Cà Kê Dê Ngỗng
ĐỜI CÒN VUI VÌ CÒN CHÚT “TÒM TEM” Khuyết danh
Không biết hai tiếng “tòm tem” xuất hiện trong ngôn ngữ Việt từ bao giờ nhưng cái chuyện tòm tem thì quả là xưa không kém gì quả đất.
Không biết hai tiếng “tòm tem” xuất hiện trong ngôn ngữ Việt từ bao giờ nhưng cái chuyện tòm tem thì quả là xưa không kém gì quả đất.
Tuy nhiên dù có xưa cách mấy thì tòm tem vẫn không bao giờ cũ vì loài người còn tồn tại tới ngày hôm nay cũng là nhờ vào tòm tem. Chính vì thế mà thiên hạ vẫn cứ mãi mãi tòm tem và nói về chuyện tòm tem.
Sở dĩ tôi dùng hai tiếng tòm tem này để nói về một chuyện mà ngôn từ dùng để diễn tả lại vô cùng phong phú và thường được thả nổi, ấy là tại vì hai tiếng này vừa có gốc có gác, vừa nôm na dễ hiểu, lại không bị coi là tục để các vị thích rao giảng đạo đức bắt bẻ mà cũng không khô khan như từ ngữ chuyên môn của nhà khoa học. Tôi học được hai chữ này trong bài ca dao sau:
Ðang khi lửa đỏ cơm sôi
Lợn kêu con khóc lại đòi tòm tem
Bây giờ cơm chín lửa tàn
Lợn no con ngủ, tòm tem thì tòm
Lợn kêu con khóc lại đòi tòm tem
Bây giờ cơm chín lửa tàn
Lợn no con ngủ, tòm tem thì tòm
Phải nói là mặc dù mấy câu ca dao này tuy thật là đơn giản nhưng càng đọc tôi càng thấy thấm ý. Con người từ thủa xa xưa cho tới ngày nay, sống trên đời lúc nào cũng cứ tối tăm mặt mũi với hàng trăm thứ chuyện lỉnh kỉnh hằng ngày nhưng xét cho cùng thì chẳng qua cũng chỉ là nhằm đáp ứng cho hai nhu cầu cơ bản là ăn để sống và tòm tem để bảo tồn chủng loại. Có khác chăng là theo đà tiến hóa, con người càng văn minh thì cái ăn và cách ăn cũng trở thành cầu kỳ và cái tòm tem cũng được bày đặt thêm nhiều quy định có tính cách hình thức rắc rối hơn mà thôi.
Tuy cả hai nhu cầu trên đều là căn bản nhưng nếu sắp theo thứ tự ưu tiên thì cái ăn vẫn là trước tiên rồi mới tới chuyện tòm tem, vì chỉ có "no cơm ấm cật" thì lúc đó mới có thể "rậm rật khắp nơi" chứ bụng mà đói meo thì "chó cũng đành chê cứt". Cái sự ví von này tôi cũng học được trong kho tàng ca dao tục ngữ. Ai không tin cứ giở ca dao tục ngữ ra sẽ gặp khối câu như:
Em như cục cứt trôi sông
Anh như con chó ngồi trông trên bờ
Anh như con chó ngồi trông trên bờ
Nếu nhu cầu ăn có từ khi lọt lòng thì trái lại nhu cầu tòm tem phải đợi đến một cái tuổi gọi là biết mắc cỡ vì khám phá ra những cái khang khác nơi mình và nơi người mới bắt đầu có. Lại nữa, cái cường độ của nhu cầu này cũng biến thiên tùy theo nguời và tùy theo thời gian: sung độ nhất vào lúc tuổi còn trẻ nhưng càng về già thì yếu lần và có thể không còn nữa. Chính vì thế mà người ta mới hối nhau:
Ai ơi chơi lấy kẻo già
Măng mọc có lứa người ta có thì
Chơi Xuân kẻo hết Xuân đi
Cái già sồng sộc nó thì theo sau.
Măng mọc có lứa người ta có thì
Chơi Xuân kẻo hết Xuân đi
Cái già sồng sộc nó thì theo sau.
