Cà Kê Dê Ngỗng
Con cháu thần Thái Dương và phụ nữ Trung Hoa, Hàn Quốc_ Vũ Ánh.
Một chính khách trẻ vốn là ngôi sao đang lên của Nhật Bản đã mô tả việc sử dụng phụ nữ để mua vui cho quân đội của họ trong Đệ nhị Thế Chiến là cần thiết. Nhân vật này chính là thị trưởng Toru
Vấn đề gái mãi dâm và quân đội viễn chinh của bất cứ quốc gia nào, trong đó kể cả Mỹ và các quốc gia Âu
Tôi lấy trường hợp gần đây nhất là trường hợp quân đội Mỹ hiện diện trên lãnh thổ VNCH trong thời chiến trước 30-4-1975. Vào thời điểm đó, số lượng gái mãi dâm gia tăng vì sự hiện diện của nửa triệu quân Mỹ là một tệ nạn xã hội, nhưng không nhất thiết phải dựa vào sự cưỡng bức do quân đội Mỹ hay nhà cầm quyền chủ trương. Nó không có những kiểu nhà chứa (brothel) được thiết lập trong đó chứa chấp nhiều phụ nữ Hàn quốc, Trung Hoa, Philippines bị quân đội Nhật cưỡng chế vào phục vụ tình dục cho những binh lính của họ.
Đối với dân tộc Trung Hoa, những hành động của quân đội Hoàng Gia Nhật Bản dưới cái nhãn của Chủ nghĩa Phát xít là một đã tạo ra một mối thâm thù mang tính truyền kiếp giữa hai dân tộc. Nếu những ai đã đọc những trang sử do chính những nhân chứng viết lại vơi đầy đủ những hình chụp được thu thập dần dần và trở thành một phần của lịch sử cận đại Trung Hoa nhan đề “Naking Massacre” hay “Nanjing Massacre” từ bản tiếng Anh người ta sẽ không thể không ngạc nhiên về cái ác của quân đội Nhật Bản chỉ trong giai đoạn 6 tuần lễ sau khi họ chiếm được cố đô Nam Kinh (Nanking hay Nanjing) của Trung Quốc. Khoảng trên 600,000 người Trung Hoa kể cả phụ nữ và trẻ em bị sát hại bằng đủ mọi hình thức. Riêng cách mà quân đội Nhật đối xử với phụ nữ Trung Hoa đã chiếm một thế giới riêng trong “Naking Massacre”. Thế giới ấy được đặt tên là “Naking Rape” với khoảng trên 200,000 phụ nữ bị hãm hiếp và bị lùa vào các nhà chứa ở ngay trung tâm Nam Kinh. Đọc những trang sử này, người ta hiểu tại sao ngày nay cứ mỗi khi có một biến động nào giữa hai quốc gia Nhật và Trung Quốc, hòn than cháy âm ỉ từ “Naking Rape” lại được sử dụng như những chất xúc tác làm bùng lên thù hận sẽ trở thành truyền kiếp giữa hai dân tộc kể từ ngày 13 tháng 12 năm 1937.
Riêng tại Hàn Quốc, khi quân đội Nhật Bản đô hộ đất nước có tên gọi rất đẹp là Triều Tiên, họ áp dụng một chính sách hà khắc không kém mà xem ra thì có vẻ êm ái hơn, nhưng thâm độc hơn, đó là chủ trương xóa sạch những dấu vết văn hóa truyền thống và sử liệu cổ của người Hàn nhất là đối với di sản của nền văn minh chùa đá. Trong giai đoạn của Thế Chiến Thứ Hai, để phục vụ cho nhu cầu giải trí cho đội quân viễn chinh Nhật, các phụ nữ Triều Tiên có thân nhân bị gán cho tội chống Nhật phải đền bù lại bằng cách vào phục vụ tại các nhà chứa dành cho binh lính Nhật. Trong văn khố Quốc gia tại Nam Hàn, có hàng trăm ngàn thư tịch những tài liệu và hình ảnh nói đến những câu chuyện đẫm nước mắt của những phụ nữ bị giam thân vào chốn lầu xanh để làm nô lệ tình dục cho binh lính Nhật Bản. Sau chiến tranh, nhiều nhân chứng còn sống sót đến ngày nay và họ không thể nào quên được những ngày nhục nhã ấy, dù chính phủ Nhật Bản cũng đã cố gắng giải quyết bằng cách đền bù cho gia đình những nạn nhân. Nhưng thực tế làm sao mà những đền bù vật chất xóa tan đi được đau khổ tinh thần mà hàng trăm ngàn phụ nữ Hàn phải trải qua trong suốt những năm tháng thanh xuân của cuộc đời họ?
