Singapore. Sau khi bị Singapore từ chối không cho tị nạn, đoàn tầu quyết định đi về Úc'.. Ông viết tiếp: ' Tôi nghĩ chiếc HQ 230 phải là chiếc dẫn đầu vì có vị TL V4 DH trên đó và ông đã hứa là sẽ dẫn đoàn tàu đến nơi đến chốn với kinh nghiệm của ông..nhưng HQ 330 vẫn được chỉ định dẫn đầu chạy với một chân vịt nhưng lại kéo thêm HQ 33, kế đó là HQ 230 và sau cùng là HQ 602.
- Theo Đ/Tá Thiện: 'Đoàn tảu chúng tôi rời An Thới với 4 chiến hạm và gần 3000 người, đến Subic bay với 3 tàu và khoản 2500 người tỵ nạn..' Tuy nhiên, trong List of RVNN ships evacuated to the Philippines on April 30, 75 (ht*p.Hoangsaparacels.blogspot.com) thì các con số do HK ghi nhận như sau:
-HQ 230: mang theo 145 người gồm 40 thủy thủ đoàn và 105 người tị nạn. HQ 330/ 331.. không rõ số người nhưng chắc chắn không thể có 2500 người trên hai tàu này.
Con số của Đ/Tá Thiện có lẽ bao gồm cả số người trên Tàu Trường Thanh (trên tàu có Tướng Lân TQLC cùng bộ tham mưu) cũng ghé Singapore xin tị nạn nhưng sau đó tự tìm đường đi Philippines (?)
HQ 231:
Chiến hạm HQ 231 Nguyễn Đức Bổng, do HQ Đ/Úy Nguyễn văn Phước làm Hạm trưởng, trong thời gian tháng 4 năm 1975 được tăng phái cho vùng 2 Duyên hải, giữ nhiệm vụ hộ tống và bảo vệ các Dương vận hạm trong khi làm công tác chuyẻn vận và di tản thường dân và các đơn vị quân đội thoát khỏi các vùng CQ sắp chiếm. Cuối tháng 4, HQ 231 di chuyển về Căn cứ Đồng Tâm và sau đó được giao nhiệm vụ ngược dòng Mekong về Cù lao An Long (Long Xuyên), biệt phái cho Bộ Chỉ huy Liên giang đoàn án ngữ tại Tân Châu. Tối 29-4 , chiến hạm được lệnh về Đồng Tâm, Mỹ Tho..Sáu giờ sáng 30, khi đến Đồng Tâm, căn cứ đã bị CQ nằm vùng khống chế, HQ 231 chạy quanh Mỹ Tho-Đồng Tâm và khi có lệnh 'buông súng' của DVM, chiến hạm chạy ra biển theo đường Cửa Tiểu, rồi đến Côn sơn và sau cùng đi Subic bay. HQ 231 đến Phi với 126 người gồm 58 thủy thủ và 64 người tị nạn.
Tân Sơn Hòa chuyển
Trong số những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, Trợ Chiến Hạm có lẽ là loại chiến hạm có mặt từ ngày thành lập HQVNCH và tiếp tục hoạt động cho đến ngày VNCH kh6ng còn là một quốc gia. Trợ Chiến Hạm là tên Việt cho các tàu đổ bộ loại LSSL (Landing Ship Support Large) của HQ Hoa Kỳ.
Trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai, HQ Hoa Kỳ đã sử dụng nhiều loại chiến hạm đổ bộ gọi chung là Landing Ship như LST (Landing Ship Tank), LCT (Landing Craft Tank), LSD (Landing Ship Dock)..sau đó phát triển thêm những loại LCI (L) =Landing Craft Infantry (Large)… Những LCI này được gắn nhiều loại súng khác nhau từ phóng rocket, súng cối, đại liên, đại bác… Và sau cùng được bổ sung và phát triển hơn nữa thành một loại chiến hạm có cấu trúc lớn hơn, trang bị hỏa lực mạnh hơn để trở thành đúng nghĩa là một chiến hạm LCS (L) với tên phụ là Mighty Midget.
Khi Thế Chiến II chấm dứt 123 chiếc LCS(L) ở trong tình trạng còn hoạt động được, sau đó do nhu cầu của cuộc Chiến Tranh 'Lạnh' giữa hai khối Tự Do và Cộng Sản, các LCS(L) được đưa ra tái sử dụng dưới ký danh mới LSSL và Hoa Kỳ đã viện trợ những chiến hạm này cho các quốc gia đồng minh như Pháp, Ý, Nhật, Đài Loan.. qua các chương trình quân viện như Mutual Defence Assistance, SecurityAssistance.
Trợ Chiến Hạm trong Hải Quân Pháp tại Việt Nam
Trong chiến tranh VN, Pháp đã nhận được quân viện từ Hoa Kỳ và Hải Quân Pháp cũng nhận một số chiên hạm để sử dụng tại chiến trường Đông Dương.
Ngày 25 tháng7 năm 1950, 6 chiếc LSSL được bàn giao cho Pháp tại Puget Sound: đó là những chiếc LSSLs 2, 4, 9, 10, 28 và 80. Sau chuyến hải hành vượt Thái Bình Dương, các chiến hạm này cặp bến SàiGòn vào ngày 17 tháng 9. Lúc đầu HQ Pháp đánh số các chiến hạm này từ 1 đến 6, nhưng sau đó (cuối 1951) đổi thành các số 9021 đến 9026 và đến 1953 dùng tên các võ khi thời Trung Cổ để đặt cho các chiến hạm này. (Trước đó HQ Pháp đã có 3 chiếc LSSL, với 6 chiếc mới nhận HQ Pháp có được 9 LSSL để sử dụng trên chiến trường Đông Dương)
Các chiến hạm của HQ Pháp mang những tên: Arbalete (9021), Arquebuse (9022), Hallebarde (9023), Javeline (9024), Pertuisane (9025), Rapière (9026) và vào 1953 thêm 3 chiếc được Hoa Kỳ chuyển cho Pháp là những chiếc Etendard, Oriflamme và Framée.
Các LSSL được dùng để yểm trợ cho các Dinassault (Hải đoàn xung phong) trong các trận đánh chống lại lực lượng Việt Minh tại những vùng sông rạch Bắc VN như các khu vực Sông Đáy, Sông Hồng. đồg thời hoạt động tuần phòng ven biển từ Trung ra Bắc và trên sông Cửu Long tại miền Nam.
Trong thời gian từ 1952-1954, các chiến hạm này đã yểm trợ nhiều cuộc hành quân của Lực lượng Liên Hiệp Pháp.
Sau khi Hiệp Định Geneve được ký kết, phân chia VN thành hai miền, chiến hạm Pertuisane đã được dùng để chuyên chở người di cư từ Bắc vào Nam.
Trợ Chiến Hạm của Hải Quân VNCH:
- Các Trợ Chiến Hạm do Pháp chuyển giao: Khi vai trò của Pháp chấm dứt, họ đã chuyển một số chiến hạm trong đó có các LSSL cho Việt Nam.
Chiếc Arbalète là Trợ Chiến Hạm đầu tiên được chuyển giao cho HQVN vào ngày 12 tháng 10 năm 1954 tại Sài Gòn. HQVN đổi tên chiến hạm này thành Nỏ Thần HQ 225. Với giai đoạn đầu của tổ chức HQVN chưa đủ nhân lực và còn thiếu kinh nghiệm để điều hành nên tuy được chinh thức xem là một chiến hạm của VN nhưng vẫn do sĩ quan và thủy thủ đoàn (25 người) Pháp kiểm soát và điều hành, thêm vào đó là 30 nhân viên HQVN .xem như 'học nghề'. Đến khoảng cuối năm 1955, chiến hạm trở thành 'không thể hải hành' nên được giải ngũ, chuyển cho Đài Loan để phế thải, lấy những cơ phận còn dùng được..
Chiếc Arquebuse được chuyển giao vào năm 1955 và trở thành Linh Kiếm HQ 226.
Chiếc thứ ba được Pháp chuyển lại là chiếc Framée, chuyển vào tháng 3 năm 1956, và thay thế cho chiếc Arbalete phế thải, HQVN vẫn dùng tên Nỏ Thần HQ 225 đặt cho chiếc này.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh chống Cộng, các chiến hạm này theo Đ/Tá Đỗ Cẩm ghi lại: 'LSSL là những chiến hạm thật sự chiến đấu đầu tiên mả HQVN tiếp nhận và là niềm hãnh diện cho HQVN. Hỏa lực của chiến hạm thật ghê gơm nhất là khi yểm trợ cận mục tiêu. Chiến hạm gây kinh hoàng cho VC trong những năm 50-60, và giúp rất nhiều cho các cuộc hành quân tại các vùng sông ngòi khi khả năng của KQVN và Pháo binh còn giới hạn..'
Các Trợ Chiến Hạm do Mỹ chuyển giao: Ngoài 3 Trợ Chiến Hạm kể trên, Hoa Kỳ cũng chuyển giao cho HQVNCH 4 chiếc nữa để tổng số Trợ Chiến Hạm lên đến 7 chiếc. Từ 1957, HQVNCH đã dùng tên các chiến sĩ HQ hy sinh để đặt cho các Trợ Chiến Hạm:
HQ 225 Nguyễn văn Trụ
HQ 226 Lê Trọng Đàm
HQ 227 Lê văn Bình
HQ 228 Đoàn Ngoc Tảng
HQ 229 Lưu Phú Thọ
HQ 230 Nguyễn Ngọc Long
HQ 231 Nguyễn Đức Bổng
Đặc tính chung của các Trợ Chiến Hạm:
-Trọng tải trung bình 250 tân, tối đa 384 tấn
-Kích thước: dài 158 ft, rộng 23.7 ft
-Vận chuyển: hai máy diesel, mỗi máy 1600 mã lực
-Vận tốc trung bình 14 hải lý/giờ, tối đa 16.5 hải lý/giờ
-Hỏa lực: 1 đại bác 76.2 mm, 4 khẩu 40 mm, 4 khẩu 20 mm và nhiều đại liên.
-Thủy thủ đoàn: 60-70 người
Vai trò và Nhiệm vụ cũa Trợ Chiến Hạm:
Trong những năm 1950, các Trợ Chiến Hạm thuộc HQ Pháp hoạt động trên chiến trường Đông Dương thường được giao những nhiệm vụ như tuần phòng ven biển, và do hỏa lực trang bị trên tàu khá mạnh nên được dùng vào việc yểm trợ cho các cuộc hành quân thủy bộ. Những 'dinassaut' của Pháp gồm một số chiến đỉnh nhỏ như LCT, LCM và LCVP gắn thêm nhiều đại liên, súng cối để tăng hỏa lực..Khi hành quân thường có thêm một LSIL để dùng làm nơi đặt Bộ Chỉ Huy, và khi có mặt của Trợ Chiến Hạm thì chiếc này sẽ giữ nhiệm vụ đó. Đài chỉ huy của Trợ Chiến Hạm khá cao, giúp tăng được tầm quan sát nhưng lại trở thành mục tiêu bị địch quân nhắm bắn.. Các nhân viên quan sát trên pháo tháp dễ bị 'băn sẻ'. Các Trợ Chiến Hạm rất hữu hiệu trong công Tác bảo vệ các đoàn tàu thuyền cần di chuyển trên những dòng sông bị CQ phục kích.. Lực lượng Việt Minh trong thời gian này chưa có những vũ khí nặng để gây tổn hại cho các đoàn công-voa trên sông. Nguy hiểm nhất chỉ là mìn thả trôi hoặc đặt vào tàu để phá hoại. Một số cuộc đụng độ giữa lực lượng VM và Pháp trên những vùng sông ngòi dều đưa đến những tổn thất nặng cho VM như các trận phục kinh trên Sông Đáy (11-1952), trận giải vây Mao Khê (23-3-1951), chiến dịch Phủ Lý-Ninh Bình (29-5-1951) giữa các SĐ 308 và 304 VM và Dinassaut 3 của Pháp.
Trong những năm 1953-54, các Trợ Chiến Hạm Pháp đã đụng độ rất nhiều trận với VM.tại những khu vực Phát Diệm, Bùi Chu, Thanh Hóa, Hưng Yên và những tiền đồn dọc Sông Hồng.
Sau Hiệp định Geneve, HQ VN tiếp nhận hai Trợ Chiến Hạm từ người Pháp và tiếp tục sử dụng các tàu này theo kiểu HQ Pháp, nghĩa là tuần ven biển, sông rạch và yểm trợ hành quân thủy bộ.
Từ 5-19 tháng 6, 1955, các giang đoàn xung phong 22, 23 và 25 được sử dụng trong các cuộc hành quân dẹp các lực lượng quân đội Giáo phái Hòa Hảo trong khu vực Cần Thơ, Long Xuyên. Bộ Chỉ Huy chiến dịch được đặt trên Chiến hạm Nỏ Thần.
Về nhiệm vụ tuần duyên, từ tháng 12-55, Nỏ Thần được giao nhiệm vụ tuần tra ven biển từ Vũng Tàu đến Mũi Bãi Bùng.
Vai trò yểm trợ hỏa lực và tiếp vận cho các tiền đồn xa xôi nơi vùng sông rạch giảm dần khi Không Quân VNCH lớn mạnh, các phi vụ Skyraider và trực thăng võ trang được sử dụng nhiều hơn.
Trong những tháng đầu năm 1970, các Trợ Chiến Hạm trỡ thành lực lượng chính bảo vệ các đoàn tàu tiếp tế cho Kampuchea trên thủy lộ Pnnompenh-NeakLuong. Chuyến tiếp vận sau cùng được thực hiện vào ngày 30 tháng Giêng 1975.
'Dự án Hải sử' (Vũ Hữu San) đã viết về sự hữu hiệu của Trợ Chiến Hạm và giang pháo hạm như sau:
' Trong vòng 25 năm chiến tranh, loại Trợ Chiến Hạm LSSL là loại chiến hạm có hỏa lực mạnh nhất trong sông ngòi VN, kế đó là các Giang phao hạm. Khi hành quân phối hợp với lực lượng bạn, hai loại tàu này thường được dùng như soái hạm lưu động cho CHT hành quân. Với hỏa lực hùng hậu, chiến hạm yểm trợ hải pháo rất đắc lực khi tiến quân..
Tuy vậy đôi khi tại vùng đồng bằng sông Cữu Long, các tàu này đã được sử dụng vào các công Tác tuần tiễu sông ngòi. Lâu lâu cấp chỉ huy còn dùng hai loại tàu này thường trực để yểm trợ cho lực lượng diện địa ven sông. Trong công Tác này chiến hạm thường đơn độc nên dễ dàng bị địch phục kích khi giang hành và cả khi neo lại nghỉ ngơi..'
