Truyện Ngắn & Phóng Sự
ĐẠI BÀNG GẪY CÁNH THÁNG TƯ *
Tác Giả: Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
Để kính dâng anh hồn đồng đội tôi đã ngã xuống để bảo vệ thủ đô Saigon.
Sau
trận Khánh Dương, Ban Mê Thuột, Tiểu đoàn 2 pháo binh Nhảy Dù về hậu cứ
Nguyễn Huệ, Long Bình để tái bổ xung, và được tái trang bị 18 khẩu đại
bác 105 ly kiểu cũ M2A1 từ thời đệ nhị thế chiến, tôi được chỉ định
thành lập lại pháo đội B2 với quân số gần 100 người trong đó khoảng 20
người từ pháo đội chỉ huy đưa sang, còn lại bổ xung toàn là lao công đào
binh và quân phạm đủ gốc lính từ quân lao Gò Vấp.
Lệnh trên đưa
ra phải huấn luyện tác xạ cấp tốc tại đơn vị và không bắn đạn thật, vì
tình thế sôi động có thể hành quân bất cứ lúc nào, không còn sĩ quan
huấn luyện, một mình tôi làm tất cả mọi chuyện cho pháo đội. Một tuần
sau, ngày 29 tháng 4 năm 1975, lệnh hành quân đưa ra, về Saigon bảo vệ
thủ đô. Thông thường một pháo đội Dù đóng quân thì có một đại đội Dù tác
chiến bảo vệ, lần này thì không, lệnh trên cho biết phải tự bảo vệ. Cho
thấy tình hình quân số trừ bị của Nhảy Dù coi như cạn.
Từ Long
Bình theo xa lộ Đại Hàn, pháo đội tôi chiếm đóng sân vận động Cộng Hòa ở
đường Nguyễn Kim vào xế trưa, người quản nhiệm sân vận động ngơ ngác
khi thấy pháo đội tôi kéo vào sân. Sau khi hướng bắn đã sẵn sàng một
vòng cung về phía Sư Đoàn Nhảy Dù, Bộ Tổng Tham Mưu, và Dinh Độc Lập,
tôi cho lệnh đóng cửa sân lại, người quản nhiệm năn nỉ cần phải ra vào
làm nhiệm vụ nên xin giữ chìa khóa, và tôi bằng lòng. Thượng sĩ Thọ,
thường vụ pháo đội nói đùa với tôi: Trung úy định tử thủ. Tôi trả lời
không vào câu hỏi: Tình thế lộn xộn, coi chừng địch trà trộn xin vào
sân, nên phải đóng cửa, anh cho con cái lên hết trên khán đài, dàn súng
cá nhân và lựu đạn sẵn sàng, còn các các khẩu thì trực tại chỗ, sẵn sàng
tác xạ. Hơn 2,000 quả đạn pháo tôi cho tháo ra khỏi thùng và gắn đầu
nổ. Lúc này tôi cũng hơi lo, phát pháo đầu tiên của pháo đội để bảo vệ
thủ đô sẽ do những pháo thủ trời gầm đất lở mới vào nghề như thế này
bắn, thiệt đã. Ngoài các khẩu trưởng và ngắm viên là có kinh nghiệm còn
lại toàn tay mơ, pháo đội tôi toàn là thứ dữ từ quân lao xá tội vào giờ
chót đưa về, tôi cũng không có thì giờ để mà hỏi han, chỉ cho một số anh
em mới về đi phép hai ngày với lời dặn dò nếu các anh cảm thấy có bổn
phận của một người lính trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng này thì về lại
đơn vị đúng ngày giờ, nếu không thì đào ngủ luôn chứ về trễ thì đừng
trách. Đòn tâm lý có hiệu quả, không có một người nào trễ phép, tôi mừng
lắm, ít ra giờ chót tôi còn cả trăm tay súng sẵn sàng sống chết với
mình. Họ có biết về Dù là đeo tử bài trước ngực hay không tôi không rõ,
chứ biết rõ họ đã thấm kỷ luật của Nhảy Dù. Gần trưa ngoài cổng có người
xin vào, vị này là Trung úy Nam của Trường Quân Báo Cây Mai, Ông dẫn
đứa con trai là trung sĩ nhất Liêng đi phép trễ không dám về trình diện
đơn vị nên nhờ bố dẫn vào, tôi bằng lòng cho Liêng về lại pháo đội làm
khẩu trưởng khẩu 3 tức là khẩu chuẩn, đồng thời nhờ Trung Úy Nam giới
thiệu và chở xe Honda đến một tiệm tạp hóa gần đó để mua chịu thực phẩm
một khi đụng lớn không tiếp tế được, người chủ tiệm bằng lòng và nói lúc
nào cũng sẵn sàng giúp đỡ Nhảy Dù. Đến trưa thì có một pháo đội Biệt
Động Quân Biên Phòng do một vị Thiếu Tá chỉ huy kéo vào xin đóng quân.
Tôi gọi Tiểu đoàn tôi báo cho biết rồi mời vào. Tôi cũng xin lỗi vị chỉ
huy rồi nói thẳng, nếu có gì lộn xộn xin đừng chạy về hướng pháo đội tôi
vì tôi sẽ trực xạ nếu Việt cộng đánh vào. Để tránh bị Việt cộng trà
trộn, coi như hai vị trí pháo biệt lập, cũng không liên lạc hài: “Trung
úy định tử thủ”.