Trên thực tế, người ta có thể qui kết cho những dân tộc còn vướng mắc vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan khiến cho chính những dân tộc ấy thường bị dính vào những mắt lưới làm chậm đi sự phát triển, đôi khi làm thiệt hại đến quyền lợi của đất nước mình. Nhưng nếu người ta tự đặt mình vào vị trí của người Trung Hoa hay người Hàn, liệu người ta có thể dễ dàng quên được “Cuộc tàn sát ở Nam Kinh” hay “Naking Rape” hay “Những Nhà Chứa ở Triều Tiên” không? Cuối cùng, cái không gian của riêng mỗi dân tộc trong Đệ Nhị Thế Chiến cần được nhìn theo nhiều chiều khác nhau với những hậu quả được soi rọi bằng những lăng kính khác nhau. Cho tới nay, việc các nhà lãnh đạo Nhật Bản thường hay đến bái lạy tại đền Shinto nơi có bài vị của những binh lính và sĩ quan của quân đội Hoàng gia Nhật trong Đệ Nhị Thế Chiến trong đó có nhiều người từng bị tòa án quốc tế kết án là tội phạm chiến tranh thường làm cho dân chúng Trung Hoa và Hàn quốc phẫn nộ vì điều này khiến cho họ nghĩ đến những ngày đau đớn và nhục nhã của chính họ. Người Nhật với niềm kiêu hãnh lạnh giá nhất định không chịu chính thức xin lỗi về những hành động tàn ác trong Đệ Nhị Thế Chiến đối với dân tộc Trung Hoa và dân tộc Hàn. Tự coi mình là giòng dõi của Thần Thái Dương, người Nhật dù đã thất trận năm 1945 và bị lệ thuộc vào Hoa Kỳ khá nặng nề, nhưng dường như họ vẫn chưa thể bỏ được tinh thần coi nhẹ các dân tộc khác, dù nước Nhật đã trải qua những cơn biến động về xã hội cực kỳ nhục nhã sau khi đầu hàng đồng minh, giai đoạn mà một lính Mỹ chỉ cần đưa ra vài hộp thịt và mấy thỏi chocolate cũng có thể ngủ với một phụ nữ Nhật khi toàn bộ nước Nhật gần như kiệt quệ sau Thế Chiến Thứ Hai.