Hạm đội HQVNCH được tổ chức thành 3 Hải Đội (Tuần duyên, Chuyển vận và Tuần dương). Giang pháo hạm thuộc Hải đội 1, tuần duyên (gồm cả các PGM=Tuần duyên hạm và LSIL=Giang pháo hạm).
Victor Croizant (Đại Tá TQLC Hoa Kỳ) trong 'The Brown Water Navy' đã viết một bài 'tiêu biểu' về hoạt động của Giang Đoàn Xung Phong 23 trong trận Hàm Luông 4 tháng 10 1965 như sau: 'Chiến hạm HQ 226 được giao nhiệm vụ tuần giang trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong các tháng 9 và 10, 1965. Các báo cáo từ Cố vấn Mỹ ghi nhận chiến hạm đã yểm trợ cho 3 công Tác trục vớt các tiểu đỉnh bị chìm, yểm trợ hải pháo cho 9 cuộc hành quân, cho hai chuyến tiếp liệu và tuần tra đơn độc 9 chuyến.Hoạt động đặc biệt hữu hiệu nhất của HQ 226 là yẩm trợ cuộc hành quân của Giang đoàn 23 trong cuộc đổ quân cho TĐ 41 BĐQ tại Hàm Luông, Kiến Hòa ngày 4 và 5 tháng 10. Trong trận này 21 chiến sĩ BĐQ và HQ hy sinh cùng 57 bị thương.. Cuộc hành quân bắt đầu từ 7 giờ sáng, xuất phát tại Bến Tre. BĐQ dùng tàu xuôi dòng để đổ bộ vào khu vực tìm và diệt một lực lượng VC đã bao vây tấn công một tiền đồn và xã ấp đêm hôm trước. Thời tiết không cho phép dùng trực thăng để đổ quân như dự trù.Lực lượng giang đoàn tiên công lúc 11 giờ sáng, hộ tống bởi một phi cơ quan sát của LQ HK. Phi cơ không ghi nhận được hoạt động của CQ. Lúc 12 giờ , HQ 226 dẫn đầu khởi pháo vào một mục tiêu nghi ngờ, lập tức VC nổ súng dự dội vào đoàn tàu từ bờ bên phải và vào HQ 226 từ bờ trái.Hai LCM chở quân trúng đạn, một ở tình trạng gần chìm phải kéo: cả hai ủi bãi vào bờ trái, BĐQ đổ bộ và tạo một vòng đai phòng thủ, các tiểu đỉnh tạm rút chỉ HQ 226 trụ lại để yẩm trợ cho toán BĐQ và phi cơ được gọi đến để oanh kích..Các LCM trở lại đổ thêm quân tiếp viện. HQ 226 ở lại chiến trường suốt đêm..Sáng 5/10, lực lượng VNCH thanh toán chiến trường..'
Lược sử và hoạt dộng của các Trợ Chiến Hạm
1) HQ 225 Nguyễn văn Trụ:
-Chiến hạm được khởi đóng ngày 27 tháng Giêng 1945 tại cơ xưởng Commercial Iron Works, Portland (Oregon).
-Hạ thủy ngày 7 tháng Hai, 1945.
-Gia nhập HQHK ngày 5 tháng 3, 1945 và nhận ký hiệu USS LCS(L)(3)-105 sử dụng cho Lực lượng trừ bị.
-Danh hiệu đổi thành Landing Ship Support Large USS LSSL-105 vào ngày 28 tháng Hai, 1949.
-Chuyển cho Lực lượng Tuần Duyên Ryukyu ngày 12-03-1952
-Chuyển cho HQ Pháp ngày 28 tháng 12, 1953 , được đặt tên là RFS Framée.
-Chuyển cho HQ VNCH năm 1957, cũng đặt tên là Nỏ Thần (HQ 225) , sau đó năm 1970 đổi tên thành Nguyễn văn Trụ. (HQ Trung Úy Nguyễn văn Trụ, Khóa 2 HQ/VN hy sinh trong một trận đánh thuộc chiến dịch Nguyễn Huệ tại Long xuyên vào tháng 12/1955).
-Bị đặc công CS đánh chìm ngày 30 tháng 7 năm 1970
Vài hoạt động của HQ 225:
(Danh số HQ 225 đã được dùng cho hai LSSL,chiếc thứ nhất tiền thân là Arbalète. Hoạt động của Nỏ thần (LSSL-2) được tóm lược trong phần trên).
-Từ 1956-57, HQ 225 thứ nhì thay cho chiếc thứ nhất phế thài, vẫn được đặt tên là Nỏ Thần, nhận những nhiệm vụ như tuần tra trên sông Cửu Long và dọc duyên hải Nam VN từ Vũng Tàu đến Hà Tiên, bảo vệ các thuyền đánh cá VN trong khu vực Vịnh Thái Lan chống các vi phạm của Cambodia.
- 16 tháng Hai-1969 HQ 225 dùng hải pháo giúp đẩy lui cuộc tấn công của VC tại Vĩnh Long và 28 tháng 11 cũng đẩy lui cuộc phục kích của VC tại Tam Giang, Đầm Dơi.
-Từ 1970, HQ 225 được đặt dưới sự chỉ huy của Hải đội tại Căn cứ Năm Căn. Rạng sáng ngày 30 tháng 7 năm 1970, HQ 225 thả neo, cột giây tại căn cứ Năm Căn, nơi cửa sông Bồ Đề, và bị đặt mìn phá hoại, phát nổ lúc 2 giờ sáng. Tàu chìm nhanh xuống đáy nước. Hạm Trưởng Nguyễn Ngọc Quyền kể lại: ' Tôi cho lệnh đào thoát, bỏ tàu khi nước ngập 1/3 tàu trong vài phút; một số thủy thủ không thoát kịp vì lo thu nhặt vật dụng cá nhân' . Công cuộc tiếp cứu tuy diễn ra nhanh chóng, tuy nhiên 17 nhân viên thũy thủ đoàn bị mất tích và được xem là hy sinh theo tàu.. Do nước chảy xiết và khu vực kém an toàn nên việc trục vớt chiến hạm không được thực hiện. Điều tra sau đó tìm thấy những sợi dây nylông dài cột theo dây neo và tàu bị chìm do đặc công 'thủy' VC gài mìn.
Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng trong 'Năm Căn, vùng xôi đậu' đã kể lại vụ chìm tàu như sau: 'Đêm thứ hai của một chuyến nghỉ bến sau đó, giữa lúc Hải và Trung sĩ Hoan đang đội mưa đi từ câu lạc bộ về phòng, thì bỗng giật mình vì hai tiếng nổ liên tiếp kinh hồn xen lẫn với những tiếng sấm chớp ầm ầm của cơn mưa miền nhiệt đới, cả hai chạy vội ra cầu tầu. Cảnh náo loạn hãi hùng đang diễn ra trước măt mọi người: chiếc LSSL, nằm giữa giòng sông, nghiêng hẳn phía tả hạm; trên boong chính nhân viên nhôn nháo, cố kiếm cách nhảy xuống..Chiếc PCF trực ứng chiến rà đến. Hải và Hoan cũng vội vã nhảy xuông PCF của mình, gỡ dây, nổ máy phóng ra chiến hạm, chỉ đủ thì giờ cùng chiếc PCF trực, đón được một số nhân viên và vị hạm trưởng ..vẫn còn ngơ ngác chưa hoàn hồn vì chấn động của tiếng nổ..'
2) HQ 226 Lê Trọng Đàm:
-Khởi đóng ngày 5 tháng 7, 1944 tại George Lawley&Sons Corp. Neponset, MA.
-Hạ thủy: 15 tháng 7, 1944
-Gia nhập HQHK ngày 11 tháng 8 1944 , nhận ký hiệu USS LCS(L)(3)-4
-Hoạt động trong khu vực Thái bình dương trong Thế chiến 2
-Đình động sau thế chiến, lưu giữ tại LL Trừ bị (Columbia Reserve Group, Astoria OR
-Nhận ký hiệu mới USS LSSL-4 ngày 28 tháng Hai, 1949.
-Chuyển cho HQ Pháp ngày 15-8-1950 đổi thành RFS LSSL-2 và sau đó thành RFS Arquebuse (L-9022)
-Chuyển cho HQVN năm 1955, đổi tên là RVNS Linh Kiếm (HQ-226) và sau đó đổi thành Lê Trọng Đàm
-Bị đánh chìm ngày 3 tháng 10, 1970
Vài hoạt động:
HQ 226 Linh Kiếm được giao nhiệm vụ thuộc Hải lực HQVN. Một trong những nhiệm vụ của Lực lượng này là tuần phòng trên sông và yểm trợ cho các Giang đoàn xung phong trong các cuộc hành quân.
Vai trò yểm trợ của Trợ Chiến Hạm được chứng minh cụ thể trong trận Hàm Luông (4-5 tháng 10, 1965): Trong trận này Giang đoàn Xung phong 23 được giao nhiệm vụ đổ bộ TĐ 41 BĐQ gần khu vực Bến Tre nơi sông Hàm Luông (Kiến Hòa) để tìm và diệt một TĐ Công quân hoạt động tại đây. Chiến hạm Linh Kiếm đã được sử dụng làm hỏa lực yểm trợ, giúp đẩy lui lực lượng Cộng quân đang phục kích đoàn tàu từ cả hai ven bờ.
HQ 226 cũng nhận nhiệm vụ tuần tra trên sông Sài Gòn bảo vệ tàu thuyền di chuyển qua khu vực Rừng Sát.
Trong năm 1968, HQ 226 Linh Kiếm luôn luôn 'bận rộn'. Hạm Trưởng Lê văn Rạng điều khiển chiến hạm tham dự nhiều cuộc hành quân trong khu vực sông Cửu Long, kể cả yểm trợ bảo vệ các tỉnh, thị xã trong Tết Mậu Thân. Từ 3 đến 5 tháng Hai, HQ 226 ngăn chặn các cuộc tấn công của VC vào Vĩnh Long từ ngã sông Cổ Chiên. Riêng trong thời gian từ cuối tháng Giêng đến đầu tháng 3/68, Chiến hạm đã yểm trợ hỏa lực trong 36 vụ đụng độ với CQ.. do những chiến công này Đ/Úy Rạng đã được ân thưởng huy chương Bronze Star with Combat V của TT HK.
Ngày 6 tháng 5, 1968, HQ 226 bị VC phục kích trên sông Cổ Chiên từ cả hai bên bờ. Chiến hạm phản kích diệt nhiều VC để chỉ bị tổn thất nhẹ với 5 chiến sĩ bị thương.
Ngày 3 tháng 10 năm 1970, HQ 226 trong khi đang thả neo trên sông Cổ Chiên, đã bị đặc công thủy VC bơi lặn, thả trôi xuôi giòng từ Cồn Giai, đặt mìn vào giây neo. Vụ nổ gây một lỗ hổng lớn nơi mũi tàu, gây tử thương cho hai thủy thủ và làm tảu chìm sâu dưới 8m. Chiến hạm bị hủy bỏ và không được trục vớt.
3) HQ 227 Lê văn Bình:
-Khởi đóng ngày 10 tháng 8, 1944 tại George Lawley & Sons Corp, Neponset, MA
-Hạ thủy: 19 tháng 8, 1944
-Gia nhập HQ HK ngày 10 -9- 1944, ký hiệu USS LCS(L)(3)-10 sau đó đưa vào đình động trong Lực lượng HQ Trừ Bị thuộc Hạm đội Thái Bình Dương. Ký hiệu được đổi thành USS LSSL-10 ngày 28 tháng Hai, 1949.
-Đưa ra tái hoạt động và chuyển (cho mượn) cho HQ Pháp ngày 15 tháng 8 năm 1950, đặt tên là RFS Javeline (L-9024)
-Pháp trả lại HK vào năm 1955
-HK chuyển cho Nhật ngày 7 tháng 5, 1956, đặt tên là JSDFS Hinageshi.
-Nhật trả lại HK và HK chuyển cho HQVN ngày 15 tháng 9,1956 và trở thành HQ-227 Lê văn Bình. (HQ Trung Úy Lê văn Bình, Khóa 10 HQ/Nha trang thuộc GĐ 28 XP, tử trận tại Cà Mau năm 1965 khi chiếc LCM 6 chở Pháo Binh đi hành quân bị trúng mìn.)
-Bị chìm ngày 2 tháng 10, 1966.
Vài hoạt động:
Vào lúc 2 giờ 31 sáng ngày 2 tháng 10, 1966: HQ 227 thả neo ở khoảng 800 m trên sông, phia Tây Căn cứ Giang đoàn27 ở Mỹ Tho. Chiến hạm đã bị đặc công VC (giả dạng binh sĩ Điạ Phương Quân đi trên tàu) đặt mìn phá hoại. Hai quả mìn phát nổ gây tàu chìm, nhưng vì mực nước không sâu nên phần boong còn trên mặt nước. Nhân viên cơ khí đã dùng bơm để tháo nước, vá tạm lỗ thủng để đưa tàu lên mặt nước. HQ Trung Tá Trần văn Triết, Tư lệnh GĐ 27 đã trực tiếp chỉ huy cuộc trục vớt, sau đó HQ 227 được LCM 8 kéo về Sai Gon để sửa chữa, nhưng vì tổn thất quá nặng nên đành bị phế thải.
4) HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng:
-Khởi đóng 7-7-1944 tại George Lawley & Sons corp
-Hạ thủy: 17-8-1944
-Gia nhập HQ HK 6 tháng 9, 1944. Ký hiệu USS LCS(L)(3)-9
-Tham dự các cuộc hành quân trong vùng biển Thái bình Dương, sau đó được đình động và tồn trữ trong LL Trừ bị.
-Ký hiệu đổi thành USS LSSL-9 ngày 28-9-1949
-Chuyển cho HQ Pháp ngày 15-8-1950, thành RFS Hallebarde (L-9023)
-Trả lại HK năm 1955
-HK chuyển cho Nhật (7-5-56) đổi tên thành JFDSF Asagao
-Nhật trả lại HK để HK chuyển cho HQVN (15-9-56) để trở thành HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng
-Di tản đến Philippines (4-1975), HQ Phi đổi tên thành RPS La-Union (LF-50), dùng lấy cơ phận và phế thải vào năm 1980.
Vài hoạt động:
- 4 tháng 6-1967, HQ 228 giúp đẩy lui cuộc tấn công của một đại đội VC vào đồn Đức Mỷ, khoảng 26 km phia Nam Vĩnh Long, và ngày 17 tháng 6 , HQ 228 cùng hai PBR giúp giữ vững tiền đồn Lo Xe bị hai ĐĐ VC bao vây.