Đến
lúc này thì sân Cộng Hòa đã trở thành một điạ điểm tìm đơn vị bị thất
lạc. Hàng ngàn nếu không nói là hàng mấy ngàn binh lính, sĩ quan của
nhiều quân binh chủng mà nhiều nhất là lính Biệt Khu Thủ Đô bị lạc đơn
vị nghe tin Nhảy Dù về sân Cộng Hòa nên họ tự động tìm đến, Họ đến tìm
đơn vị không thấy rồi lại đi, không hiểu sao họ biết có chúng tôi ở đây
mà tìm đến, có người còn súng có người không, đa số là tay không lặng lẽ
đi ngang pháo đội tôi nhìn vào, các pháo thủ của tôi thì súng cá nhân
đã lên đạn đề phòng Việt cộng giả dạng đánh úp. Lúc này mà tôi yêu cầu
những anh em còn súng ở lại bảo vệ cho chúng tôi bắn, chắc chắn họ sẽ
bằng lòng nhưng tình thế hết sức phức tạp hiện nay không tiện yêu cầu
điều này. Một chiếc trực thăng UH1B bị lạc đơn vị đáp xuống giữa sân hỏi
han tin tức rồi lại bay lên ( Sau này đi tù chung gặp mặt kể lại mới
biết tên là Đại úy Trần Văn Phước). Nhiều chiếc trực thăng khác bay từ
biển vào hướng tòa đại sứ Hoa Kỳ rồi lại bay ra, tôi biết họ đang di
tản, bỏ của chạy lấy người.
Đến tối tôi cho đóng cửa sân lại rồi
leo lên khán đài chính nhìn về phía Saigon lòng buồn vô hạn. Tôi sinh ra
và lớn lên giữa lòng thủ đô, cuộc đời tôi gắn liền với Saigon, từng
hàng cây góc phố, từng con đường nhỏ thân quen tiếng gọi mì ban đêm, con
đường Lê Thánh Tôn ngập lá me bay buổi sáng vẫn còn đây, dòng sông tuổi
thơ của tôi thật êm đềm trôi trên hè phố sau giờ tan học, gần hơn chút
nữa là ngôi trường trung học Chu Văn An thân yêu, nơi tuổi trẻ tôi ươm
biết bao nhiêu mộng mơ, rốt cục cũng chìm vào cơn lốc chiến tranh.
Saigon máu thịt quê hương tôi đang hấp hối. Saigon của tôi đang bị bức
tử. Giờ này tôi không còn nghe tiếng đại bác ru đêm, tất cả các ngõ vào
Saigon đã bị phong kín, cơn hấp hối này sẽ có tôi tham dự như một chứng
nhân nếu còn sống sau chinh chiến, hay sẽ nằm xuống tức tưởi nghẹn ngào.
Dòng suy nghĩ miên man đưa tôi trở về với gia đình, hai đứa con nhỏ và
Thụy Trang yêu dấu của tôi đang ở cách tôi chỉ khoảng mười phút xe, em
giờ này chắc đang lo sợ và có thao thức như anh không, chắc em cũng hiểu
tại sao đến giờ phút này anh vẫn còn cầm súng, nếu anh có bề gì thì
ráng nuôi con, sau này bảo bố nó là lính Nhảy Dù, chết để bảo vệ thủ đô.
Những tràng súng lẽ tẻ từ các nơi dội về, tôi leo xuống khán đài trở về
đài tác xạ, giở xấp bản đồ miền Tây ra nhìn không biết bao nhiêu lần,
cả Quân khu 4 vẫn còn nguyên, cùng lắm là Tiểu đoàn sẽ rút về đây. Nhưng
chuyện này đã không xảy ra, quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử.
Chuyện này chúng tôi đã biết, sau khi Kissinger thả những quả bóng bàn
ngoại giao lăn lốc cốc tại Bắc Kinh năm 1971 sửa soạn cho Tổng Thống
Nixon bay qua Thượng Hải ký thông cáo chung bình thường hoá ngoại giao
giữa Hoa Kỳ và Trung cộng thì mọi chuyện đã an bài, cộng sản xưa nay ký
thông cáo chung bao giờ cũng phải có điều kiện, phải có món quà ra mắt,
đó là lý do Hoàng Sa của Việt Nam lọt vào tay của Trung cộng năm 1972
trong khi hải quân Hoa Kỳ nằm bất động tại biển Đông, từ đó chúng tôi
biết miền nam Việt Nam sẽ bị bỏ rơi, và Saigon không thể mất trừ khi có
phép lạ. Chúng tôi đều biết Nhảy Dù sẽ về bảo vệ thủ đô và đánh một trận
cuối đời thật oanh liệt, có chết cũng cam lòng, nhưng không bao giờ dự
trù bị buông súng tại đây.
Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều
tiếng nổ lớn như là hoả tiển 122 ly về hướng phi trường Tân Sơn Nhất,
bầu trời bỗng nhiên thấp xuống thật u ám như sắp để tang cho một chế độ,
những người lính lạc đơn vị lại kéo về sân Cộng Hòa rồi lại lủi thủi ra
đi, những giờ phút cuối đời lính, họ như những con đại bàng bị tiễn
thương, đang cố gắng vỗ đôi cánh gẫy lần chót tìm về cái tổ ấm quân đội
đầy mùi thuốc súng, vì quân đội là ngôi nhà thứ hai của họ, ở đó họ mới
có thể cầm súng để bảo vệ tổ quốc, họ cũng chính là tôi, là lính. Gần 10
giờ sáng, những tràng đại bác đầu tiên của Pháo Đội A và Pháo đội C ở
Trường đua Phú Thọ bắt đầu bắn, điện văn xin tác xạ từ các nơi gọi về
Tiểu đoàn tới tấp. Các đơn vị của Lữ đoàn 4 Dù, của Biệt Động Quân đang
đụng địch, Pháo đội Biệt Động Quân cũng đã tác xạ khói bay ngược về phía
chúng tôi. Tôi cho cả pháo đội quay nòng về hướng bắn sẵn sàng tác xạ
và khẩu chuẩn nạp đạn khói, một lúc sau Thiếu Tá Việt , Trưởng ban 3 cho
điểm tác xạ bắn theo yêu cầu. Lúc này đạn lớn đạn nhỏ nổ ran về phía Sư
đoàn, hướng Bà Điểm và nhiều nhất là khu Ngã Ba Hàng Xanh, những chiếc
trực thăng Mỹ từ Đệ thất hạm đội vẫn còn tiếp tục bay về hướng Toà đại
sứ cùng với những chiếc Cobra bay bảo vệ nhưng không nghe tiếng bắn từ
phi cơ. Mặc dầu tôi chưa bắn, nhưng Tiểu đoàn bỗng ra lệnh check fire
(ngưng bắn). Một lúc sau, tôi gọi về Tiểu đoàn nói Hướng bắn của tôi đâu
có gần mấy con chuồn chuồn, tôi thấy rõ bằng mắt thường, bảo đảm bắn
không rớt tụi nó đâu, đích thân cho tác xạ đi. Thiếu Tá Việt bảo Đợi.
Tôi buông ống liên hợp xuống, ngao ngán. Đến giờ phút này, chính phủ hai
ngày lộ mặt, sợ pháo binh Nhảy Dù bắn rơi máy bay Mỹ nên ra lệnh check
fire, tiện thể là check fire luôn không cho bắn vào Việt cộng đang đánh
vào các đơn vị phòng thủ Saigon. Tức quá, tôi ra lệnh cho 5 khẩu còn lại
nạp đạn nổ mạnh, đồng đội tôi đang ngã xuống oanh liệt để bảo vệ thủ
đô, còn chúng tôi thì bị khóa họng, không yểm trợ cho họ được, giống hết
như trận Charlie năm tháng 4/1972. Đợi một lúc nữa, tôi bước ra đài tác
xạ tiến về pháo đội, các khẩu trưởng hỏi nạp đạn lâu quá sao chưa bắn
vậy Trung úy, tôi chỉ tay lên trời chỉ mấy chiếc trực thăng nói tại tụi
nó đó.
Vừa lúc đó Hạ sĩ nhất Thạch truyền tin chạy ra gọi tôi:
Trung Úy, ông Minh đầu hàng rồi. Tôi vội chạy vào đài tác xạ, qua radio,
tiếng Tổng Thống hai ngày, Dương Văn Minh kêu gọi buông súng như một
nhát dao đâm vào tim mọi người. Tôi gọi máy về Tiểu đoàn hỏi có bắn tiếp
không, hay tan hàng, hoặc…bàn giao? Chừng nào có lệnh trực tiếp từ tiểu
đoàn tôi mới thi hành chứ không hạ nòng đâu. Thiếu Tá Việt bảo đợi đấy.
5
phút sau, tôi bước ra cửa đài tác xạ nhìn ra ngoài, toàn thể các đơn vị
bạn trong sân Cộng Hòa tự động tan hàng, sáu khẩu đại bác của Biệt Động
Quân vẫn còn cất cao nòng, những người lính anh dũng của quân lực Việt
Nam Cộng Hòa đi ngang chúng tôi hết sức buồn bã. Những con đại bàng một
thời oanh liệt đã thật sự gảy cánh tháng tư, phát súng phát ra không
phải từ Hà Nội mà từ Washington DC đã bức tử cả một quân đội anh hùng,
21 năm nay, Việt cộng đâu có làm gì được chúng tôi, chỉ một phản bội của
đồng minh thôi đã làm tan nát cả một quốc gia. Từ năm mùa hè đỏ lửa
1972 đến nay, tại Bình Long, Kontum, Trị Thiên, một mình quân lực Việt
Nam Cộng Hòa đã anh dũng chống lại cả một khối cộng sản tế hung hản,
đáng tan tành bọn chúng, không anh hùng sao được.