Mặc dù trong văn học Việt Nam cũng đã có những nhà nho xông xáo cỡ cụ Nguyễn Công Trứ từng vỗ ngực tự hào trong một bài hát nói "càng già càng dẻo càng dai" và trong ca dao cũng có những bài như:
Bà già đã tám mươi tư
Ngồi bên cửa sổ biên thư lấy chồng.
Hoặc là:
Bà già đi chợ cầu Ðông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng
Thầy bói gieo quẻ đoán rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn.
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng
Thầy bói gieo quẻ đoán rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn.
Tuy nhiên nếu nghiệm cho kỹ thì chẳng qua các cụ cũng chỉ là tiếc nuối cho một thời oanh liệt đã qua đi mà nói vớt vát cho vui thế thôi chứ thực tế thì các cụ cũng không làm sao xoay ngược lại định luật của tạo hóa.
Ngoài ra, nếu nhu cầu ăn không thể thiếu thì ngược lại nhu cầu tòm tem có thể hy sinh mà không làm cho cá nhân ấy chết, trừ trường hợp nếu như tất cả giống người đều hy sinh cái nhu cầu này thì lúc đó loài người mới bị tuyệt chủng thôi. Về cái khoản này thì Phật có dạy đời là bể khổ và con người phải diệt dục thì mới dứt được nghiệp chướng để tịnh độ Niết Bàn. Tuy vậy, có một số người dù đã quy y đầu Phật thành sư, nhưng lòng thì vọng động, đôi khi còn bạo hơn cả người phàm nên người đời mới gọi các vị này là "sư hổ mang". Còn nếu chỉ nhè nhẹ thôi thì ca dao cũng đã từng môtả:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Khác với Phật giáo chủ trương diệt dục, người Thiên Chúa giáo lại tin rằng khi Chúa dựng nên người nam và người nữ đầu tiên rồi thì có phán: "Hãy sinh sản ra cho đầy mặt đất này". Tuy nhiên khi loài người đã sinh ra tràn đầy trên mặt đất này rồi thì Hội Thánh mỗi khi muốn tuyển chọn người thay Chúa chăn dắt bầy chiên ở trần gian thì lại đòi hỏi người đó phải hy sinh cái niềm vui tòm tem. Ðiều này gây trở ngại cho một số người vừa muốn làm kẻ chăn chiên của Chúa lại vừa không muốn sống trong cảnh "cám treo heo nhịn đói", do đó mà nảy sinh ra Giáo phái Tin Lành. Các ngài mục sư nhờ hiểu Kinh Thánh một cách cởi mở hơn nên đã giúp cho một số người an tâm vừa làm tôi tớ Chúa, vừa vui thú trần gian mà không hề mang mặc cảm phạm tội. Riêng về phía Giáo hội La Mã vì khắt khe với lề luật mà có những kẻ lúc bắt đầu những mong theo chân Chúa làm đến chức cha, chức cố, nhưng rốt cuộc chỉ mới tới được chức "ta ru", nghĩa là đã vào tu rồi nhưng thấy đời còn vui quá lại nhảy ra.
Mặc dù bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền có khẳng định: "Mọi người sinh ra bình đẳng" nhưng thực tế thì Tạo hóa vốn có trước loài người nên hình như không biết có cái luật đó cho nên mới để lọt một số người bị mụ bà nắn thiếu cái "gia tài của mẹ để lại cho con" khiến cho những kẻ này không bao giờ biết được cái niềm vui tòm tem ở cõi đời này. Tuy nhiên vào cái thời đất nước còn được cai trị bởi những ông vua thì cũng có vài anh chàng lại tự nguyện cắt bỏ cái gia tài này để được hầu hạ trong cung hầu kiếm miếng cơm manh áo như mấy anh chàng muốn xin làm thái giám.
Số là trong xã hội phong kiến ngày xưa, một kẻ làm vua thì tự cho mình có cái quyền tha hồ tòm tem. Do đó mà ông vua nào cũng có trong cung hàng ngàn cung tần mỹ nữ. Tuy nhiều thế và nhiều khi tòm tem không xuể nhưng vì tham lam và ích kỷ nên ông vua nào cũng sợ kẻ khác tòm tem giùm mình do đó mới phải chọn mấy anh chàng thái giám để hầu hạ trong cung cho chắc ăn. Nhiều ông vua cũng vì mê tòm tem đến độ phế bỏ cả triều chính cho nên đành phải mất nước hay mất cả cái chỗ đội vương miện. Có ông thì bệ rạc đến nỗi không còn ngồi dậy nổi để thiết triều đành nằm ườn ra cho đình thần vào chầu như ông vua Long Ðĩnh nhà Lê. Sử gia khi nhắc đến phải đặt cho triều đại này cái biệt danh là Lê ngọa triều.