5) HQ 229 Lưu Phú Thọ:
-Khởi đóng ngày 6 tháng Giêng,1945 tại Commercial Iron Works, Portland Oregon
-Hạ thủy 27-1-45
-Gia nhập HQ HK 13-2-45, ký hiệu USS LCS(L)(3)-101
-Đình động và tồn trữ trong LL Trừ bị Astoria OR
-Đổi ký hiệu (28-2-49): USS LSSL-101
-Chuyển cho HQ Nhật (30-4-53) thành JDS Tsutsuji
-Nhật trả lại HK để chuyển cho HQ VN (28-4-56) trở thành HQ 229 Lưu Phú Thọ (Khóa 10 HQ/NT)
-Di tản sang Philippines (4-75), phế thải để lấy cơ phận rời.
Vài hoạt động:
HQ 229 ngoài những nhiệm vụ yểm trợ hành quân, lịch sử chiến hạm còn có thêm một 'sự kiện' đặc biệt: Tháng 12, 1966 Hạm Trưởng HQ 229 nhận được lời yêu cầu của một quận trưỏng (bạn thân của Hạm Trưởng) chở tiếp liệu đến cho một tiền đồn trong vùng xa xôi nơi VC bao vây cắt cả đường bộ lẫn đường sông. Đây không phải là nhiệm vụ của chiến hạm. Trong chuyến tiếp tế này tàu còn chở thêm 1 bò đực và 4 bò cái để binh sĩ tiền đồn nuôi thêm, làm thực phẩm dự trữ. Chuyến đi gặp trở ngại do sóng gió nên hai con bò sút giây, chạy loạn trong tầu và bị gẫy chân; tuy cả 5 con đều đến được tiền đồn nhưng tin bị lộ nên Hạm Trưởng bị truy tố ra tòa án Quân Sự về tội danh 'chở súc vật trái phép'. Hạm Trưởng sau đó được miễn tố nhưng vẫn bị phạt.
6) HQ 230 Nguyễn ngọc Long:
-Khởi đóng 18-12-44 tại Commercial Iron Works
-Hạ thủy 6-1- 45
-Gia nhập HQ HK 24-1-45 ký hiệu USS LCS(L)(3)-96
-Hoạt động tại vùng Thái Bình Dương
-Đình đông và đổi ký hiệu (28-2-49) thành USS LSSL-96
-Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Shobu
-Trả lại HK để chuyển cho VN ngày 28-4-65 trở thành HQ 230 Nguyễn ngọc Long
-Di tản đến Philippines (4-75) HQ Phi đổi thành RPS Sulu (LF-49)
7) HQ 231 Nguyễn Đức Bổng:
-Khởi đóng 5-12-44 tại George Lawley & Sons Corp.
-Hạ thủy 13-12-44
-Gia nhập HQ HK 31-12-44 ký hiệu USS LCS(L)(3)-129
-Hoạt động trong khu vực Viễn Đông Thái Bình Dương cho đến đầu năm 1946 để đình động và xếp vào LL Trừ Bị.
-Đổi ký hiệu thành USS LSSL-129 (28-2-49)
-Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Botan
-Trả lại HK 28-4-65 và HK chuyển cho HQVN ngày 19-6-66 để trở thành HQ 231 Nguyễn Đức Bổng. (HQ Trung Úy Nguyễn Đức Bổng, Khóa 10 HQ/NT hy sinh năm 1965 tại Bãi Ngao, Kiến Hòa).
-Di tản sang Phi (4-75) trở thành BRF Camarines Sur (LF-48)
Chuyến hải hành sau cùng của các Trợ Chiến Hạm:
Trong tổng số 7 Trợ Chiến Hạm của HQVNCH, ngoài 3 chiếc bị chìm do đặc công VC đặt mìn, 4 chiếc còn lại đều di tản được sang Philippines.
HQ 228:
-Thàng 4-1975: HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng do HQ Thiếu Tá Nguyễn Hoàng Be làm hạm trưởng được điều động về công tác tại Vùng 4 Sông ngòi với nhiệm vụ chính yếu là yểm trợ Hạm đội 21. Chiến hạm thường xuyên hoạt động tại căn cứ HQ Cần Thơ.
-HQ 228 Tách bến Cần Thơ lúc 00 giờ 20 ngày 30 tháng 4-75 mang theo Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Tư lệnh Hạm đội 21 cùng Bộ Tham mưu, trên chiến hạm còn có Chuẩn tướng Chương Dzềnh Quay, Tham mưu trưởng Quân đoàn 4. Chiến hạm trên đường ra biển dù 'trên máy PRC-46 của tàu vẫn phát lời kêu gọi cũa Tướng Nguyễn Khoa Nam..các quân nhân không được tự ý rời nhiệm sở..' Chiến hạm..giữ im lặng vô tuyến trên suốt thủy lộ đường ra biển. HQ 228 đến điểm tập trung ngoài khơi Côn Sơn và theo đoàn chiến hạm HQVN hải hành đến Subic Bay.
-HQ 228 đến Phi mang theo 149 người trong đó có 37 nhân viên thủy thủ đoàn..
HQ 229:
-HQ 229 Lưu Phú Thọ do HQ Th/Tá Vương Thế Tuấn lảm Hạm trưởng rởi VN theo Cửa Tiểu đến Subic Bay với 37 người gồm 34 thủy thủ và 3 người tị nạn (?)
-HQ 230:
Trong những ngày cuối cùng của VNCH, HQ 230 được Bộ tư lệnh Hạm đội biệt phái cho Bộ Tư lệnh Vùng 4 Duyên Hải.cùng 3 chiến hạm khác là các Giang pháo hạm HQ 330 và 331, Tuần duyên hạm HQ 602.
Tư lệnh V4 Duyên Hải là Đại Tá Nguyễn văn Thiện. Hạm trưởng HQ 230 là Thiếu Tá Nguyễn Nguyên
Cuộc di tản ngày 30 tháng 4 của Vùng 4 Duyên Hải đã được ghi nhận với nhiều điểm trái ngược của những người trong cuộc.
- Đại Tá Thiện trong bài hồi ký '4 chiến hạm di tản từ đảo Phú Quôc ' (Trang Lưu niệm Khóa 7 Đệ Nhất Thiên Xứng) ghi lại: Ông đã họp với các Hạm trưởng của 4 Chiến hạm để định điểm hẹn là ngoải khơi cách Hòn Thơm chừng một hải lý về phía Tây. Ông đã dùng LCM 8 để cùng gia đình rời Bộ Tư lệnh sau khi họp tuyên bố giải tán Vùng 4 Duyên Hải, đến HQ 230 và di chuyển ngay về Poulo Panjiang. Ông cho biết là 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5, một số gần 40 PCF từ Hải đội 5 Duyên Phòng (Năm Căn) và HĐ 4 DP do dò tìm tần số trên máy PRC-25 nghe được sự liên lạc giựa 4 chiến hạm nên đến với đoàn tàu (?) và được vớt lên các chiến hạm di tản. Đoàn tảu 4 chiếc do HQ 230 dẫn đầu, theo sau là HQ 330 giòng theo HQ 331 (dùng làm chiến hạm dự trữ) và sau cùng là HQ 602 hải hành về hướng Singapore.
- Trong bài 'Trong cảnh sống còn' phổ biến trên nhiều website hải ngoại và trong tập sách 'Một thuở làm trùm' tác giả Nguyễn Tấn Hưng, Trưởng Phòng 2 Bộ Tư lệnh V4 Duyên Hải đã ghi lại nhiều điều khác biệt hơn: ..' Trợ Chiến Hạm HQ 230 vừa kéo neo, chúng tôi chạy ra vừa kịp lúc. Cho ghe rà lại bên hông định cặp nhưng bị bắn đuổi. Tôi nhìn lên đài chỉ huy thấy ông hạm trưởng Nguyễn Nguyên (mới vài ngày qua dã đich thân lên xin tôi bản đồ vùng TBD). Tôi tin tưởng ở mình, đưa tay vẫy rồi kêu to: Commandant..cho tụi tôi lên với.. nhưng bị bắn đuổi..'
-Tác giả Nguyễn Hữu Duyệt trên HQ 330 ghi lại trong' Vùng 4 DH những ngày cuối' (Lướt sóng 40) : 'Sau khi Tách bến HQ 330 chạy vòng quanh phía Nam Phú Quốc để phối trí và đến điểm hẹn là Hòn Khoai, vớt được khoảng 400 người. HQ 331 bị cháy cả hai máy, bất khiển dụng, trên tàu có khoảng 300 người nên được HQ 330 kéo theo, dự trù sẽ chuyển số người này khi gặp được một dương vận hạm. HQ 330 dẫn đầu toán. Kéo theo HQ 331, sau đó là HQ 230 và HQ 602 đi về Singapore. Sau khi bị Singapore từ chối không cho tị nạn, đoàn tầu quyết định đi về Úc'.. Ông viết tiếp: ' Tôi nghĩ chiếc HQ 230 phải là chiếc dẫn đầu vì có vị TL V4 DH trên đó và ông đã hứa là sẽ dẫn đoàn tàu đến nơi đến chốn với kinh nghiệm của ông..nhưng HQ 330 vẫn được chỉ định dẫn đầu chạy với một chân vịt nhưng lại kéo thêm HQ 33, kế đó là HQ 230 và sau cùng là HQ 602.
- Theo Đ/Tá Thiện: 'Đoàn tảu chúng tôi rời An Thới với 4 chiến hạm và gần 3000 người, đến Subic bay với 3 tàu và khoản 2500 người tỵ nạn..' Tuy nhiên, trong List of RVNN ships evacuated to the Philippines on April 30, 75 (ht*p.Hoangsaparacels.blogspot.com) thì các con số do HK ghi nhận như sau:
-HQ 230: mang theo 145 người gồm 40 thủy thủ đoàn và 105 người tị nạn. HQ 330/ 331.. không rõ số người nhưng chắc chắn không thể có 2500 người trên hai tàu này.
Con số của Đ/Tá Thiện có lẽ bao gồm cả số người trên Tàu Trường Thanh (trên tàu có Tướng Lân TQLC cùng bộ tham mưu) cũng ghé Singapore xin tị nạn nhưng sau đó tự tìm đường đi Philippines (?)
HQ 231:
Chiến hạm HQ 231 Nguyễn Đức Bổng, do HQ Đ/Úy Nguyễn văn Phước làm Hạm trưởng, trong thời gian tháng 4 năm 1975 được tăng phái cho vùng 2 Duyên hải, giữ nhiệm vụ hộ tống và bảo vệ các Dương vận hạm trong khi làm công tác chuyẻn vận và di tản thường dân và các đơn vị quân đội thoát khỏi các vùng CQ sắp chiếm. Cuối tháng 4, HQ 231 di chuyển về Căn cứ Đồng Tâm và sau đó được giao nhiệm vụ ngược dòng Mekong về Cù lao An Long (Long Xuyên), biệt phái cho Bộ Chỉ huy Liên giang đoàn án ngữ tại Tân Châu. Tối 29-4 , chiến hạm được lệnh về Đồng Tâm, Mỹ Tho..Sáu giờ sáng 30, khi đến Đồng Tâm, căn cứ đã bị CQ nằm vùng khống chế, HQ 231 chạy quanh Mỹ Tho-Đồng Tâm và khi có lệnh 'buông súng' của DVM, chiến hạm chạy ra biển theo đường Cửa Tiểu, rồi đến Côn sơn và sau cùng đi Subic bay. HQ 231 đến Phi với 126 người gồm 58 thủy thủ và 64 người tị nạn.
Tân Sơn Hòa chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Chuyện những con tàu: Trợ Chiến Hạm - Trần Lý
Trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai, HQ Hoa Kỳ đã sử dụng nhiều loại chiến hạm đổ bộ gọi chung là Landing Ship như LST (Landing Ship Tank), LCT (Landing Craft Tank), LSD (Landing Ship Dock)..
Trong số những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, Trợ Chiến Hạm
có lẽ là loại chiến hạm có mặt từ ngày thành lập HQVNCH và tiếp tục hoạt
động cho đến ngày VNCH kh6ng còn là một quốc gia. Trợ Chiến Hạm là tên
Việt cho các tàu đổ bộ loại LSSL (Landing Ship Support Large) của HQ Hoa
Kỳ.
Trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai, HQ Hoa Kỳ đã sử dụng nhiều loại chiến hạm đổ bộ gọi chung là Landing Ship như LST (Landing Ship Tank), LCT (Landing Craft Tank), LSD (Landing Ship Dock)..sau đó phát triển thêm những loại LCI (L) =Landing Craft Infantry (Large)… Những LCI này được gắn nhiều loại súng khác nhau từ phóng rocket, súng cối, đại liên, đại bác… Và sau cùng được bổ sung và phát triển hơn nữa thành một loại chiến hạm có cấu trúc lớn hơn, trang bị hỏa lực mạnh hơn để trở thành đúng nghĩa là một chiến hạm LCS (L) với tên phụ là Mighty Midget.
Khi Thế Chiến II chấm dứt 123 chiếc LCS(L) ở trong tình trạng còn hoạt động được, sau đó do nhu cầu của cuộc Chiến Tranh 'Lạnh' giữa hai khối Tự Do và Cộng Sản, các LCS(L) được đưa ra tái sử dụng dưới ký danh mới LSSL và Hoa Kỳ đã viện trợ những chiến hạm này cho các quốc gia đồng minh như Pháp, Ý, Nhật, Đài Loan.. qua các chương trình quân viện như Mutual Defence Assistance, SecurityAssistance.
Trợ Chiến Hạm trong Hải Quân Pháp tại Việt Nam
Trong chiến tranh VN, Pháp đã nhận được quân viện từ Hoa Kỳ và Hải Quân Pháp cũng nhận một số chiên hạm để sử dụng tại chiến trường Đông Dương.
Ngày 25 tháng7 năm 1950, 6 chiếc LSSL được bàn giao cho Pháp tại Puget Sound: đó là những chiếc LSSLs 2, 4, 9, 10, 28 và 80. Sau chuyến hải hành vượt Thái Bình Dương, các chiến hạm này cặp bến SàiGòn vào ngày 17 tháng 9. Lúc đầu HQ Pháp đánh số các chiến hạm này từ 1 đến 6, nhưng sau đó (cuối 1951) đổi thành các số 9021 đến 9026 và đến 1953 dùng tên các võ khi thời Trung Cổ để đặt cho các chiến hạm này. (Trước đó HQ Pháp đã có 3 chiếc LSSL, với 6 chiếc mới nhận HQ Pháp có được 9 LSSL để sử dụng trên chiến trường Đông Dương)
Các chiến hạm của HQ Pháp mang những tên: Arbalete (9021), Arquebuse (9022), Hallebarde (9023), Javeline (9024), Pertuisane (9025), Rapière (9026) và vào 1953 thêm 3 chiếc được Hoa Kỳ chuyển cho Pháp là những chiếc Etendard, Oriflamme và Framée.