Lúc này, tại
đây, chỉ còn pháo đội của tôi, những người lính của giờ thứ 25 của cuộc
chiến vẫn không chịu rời đơn vị, trừ hai người xin phép về thăm gia đình
rồi kẹt luôn, còn thì hiện diện đầy đủ, mấy hôm nay, họ chỉ cần bước ra
khỏi sân vận động là về với gia đình, và ngay bây giờ họ cũng đã có
quyền này, tại sao lại còn đứng đây? Cũng như tôi, họ đang đợi lệnh. Họ
là Nhảy Dù. Ngay lúc đó, Thiếu Tá Hóa, Tiểu đoàn phó chạy xe Jeep đến ra
lệnh cho tôi tan hàng. Tôi trở vào đài tác xạ, chấm điểm cho pháo đội
nhắm về trại Hoàng Hoa Thám rồi gọi Liên vào ra lệnh : Anh cho tất cả
pháo đội, quần áo chỉnh tề, ba lô xếp thẳng hàng như ở quân trường, khi
tôi ra bồng súng chào trình diện quân số, đ ra lệnh.
Khi
tôi ra trước hàng quân, pháo đội đã sẵn sàng tư thế chào kính, sáu khẩu
đại bác giương cao nòng, những người lính bồng súng chào thật nghiêm
trang, nét mặt họ không điểm một chút hốt hoảng hay lo sợ, họ tuân lệnh
cấp chỉ huy một cách tuyệt đối. Tôi nhìn anh em và tiếc nếu có lá quốc
kỳ màu vàng ba sọc đỏ lúc này, tôi đã cho cử hành lễ chào quốc kỳ ngay
lập tức. Tôi cắn chặt đôi hàm răng để khỏi bật ra tiếng khóc vì trong
lòng hết sức thương cảm, những người lính của tôi, có người mới về đơn
vị chưa đầy hai tuần, vẫn tuân lệnh cấp chỉ huy dầu cho đứng trước hoàn
cảnh tuyệt vọng như thế này. Tôi cho anh em nghỉ và nói: Tôi thi hành
lệnh cấp trên cho pháo đội tan hàng, tôi biết việc này sẽ làm cho anh em
rất đau lòng, nhưng là quân đội chúng ta phải thi hành lệnh, sau này
chắc chắn là anh em sẽ gặp rất nhiều khó khăn, là chiến sĩ Nhảy Dù anh
em hãy noi theo truyền thống binh chủng, cố gắng mà sống. Sau đó tôi cho
pháo đội hạ nòng đại bác xuống và tháo đạn ra, súng cá nhân thì xếp
thẳng hàng trên ba lô như thể đang giờ nghỉ ngơi . Các khẩu trưởng hỏi
tôi có dùng lựu đạn lân tinh phá nòng đại bác hay không, tôi lắc đầu.
Thạch lại hỏi tôi còn đài tác xạ thì sao, tôi cũng lắc đầu nói để
nguyên.
Pháo đội tôi đâu có đầu hàng hay bị tràn ngập, bị địch
tràn ngập mới phải phá súng phá đài tác xạ, chúng tôi đã chiến đấu và
đang giờ nghỉ mà, pháo đội tôi chỉ tạm nghỉ cuộc chơi. Lính quốc gia
không bao giờ đầu hàng cộng sản, họ chỉ bị bức tử phải buông súng và tạm
nghỉ cuộc chơi.
Từng anh em binh sĩ hạ sĩ quan chào từ giã tôi,
một đệ tử trung thành đòi đi theo tôi trở về nhà, tôi không cho nói đi
theo tôi rất nguy hiểm. Trong khoảnh khắc, sân Cộng Hòa không còn một
bóng người, tôi trở vào nhà viên quản thủ sân xin một bộ đồ civil, vào
đài tác xạ thay đồ trận, xong, tôi trở ra vị trí đứng nghiêm chào. Những
khẩu đại bác gióng thẳng hàng bên cạnh súng cá nhân M16 và quân trang
của đơn vị tôi còn đó như bật lên một sức sống mãnh liệt, một phần đời
tôi ở trong đó đang thức dậy nỗi căm phẫn, quê hương tôi rồi đây phải
gánh chịu nỗi đau mất nước về tay cộng sản khát máu, niềm uất hận này
không bao giờ tan. Tôi buồn bã quay gót trở về nhà không dám quay lại
nhìn pháo đội một lần chót, vì nhìn nữa tôi sẽ khóc, anh em chúng tôi đã
cố gắng làm tròn bổn phận của mình trong giai đoạn đau thương của đất
nước, nay đành bó tay, nhưng là lính không thể khóc vào lúc này, vì tôi
còn phải cố gắng để sống, để viết sau này, và nhớ đó, trong bộ đồ dân
sự, tôi vẫn là một người lính nguyên thủy.
Hơn ba mươi năm qua,
kẻ chiến thắng nhờ may mắn tự xưng là đỉnh cao trí tuệ loài người đã
nhuộm đỏ quê hương tôi, đã trả thù miền Nam Việt Nam bằng cách dìm cả
một dân tộc vào nghèo nàn lạc hậu và mất tự do, bọn lãnh đạo thì quỳ gối
làm tôi mọi cho Trung cộng bảo gì cũng phải nghe, lãnh thổ thì bị ngoại
bang xâu xé, gái thì đi làm mãi dâm, trai thì đi làm cu li khắp thế
giới, cuộc chiến vừa qua đã không mang lại chiến thắng cho ai, chỉ có
dân tộc Việt Nam là thua.