Nhưng người Nhật, ngoài những sửa đổi, canh tân và trở nên một trong những cường quốc kinh tế Á châu vẫn duy trì một trường đại học huấn luyện cho những nhà lãnh đạo tương lai của nước Nhật về truyền thống của con cháu Thần Thái Dương ở thủ đô Tokyo và cố đô Kyoto, trong khi những nhà lãnh đạo đương quyền hàng năm vẫn tìm cách này hay cách khác đến bái lạy tại đền Shinto (Thần đạo). Đảng Phục Hưng Nhật Bản được thành lập tuy chưa gây được nhiều ảnh hưởng để cầm chính quyền ở Tokyo, nhưng ở địa phương đảng này bắt đầu tạo được dư luận trong dân chúng Nhật. Ông Toru Hashimoto là đồng sáng lập của Đảng Phục Hưng Nhật Bản và là tỉnh trưởng trẻ nhất trong lịch sử nước Nhật trước khi trở thành thị trưởng Osaka có thể được coi là đại diện cho khối cử tri Nhật muốn quay trở lại thời kỳ vàng son trước Đệ Nhị Thế Chiến. Hồi năm ngoái ông từng phát biểu rằng nước Nhật cần “chế độ độc tài” sau khi mối tranh chấp giữa Tokyo và Bắc Kinh về quần đảo Senkaku ngày càng trở nên căng thẳng. Đây cũng là dịp để đẩy đảng Phục Hưng Nhật Bản lên một nấc thang mới trong việc lên giây cót cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan ở quốc gia này và đồng thời đây cũng là cơ hội để chủ nghĩa tân Phát xít tái sinh ở nước Nhật.
Tuy nhiên, việc ông Toru Hashimoto cho rằng dùng phụ nữ để giải khuây cho những binh sĩ Nhật liều mạng trên chiến trường là việc làm cần thiết đã tạo ra sự phẫn nộ tại Trung Quốc và Hàn quốc. Báo chí tại hai quốc gia này nói rằng nếu người Nhật thấy rằng việc dùng phụ nữ để phục vụ tình dục cho binh lính thuộc đoàn quân viễn chinh Nhật là cần thiết thì tại sao họ lại không dùng phụ nữ Nhật Bản vào việc này có phải hay hơn không? Cuối cùng là gì nếu không muốn nói rằng người Nhật dám làm những chuyện tàn ác và chà đạp phụ nữ của các dân tộc khác cũng chỉ vì quốc gia này lúc đó rất mạnh và họ đã chiếm được Hoa lục và Triều Tiên. Khi một quốc gia đã giầu và mạnh thì họ có thể làm bất cứ điều gì đối với một dân tộc yếu đuối hơn.
Cho nên, nếu ngày nay, còn có dân tộc khác kính phục người Nhật Bản đã biết biến đau thương thành hành động để đưa nước Nhật Bản từ một đất nước tan tác, xuống đến tận cùng đất đen sau khi đầu hàng đồng minh năm 1945 trở thành một trong những nước có nền kinh tế hàng đầu trên thế giới, thì họ cũng vẫn không thể chấp nhận lời tuyên bố của Toru Hashimoto. Ông này chỉ là bản sao của ông Hoàng Asaka, một hoàng tử trong Hoàng gia Nhật, nhưng đồng thời lại là một anh “đồ tể” trong thời gian nước Nhật đô hộ Trung Hoa sau trận chiến Trung Nhật. Hàng ngàn người Trung Hoa đã chết dưới lưỡi kiếm của ông ta.
Chúng ta có thể ghét cay ghét đắng thái độ hung hãn của Trung Quốc ngày nay khi họ bày hàng hành động đầy chất Đại Hán đã ăn vào máu của người Tầu từ 5,000 năm nay, chúng ta có thể giận dữ vì hành động nhâng nháo của Kim Jong Un tại Bắc Hàn khi thử hạt nhân, nhưng ngược lại chúng ta cũng không thể ủng hộ lời tuyên bố của Toru Hashimoto được. Ủng hộ Toru Hashimoto đồng nghĩa với lời chào đón chế độ Tân Phát Xít đang được khi sinh tại nước Nhật hoặc ít ra là cũng bị hiểu lầm là hàm ý chấp nhận sự ngang ngược của Trung Quốc ở Biển Đông khi lục địa này đã bắt đầu giầu có với quân lực đông và mạnh hay ủng hộ sự kiện một quốc gia nghèo đói như Bắc Hàn nhưng khi có được vài quả bom nguyên tử là được nể vì ngay.
http://tuanbaosongonline.com/D_1-2_2-184_4-609/con-chau-than-thai-duong-va-phu-nu-trung-hoa-han-quoc.html
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Con cháu thần Thái Dương và phụ nữ Trung Hoa, Hàn Quốc_ Vũ Ánh.