Các LSSL được dùng để yểm trợ cho các Dinassault (Hải đoàn xung phong) trong các trận đánh chống lại lực lượng Việt Minh tại những vùng sông rạch Bắc VN như các khu vực Sông Đáy, Sông Hồng. đồg thời hoạt động tuần phòng ven biển từ Trung ra Bắc và trên sông Cửu Long tại miền Nam.
Trong thời gian từ 1952-1954, các chiến hạm này đã yểm trợ nhiều cuộc hành quân của Lực lượng Liên Hiệp Pháp.
Sau khi Hiệp Định Geneve được ký kết, phân chia VN thành hai miền, chiến hạm Pertuisane đã được dùng để chuyên chở người di cư từ Bắc vào Nam.
Trợ Chiến Hạm của Hải Quân VNCH:
- Các Trợ Chiến Hạm do Pháp chuyển giao: Khi vai trò của Pháp chấm dứt, họ đã chuyển một số chiến hạm trong đó có các LSSL cho Việt Nam.
Chiếc Arbalète là Trợ Chiến Hạm đầu tiên được chuyển giao cho HQVN vào ngày 12 tháng 10 năm 1954 tại Sài Gòn. HQVN đổi tên chiến hạm này thành Nỏ Thần HQ 225. Với giai đoạn đầu của tổ chức HQVN chưa đủ nhân lực và còn thiếu kinh nghiệm để điều hành nên tuy được chinh thức xem là một chiến hạm của VN nhưng vẫn do sĩ quan và thủy thủ đoàn (25 người) Pháp kiểm soát và điều hành, thêm vào đó là 30 nhân viên HQVN .xem như 'học nghề'. Đến khoảng cuối năm 1955, chiến hạm trở thành 'không thể hải hành' nên được giải ngũ, chuyển cho Đài Loan để phế thải, lấy những cơ phận còn dùng được..
Chiếc Arquebuse được chuyển giao vào năm 1955 và trở thành Linh Kiếm HQ 226.
Chiếc thứ ba được Pháp chuyển lại là chiếc Framée, chuyển vào tháng 3 năm 1956, và thay thế cho chiếc Arbalete phế thải, HQVN vẫn dùng tên Nỏ Thần HQ 225 đặt cho chiếc này.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh chống Cộng, các chiến hạm này theo Đ/Tá Đỗ Cẩm ghi lại: 'LSSL là những chiến hạm thật sự chiến đấu đầu tiên mả HQVN tiếp nhận và là niềm hãnh diện cho HQVN. Hỏa lực của chiến hạm thật ghê gơm nhất là khi yểm trợ cận mục tiêu. Chiến hạm gây kinh hoàng cho VC trong những năm 50-60, và giúp rất nhiều cho các cuộc hành quân tại các vùng sông ngòi khi khả năng của KQVN và Pháo binh còn giới hạn..'
Các Trợ Chiến Hạm do Mỹ chuyển giao: Ngoài 3 Trợ Chiến Hạm kể trên, Hoa Kỳ cũng chuyển giao cho HQVNCH 4 chiếc nữa để tổng số Trợ Chiến Hạm lên đến 7 chiếc. Từ 1957, HQVNCH đã dùng tên các chiến sĩ HQ hy sinh để đặt cho các Trợ Chiến Hạm:
HQ 225 Nguyễn văn Trụ
HQ 226 Lê Trọng Đàm
HQ 227 Lê văn Bình
HQ 228 Đoàn Ngoc Tảng
HQ 229 Lưu Phú Thọ
HQ 230 Nguyễn Ngọc Long
HQ 231 Nguyễn Đức Bổng
Đặc tính chung của các Trợ Chiến Hạm:
-Trọng tải trung bình 250 tân, tối đa 384 tấn
-Kích thước: dài 158 ft, rộng 23.7 ft
-Vận chuyển: hai máy diesel, mỗi máy 1600 mã lực
-Vận tốc trung bình 14 hải lý/giờ, tối đa 16.5 hải lý/giờ
-Hỏa lực: 1 đại bác 76.2 mm, 4 khẩu 40 mm, 4 khẩu 20 mm và nhiều đại liên.
-Thủy thủ đoàn: 60-70 người
Vai trò và Nhiệm vụ cũa Trợ Chiến Hạm:
Trong những năm 1950, các Trợ Chiến Hạm thuộc HQ Pháp hoạt động trên chiến trường Đông Dương thường được giao những nhiệm vụ như tuần phòng ven biển, và do hỏa lực trang bị trên tàu khá mạnh nên được dùng vào việc yểm trợ cho các cuộc hành quân thủy bộ. Những 'dinassaut' của Pháp gồm một số chiến đỉnh nhỏ như LCT, LCM và LCVP gắn thêm nhiều đại liên, súng cối để tăng hỏa lực..Khi hành quân thường có thêm một LSIL để dùng làm nơi đặt Bộ Chỉ Huy, và khi có mặt của Trợ Chiến Hạm thì chiếc này sẽ giữ nhiệm vụ đó. Đài chỉ huy của Trợ Chiến Hạm khá cao, giúp tăng được tầm quan sát nhưng lại trở thành mục tiêu bị địch quân nhắm bắn.. Các nhân viên quan sát trên pháo tháp dễ bị 'băn sẻ'. Các Trợ Chiến Hạm rất hữu hiệu trong công Tác bảo vệ các đoàn tàu thuyền cần di chuyển trên những dòng sông bị CQ phục kích.. Lực lượng Việt Minh trong thời gian này chưa có những vũ khí nặng để gây tổn hại cho các đoàn công-voa trên sông. Nguy hiểm nhất chỉ là mìn thả trôi hoặc đặt vào tàu để phá hoại. Một số cuộc đụng độ giữa lực lượng VM và Pháp trên những vùng sông ngòi dều đưa đến những tổn thất nặng cho VM như các trận phục kinh trên Sông Đáy (11-1952), trận giải vây Mao Khê (23-3-1951), chiến dịch Phủ Lý-Ninh Bình (29-5-1951) giữa các SĐ 308 và 304 VM và Dinassaut 3 của Pháp.
Trong những năm 1953-54, các Trợ Chiến Hạm Pháp đã đụng độ rất nhiều trận với VM.tại những khu vực Phát Diệm, Bùi Chu, Thanh Hóa, Hưng Yên và những tiền đồn dọc Sông Hồng.
Sau Hiệp định Geneve, HQ VN tiếp nhận hai Trợ Chiến Hạm từ người Pháp và tiếp tục sử dụng các tàu này theo kiểu HQ Pháp, nghĩa là tuần ven biển, sông rạch và yểm trợ hành quân thủy bộ.
Từ 5-19 tháng 6, 1955, các giang đoàn xung phong 22, 23 và 25 được sử dụng trong các cuộc hành quân dẹp các lực lượng quân đội Giáo phái Hòa Hảo trong khu vực Cần Thơ, Long Xuyên. Bộ Chỉ Huy chiến dịch được đặt trên Chiến hạm Nỏ Thần.
Về nhiệm vụ tuần duyên, từ tháng 12-55, Nỏ Thần được giao nhiệm vụ tuần tra ven biển từ Vũng Tàu đến Mũi Bãi Bùng.
Vai trò yểm trợ hỏa lực và tiếp vận cho các tiền đồn xa xôi nơi vùng sông rạch giảm dần khi Không Quân VNCH lớn mạnh, các phi vụ Skyraider và trực thăng võ trang được sử dụng nhiều hơn.
Trong những tháng đầu năm 1970, các Trợ Chiến Hạm trỡ thành lực lượng chính bảo vệ các đoàn tàu tiếp tế cho Kampuchea trên thủy lộ Pnnompenh-NeakLuong. Chuyến tiếp vận sau cùng được thực hiện vào ngày 30 tháng Giêng 1975.
'Dự án Hải sử' (Vũ Hữu San) đã viết về sự hữu hiệu của Trợ Chiến Hạm và giang pháo hạm như sau:
' Trong vòng 25 năm chiến tranh, loại Trợ Chiến Hạm LSSL là loại chiến hạm có hỏa lực mạnh nhất trong sông ngòi VN, kế đó là các Giang phao hạm. Khi hành quân phối hợp với lực lượng bạn, hai loại tàu này thường được dùng như soái hạm lưu động cho CHT hành quân. Với hỏa lực hùng hậu, chiến hạm yểm trợ hải pháo rất đắc lực khi tiến quân..
Tuy vậy đôi khi tại vùng đồng bằng sông Cữu Long, các tàu này đã được sử dụng vào các công Tác tuần tiễu sông ngòi. Lâu lâu cấp chỉ huy còn dùng hai loại tàu này thường trực để yểm trợ cho lực lượng diện địa ven sông. Trong công Tác này chiến hạm thường đơn độc nên dễ dàng bị địch phục kích khi giang hành và cả khi neo lại nghỉ ngơi..'
Hạm đội HQVNCH được tổ chức thành 3 Hải Đội (Tuần duyên, Chuyển vận và Tuần dương). Giang pháo hạm thuộc Hải đội 1, tuần duyên (gồm cả các PGM=Tuần duyên hạm và LSIL=Giang pháo hạm).
Victor Croizant (Đại Tá TQLC Hoa Kỳ) trong 'The Brown Water Navy' đã viết một bài 'tiêu biểu' về hoạt động của Giang Đoàn Xung Phong 23 trong trận Hàm Luông 4 tháng 10 1965 như sau: 'Chiến hạm HQ 226 được giao nhiệm vụ tuần giang trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong các tháng 9 và 10, 1965. Các báo cáo từ Cố vấn Mỹ ghi nhận chiến hạm đã yểm trợ cho 3 công Tác trục vớt các tiểu đỉnh bị chìm, yểm trợ hải pháo cho 9 cuộc hành quân, cho hai chuyến tiếp liệu và tuần tra đơn độc 9 chuyến.Hoạt động đặc biệt hữu hiệu nhất của HQ 226 là yẩm trợ cuộc hành quân của Giang đoàn 23 trong cuộc đổ quân cho TĐ 41 BĐQ tại Hàm Luông, Kiến Hòa ngày 4 và 5 tháng 10. Trong trận này 21 chiến sĩ BĐQ và HQ hy sinh cùng 57 bị thương.. Cuộc hành quân bắt đầu từ 7 giờ sáng, xuất phát tại Bến Tre. BĐQ dùng tàu xuôi dòng để đổ bộ vào khu vực tìm và diệt một lực lượng VC đã bao vây tấn công một tiền đồn và xã ấp đêm hôm trước. Thời tiết không cho phép dùng trực thăng để đổ quân như dự trù.Lực lượng giang đoàn tiên công lúc 11 giờ sáng, hộ tống bởi một phi cơ quan sát của LQ HK. Phi cơ không ghi nhận được hoạt động của CQ. Lúc 12 giờ , HQ 226 dẫn đầu khởi pháo vào một mục tiêu nghi ngờ, lập tức VC nổ súng dự dội vào đoàn tàu từ bờ bên phải và vào HQ 226 từ bờ trái.Hai LCM chở quân trúng đạn, một ở tình trạng gần chìm phải kéo: cả hai ủi bãi vào bờ trái, BĐQ đổ bộ và tạo một vòng đai phòng thủ, các tiểu đỉnh tạm rút chỉ HQ 226 trụ lại để yẩm trợ cho toán BĐQ và phi cơ được gọi đến để oanh kích..Các LCM trở lại đổ thêm quân tiếp viện. HQ 226 ở lại chiến trường suốt đêm..Sáng 5/10, lực lượng VNCH thanh toán chiến trường..'
Lược sử và hoạt dộng của các Trợ Chiến Hạm
1) HQ 225 Nguyễn văn Trụ:
-Chiến hạm được khởi đóng ngày 27 tháng Giêng 1945 tại cơ xưởng Commercial Iron Works, Portland (Oregon).
-Hạ thủy ngày 7 tháng Hai, 1945.
-Gia nhập HQHK ngày 5 tháng 3, 1945 và nhận ký hiệu USS LCS(L)(3)-105 sử dụng cho Lực lượng trừ bị.
-Danh hiệu đổi thành Landing Ship Support Large USS LSSL-105 vào ngày 28 tháng Hai, 1949.
-Chuyển cho Lực lượng Tuần Duyên Ryukyu ngày 12-03-1952
-Chuyển cho HQ Pháp ngày 28 tháng 12, 1953 , được đặt tên là RFS Framée.
-Chuyển cho HQ VNCH năm 1957, cũng đặt tên là Nỏ Thần (HQ 225) , sau đó năm 1970 đổi tên thành Nguyễn văn Trụ. (HQ Trung Úy Nguyễn văn Trụ, Khóa 2 HQ/VN hy sinh trong một trận đánh thuộc chiến dịch Nguyễn Huệ tại Long xuyên vào tháng 12/1955).
-Bị đặc công CS đánh chìm ngày 30 tháng 7 năm 1970
Vài hoạt động của HQ 225:
(Danh số HQ 225 đã được dùng cho hai LSSL,chiếc thứ nhất tiền thân là Arbalète. Hoạt động của Nỏ thần (LSSL-2) được tóm lược trong phần trên).
-Từ 1956-57, HQ 225 thứ nhì thay cho chiếc thứ nhất phế thài, vẫn được đặt tên là Nỏ Thần, nhận những nhiệm vụ như tuần tra trên sông Cửu Long và dọc duyên hải Nam VN từ Vũng Tàu đến Hà Tiên, bảo vệ các thuyền đánh cá VN trong khu vực Vịnh Thái Lan chống các vi phạm của Cambodia.
- 16 tháng Hai-1969 HQ 225 dùng hải pháo giúp đẩy lui cuộc tấn công của VC tại Vĩnh Long và 28 tháng 11 cũng đẩy lui cuộc phục kích của VC tại Tam Giang, Đầm Dơi.