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
Sinh Tồn chuyển
ĐẠI BÀNG GẪY CÁNH THÁNG TƯ *
Tác Giả: Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
Để kính dâng anh hồn đồng đội tôi đã ngã xuống để bảo vệ thủ đô Saigon.
Sau
trận Khánh Dương, Ban Mê Thuột, Tiểu đoàn 2 pháo binh Nhảy Dù về hậu cứ
Nguyễn Huệ, Long Bình để tái bổ xung, và được tái trang bị 18 khẩu đại
bác 105 ly kiểu cũ M2A1 từ thời đệ nhị thế chiến, tôi được chỉ định
thành lập lại pháo đội B2 với quân số gần 100 người trong đó khoảng 20
người từ pháo đội chỉ huy đưa sang, còn lại bổ xung toàn là lao công đào
binh và quân phạm đủ gốc lính từ quân lao Gò Vấp.
Lệnh trên đưa
ra phải huấn luyện tác xạ cấp tốc tại đơn vị và không bắn đạn thật, vì
tình thế sôi động có thể hành quân bất cứ lúc nào, không còn sĩ quan
huấn luyện, một mình tôi làm tất cả mọi chuyện cho pháo đội. Một tuần
sau, ngày 29 tháng 4 năm 1975, lệnh hành quân đưa ra, về Saigon bảo vệ
thủ đô. Thông thường một pháo đội Dù đóng quân thì có một đại đội Dù tác
chiến bảo vệ, lần này thì không, lệnh trên cho biết phải tự bảo vệ. Cho
thấy tình hình quân số trừ bị của Nhảy Dù coi như cạn.
Từ Long
Bình theo xa lộ Đại Hàn, pháo đội tôi chiếm đóng sân vận động Cộng Hòa ở
đường Nguyễn Kim vào xế trưa, người quản nhiệm sân vận động ngơ ngác
khi thấy pháo đội tôi kéo vào sân. Sau khi hướng bắn đã sẵn sàng một
vòng cung về phía Sư Đoàn Nhảy Dù, Bộ Tổng Tham Mưu, và Dinh Độc Lập,
tôi cho lệnh đóng cửa sân lại, người quản nhiệm năn nỉ cần phải ra vào
làm nhiệm vụ nên xin giữ chìa khóa, và tôi bằng lòng. Thượng sĩ Thọ,
thường vụ pháo đội nói đùa với tôi: Trung úy định tử thủ. Tôi trả lời
không vào câu hỏi: Tình thế lộn xộn, coi chừng địch trà trộn xin vào
sân, nên phải đóng cửa, anh cho con cái lên hết trên khán đài, dàn súng
cá nhân và lựu đạn sẵn sàng, còn các các khẩu thì trực tại chỗ, sẵn sàng
tác xạ. Hơn 2,000 quả đạn pháo tôi cho tháo ra khỏi thùng và gắn đầu
nổ. Lúc này tôi cũng hơi lo, phát pháo đầu tiên của pháo đội để bảo vệ
thủ đô sẽ do những pháo thủ trời gầm đất lở mới vào nghề như thế này
bắn, thiệt đã. Ngoài các khẩu trưởng và ngắm viên là có kinh nghiệm còn
lại toàn tay mơ, pháo đội tôi toàn là thứ dữ từ quân lao xá tội vào giờ
chót đưa về, tôi cũng không có thì giờ để mà hỏi han, chỉ cho một số anh
em mới về đi phép hai ngày với lời dặn dò nếu các anh cảm thấy có bổn
phận của một người lính trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng này thì về lại
đơn vị đúng ngày giờ, nếu không thì đào ngủ luôn chứ về trễ thì đừng
trách. Đòn tâm lý có hiệu quả, không có một người nào trễ phép, tôi mừng
lắm, ít ra giờ chót tôi còn cả trăm tay súng sẵn sàng sống chết với
mình. Họ có biết về Dù là đeo tử bài trước ngực hay không tôi không rõ,
chứ biết rõ họ đã thấm kỷ luật của Nhảy Dù. Gần trưa ngoài cổng có người
xin vào, vị này là Trung úy Nam của Trường Quân Báo Cây Mai, Ông dẫn
đứa con trai là trung sĩ nhất Liêng đi phép trễ không dám về trình diện
đơn vị nên nhờ bố dẫn vào, tôi bằng lòng cho Liêng về lại pháo đội làm
khẩu trưởng khẩu 3 tức là khẩu chuẩn, đồng thời nhờ Trung Úy Nam giới
thiệu và chở xe Honda đến một tiệm tạp hóa gần đó để mua chịu thực phẩm
một khi đụng lớn không tiếp tế được, người chủ tiệm bằng lòng và nói lúc
nào cũng sẵn sàng giúp đỡ Nhảy Dù. Đến trưa thì có một pháo đội Biệt
Động Quân Biên Phòng do một vị Thiếu Tá chỉ huy kéo vào xin đóng quân.
Tôi gọi Tiểu đoàn tôi báo cho biết rồi mời vào. Tôi cũng xin lỗi vị chỉ
huy rồi nói thẳng, nếu có gì lộn xộn xin đừng chạy về hướng pháo đội tôi
vì tôi sẽ trực xạ nếu Việt cộng đánh vào. Để tránh bị Việt cộng trà
trộn, coi như hai vị trí pháo biệt lập, cũng không liên lạc hài: “Trung
úy định tử thủ”.