Cũng vì cái mục ham tòm tem này của kẻ làm vua mà nhiều khi đi đoong luôn cả một dân tộc. Xưa Chiêm thành cũng là một vương quốc lừng lẫy. Vào thời nhà Trần ở nước ta thì có vua Chiêm là Chế Mân bỗng dưng nổi hứng đem dâng luôn hai châu Ô và châu Rí để xin với vua Trần cho được rước công chúa Huyền Trân về tòm tem. Không hiểu có phải vì nàng công chúa xứ Việt tài cao hay vua Chiêm lụ khụ sao đó mà ít lâu sau thì vua Chiêm tịch. Theo phong tục Chiêm thành thì khi vua chết hoàng hậu và phi tần cũng phải tịch theo vua để tiếp tục hầu hạ cho nhà vua cũng được tòm tem nơi chín suối. Nhà Trần tiếc cho tuổi xuân phơi phới của nàng công chúa của mình mà bị đưa lên giàn hỏa với vua Chiêm thì thật là phí hương trời, bèn sai Trần Khắc Chung vào kinh thành Chiêm lén đem công chúa về. Tương truyền sau đó hai người đưa nhau đi đâu làm gì chẳng ai rõ, nhưng dù sao thì cái tên Huyền Trân cũng đi vào lịch sử, còn Chiêm Thành thì theo cái đà mất hai châu mà mất lần cho đến mất luôn cả nước và bị diệt vong.
Theo các nhà nghiên cứu về sinh vật học thì trong vấn đề tòm tem, giống cái bao giờ cũng khỏe hơn giống đực. Nguyên lý này hình như cũng đúng cả với con người. Chúng ta chỉ nghe kể ông này ngài nọ đang tòm tem thì bị ngã ngựa rồi đi đoong chứ chẳng bao giờ nghe nói có bà nào lăn quay ra ngáp ngáp trong lúc tòm tem cả. Nghe khoản này có lẽ các ông không đồng ý vì tự hồi nào các ông vẫn tự cho mình là phái khỏe còn đàn bà mới là "liễu yếu đào tơ" phải "núp bóng tùng quân". Tuy nhiên tục ngữ cũng có câu: "con gái mười bảy, bẻ gãy sừng trâu", cho nên nam nhi cỡ mấy anh chàng "trói gà không chặt" mà gặp phải mấy cô này thì cũng coi như là đi đoong, bằng không thì cũng bị cô nàng cắm cho năm bảy cái sừng to tổ bố.
Trở lại với cái chuyện tòm tem ngã ngựa này ở nước ta mà có liên quan đến lịch sử thì phải kể câu chuyện đời Lê. Nguyễn Trãi là một khai quốc công thần từng giúp Lê Lợi đánh thắng quân Minh giành lại nền độc lập cho Tổ quốc và lập nên nhà Hậu Lê. Lúc vua Lê Thái tổ quy tiên, vua con lên nối ngôi thì cụ cũng đã già về nghỉ hưu. Tuy thế, có một hôm nghe tiếng cô nàng Thị Lộ rao bán chiếu trước dinh, cụ bỗng hứng chí cho gọi vào ra mắt, và khi thấy cô hàng chiếu trông cũng tươi mát, cụ bèn ứng khẩu mấy vần thơ trêu ghẹo:
Ả ở đâu mà bán chiếu gon
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn
Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi
Ðã có chồng chưa được mấy con?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn
Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi
Ðã có chồng chưa được mấy con?
Cô hàng chiếu cũng chẳng vừa, họa lại ngay:
Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon
Cớ chi ông hỏi hết hay còn
Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!
Cớ chi ông hỏi hết hay còn
Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!