-Từ 1970, HQ 225 được đặt dưới sự chỉ huy của Hải đội tại Căn cứ Năm Căn. Rạng sáng ngày 30 tháng 7 năm 1970, HQ 225 thả neo, cột giây tại căn cứ Năm Căn, nơi cửa sông Bồ Đề, và bị đặt mìn phá hoại, phát nổ lúc 2 giờ sáng. Tàu chìm nhanh xuống đáy nước. Hạm Trưởng Nguyễn Ngọc Quyền kể lại: ' Tôi cho lệnh đào thoát, bỏ tàu khi nước ngập 1/3 tàu trong vài phút; một số thủy thủ không thoát kịp vì lo thu nhặt vật dụng cá nhân' . Công cuộc tiếp cứu tuy diễn ra nhanh chóng, tuy nhiên 17 nhân viên thũy thủ đoàn bị mất tích và được xem là hy sinh theo tàu.. Do nước chảy xiết và khu vực kém an toàn nên việc trục vớt chiến hạm không được thực hiện. Điều tra sau đó tìm thấy những sợi dây nylông dài cột theo dây neo và tàu bị chìm do đặc công 'thủy' VC gài mìn.
Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng trong 'Năm Căn, vùng xôi đậu' đã kể lại vụ chìm tàu như sau: 'Đêm thứ hai của một chuyến nghỉ bến sau đó, giữa lúc Hải và Trung sĩ Hoan đang đội mưa đi từ câu lạc bộ về phòng, thì bỗng giật mình vì hai tiếng nổ liên tiếp kinh hồn xen lẫn với những tiếng sấm chớp ầm ầm của cơn mưa miền nhiệt đới, cả hai chạy vội ra cầu tầu. Cảnh náo loạn hãi hùng đang diễn ra trước măt mọi người: chiếc LSSL, nằm giữa giòng sông, nghiêng hẳn phía tả hạm; trên boong chính nhân viên nhôn nháo, cố kiếm cách nhảy xuống..Chiếc PCF trực ứng chiến rà đến. Hải và Hoan cũng vội vã nhảy xuông PCF của mình, gỡ dây, nổ máy phóng ra chiến hạm, chỉ đủ thì giờ cùng chiếc PCF trực, đón được một số nhân viên và vị hạm trưởng ..vẫn còn ngơ ngác chưa hoàn hồn vì chấn động của tiếng nổ..'
2) HQ 226 Lê Trọng Đàm:
-Khởi đóng ngày 5 tháng 7, 1944 tại George Lawley&Sons Corp. Neponset, MA.
-Hạ thủy: 15 tháng 7, 1944
-Gia nhập HQHK ngày 11 tháng 8 1944 , nhận ký hiệu USS LCS(L)(3)-4
-Hoạt động trong khu vực Thái bình dương trong Thế chiến 2
-Đình động sau thế chiến, lưu giữ tại LL Trừ bị (Columbia Reserve Group, Astoria OR
-Nhận ký hiệu mới USS LSSL-4 ngày 28 tháng Hai, 1949.
-Chuyển cho HQ Pháp ngày 15-8-1950 đổi thành RFS LSSL-2 và sau đó thành RFS Arquebuse (L-9022)
-Chuyển cho HQVN năm 1955, đổi tên là RVNS Linh Kiếm (HQ-226) và sau đó đổi thành Lê Trọng Đàm
-Bị đánh chìm ngày 3 tháng 10, 1970
Vài hoạt động:
HQ 226 Linh Kiếm được giao nhiệm vụ thuộc Hải lực HQVN. Một trong những nhiệm vụ của Lực lượng này là tuần phòng trên sông và yểm trợ cho các Giang đoàn xung phong trong các cuộc hành quân.
Vai trò yểm trợ của Trợ Chiến Hạm được chứng minh cụ thể trong trận Hàm Luông (4-5 tháng 10, 1965): Trong trận này Giang đoàn Xung phong 23 được giao nhiệm vụ đổ bộ TĐ 41 BĐQ gần khu vực Bến Tre nơi sông Hàm Luông (Kiến Hòa) để tìm và diệt một TĐ Công quân hoạt động tại đây. Chiến hạm Linh Kiếm đã được sử dụng làm hỏa lực yểm trợ, giúp đẩy lui lực lượng Cộng quân đang phục kích đoàn tàu từ cả hai ven bờ.
HQ 226 cũng nhận nhiệm vụ tuần tra trên sông Sài Gòn bảo vệ tàu thuyền di chuyển qua khu vực Rừng Sát.
Trong năm 1968, HQ 226 Linh Kiếm luôn luôn 'bận rộn'. Hạm Trưởng Lê văn Rạng điều khiển chiến hạm tham dự nhiều cuộc hành quân trong khu vực sông Cửu Long, kể cả yểm trợ bảo vệ các tỉnh, thị xã trong Tết Mậu Thân. Từ 3 đến 5 tháng Hai, HQ 226 ngăn chặn các cuộc tấn công của VC vào Vĩnh Long từ ngã sông Cổ Chiên. Riêng trong thời gian từ cuối tháng Giêng đến đầu tháng 3/68, Chiến hạm đã yểm trợ hỏa lực trong 36 vụ đụng độ với CQ.. do những chiến công này Đ/Úy Rạng đã được ân thưởng huy chương Bronze Star with Combat V của TT HK.
Ngày 6 tháng 5, 1968, HQ 226 bị VC phục kích trên sông Cổ Chiên từ cả hai bên bờ. Chiến hạm phản kích diệt nhiều VC để chỉ bị tổn thất nhẹ với 5 chiến sĩ bị thương.
Ngày 3 tháng 10 năm 1970, HQ 226 trong khi đang thả neo trên sông Cổ Chiên, đã bị đặc công thủy VC bơi lặn, thả trôi xuôi giòng từ Cồn Giai, đặt mìn vào giây neo. Vụ nổ gây một lỗ hổng lớn nơi mũi tàu, gây tử thương cho hai thủy thủ và làm tảu chìm sâu dưới 8m. Chiến hạm bị hủy bỏ và không được trục vớt.
3) HQ 227 Lê văn Bình:
-Khởi đóng ngày 10 tháng 8, 1944 tại George Lawley & Sons Corp, Neponset, MA
-Hạ thủy: 19 tháng 8, 1944
-Gia nhập HQ HK ngày 10 -9- 1944, ký hiệu USS LCS(L)(3)-10 sau đó đưa vào đình động trong Lực lượng HQ Trừ Bị thuộc Hạm đội Thái Bình Dương. Ký hiệu được đổi thành USS LSSL-10 ngày 28 tháng Hai, 1949.
-Đưa ra tái hoạt động và chuyển (cho mượn) cho HQ Pháp ngày 15 tháng 8 năm 1950, đặt tên là RFS Javeline (L-9024)
-Pháp trả lại HK vào năm 1955
-HK chuyển cho Nhật ngày 7 tháng 5, 1956, đặt tên là JSDFS Hinageshi.
-Nhật trả lại HK và HK chuyển cho HQVN ngày 15 tháng 9,1956 và trở thành HQ-227 Lê văn Bình. (HQ Trung Úy Lê văn Bình, Khóa 10 HQ/Nha trang thuộc GĐ 28 XP, tử trận tại Cà Mau năm 1965 khi chiếc LCM 6 chở Pháo Binh đi hành quân bị trúng mìn.)
-Bị chìm ngày 2 tháng 10, 1966.
Vài hoạt động:
Vào lúc 2 giờ 31 sáng ngày 2 tháng 10, 1966: HQ 227 thả neo ở khoảng 800 m trên sông, phia Tây Căn cứ Giang đoàn27 ở Mỹ Tho. Chiến hạm đã bị đặc công VC (giả dạng binh sĩ Điạ Phương Quân đi trên tàu) đặt mìn phá hoại. Hai quả mìn phát nổ gây tàu chìm, nhưng vì mực nước không sâu nên phần boong còn trên mặt nước. Nhân viên cơ khí đã dùng bơm để tháo nước, vá tạm lỗ thủng để đưa tàu lên mặt nước. HQ Trung Tá Trần văn Triết, Tư lệnh GĐ 27 đã trực tiếp chỉ huy cuộc trục vớt, sau đó HQ 227 được LCM 8 kéo về Sai Gon để sửa chữa, nhưng vì tổn thất quá nặng nên đành bị phế thải.
4) HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng:
-Khởi đóng 7-7-1944 tại George Lawley & Sons corp
-Hạ thủy: 17-8-1944
-Gia nhập HQ HK 6 tháng 9, 1944. Ký hiệu USS LCS(L)(3)-9
-Tham dự các cuộc hành quân trong vùng biển Thái bình Dương, sau đó được đình động và tồn trữ trong LL Trừ bị.
-Ký hiệu đổi thành USS LSSL-9 ngày 28-9-1949
-Chuyển cho HQ Pháp ngày 15-8-1950, thành RFS Hallebarde (L-9023)
-Trả lại HK năm 1955
-HK chuyển cho Nhật (7-5-56) đổi tên thành JFDSF Asagao
-Nhật trả lại HK để HK chuyển cho HQVN (15-9-56) để trở thành HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng
-Di tản đến Philippines (4-1975), HQ Phi đổi tên thành RPS La-Union (LF-50), dùng lấy cơ phận và phế thải vào năm 1980.
Vài hoạt động:
- 4 tháng 6-1967, HQ 228 giúp đẩy lui cuộc tấn công của một đại đội VC vào đồn Đức Mỷ, khoảng 26 km phia Nam Vĩnh Long, và ngày 17 tháng 6 , HQ 228 cùng hai PBR giúp giữ vững tiền đồn Lo Xe bị hai ĐĐ VC bao vây.
5) HQ 229 Lưu Phú Thọ:
-Khởi đóng ngày 6 tháng Giêng,1945 tại Commercial Iron Works, Portland Oregon
-Hạ thủy 27-1-45
-Gia nhập HQ HK 13-2-45, ký hiệu USS LCS(L)(3)-101
-Đình động và tồn trữ trong LL Trừ bị Astoria OR
-Đổi ký hiệu (28-2-49): USS LSSL-101
-Chuyển cho HQ Nhật (30-4-53) thành JDS Tsutsuji
-Nhật trả lại HK để chuyển cho HQ VN (28-4-56) trở thành HQ 229 Lưu Phú Thọ (Khóa 10 HQ/NT)
-Di tản sang Philippines (4-75), phế thải để lấy cơ phận rời.
Vài hoạt động:
HQ 229 ngoài những nhiệm vụ yểm trợ hành quân, lịch sử chiến hạm còn có thêm một 'sự kiện' đặc biệt: Tháng 12, 1966 Hạm Trưởng HQ 229 nhận được lời yêu cầu của một quận trưỏng (bạn thân của Hạm Trưởng) chở tiếp liệu đến cho một tiền đồn trong vùng xa xôi nơi VC bao vây cắt cả đường bộ lẫn đường sông. Đây không phải là nhiệm vụ của chiến hạm. Trong chuyến tiếp tế này tàu còn chở thêm 1 bò đực và 4 bò cái để binh sĩ tiền đồn nuôi thêm, làm thực phẩm dự trữ. Chuyến đi gặp trở ngại do sóng gió nên hai con bò sút giây, chạy loạn trong tầu và bị gẫy chân; tuy cả 5 con đều đến được tiền đồn nhưng tin bị lộ nên Hạm Trưởng bị truy tố ra tòa án Quân Sự về tội danh 'chở súc vật trái phép'. Hạm Trưởng sau đó được miễn tố nhưng vẫn bị phạt.
6) HQ 230 Nguyễn ngọc Long:
-Khởi đóng 18-12-44 tại Commercial Iron Works
-Hạ thủy 6-1- 45
-Gia nhập HQ HK 24-1-45 ký hiệu USS LCS(L)(3)-96
-Hoạt động tại vùng Thái Bình Dương
-Đình đông và đổi ký hiệu (28-2-49) thành USS LSSL-96
-Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Shobu
-Trả lại HK để chuyển cho VN ngày 28-4-65 trở thành HQ 230 Nguyễn ngọc Long
-Di tản đến Philippines (4-75) HQ Phi đổi thành RPS Sulu (LF-49)
7) HQ 231 Nguyễn Đức Bổng:
-Khởi đóng 5-12-44 tại George Lawley & Sons Corp.
-Hạ thủy 13-12-44
-Gia nhập HQ HK 31-12-44 ký hiệu USS LCS(L)(3)-129
-Hoạt động trong khu vực Viễn Đông Thái Bình Dương cho đến đầu năm 1946 để đình động và xếp vào LL Trừ Bị.
-Đổi ký hiệu thành USS LSSL-129 (28-2-49)
-Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Botan
-Trả lại HK 28-4-65 và HK chuyển cho HQVN ngày 19-6-66 để trở thành HQ 231 Nguyễn Đức Bổng. (HQ Trung Úy Nguyễn Đức Bổng, Khóa 10 HQ/NT hy sinh năm 1965 tại Bãi Ngao, Kiến Hòa).
-Di tản sang Phi (4-75) trở thành BRF Camarines Sur (LF-48)
Chuyến hải hành sau cùng của các Trợ Chiến Hạm:
Trong tổng số 7 Trợ Chiến Hạm của HQVNCH, ngoài 3 chiếc bị chìm do đặc công VC đặt mìn, 4 chiếc còn lại đều di tản được sang Philippines.
HQ 228:
-Thàng 4-1975: HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng do HQ Thiếu Tá Nguyễn Hoàng Be làm hạm trưởng được điều động về công tác tại Vùng 4 Sông ngòi với nhiệm vụ chính yếu là yểm trợ Hạm đội 21. Chiến hạm thường xuyên hoạt động tại căn cứ HQ Cần Thơ.
-HQ 228 Tách bến Cần Thơ lúc 00 giờ 20 ngày 30 tháng 4-75 mang theo Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Tư lệnh Hạm đội 21 cùng Bộ Tham mưu, trên chiến hạm còn có Chuẩn tướng Chương Dzềnh Quay, Tham mưu trưởng Quân đoàn 4. Chiến hạm trên đường ra biển dù 'trên máy PRC-46 của tàu vẫn phát lời kêu gọi cũa Tướng Nguyễn Khoa Nam..các quân nhân không được tự ý rời nhiệm sở..' Chiến hạm..giữ im lặng vô tuyến trên suốt thủy lộ đường ra biển. HQ 228 đến điểm tập trung ngoài khơi Côn Sơn và theo đoàn chiến hạm HQVN hải hành đến Subic Bay.
-HQ 228 đến Phi mang theo 149 người trong đó có 37 nhân viên thủy thủ đoàn..
HQ 229:
-HQ 229 Lưu Phú Thọ do HQ Th/Tá Vương Thế Tuấn lảm Hạm trưởng rởi VN theo Cửa Tiểu đến Subic Bay với 37 người gồm 34 thủy thủ và 3 người tị nạn (?)