Đến
lúc này thì sân Cộng Hòa đã trở thành một điạ điểm tìm đơn vị bị thất
lạc. Hàng ngàn nếu không nói là hàng mấy ngàn binh lính, sĩ quan của
nhiều quân binh chủng mà nhiều nhất là lính Biệt Khu Thủ Đô bị lạc đơn
vị nghe tin Nhảy Dù về sân Cộng Hòa nên họ tự động tìm đến, Họ đến tìm
đơn vị không thấy rồi lại đi, không hiểu sao họ biết có chúng tôi ở đây
mà tìm đến, có người còn súng có người không, đa số là tay không lặng lẽ
đi ngang pháo đội tôi nhìn vào, các pháo thủ của tôi thì súng cá nhân
đã lên đạn đề phòng Việt cộng giả dạng đánh úp. Lúc này mà tôi yêu cầu
những anh em còn súng ở lại bảo vệ cho chúng tôi bắn, chắc chắn họ sẽ
bằng lòng nhưng tình thế hết sức phức tạp hiện nay không tiện yêu cầu
điều này. Một chiếc trực thăng UH1B bị lạc đơn vị đáp xuống giữa sân hỏi
han tin tức rồi lại bay lên ( Sau này đi tù chung gặp mặt kể lại mới
biết tên là Đại úy Trần Văn Phước). Nhiều chiếc trực thăng khác bay từ
biển vào hướng tòa đại sứ Hoa Kỳ rồi lại bay ra, tôi biết họ đang di
tản, bỏ của chạy lấy người.
Đến tối tôi cho đóng cửa sân lại rồi
leo lên khán đài chính nhìn về phía Saigon lòng buồn vô hạn. Tôi sinh ra
và lớn lên giữa lòng thủ đô, cuộc đời tôi gắn liền với Saigon, từng
hàng cây góc phố, từng con đường nhỏ thân quen tiếng gọi mì ban đêm, con
đường Lê Thánh Tôn ngập lá me bay buổi sáng vẫn còn đây, dòng sông tuổi
thơ của tôi thật êm đềm trôi trên hè phố sau giờ tan học, gần hơn chút
nữa là ngôi trường trung học Chu Văn An thân yêu, nơi tuổi trẻ tôi ươm
biết bao nhiêu mộng mơ, rốt cục cũng chìm vào cơn lốc chiến tranh.
Saigon máu thịt quê hương tôi đang hấp hối. Saigon của tôi đang bị bức
tử. Giờ này tôi không còn nghe tiếng đại bác ru đêm, tất cả các ngõ vào
Saigon đã bị phong kín, cơn hấp hối này sẽ có tôi tham dự như một chứng
nhân nếu còn sống sau chinh chiến, hay sẽ nằm xuống tức tưởi nghẹn ngào.
Dòng suy nghĩ miên man đưa tôi trở về với gia đình, hai đứa con nhỏ và
Thụy Trang yêu dấu của tôi đang ở cách tôi chỉ khoảng mười phút xe, em
giờ này chắc đang lo sợ và có thao thức như anh không, chắc em cũng hiểu
tại sao đến giờ phút này anh vẫn còn cầm súng, nếu anh có bề gì thì
ráng nuôi con, sau này bảo bố nó là lính Nhảy Dù, chết để bảo vệ thủ đô.
Những tràng súng lẽ tẻ từ các nơi dội về, tôi leo xuống khán đài trở về
đài tác xạ, giở xấp bản đồ miền Tây ra nhìn không biết bao nhiêu lần,
cả Quân khu 4 vẫn còn nguyên, cùng lắm là Tiểu đoàn sẽ rút về đây. Nhưng
chuyện này đã không xảy ra, quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử.
Chuyện này chúng tôi đã biết, sau khi Kissinger thả những quả bóng bàn
ngoại giao lăn lốc cốc tại Bắc Kinh năm 1971 sửa soạn cho Tổng Thống
Nixon bay qua Thượng Hải ký thông cáo chung bình thường hoá ngoại giao
giữa Hoa Kỳ và Trung cộng thì mọi chuyện đã an bài, cộng sản xưa nay ký
thông cáo chung bao giờ cũng phải có điều kiện, phải có món quà ra mắt,
đó là lý do Hoàng Sa của Việt Nam lọt vào tay của Trung cộng năm 1972
trong khi hải quân Hoa Kỳ nằm bất động tại biển Đông, từ đó chúng tôi
biết miền nam Việt Nam sẽ bị bỏ rơi, và Saigon không thể mất trừ khi có
phép lạ. Chúng tôi đều biết Nhảy Dù sẽ về bảo vệ thủ đô và đánh một trận
cuối đời thật oanh liệt, có chết cũng cam lòng, nhưng không bao giờ dự
trù bị buông súng tại đây.
Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều
tiếng nổ lớn như là hoả tiển 122 ly về hướng phi trường Tân Sơn Nhất,
bầu trời bỗng nhiên thấp xuống thật u ám như sắp để tang cho một chế độ,
những người lính lạc đơn vị lại kéo về sân Cộng Hòa rồi lại lủi thủi ra
đi, những giờ phút cuối đời lính, họ như những con đại bàng bị tiễn
thương, đang cố gắng vỗ đôi cánh gẫy lần chót tìm về cái tổ ấm quân đội
đầy mùi thuốc súng, vì quân đội là ngôi nhà thứ hai của họ, ở đó họ mới
có thể cầm súng để bảo vệ tổ quốc, họ cũng chính là tôi, là lính. Gần 10
giờ sáng, những tràng đại bác đầu tiên của Pháo Đội A và Pháo đội C ở
Trường đua Phú Thọ bắt đầu bắn, điện văn xin tác xạ từ các nơi gọi về
Tiểu đoàn tới tấp. Các đơn vị của Lữ đoàn 4 Dù, của Biệt Động Quân đang
đụng địch, Pháo đội Biệt Động Quân cũng đã tác xạ khói bay ngược về phía
chúng tôi. Tôi cho cả pháo đội quay nòng về hướng bắn sẵn sàng tác xạ
và khẩu chuẩn nạp đạn khói, một lúc sau Thiếu Tá Việt , Trưởng ban 3 cho
điểm tác xạ bắn theo yêu cầu. Lúc này đạn lớn đạn nhỏ nổ ran về phía Sư
đoàn, hướng Bà Điểm và nhiều nhất là khu Ngã Ba Hàng Xanh, những chiếc
trực thăng Mỹ từ Đệ thất hạm đội vẫn còn tiếp tục bay về hướng Toà đại
sứ cùng với những chiếc Cobra bay bảo vệ nhưng không nghe tiếng bắn từ
phi cơ. Mặc dầu tôi chưa bắn, nhưng Tiểu đoàn bỗng ra lệnh check fire
(ngưng bắn). Một lúc sau, tôi gọi về Tiểu đoàn nói Hướng bắn của tôi đâu
có gần mấy con chuồn chuồn, tôi thấy rõ bằng mắt thường, bảo đảm bắn
không rớt tụi nó đâu, đích thân cho tác xạ đi. Thiếu Tá Việt bảo Đợi.
Tôi buông ống liên hợp xuống, ngao ngán. Đến giờ phút này, chính phủ hai
ngày lộ mặt, sợ pháo binh Nhảy Dù bắn rơi máy bay Mỹ nên ra lệnh check
fire, tiện thể là check fire luôn không cho bắn vào Việt cộng đang đánh
vào các đơn vị phòng thủ Saigon. Tức quá, tôi ra lệnh cho 5 khẩu còn lại
nạp đạn nổ mạnh, đồng đội tôi đang ngã xuống oanh liệt để bảo vệ thủ
đô, còn chúng tôi thì bị khóa họng, không yểm trợ cho họ được, giống hết
như trận Charlie năm tháng 4/1972. Đợi một lúc nữa, tôi bước ra đài tác
xạ tiến về pháo đội, các khẩu trưởng hỏi nạp đạn lâu quá sao chưa bắn
vậy Trung úy, tôi chỉ tay lên trời chỉ mấy chiếc trực thăng nói tại tụi
nó đó.
Vừa lúc đó Hạ sĩ nhất Thạch truyền tin chạy ra gọi tôi:
Trung Úy, ông Minh đầu hàng rồi. Tôi vội chạy vào đài tác xạ, qua radio,
tiếng Tổng Thống hai ngày, Dương Văn Minh kêu gọi buông súng như một
nhát dao đâm vào tim mọi người. Tôi gọi máy về Tiểu đoàn hỏi có bắn tiếp
không, hay tan hàng, hoặc…bàn giao? Chừng nào có lệnh trực tiếp từ tiểu
đoàn tôi mới thi hành chứ không hạ nòng đâu. Thiếu Tá Việt bảo đợi đấy.
5
phút sau, tôi bước ra cửa đài tác xạ nhìn ra ngoài, toàn thể các đơn vị
bạn trong sân Cộng Hòa tự động tan hàng, sáu khẩu đại bác của Biệt Động
Quân vẫn còn cất cao nòng, những người lính anh dũng của quân lực Việt
Nam Cộng Hòa đi ngang chúng tôi hết sức buồn bã. Những con đại bàng một
thời oanh liệt đã thật sự gảy cánh tháng tư, phát súng phát ra không
phải từ Hà Nội mà từ Washington DC đã bức tử cả một quân đội anh hùng,
21 năm nay, Việt cộng đâu có làm gì được chúng tôi, chỉ một phản bội của
đồng minh thôi đã làm tan nát cả một quốc gia. Từ năm mùa hè đỏ lửa
1972 đến nay, tại Bình Long, Kontum, Trị Thiên, một mình quân lực Việt
Nam Cộng Hòa đã anh dũng chống lại cả một khối cộng sản tế hung hản,
đáng tan tành bọn chúng, không anh hùng sao được.