Một chính khách trẻ vốn là ngôi sao đang lên của Nhật Bản đã mô tả việc sử dụng phụ nữ để mua vui cho quân đội của họ trong Đệ nhị Thế Chiến là cần thiết. Nhân vật này chính là thị trưởng Toru
Vấn đề gái mãi dâm và quân đội viễn chinh của bất cứ quốc gia nào, trong đó kể cả Mỹ và các quốc gia Âu
Tôi lấy trường hợp gần đây nhất là trường hợp quân đội Mỹ hiện diện trên lãnh thổ VNCH trong thời chiến trước 30-4-1975. Vào thời điểm đó, số lượng gái mãi dâm gia tăng vì sự hiện diện của nửa triệu quân Mỹ là một tệ nạn xã hội, nhưng không nhất thiết phải dựa vào sự cưỡng bức do quân đội Mỹ hay nhà cầm quyền chủ trương. Nó không có những kiểu nhà chứa (brothel) được thiết lập trong đó chứa chấp nhiều phụ nữ Hàn quốc, Trung Hoa, Philippines bị quân đội Nhật cưỡng chế vào phục vụ tình dục cho những binh lính của họ.
Đối với dân tộc Trung Hoa, những hành động của quân đội Hoàng Gia Nhật Bản dưới cái nhãn của Chủ nghĩa Phát xít là một đã tạo ra một mối thâm thù mang tính truyền kiếp giữa hai dân tộc. Nếu những ai đã đọc những trang sử do chính những nhân chứng viết lại vơi đầy đủ những hình chụp được thu thập dần dần và trở thành một phần của lịch sử cận đại Trung Hoa nhan đề “Naking Massacre” hay “Nanjing Massacre” từ bản tiếng Anh người ta sẽ không thể không ngạc nhiên về cái ác của quân đội Nhật Bản chỉ trong giai đoạn 6 tuần lễ sau khi họ chiếm được cố đô Nam Kinh (Nanking hay Nanjing) của Trung Quốc. Khoảng trên 600,000 người Trung Hoa kể cả phụ nữ và trẻ em bị sát hại bằng đủ mọi hình thức. Riêng cách mà quân đội Nhật đối xử với phụ nữ Trung Hoa đã chiếm một thế giới riêng trong “Naking Massacre”. Thế giới ấy được đặt tên là “Naking Rape” với khoảng trên 200,000 phụ nữ bị hãm hiếp và bị lùa vào các nhà chứa ở ngay trung tâm Nam Kinh. Đọc những trang sử này, người ta hiểu tại sao ngày nay cứ mỗi khi có một biến động nào giữa hai quốc gia Nhật và Trung Quốc, hòn than cháy âm ỉ từ “Naking Rape” lại được sử dụng như những chất xúc tác làm bùng lên thù hận sẽ trở thành truyền kiếp giữa hai dân tộc kể từ ngày 13 tháng 12 năm 1937.
Riêng tại Hàn Quốc, khi quân đội Nhật Bản đô hộ đất nước có tên gọi rất đẹp là Triều Tiên, họ áp dụng một chính sách hà khắc không kém mà xem ra thì có vẻ êm ái hơn, nhưng thâm độc hơn, đó là chủ trương xóa sạch những dấu vết văn hóa truyền thống và sử liệu cổ của người Hàn nhất là đối với di sản của nền văn minh chùa đá. Trong giai đoạn của Thế Chiến Thứ Hai, để phục vụ cho nhu cầu giải trí cho đội quân viễn chinh Nhật, các phụ nữ Triều Tiên có thân nhân bị gán cho tội chống Nhật phải đền bù lại bằng cách vào phục vụ tại các nhà chứa dành cho binh lính Nhật. Trong văn khố Quốc gia tại Nam Hàn, có hàng trăm ngàn thư tịch những tài liệu và hình ảnh nói đến những câu chuyện đẫm nước mắt của những phụ nữ bị giam thân vào chốn lầu xanh để làm nô lệ tình dục cho binh lính Nhật Bản. Sau chiến tranh, nhiều nhân chứng còn sống sót đến ngày nay và họ không thể nào quên được những ngày nhục nhã ấy, dù chính phủ Nhật Bản cũng đã cố gắng giải quyết bằng cách đền bù cho gia đình những nạn nhân. Nhưng thực tế làm sao mà những đền bù vật chất xóa tan đi được đau khổ tinh thần mà hàng trăm ngàn phụ nữ Hàn phải trải qua trong suốt những năm tháng thanh xuân của cuộc đời họ?