-HQ 230:
Trong những ngày cuối cùng của VNCH, HQ 230 được Bộ tư lệnh Hạm đội biệt phái cho Bộ Tư lệnh Vùng 4 Duyên Hải.cùng 3 chiến hạm khác là các Giang pháo hạm HQ 330 và 331, Tuần duyên hạm HQ 602.
Tư lệnh V4 Duyên Hải là Đại Tá Nguyễn văn Thiện. Hạm trưởng HQ 230 là Thiếu Tá Nguyễn Nguyên
Cuộc di tản ngày 30 tháng 4 của Vùng 4 Duyên Hải đã được ghi nhận với nhiều điểm trái ngược của những người trong cuộc.
- Đại Tá Thiện trong bài hồi ký '4 chiến hạm di tản từ đảo Phú Quôc ' (Trang Lưu niệm Khóa 7 Đệ Nhất Thiên Xứng) ghi lại: Ông đã họp với các Hạm trưởng của 4 Chiến hạm để định điểm hẹn là ngoải khơi cách Hòn Thơm chừng một hải lý về phía Tây. Ông đã dùng LCM 8 để cùng gia đình rời Bộ Tư lệnh sau khi họp tuyên bố giải tán Vùng 4 Duyên Hải, đến HQ 230 và di chuyển ngay về Poulo Panjiang. Ông cho biết là 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5, một số gần 40 PCF từ Hải đội 5 Duyên Phòng (Năm Căn) và HĐ 4 DP do dò tìm tần số trên máy PRC-25 nghe được sự liên lạc giựa 4 chiến hạm nên đến với đoàn tàu (?) và được vớt lên các chiến hạm di tản. Đoàn tảu 4 chiếc do HQ 230 dẫn đầu, theo sau là HQ 330 giòng theo HQ 331 (dùng làm chiến hạm dự trữ) và sau cùng là HQ 602 hải hành về hướng Singapore.
- Trong bài 'Trong cảnh sống còn' phổ biến trên nhiều website hải ngoại và trong tập sách 'Một thuở làm trùm' tác giả Nguyễn Tấn Hưng, Trưởng Phòng 2 Bộ Tư lệnh V4 Duyên Hải đã ghi lại nhiều điều khác biệt hơn: ..' Trợ Chiến Hạm HQ 230 vừa kéo neo, chúng tôi chạy ra vừa kịp lúc. Cho ghe rà lại bên hông định cặp nhưng bị bắn đuổi. Tôi nhìn lên đài chỉ huy thấy ông hạm trưởng Nguyễn Nguyên (mới vài ngày qua dã đich thân lên xin tôi bản đồ vùng TBD). Tôi tin tưởng ở mình, đưa tay vẫy rồi kêu to: Commandant..cho tụi tôi lên với.. nhưng bị bắn đuổi..'
-Tác giả Nguyễn Hữu Duyệt trên HQ 330 ghi lại trong' Vùng 4 DH những ngày cuối' (Lướt sóng 40) : 'Sau khi Tách bến HQ 330 chạy vòng quanh phía Nam Phú Quốc để phối trí và đến điểm hẹn là Hòn Khoai, vớt được khoảng 400 người. HQ 331 bị cháy cả hai máy, bất khiển dụng, trên tàu có khoảng 300 người nên được HQ 330 kéo theo, dự trù sẽ chuyển số người này khi gặp được một dương vận hạm. HQ 330 dẫn đầu toán. Kéo theo HQ 331, sau đó là HQ 230 và HQ 602 đi về Singapore. Sau khi bị Singapore từ chối không cho tị nạn, đoàn tầu quyết định đi về Úc'.. Ông viết tiếp: ' Tôi nghĩ chiếc HQ 230 phải là chiếc dẫn đầu vì có vị TL V4 DH trên đó và ông đã hứa là sẽ dẫn đoàn tàu đến nơi đến chốn với kinh nghiệm của ông..nhưng HQ 330 vẫn được chỉ định dẫn đầu chạy với một chân vịt nhưng lại kéo thêm HQ 33, kế đó là HQ 230 và sau cùng là HQ 602.
- Theo Đ/Tá Thiện: 'Đoàn tảu chúng tôi rời An Thới với 4 chiến hạm và gần 3000 người, đến Subic bay với 3 tàu và khoản 2500 người tỵ nạn..' Tuy nhiên, trong List of RVNN ships evacuated to the Philippines on April 30, 75 (ht*p.Hoangsaparacels.blogspot.com) thì các con số do HK ghi nhận như sau:
-HQ 230: mang theo 145 người gồm 40 thủy thủ đoàn và 105 người tị nạn. HQ 330/ 331.. không rõ số người nhưng chắc chắn không thể có 2500 người trên hai tàu này.
Con số của Đ/Tá Thiện có lẽ bao gồm cả số người trên Tàu Trường Thanh (trên tàu có Tướng Lân TQLC cùng bộ tham mưu) cũng ghé Singapore xin tị nạn nhưng sau đó tự tìm đường đi Philippines (?)
HQ 231:
Chiến hạm HQ 231 Nguyễn Đức Bổng, do HQ Đ/Úy Nguyễn văn Phước làm Hạm trưởng, trong thời gian tháng 4 năm 1975 được tăng phái cho vùng 2 Duyên hải, giữ nhiệm vụ hộ tống và bảo vệ các Dương vận hạm trong khi làm công tác chuyẻn vận và di tản thường dân và các đơn vị quân đội thoát khỏi các vùng CQ sắp chiếm. Cuối tháng 4, HQ 231 di chuyển về Căn cứ Đồng Tâm và sau đó được giao nhiệm vụ ngược dòng Mekong về Cù lao An Long (Long Xuyên), biệt phái cho Bộ Chỉ huy Liên giang đoàn án ngữ tại Tân Châu. Tối 29-4 , chiến hạm được lệnh về Đồng Tâm, Mỹ Tho..Sáu giờ sáng 30, khi đến Đồng Tâm, căn cứ đã bị CQ nằm vùng khống chế, HQ 231 chạy quanh Mỹ Tho-Đồng Tâm và khi có lệnh 'buông súng' của DVM, chiến hạm chạy ra biển theo đường Cửa Tiểu, rồi đến Côn sơn và sau cùng đi Subic bay. HQ 231 đến Phi với 126 người gồm 58 thủy thủ và 64 người tị nạn.
Tân Sơn Hòa chuyển
Trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai, HQ Hoa Kỳ đã sử dụng nhiều loại chiến hạm đổ bộ gọi chung là Landing Ship như LST (Landing Ship Tank), LCT (Landing Craft Tank), LSD (Landing Ship Dock)..sau đó phát triển thêm những loại LCI (L) =Landing Craft Infantry (Large)… Những LCI này được gắn nhiều loại súng khác nhau từ phóng rocket, súng cối, đại liên, đại bác… Và sau cùng được bổ sung và phát triển hơn nữa thành một loại chiến hạm có cấu trúc lớn hơn, trang bị hỏa lực mạnh hơn để trở thành đúng nghĩa là một chiến hạm LCS (L) với tên phụ là Mighty Midget.
Khi Thế Chiến II chấm dứt 123 chiếc LCS(L) ở trong tình trạng còn hoạt động được, sau đó do nhu cầu của cuộc Chiến Tranh 'Lạnh' giữa hai khối Tự Do và Cộng Sản, các LCS(L) được đưa ra tái sử dụng dưới ký danh mới LSSL và Hoa Kỳ đã viện trợ những chiến hạm này cho các quốc gia đồng minh như Pháp, Ý, Nhật, Đài Loan.. qua các chương trình quân viện như Mutual Defence Assistance, SecurityAssistance.
Trợ Chiến Hạm trong Hải Quân Pháp tại Việt Nam
Trong chiến tranh VN, Pháp đã nhận được quân viện từ Hoa Kỳ và Hải Quân Pháp cũng nhận một số chiên hạm để sử dụng tại chiến trường Đông Dương.
Ngày 25 tháng7 năm 1950, 6 chiếc LSSL được bàn giao cho Pháp tại Puget Sound: đó là những chiếc LSSLs 2, 4, 9, 10, 28 và 80. Sau chuyến hải hành vượt Thái Bình Dương, các chiến hạm này cặp bến SàiGòn vào ngày 17 tháng 9. Lúc đầu HQ Pháp đánh số các chiến hạm này từ 1 đến 6, nhưng sau đó (cuối 1951) đổi thành các số 9021 đến 9026 và đến 1953 dùng tên các võ khi thời Trung Cổ để đặt cho các chiến hạm này. (Trước đó HQ Pháp đã có 3 chiếc LSSL, với 6 chiếc mới nhận HQ Pháp có được 9 LSSL để sử dụng trên chiến trường Đông Dương)
Các chiến hạm của HQ Pháp mang những tên: Arbalete (9021), Arquebuse (9022), Hallebarde (9023), Javeline (9024), Pertuisane (9025), Rapière (9026) và vào 1953 thêm 3 chiếc được Hoa Kỳ chuyển cho Pháp là những chiếc Etendard, Oriflamme và Framée.
Các LSSL được dùng để yểm trợ cho các Dinassault (Hải đoàn xung phong) trong các trận đánh chống lại lực lượng Việt Minh tại những vùng sông rạch Bắc VN như các khu vực Sông Đáy, Sông Hồng. đồg thời hoạt động tuần phòng ven biển từ Trung ra Bắc và trên sông Cửu Long tại miền Nam.
Trong thời gian từ 1952-1954, các chiến hạm này đã yểm trợ nhiều cuộc hành quân của Lực lượng Liên Hiệp Pháp.
Sau khi Hiệp Định Geneve được ký kết, phân chia VN thành hai miền, chiến hạm Pertuisane đã được dùng để chuyên chở người di cư từ Bắc vào Nam.
Trợ Chiến Hạm của Hải Quân VNCH:
- Các Trợ Chiến Hạm do Pháp chuyển giao: Khi vai trò của Pháp chấm dứt, họ đã chuyển một số chiến hạm trong đó có các LSSL cho Việt Nam.
Chiếc Arbalète là Trợ Chiến Hạm đầu tiên được chuyển giao cho HQVN vào ngày 12 tháng 10 năm 1954 tại Sài Gòn. HQVN đổi tên chiến hạm này thành Nỏ Thần HQ 225. Với giai đoạn đầu của tổ chức HQVN chưa đủ nhân lực và còn thiếu kinh nghiệm để điều hành nên tuy được chinh thức xem là một chiến hạm của VN nhưng vẫn do sĩ quan và thủy thủ đoàn (25 người) Pháp kiểm soát và điều hành, thêm vào đó là 30 nhân viên HQVN .xem như 'học nghề'. Đến khoảng cuối năm 1955, chiến hạm trở thành 'không thể hải hành' nên được giải ngũ, chuyển cho Đài Loan để phế thải, lấy những cơ phận còn dùng được..
Chiếc Arquebuse được chuyển giao vào năm 1955 và trở thành Linh Kiếm HQ 226.
Chiếc thứ ba được Pháp chuyển lại là chiếc Framée, chuyển vào tháng 3 năm 1956, và thay thế cho chiếc Arbalete phế thải, HQVN vẫn dùng tên Nỏ Thần HQ 225 đặt cho chiếc này.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh chống Cộng, các chiến hạm này theo Đ/Tá Đỗ Cẩm ghi lại: 'LSSL là những chiến hạm thật sự chiến đấu đầu tiên mả HQVN tiếp nhận và là niềm hãnh diện cho HQVN. Hỏa lực của chiến hạm thật ghê gơm nhất là khi yểm trợ cận mục tiêu. Chiến hạm gây kinh hoàng cho VC trong những năm 50-60, và giúp rất nhiều cho các cuộc hành quân tại các vùng sông ngòi khi khả năng của KQVN và Pháo binh còn giới hạn..'
Các Trợ Chiến Hạm do Mỹ chuyển giao: Ngoài 3 Trợ Chiến Hạm kể trên, Hoa Kỳ cũng chuyển giao cho HQVNCH 4 chiếc nữa để tổng số Trợ Chiến Hạm lên đến 7 chiếc. Từ 1957, HQVNCH đã dùng tên các chiến sĩ HQ hy sinh để đặt cho các Trợ Chiến Hạm:
HQ 225 Nguyễn văn Trụ
HQ 226 Lê Trọng Đàm
HQ 227 Lê văn Bình
HQ 228 Đoàn Ngoc Tảng
HQ 229 Lưu Phú Thọ
HQ 230 Nguyễn Ngọc Long
HQ 231 Nguyễn Đức Bổng
Đặc tính chung của các Trợ Chiến Hạm:
-Trọng tải trung bình 250 tân, tối đa 384 tấn
-Kích thước: dài 158 ft, rộng 23.7 ft
-Vận chuyển: hai máy diesel, mỗi máy 1600 mã lực
-Vận tốc trung bình 14 hải lý/giờ, tối đa 16.5 hải lý/giờ
-Hỏa lực: 1 đại bác 76.2 mm, 4 khẩu 40 mm, 4 khẩu 20 mm và nhiều đại liên.
-Thủy thủ đoàn: 60-70 người
Vai trò và Nhiệm vụ cũa Trợ Chiến Hạm:
Trong những năm 1950, các Trợ Chiến Hạm thuộc HQ Pháp hoạt động trên chiến trường Đông Dương thường được giao những nhiệm vụ như tuần phòng ven biển, và do hỏa lực trang bị trên tàu khá mạnh nên được dùng vào việc yểm trợ cho các cuộc hành quân thủy bộ. Những 'dinassaut' của Pháp gồm một số chiến đỉnh nhỏ như LCT, LCM và LCVP gắn thêm nhiều đại liên, súng cối để tăng hỏa lực..Khi hành quân thường có thêm một LSIL để dùng làm nơi đặt Bộ Chỉ Huy, và khi có mặt của Trợ Chiến Hạm thì chiếc này sẽ giữ nhiệm vụ đó. Đài chỉ huy của Trợ Chiến Hạm khá cao, giúp tăng được tầm quan sát nhưng lại trở thành mục tiêu bị địch quân nhắm bắn.. Các nhân viên quan sát trên pháo tháp dễ bị 'băn sẻ'. Các Trợ Chiến Hạm rất hữu hiệu trong công Tác bảo vệ các đoàn tàu thuyền cần di chuyển trên những dòng sông bị CQ phục kích.. Lực lượng Việt Minh trong thời gian này chưa có những vũ khí nặng để gây tổn hại cho các đoàn công-voa trên sông. Nguy hiểm nhất chỉ là mìn thả trôi hoặc đặt vào tàu để phá hoại. Một số cuộc đụng độ giữa lực lượng VM và Pháp trên những vùng sông ngòi dều đưa đến những tổn thất nặng cho VM như các trận phục kinh trên Sông Đáy (11-1952), trận giải vây Mao Khê (23-3-1951), chiến dịch Phủ Lý-Ninh Bình (29-5-1951) giữa các SĐ 308 và 304 VM và Dinassaut 3 của Pháp.