Nghe cô hàng chiếu ứng đối lanh lẹ, cụ đâm ra mến tài mến sắc nên quyết chí rước nàng về làm nàng hầu. Nếu chuyện chỉ có thế thì cũng chẳng có gì đáng nói. Ðằng này vì cụ đã già nên có lẽ sinh ra lẩm cẩm. Nhân một hôm nhà vua trẻ đi tuần thú qua vùng này bèn ghé lại nhà cụ nghỉ đêm, cụ thương cho cô nàng hầu tuổi xuân phơi phới lâu nay bị bỏ phế mới sai nàng ra hầu hạ nhà vua may ra kiếm được chút ơn mưa móc. Chẳng hiểu ông vua trẻ tòm tem ra sao mà băng ngay đêm đó tại nhà cụ. Thế là triều đình đổ xô vào hạch cụ về cái tội giết vua và cái tước khai quốc công thần của cụ cũng đành vứt đi khiến cho cụ chỉ còn biết cam phận lãnh cái bản án tử đi đoong luôn một lúc cả ba họ.
Các nhà nghiên cứu về sinh vật còn đưa thêm một nhận xét là có nhiều loài sinh vật sau khi tòm tem thì chị cái còn xơi tái luôn anh chàng đực cho đã cơn đói lòng, chẳng hạn như loài bọ ngựa. Ðiều này tưởng chừng không xảy ra nơi con người nhưng nếu nghiệm kỹ ra thì cũng có, nhưng vì con người có đời sống văn minh cho nên cái mục cô nàng xơi tái anh chàng này cũng diễn ra dưới một hình thức mới mẻ hơn, khoa học hơn, tinh vi hơn, trông nhẹ nhàng và không có vẻ rùng rợn nhưng độc ác thì không kém. Nàng chỉ móc cái ví tiền, nắm lấy cái ví tiền thôi chứ không cần moi ngực moi tim gì cả. Có biết bao ông "nam nhi chi chí", chỉ vì tòm tem mà bị thân bại danh liệt do ăn hối lộ, thụt két để cung phụng cho cô nàng no bụng còn ông thì vào nằm nhà đá gỡ lịch. Ðối với những ông có sẵn cơ nghiệp thì cô nàng cứ việc tha hồ ăn cho tới sạt nghiệp rỗng túi phải ra thân ăn mày. Ngay cả những ông được cái tiếng là hiền lành cũng lắm lúc khốn khổ vì đi làm lãnh lương ba cọc ba đồng thôi mà cũng bị bà vợ móc sạch. Thế là đủ cho anh chàng từ đó cứ lệ thuộc vào bà vợ mà ngáp ngáp. Còn bà vợ thì phây phây "chưa đi đến chợ đã lo ăn quà", càng ngày càng phốp pháp ra trong khi đức lang quân thì càng ngày càng cà tong cà teo như que củi.
Chuyện tòm tem mà đi vào văn học sử thì rất nhiều. Vào cái năm Tí Sửu Dần Mẹo gì đó có sứ Tàu sang nước ta. Không hiểu do đâu mà sứ lại gặp bà Ðoàn Thị Ðiểm, lại còn buông lời chọc ghẹo chớt nhả: "An nam nhất thốn thổ, Bất tri kỷ nhân canh", nghĩa là "một tấc đất An nam không biết bao nhiêu là người cày" ý xỏ xiên gái Việt. Bà Ðiểm vốn đã từng dịch Chinh Phụ Ngâm, chữ nghĩa đầy mình, đâu dễ gì chịu mất mặt như vậy, bèn đối ngay: "Trung quốc đại trượng phu, Giai do thử đồ xuất". Câu này có nghĩa là "bậc trượng phu của nước Tàu cũng từ đó mà chui ra cả thôi". Ðúng là chậu nước lạnh hắt vào mặt sứ Trung hoa.
Trên đây là chuyện vào thời nước ta chỉ biết giao hảo với nước Tàu. Vào cái buổi giao thời Tây Tàu nhố nhăng thì có:
Vị Xương có Tú Xương
Dở dở lại ương ương
Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lường.
Dở dở lại ương ương
Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lường.