Trên thực tế, người ta có thể qui kết cho những dân tộc còn vướng mắc vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan khiến cho chính những dân tộc ấy thường bị dính vào những mắt lưới làm chậm đi sự phát triển, đôi khi làm thiệt hại đến quyền lợi của đất nước mình. Nhưng nếu người ta tự đặt mình vào vị trí của người Trung Hoa hay người Hàn, liệu người ta có thể dễ dàng quên được “Cuộc tàn sát ở Nam Kinh” hay “Naking Rape” hay “Những Nhà Chứa ở Triều Tiên” không? Cuối cùng, cái không gian của riêng mỗi dân tộc trong Đệ Nhị Thế Chiến cần được nhìn theo nhiều chiều khác nhau với những hậu quả được soi rọi bằng những lăng kính khác nhau. Cho tới nay, việc các nhà lãnh đạo Nhật Bản thường hay đến bái lạy tại đền Shinto nơi có bài vị của những binh lính và sĩ quan của quân đội Hoàng gia Nhật trong Đệ Nhị Thế Chiến trong đó có nhiều người từng bị tòa án quốc tế kết án là tội phạm chiến tranh thường làm cho dân chúng Trung Hoa và Hàn quốc phẫn nộ vì điều này khiến cho họ nghĩ đến những ngày đau đớn và nhục nhã của chính họ. Người Nhật với niềm kiêu hãnh lạnh giá nhất định không chịu chính thức xin lỗi về những hành động tàn ác trong Đệ Nhị Thế Chiến đối với dân tộc Trung Hoa và dân tộc Hàn. Tự coi mình là giòng dõi của Thần Thái Dương, người Nhật dù đã thất trận năm 1945 và bị lệ thuộc vào Hoa Kỳ khá nặng nề, nhưng dường như họ vẫn chưa thể bỏ được tinh thần coi nhẹ các dân tộc khác, dù nước Nhật đã trải qua những cơn biến động về xã hội cực kỳ nhục nhã sau khi đầu hàng đồng minh, giai đoạn mà một lính Mỹ chỉ cần đưa ra vài hộp thịt và mấy thỏi chocolate cũng có thể ngủ với một phụ nữ Nhật khi toàn bộ nước Nhật gần như kiệt quệ sau Thế Chiến Thứ Hai.