Trong những năm 1953-54, các Trợ Chiến Hạm Pháp đã đụng độ rất nhiều trận với VM.tại những khu vực Phát Diệm, Bùi Chu, Thanh Hóa, Hưng Yên và những tiền đồn dọc Sông Hồng.
Sau Hiệp định Geneve, HQ VN tiếp nhận hai Trợ Chiến Hạm từ người Pháp và tiếp tục sử dụng các tàu này theo kiểu HQ Pháp, nghĩa là tuần ven biển, sông rạch và yểm trợ hành quân thủy bộ.
Từ 5-19 tháng 6, 1955, các giang đoàn xung phong 22, 23 và 25 được sử dụng trong các cuộc hành quân dẹp các lực lượng quân đội Giáo phái Hòa Hảo trong khu vực Cần Thơ, Long Xuyên. Bộ Chỉ Huy chiến dịch được đặt trên Chiến hạm Nỏ Thần.
Về nhiệm vụ tuần duyên, từ tháng 12-55, Nỏ Thần được giao nhiệm vụ tuần tra ven biển từ Vũng Tàu đến Mũi Bãi Bùng.
Vai trò yểm trợ hỏa lực và tiếp vận cho các tiền đồn xa xôi nơi vùng sông rạch giảm dần khi Không Quân VNCH lớn mạnh, các phi vụ Skyraider và trực thăng võ trang được sử dụng nhiều hơn.
Trong những tháng đầu năm 1970, các Trợ Chiến Hạm trỡ thành lực lượng chính bảo vệ các đoàn tàu tiếp tế cho Kampuchea trên thủy lộ Pnnompenh-NeakLuong. Chuyến tiếp vận sau cùng được thực hiện vào ngày 30 tháng Giêng 1975.
'Dự án Hải sử' (Vũ Hữu San) đã viết về sự hữu hiệu của Trợ Chiến Hạm và giang pháo hạm như sau:
' Trong vòng 25 năm chiến tranh, loại Trợ Chiến Hạm LSSL là loại chiến hạm có hỏa lực mạnh nhất trong sông ngòi VN, kế đó là các Giang phao hạm. Khi hành quân phối hợp với lực lượng bạn, hai loại tàu này thường được dùng như soái hạm lưu động cho CHT hành quân. Với hỏa lực hùng hậu, chiến hạm yểm trợ hải pháo rất đắc lực khi tiến quân..
Tuy vậy đôi khi tại vùng đồng bằng sông Cữu Long, các tàu này đã được sử dụng vào các công Tác tuần tiễu sông ngòi. Lâu lâu cấp chỉ huy còn dùng hai loại tàu này thường trực để yểm trợ cho lực lượng diện địa ven sông. Trong công Tác này chiến hạm thường đơn độc nên dễ dàng bị địch phục kích khi giang hành và cả khi neo lại nghỉ ngơi..'
Hạm đội HQVNCH được tổ chức thành 3 Hải Đội (Tuần duyên, Chuyển vận và Tuần dương). Giang pháo hạm thuộc Hải đội 1, tuần duyên (gồm cả các PGM=Tuần duyên hạm và LSIL=Giang pháo hạm).
Victor Croizant (Đại Tá TQLC Hoa Kỳ) trong 'The Brown Water Navy' đã viết một bài 'tiêu biểu' về hoạt động của Giang Đoàn Xung Phong 23 trong trận Hàm Luông 4 tháng 10 1965 như sau: 'Chiến hạm HQ 226 được giao nhiệm vụ tuần giang trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong các tháng 9 và 10, 1965. Các báo cáo từ Cố vấn Mỹ ghi nhận chiến hạm đã yểm trợ cho 3 công Tác trục vớt các tiểu đỉnh bị chìm, yểm trợ hải pháo cho 9 cuộc hành quân, cho hai chuyến tiếp liệu và tuần tra đơn độc 9 chuyến.Hoạt động đặc biệt hữu hiệu nhất của HQ 226 là yẩm trợ cuộc hành quân của Giang đoàn 23 trong cuộc đổ quân cho TĐ 41 BĐQ tại Hàm Luông, Kiến Hòa ngày 4 và 5 tháng 10. Trong trận này 21 chiến sĩ BĐQ và HQ hy sinh cùng 57 bị thương.. Cuộc hành quân bắt đầu từ 7 giờ sáng, xuất phát tại Bến Tre. BĐQ dùng tàu xuôi dòng để đổ bộ vào khu vực tìm và diệt một lực lượng VC đã bao vây tấn công một tiền đồn và xã ấp đêm hôm trước. Thời tiết không cho phép dùng trực thăng để đổ quân như dự trù.Lực lượng giang đoàn tiên công lúc 11 giờ sáng, hộ tống bởi một phi cơ quan sát của LQ HK. Phi cơ không ghi nhận được hoạt động của CQ. Lúc 12 giờ , HQ 226 dẫn đầu khởi pháo vào một mục tiêu nghi ngờ, lập tức VC nổ súng dự dội vào đoàn tàu từ bờ bên phải và vào HQ 226 từ bờ trái.Hai LCM chở quân trúng đạn, một ở tình trạng gần chìm phải kéo: cả hai ủi bãi vào bờ trái, BĐQ đổ bộ và tạo một vòng đai phòng thủ, các tiểu đỉnh tạm rút chỉ HQ 226 trụ lại để yẩm trợ cho toán BĐQ và phi cơ được gọi đến để oanh kích..Các LCM trở lại đổ thêm quân tiếp viện. HQ 226 ở lại chiến trường suốt đêm..Sáng 5/10, lực lượng VNCH thanh toán chiến trường..'
Lược sử và hoạt dộng của các Trợ Chiến Hạm
1) HQ 225 Nguyễn văn Trụ:
-Chiến hạm được khởi đóng ngày 27 tháng Giêng 1945 tại cơ xưởng Commercial Iron Works, Portland (Oregon).
-Hạ thủy ngày 7 tháng Hai, 1945.
-Gia nhập HQHK ngày 5 tháng 3, 1945 và nhận ký hiệu USS LCS(L)(3)-105 sử dụng cho Lực lượng trừ bị.
-Danh hiệu đổi thành Landing Ship Support Large USS LSSL-105 vào ngày 28 tháng Hai, 1949.
-Chuyển cho Lực lượng Tuần Duyên Ryukyu ngày 12-03-1952
-Chuyển cho HQ Pháp ngày 28 tháng 12, 1953 , được đặt tên là RFS Framée.
-Chuyển cho HQ VNCH năm 1957, cũng đặt tên là Nỏ Thần (HQ 225) , sau đó năm 1970 đổi tên thành Nguyễn văn Trụ. (HQ Trung Úy Nguyễn văn Trụ, Khóa 2 HQ/VN hy sinh trong một trận đánh thuộc chiến dịch Nguyễn Huệ tại Long xuyên vào tháng 12/1955).
-Bị đặc công CS đánh chìm ngày 30 tháng 7 năm 1970
Vài hoạt động của HQ 225:
(Danh số HQ 225 đã được dùng cho hai LSSL,chiếc thứ nhất tiền thân là Arbalète. Hoạt động của Nỏ thần (LSSL-2) được tóm lược trong phần trên).
-Từ 1956-57, HQ 225 thứ nhì thay cho chiếc thứ nhất phế thài, vẫn được đặt tên là Nỏ Thần, nhận những nhiệm vụ như tuần tra trên sông Cửu Long và dọc duyên hải Nam VN từ Vũng Tàu đến Hà Tiên, bảo vệ các thuyền đánh cá VN trong khu vực Vịnh Thái Lan chống các vi phạm của Cambodia.
- 16 tháng Hai-1969 HQ 225 dùng hải pháo giúp đẩy lui cuộc tấn công của VC tại Vĩnh Long và 28 tháng 11 cũng đẩy lui cuộc phục kích của VC tại Tam Giang, Đầm Dơi.
-Từ 1970, HQ 225 được đặt dưới sự chỉ huy của Hải đội tại Căn cứ Năm Căn. Rạng sáng ngày 30 tháng 7 năm 1970, HQ 225 thả neo, cột giây tại căn cứ Năm Căn, nơi cửa sông Bồ Đề, và bị đặt mìn phá hoại, phát nổ lúc 2 giờ sáng. Tàu chìm nhanh xuống đáy nước. Hạm Trưởng Nguyễn Ngọc Quyền kể lại: ' Tôi cho lệnh đào thoát, bỏ tàu khi nước ngập 1/3 tàu trong vài phút; một số thủy thủ không thoát kịp vì lo thu nhặt vật dụng cá nhân' . Công cuộc tiếp cứu tuy diễn ra nhanh chóng, tuy nhiên 17 nhân viên thũy thủ đoàn bị mất tích và được xem là hy sinh theo tàu.. Do nước chảy xiết và khu vực kém an toàn nên việc trục vớt chiến hạm không được thực hiện. Điều tra sau đó tìm thấy những sợi dây nylông dài cột theo dây neo và tàu bị chìm do đặc công 'thủy' VC gài mìn.
Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng trong 'Năm Căn, vùng xôi đậu' đã kể lại vụ chìm tàu như sau: 'Đêm thứ hai của một chuyến nghỉ bến sau đó, giữa lúc Hải và Trung sĩ Hoan đang đội mưa đi từ câu lạc bộ về phòng, thì bỗng giật mình vì hai tiếng nổ liên tiếp kinh hồn xen lẫn với những tiếng sấm chớp ầm ầm của cơn mưa miền nhiệt đới, cả hai chạy vội ra cầu tầu. Cảnh náo loạn hãi hùng đang diễn ra trước măt mọi người: chiếc LSSL, nằm giữa giòng sông, nghiêng hẳn phía tả hạm; trên boong chính nhân viên nhôn nháo, cố kiếm cách nhảy xuống..Chiếc PCF trực ứng chiến rà đến. Hải và Hoan cũng vội vã nhảy xuông PCF của mình, gỡ dây, nổ máy phóng ra chiến hạm, chỉ đủ thì giờ cùng chiếc PCF trực, đón được một số nhân viên và vị hạm trưởng ..vẫn còn ngơ ngác chưa hoàn hồn vì chấn động của tiếng nổ..'
2) HQ 226 Lê Trọng Đàm:
-Khởi đóng ngày 5 tháng 7, 1944 tại George Lawley&Sons Corp. Neponset, MA.
-Hạ thủy: 15 tháng 7, 1944
-Gia nhập HQHK ngày 11 tháng 8 1944 , nhận ký hiệu USS LCS(L)(3)-4
-Hoạt động trong khu vực Thái bình dương trong Thế chiến 2
-Đình động sau thế chiến, lưu giữ tại LL Trừ bị (Columbia Reserve Group, Astoria OR
-Nhận ký hiệu mới USS LSSL-4 ngày 28 tháng Hai, 1949.
-Chuyển cho HQ Pháp ngày 15-8-1950 đổi thành RFS LSSL-2 và sau đó thành RFS Arquebuse (L-9022)
-Chuyển cho HQVN năm 1955, đổi tên là RVNS Linh Kiếm (HQ-226) và sau đó đổi thành Lê Trọng Đàm
-Bị đánh chìm ngày 3 tháng 10, 1970
Vài hoạt động:
HQ 226 Linh Kiếm được giao nhiệm vụ thuộc Hải lực HQVN. Một trong những nhiệm vụ của Lực lượng này là tuần phòng trên sông và yểm trợ cho các Giang đoàn xung phong trong các cuộc hành quân.
Vai trò yểm trợ của Trợ Chiến Hạm được chứng minh cụ thể trong trận Hàm Luông (4-5 tháng 10, 1965): Trong trận này Giang đoàn Xung phong 23 được giao nhiệm vụ đổ bộ TĐ 41 BĐQ gần khu vực Bến Tre nơi sông Hàm Luông (Kiến Hòa) để tìm và diệt một TĐ Công quân hoạt động tại đây. Chiến hạm Linh Kiếm đã được sử dụng làm hỏa lực yểm trợ, giúp đẩy lui lực lượng Cộng quân đang phục kích đoàn tàu từ cả hai ven bờ.
HQ 226 cũng nhận nhiệm vụ tuần tra trên sông Sài Gòn bảo vệ tàu thuyền di chuyển qua khu vực Rừng Sát.
Trong năm 1968, HQ 226 Linh Kiếm luôn luôn 'bận rộn'. Hạm Trưởng Lê văn Rạng điều khiển chiến hạm tham dự nhiều cuộc hành quân trong khu vực sông Cửu Long, kể cả yểm trợ bảo vệ các tỉnh, thị xã trong Tết Mậu Thân. Từ 3 đến 5 tháng Hai, HQ 226 ngăn chặn các cuộc tấn công của VC vào Vĩnh Long từ ngã sông Cổ Chiên. Riêng trong thời gian từ cuối tháng Giêng đến đầu tháng 3/68, Chiến hạm đã yểm trợ hỏa lực trong 36 vụ đụng độ với CQ.. do những chiến công này Đ/Úy Rạng đã được ân thưởng huy chương Bronze Star with Combat V của TT HK.
Ngày 6 tháng 5, 1968, HQ 226 bị VC phục kích trên sông Cổ Chiên từ cả hai bên bờ. Chiến hạm phản kích diệt nhiều VC để chỉ bị tổn thất nhẹ với 5 chiến sĩ bị thương.
Ngày 3 tháng 10 năm 1970, HQ 226 trong khi đang thả neo trên sông Cổ Chiên, đã bị đặc công thủy VC bơi lặn, thả trôi xuôi giòng từ Cồn Giai, đặt mìn vào giây neo. Vụ nổ gây một lỗ hổng lớn nơi mũi tàu, gây tử thương cho hai thủy thủ và làm tảu chìm sâu dưới 8m. Chiến hạm bị hủy bỏ và không được trục vớt.
3) HQ 227 Lê văn Bình:
-Khởi đóng ngày 10 tháng 8, 1944 tại George Lawley & Sons Corp, Neponset, MA
-Hạ thủy: 19 tháng 8, 1944
-Gia nhập HQ HK ngày 10 -9- 1944, ký hiệu USS LCS(L)(3)-10 sau đó đưa vào đình động trong Lực lượng HQ Trừ Bị thuộc Hạm đội Thái Bình Dương. Ký hiệu được đổi thành USS LSSL-10 ngày 28 tháng Hai, 1949.