Lúc này, tại
đây, chỉ còn pháo đội của tôi, những người lính của giờ thứ 25 của cuộc
chiến vẫn không chịu rời đơn vị, trừ hai người xin phép về thăm gia đình
rồi kẹt luôn, còn thì hiện diện đầy đủ, mấy hôm nay, họ chỉ cần bước ra
khỏi sân vận động là về với gia đình, và ngay bây giờ họ cũng đã có
quyền này, tại sao lại còn đứng đây? Cũng như tôi, họ đang đợi lệnh. Họ
là Nhảy Dù. Ngay lúc đó, Thiếu Tá Hóa, Tiểu đoàn phó chạy xe Jeep đến ra
lệnh cho tôi tan hàng. Tôi trở vào đài tác xạ, chấm điểm cho pháo đội
nhắm về trại Hoàng Hoa Thám rồi gọi Liên vào ra lệnh : Anh cho tất cả
pháo đội, quần áo chỉnh tề, ba lô xếp thẳng hàng như ở quân trường, khi
tôi ra bồng súng chào trình diện quân số, đ ra lệnh.
Khi
tôi ra trước hàng quân, pháo đội đã sẵn sàng tư thế chào kính, sáu khẩu
đại bác giương cao nòng, những người lính bồng súng chào thật nghiêm
trang, nét mặt họ không điểm một chút hốt hoảng hay lo sợ, họ tuân lệnh
cấp chỉ huy một cách tuyệt đối. Tôi nhìn anh em và tiếc nếu có lá quốc
kỳ màu vàng ba sọc đỏ lúc này, tôi đã cho cử hành lễ chào quốc kỳ ngay
lập tức. Tôi cắn chặt đôi hàm răng để khỏi bật ra tiếng khóc vì trong
lòng hết sức thương cảm, những người lính của tôi, có người mới về đơn
vị chưa đầy hai tuần, vẫn tuân lệnh cấp chỉ huy dầu cho đứng trước hoàn
cảnh tuyệt vọng như thế này. Tôi cho anh em nghỉ và nói: Tôi thi hành
lệnh cấp trên cho pháo đội tan hàng, tôi biết việc này sẽ làm cho anh em
rất đau lòng, nhưng là quân đội chúng ta phải thi hành lệnh, sau này
chắc chắn là anh em sẽ gặp rất nhiều khó khăn, là chiến sĩ Nhảy Dù anh
em hãy noi theo truyền thống binh chủng, cố gắng mà sống. Sau đó tôi cho
pháo đội hạ nòng đại bác xuống và tháo đạn ra, súng cá nhân thì xếp
thẳng hàng trên ba lô như thể đang giờ nghỉ ngơi . Các khẩu trưởng hỏi
tôi có dùng lựu đạn lân tinh phá nòng đại bác hay không, tôi lắc đầu.
Thạch lại hỏi tôi còn đài tác xạ thì sao, tôi cũng lắc đầu nói để
nguyên.
Pháo đội tôi đâu có đầu hàng hay bị tràn ngập, bị địch
tràn ngập mới phải phá súng phá đài tác xạ, chúng tôi đã chiến đấu và
đang giờ nghỉ mà, pháo đội tôi chỉ tạm nghỉ cuộc chơi. Lính quốc gia
không bao giờ đầu hàng cộng sản, họ chỉ bị bức tử phải buông súng và tạm
nghỉ cuộc chơi.
Từng anh em binh sĩ hạ sĩ quan chào từ giã tôi,
một đệ tử trung thành đòi đi theo tôi trở về nhà, tôi không cho nói đi
theo tôi rất nguy hiểm. Trong khoảnh khắc, sân Cộng Hòa không còn một
bóng người, tôi trở vào nhà viên quản thủ sân xin một bộ đồ civil, vào
đài tác xạ thay đồ trận, xong, tôi trở ra vị trí đứng nghiêm chào. Những
khẩu đại bác gióng thẳng hàng bên cạnh súng cá nhân M16 và quân trang
của đơn vị tôi còn đó như bật lên một sức sống mãnh liệt, một phần đời
tôi ở trong đó đang thức dậy nỗi căm phẫn, quê hương tôi rồi đây phải
gánh chịu nỗi đau mất nước về tay cộng sản khát máu, niềm uất hận này
không bao giờ tan. Tôi buồn bã quay gót trở về nhà không dám quay lại
nhìn pháo đội một lần chót, vì nhìn nữa tôi sẽ khóc, anh em chúng tôi đã
cố gắng làm tròn bổn phận của mình trong giai đoạn đau thương của đất
nước, nay đành bó tay, nhưng là lính không thể khóc vào lúc này, vì tôi
còn phải cố gắng để sống, để viết sau này, và nhớ đó, trong bộ đồ dân
sự, tôi vẫn là một người lính nguyên thủy.
Hơn ba mươi năm qua,
kẻ chiến thắng nhờ may mắn tự xưng là đỉnh cao trí tuệ loài người đã
nhuộm đỏ quê hương tôi, đã trả thù miền Nam Việt Nam bằng cách dìm cả
một dân tộc vào nghèo nàn lạc hậu và mất tự do, bọn lãnh đạo thì quỳ gối
làm tôi mọi cho Trung cộng bảo gì cũng phải nghe, lãnh thổ thì bị ngoại
bang xâu xé, gái thì đi làm mãi dâm, trai thì đi làm cu li khắp thế
giới, cuộc chiến vừa qua đã không mang lại chiến thắng cho ai, chỉ có
dân tộc Việt Nam là thua.
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
Sinh Tồn chuyển