Nhưng người Nhật, ngoài những sửa đổi, canh tân và trở nên một trong những cường quốc kinh tế Á châu vẫn duy trì một trường đại học huấn luyện cho những nhà lãnh đạo tương lai của nước Nhật về truyền thống của con cháu Thần Thái Dương ở thủ đô Tokyo và cố đô Kyoto, trong khi những nhà lãnh đạo đương quyền hàng năm vẫn tìm cách này hay cách khác đến bái lạy tại đền Shinto (Thần đạo). Đảng Phục Hưng Nhật Bản được thành lập tuy chưa gây được nhiều ảnh hưởng để cầm chính quyền ở Tokyo, nhưng ở địa phương đảng này bắt đầu tạo được dư luận trong dân chúng Nhật. Ông Toru Hashimoto là đồng sáng lập của Đảng Phục Hưng Nhật Bản và là tỉnh trưởng trẻ nhất trong lịch sử nước Nhật trước khi trở thành thị trưởng Osaka có thể được coi là đại diện cho khối cử tri Nhật muốn quay trở lại thời kỳ vàng son trước Đệ Nhị Thế Chiến. Hồi năm ngoái ông từng phát biểu rằng nước Nhật cần “chế độ độc tài” sau khi mối tranh chấp giữa Tokyo và Bắc Kinh về quần đảo Senkaku ngày càng trở nên căng thẳng. Đây cũng là dịp để đẩy đảng Phục Hưng Nhật Bản lên một nấc thang mới trong việc lên giây cót cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan ở quốc gia này và đồng thời đây cũng là cơ hội để chủ nghĩa tân Phát xít tái sinh ở nước Nhật.
Tuy nhiên, việc ông Toru Hashimoto cho rằng dùng phụ nữ để giải khuây cho những binh sĩ Nhật liều mạng trên chiến trường là việc làm cần thiết đã tạo ra sự phẫn nộ tại Trung Quốc và Hàn quốc. Báo chí tại hai quốc gia này nói rằng nếu người Nhật thấy rằng việc dùng phụ nữ để phục vụ tình dục cho binh lính thuộc đoàn quân viễn chinh Nhật là cần thiết thì tại sao họ lại không dùng phụ nữ Nhật Bản vào việc này có phải hay hơn không? Cuối cùng là gì nếu không muốn nói rằng người Nhật dám làm những chuyện tàn ác và chà đạp phụ nữ của các dân tộc khác cũng chỉ vì quốc gia này lúc đó rất mạnh và họ đã chiếm được Hoa lục và Triều Tiên. Khi một quốc gia đã giầu và mạnh thì họ có thể làm bất cứ điều gì đối với một dân tộc yếu đuối hơn.
Cho nên, nếu ngày nay, còn có dân tộc khác kính phục người Nhật Bản đã biết biến đau thương thành hành động để đưa nước Nhật Bản từ một đất nước tan tác, xuống đến tận cùng đất đen sau khi đầu hàng đồng minh năm 1945 trở thành một trong những nước có nền kinh tế hàng đầu trên thế giới, thì họ cũng vẫn không thể chấp nhận lời tuyên bố của Toru Hashimoto. Ông này chỉ là bản sao của ông Hoàng Asaka, một hoàng tử trong Hoàng gia Nhật, nhưng đồng thời lại là một anh “đồ tể” trong thời gian nước Nhật đô hộ Trung Hoa sau trận chiến Trung Nhật. Hàng ngàn người Trung Hoa đã chết dưới lưỡi kiếm của ông ta.
Chúng ta có thể ghét cay ghét đắng thái độ hung hãn của Trung Quốc ngày nay khi họ bày hàng hành động đầy chất Đại Hán đã ăn vào máu của người Tầu từ 5,000 năm nay, chúng ta có thể giận dữ vì hành động nhâng nháo của Kim Jong Un tại Bắc Hàn khi thử hạt nhân, nhưng ngược lại chúng ta cũng không thể ủng hộ lời tuyên bố của Toru Hashimoto được. Ủng hộ Toru Hashimoto đồng nghĩa với lời chào đón chế độ Tân Phát Xít đang được khi sinh tại nước Nhật hoặc ít ra là cũng bị hiểu lầm là hàm ý chấp nhận sự ngang ngược của Trung Quốc ở Biển Đông khi lục địa này đã bắt đầu giầu có với quân lực đông và mạnh hay ủng hộ sự kiện một quốc gia nghèo đói như Bắc Hàn nhưng khi có được vài quả bom nguyên tử là được nể vì ngay.
http://tuanbaosongonline.com/D_1-2_2-184_4-609/con-chau-than-thai-duong-va-phu-nu-trung-hoa-han-quoc.html