-Đưa ra tái hoạt động và chuyển (cho mượn) cho HQ Pháp ngày 15 tháng 8 năm 1950, đặt tên là RFS Javeline (L-9024)
-Pháp trả lại HK vào năm 1955
-HK chuyển cho Nhật ngày 7 tháng 5, 1956, đặt tên là JSDFS Hinageshi.
-Nhật trả lại HK và HK chuyển cho HQVN ngày 15 tháng 9,1956 và trở thành HQ-227 Lê văn Bình. (HQ Trung Úy Lê văn Bình, Khóa 10 HQ/Nha trang thuộc GĐ 28 XP, tử trận tại Cà Mau năm 1965 khi chiếc LCM 6 chở Pháo Binh đi hành quân bị trúng mìn.)
-Bị chìm ngày 2 tháng 10, 1966.
Vài hoạt động:
Vào lúc 2 giờ 31 sáng ngày 2 tháng 10, 1966: HQ 227 thả neo ở khoảng 800 m trên sông, phia Tây Căn cứ Giang đoàn27 ở Mỹ Tho. Chiến hạm đã bị đặc công VC (giả dạng binh sĩ Điạ Phương Quân đi trên tàu) đặt mìn phá hoại. Hai quả mìn phát nổ gây tàu chìm, nhưng vì mực nước không sâu nên phần boong còn trên mặt nước. Nhân viên cơ khí đã dùng bơm để tháo nước, vá tạm lỗ thủng để đưa tàu lên mặt nước. HQ Trung Tá Trần văn Triết, Tư lệnh GĐ 27 đã trực tiếp chỉ huy cuộc trục vớt, sau đó HQ 227 được LCM 8 kéo về Sai Gon để sửa chữa, nhưng vì tổn thất quá nặng nên đành bị phế thải.
4) HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng:
-Khởi đóng 7-7-1944 tại George Lawley & Sons corp
-Hạ thủy: 17-8-1944
-Gia nhập HQ HK 6 tháng 9, 1944. Ký hiệu USS LCS(L)(3)-9
-Tham dự các cuộc hành quân trong vùng biển Thái bình Dương, sau đó được đình động và tồn trữ trong LL Trừ bị.
-Ký hiệu đổi thành USS LSSL-9 ngày 28-9-1949
-Chuyển cho HQ Pháp ngày 15-8-1950, thành RFS Hallebarde (L-9023)
-Trả lại HK năm 1955
-HK chuyển cho Nhật (7-5-56) đổi tên thành JFDSF Asagao
-Nhật trả lại HK để HK chuyển cho HQVN (15-9-56) để trở thành HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng
-Di tản đến Philippines (4-1975), HQ Phi đổi tên thành RPS La-Union (LF-50), dùng lấy cơ phận và phế thải vào năm 1980.
Vài hoạt động:
- 4 tháng 6-1967, HQ 228 giúp đẩy lui cuộc tấn công của một đại đội VC vào đồn Đức Mỷ, khoảng 26 km phia Nam Vĩnh Long, và ngày 17 tháng 6 , HQ 228 cùng hai PBR giúp giữ vững tiền đồn Lo Xe bị hai ĐĐ VC bao vây.
5) HQ 229 Lưu Phú Thọ:
-Khởi đóng ngày 6 tháng Giêng,1945 tại Commercial Iron Works, Portland Oregon
-Hạ thủy 27-1-45
-Gia nhập HQ HK 13-2-45, ký hiệu USS LCS(L)(3)-101
-Đình động và tồn trữ trong LL Trừ bị Astoria OR
-Đổi ký hiệu (28-2-49): USS LSSL-101
-Chuyển cho HQ Nhật (30-4-53) thành JDS Tsutsuji
-Nhật trả lại HK để chuyển cho HQ VN (28-4-56) trở thành HQ 229 Lưu Phú Thọ (Khóa 10 HQ/NT)
-Di tản sang Philippines (4-75), phế thải để lấy cơ phận rời.
Vài hoạt động:
HQ 229 ngoài những nhiệm vụ yểm trợ hành quân, lịch sử chiến hạm còn có thêm một 'sự kiện' đặc biệt: Tháng 12, 1966 Hạm Trưởng HQ 229 nhận được lời yêu cầu của một quận trưỏng (bạn thân của Hạm Trưởng) chở tiếp liệu đến cho một tiền đồn trong vùng xa xôi nơi VC bao vây cắt cả đường bộ lẫn đường sông. Đây không phải là nhiệm vụ của chiến hạm. Trong chuyến tiếp tế này tàu còn chở thêm 1 bò đực và 4 bò cái để binh sĩ tiền đồn nuôi thêm, làm thực phẩm dự trữ. Chuyến đi gặp trở ngại do sóng gió nên hai con bò sút giây, chạy loạn trong tầu và bị gẫy chân; tuy cả 5 con đều đến được tiền đồn nhưng tin bị lộ nên Hạm Trưởng bị truy tố ra tòa án Quân Sự về tội danh 'chở súc vật trái phép'. Hạm Trưởng sau đó được miễn tố nhưng vẫn bị phạt.
6) HQ 230 Nguyễn ngọc Long:
-Khởi đóng 18-12-44 tại Commercial Iron Works
-Hạ thủy 6-1- 45
-Gia nhập HQ HK 24-1-45 ký hiệu USS LCS(L)(3)-96
-Hoạt động tại vùng Thái Bình Dương
-Đình đông và đổi ký hiệu (28-2-49) thành USS LSSL-96
-Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Shobu
-Trả lại HK để chuyển cho VN ngày 28-4-65 trở thành HQ 230 Nguyễn ngọc Long
-Di tản đến Philippines (4-75) HQ Phi đổi thành RPS Sulu (LF-49)
7) HQ 231 Nguyễn Đức Bổng:
-Khởi đóng 5-12-44 tại George Lawley & Sons Corp.
-Hạ thủy 13-12-44
-Gia nhập HQ HK 31-12-44 ký hiệu USS LCS(L)(3)-129
-Hoạt động trong khu vực Viễn Đông Thái Bình Dương cho đến đầu năm 1946 để đình động và xếp vào LL Trừ Bị.
-Đổi ký hiệu thành USS LSSL-129 (28-2-49)
-Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Botan
-Trả lại HK 28-4-65 và HK chuyển cho HQVN ngày 19-6-66 để trở thành HQ 231 Nguyễn Đức Bổng. (HQ Trung Úy Nguyễn Đức Bổng, Khóa 10 HQ/NT hy sinh năm 1965 tại Bãi Ngao, Kiến Hòa).
-Di tản sang Phi (4-75) trở thành BRF Camarines Sur (LF-48)
Chuyến hải hành sau cùng của các Trợ Chiến Hạm:
Trong tổng số 7 Trợ Chiến Hạm của HQVNCH, ngoài 3 chiếc bị chìm do đặc công VC đặt mìn, 4 chiếc còn lại đều di tản được sang Philippines.
HQ 228:
-Thàng 4-1975: HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng do HQ Thiếu Tá Nguyễn Hoàng Be làm hạm trưởng được điều động về công tác tại Vùng 4 Sông ngòi với nhiệm vụ chính yếu là yểm trợ Hạm đội 21. Chiến hạm thường xuyên hoạt động tại căn cứ HQ Cần Thơ.
-HQ 228 Tách bến Cần Thơ lúc 00 giờ 20 ngày 30 tháng 4-75 mang theo Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Tư lệnh Hạm đội 21 cùng Bộ Tham mưu, trên chiến hạm còn có Chuẩn tướng Chương Dzềnh Quay, Tham mưu trưởng Quân đoàn 4. Chiến hạm trên đường ra biển dù 'trên máy PRC-46 của tàu vẫn phát lời kêu gọi cũa Tướng Nguyễn Khoa Nam..các quân nhân không được tự ý rời nhiệm sở..' Chiến hạm..giữ im lặng vô tuyến trên suốt thủy lộ đường ra biển. HQ 228 đến điểm tập trung ngoài khơi Côn Sơn và theo đoàn chiến hạm HQVN hải hành đến Subic Bay.
-HQ 228 đến Phi mang theo 149 người trong đó có 37 nhân viên thủy thủ đoàn..
HQ 229:
-HQ 229 Lưu Phú Thọ do HQ Th/Tá Vương Thế Tuấn lảm Hạm trưởng rởi VN theo Cửa Tiểu đến Subic Bay với 37 người gồm 34 thủy thủ và 3 người tị nạn (?)
-HQ 230:
Trong những ngày cuối cùng của VNCH, HQ 230 được Bộ tư lệnh Hạm đội biệt phái cho Bộ Tư lệnh Vùng 4 Duyên Hải.cùng 3 chiến hạm khác là các Giang pháo hạm HQ 330 và 331, Tuần duyên hạm HQ 602.
Tư lệnh V4 Duyên Hải là Đại Tá Nguyễn văn Thiện. Hạm trưởng HQ 230 là Thiếu Tá Nguyễn Nguyên
Cuộc di tản ngày 30 tháng 4 của Vùng 4 Duyên Hải đã được ghi nhận với nhiều điểm trái ngược của những người trong cuộc.
- Đại Tá Thiện trong bài hồi ký '4 chiến hạm di tản từ đảo Phú Quôc ' (Trang Lưu niệm Khóa 7 Đệ Nhất Thiên Xứng) ghi lại: Ông đã họp với các Hạm trưởng của 4 Chiến hạm để định điểm hẹn là ngoải khơi cách Hòn Thơm chừng một hải lý về phía Tây. Ông đã dùng LCM 8 để cùng gia đình rời Bộ Tư lệnh sau khi họp tuyên bố giải tán Vùng 4 Duyên Hải, đến HQ 230 và di chuyển ngay về Poulo Panjiang. Ông cho biết là 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5, một số gần 40 PCF từ Hải đội 5 Duyên Phòng (Năm Căn) và HĐ 4 DP do dò tìm tần số trên máy PRC-25 nghe được sự liên lạc giựa 4 chiến hạm nên đến với đoàn tàu (?) và được vớt lên các chiến hạm di tản. Đoàn tảu 4 chiếc do HQ 230 dẫn đầu, theo sau là HQ 330 giòng theo HQ 331 (dùng làm chiến hạm dự trữ) và sau cùng là HQ 602 hải hành về hướng Singapore.
- Trong bài 'Trong cảnh sống còn' phổ biến trên nhiều website hải ngoại và trong tập sách 'Một thuở làm trùm' tác giả Nguyễn Tấn Hưng, Trưởng Phòng 2 Bộ Tư lệnh V4 Duyên Hải đã ghi lại nhiều điều khác biệt hơn: ..' Trợ Chiến Hạm HQ 230 vừa kéo neo, chúng tôi chạy ra vừa kịp lúc. Cho ghe rà lại bên hông định cặp nhưng bị bắn đuổi. Tôi nhìn lên đài chỉ huy thấy ông hạm trưởng Nguyễn Nguyên (mới vài ngày qua dã đich thân lên xin tôi bản đồ vùng TBD). Tôi tin tưởng ở mình, đưa tay vẫy rồi kêu to: Commandant..cho tụi tôi lên với.. nhưng bị bắn đuổi..'
-Tác giả Nguyễn Hữu Duyệt trên HQ 330 ghi lại trong' Vùng 4 DH những ngày cuối' (Lướt sóng 40) : 'Sau khi Tách bến HQ 330 chạy vòng quanh phía Nam Phú Quốc để phối trí và đến điểm hẹn là Hòn Khoai, vớt được khoảng 400 người. HQ 331 bị cháy cả hai máy, bất khiển dụng, trên tàu có khoảng 300 người nên được HQ 330 kéo theo, dự trù sẽ chuyển số người này khi gặp được một dương vận hạm. HQ 330 dẫn đầu toán. Kéo theo HQ 331, sau đó là HQ 230 và HQ 602 đi về Singapore. Sau khi bị Singapore từ chối không cho tị nạn, đoàn tầu quyết định đi về Úc'.. Ông viết tiếp: ' Tôi nghĩ chiếc HQ 230 phải là chiếc dẫn đầu vì có vị TL V4 DH trên đó và ông đã hứa là sẽ dẫn đoàn tàu đến nơi đến chốn với kinh nghiệm của ông..nhưng HQ 330 vẫn được chỉ định dẫn đầu chạy với một chân vịt nhưng lại kéo thêm HQ 33, kế đó là HQ 230 và sau cùng là HQ 602.
- Theo Đ/Tá Thiện: 'Đoàn tảu chúng tôi rời An Thới với 4 chiến hạm và gần 3000 người, đến Subic bay với 3 tàu và khoản 2500 người tỵ nạn..' Tuy nhiên, trong List of RVNN ships evacuated to the Philippines on April 30, 75 (ht*p.Hoangsaparacels.blogspot.com) thì các con số do HK ghi nhận như sau:
-HQ 230: mang theo 145 người gồm 40 thủy thủ đoàn và 105 người tị nạn. HQ 330/ 331.. không rõ số người nhưng chắc chắn không thể có 2500 người trên hai tàu này.
Con số của Đ/Tá Thiện có lẽ bao gồm cả số người trên Tàu Trường Thanh (trên tàu có Tướng Lân TQLC cùng bộ tham mưu) cũng ghé Singapore xin tị nạn nhưng sau đó tự tìm đường đi Philippines (?)
HQ 231:
Chiến hạm HQ 231 Nguyễn Đức Bổng, do HQ Đ/Úy Nguyễn văn Phước làm Hạm trưởng, trong thời gian tháng 4 năm 1975 được tăng phái cho vùng 2 Duyên hải, giữ nhiệm vụ hộ tống và bảo vệ các Dương vận hạm trong khi làm công tác chuyẻn vận và di tản thường dân và các đơn vị quân đội thoát khỏi các vùng CQ sắp chiếm. Cuối tháng 4, HQ 231 di chuyển về Căn cứ Đồng Tâm và sau đó được giao nhiệm vụ ngược dòng Mekong về Cù lao An Long (Long Xuyên), biệt phái cho Bộ Chỉ huy Liên giang đoàn án ngữ tại Tân Châu. Tối 29-4 , chiến hạm được lệnh về Đồng Tâm, Mỹ Tho..Sáu giờ sáng 30, khi đến Đồng Tâm, căn cứ đã bị CQ nằm vùng khống chế, HQ 231 chạy quanh Mỹ Tho-Đồng Tâm và khi có lệnh 'buông súng' của DVM, chiến hạm chạy ra biển theo đường Cửa Tiểu, rồi đến Côn sơn và sau cùng đi Subic bay. HQ 231 đến Phi với 126 người gồm 58 thủy thủ và 64 người tị nạn.
Tân Sơn Hòa chuyển