Cụ lại còn tự thú thêm:
Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ ấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ ấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
Tuy nhiên đáng nể hơn cả phải nói là bà Hồ Xuân Hương. Sự nghiệp văn chương của bà toàn hướng về trọng tâm duy nhất: phải làm sao nói lên được cái nguyên lý tòm tem ẩn tàng trong mọi sự vật, và tên tuổi của bà gắn liền với sự nghiệp trên đến nỗi hễ một người nào đó chỉ cần nhắc đến tên bà là người khác hiểu ngay ý người kia định nói gì.
Trên đây tôi chỉ đơn cử vài danh nhân tiêu biểu thôi chứ thực ra nếu mà xét cho cùng thì bao nhiêu tác phẩm văn chương nghệ thuật trên thế giới này nếu không liên quan đến ăn thì cũng là do cái động cơ tòm tem thúc đẩy mà ra cả.
Nếu cái chuyện tòm tem nơi loài vật là một sự kiện tự nhiên nên hễ muốn tòm tem thì đi tìm đối tượng hợp tác giải quyết là xong thì nơi con người vì văn minh nên thường "vẽ rắn thêm chân" do đó để thỏa mãn cái nhu cầu tòm tem, con người cũng đặt ra vô số quy định gọi là luật pháp, đạo đức, phong tục, tập quán để làm khó cho mình. Chính vì thế mà chuyện tòm tem của con người mới được phân biệt thành nhiều hình thức.
Thông thường nhất và được xã hội cho phép và nhìn nhận là tòm tem có đăng ký chính thức. Ðể có thể tòm tem theo kiểu này con người phải trải qua nhiều bước gian truân lo lắng và chờ đợi, kết quả có khi được mà cũng có khi chỉ là dã tràng xe cát cho nên mới có chuyện nhiều anh chàng hay cô nàng vì lý do này lý do nọ không hội đủ tiêu chuẩn để xin được giấy phép hành nghề, đành ôm hận đáp chuyến tàu suốt về miền quên lãng, hoặc nhẹ lắm thì cũng là cúi đầu nhìn người yêu ôm cái tòm tem sang ngang không hề ngoảnh lại. Ðiều này nếu có gây đau khổ cho một số người thì chính đó cũng là nguồn cảm hứng để cho những tâm hồn đau khổ đó có thể sáng tác nên những vần thơ tuyệt tác, những áng văn bất hủ và những bản nhạc để đời.
Ðối với những người hân hoan rước được cái tòm tem về rồi thì mọi chuyện bây giờ trở nên như cơm bữa nên không có gì đáng bàn ngoài cái chuyện đêm đêm:
Ðàn ông gì thứ đàn ông
Nửa đêm trở dậy cắm chông đàn bà
Ðàn bà gì thứ đàn bà
Nửa đêm trở dậy rút ruột già đàn ông.
Nửa đêm trở dậy cắm chông đàn bà
Ðàn bà gì thứ đàn bà
Nửa đêm trở dậy rút ruột già đàn ông.
Thỉnh thoảng mới có vài trường hợp cá biệt như:
Lấy chồng từ thủa mười lăm
Chồng chê tôi bé không nằm cùng tôi
Ðến năm mười tám đôi mươi
Tôi nằm dưới đất chồng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn chân giường gãy cả còn đâu...
Chồng chê tôi bé không nằm cùng tôi
Ðến năm mười tám đôi mươi
Tôi nằm dưới đất chồng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn chân giường gãy cả còn đâu...
Chẳng cần phải giải thích ai cũng thừa biết là thương ở trong lòng thì làm sao gãy được chân giường, chẳng qua chuyện gãy cả mấy cái chân giường là do tòm tem sôi nổi mới ra cớ sự. Tuy nhiên cũng không thiếu gì những trường hợp có kẻ vì những lý do không được tiết lộ nào đó mà cứ phải bóp bụng thở than:
Chàng ơi bỏ thiếp làm chi
Thiếp là cơm nguội để khi đói long.
Thiếp là cơm nguội để khi đói long.
Nhờ xã hội bày ra cái chuyện tòm tem phải có “đăng ký” chính thức này mà có những ông vốn coi trời bằng vung bắt đầu biết sợ, dĩ nhiên là không phải sợ trời mà sợ kẻ cao hơn trời nữa kia. Riêng các bà thì có một số khỏi phải khổ công đèn sách, đánh giặc hay phấn đấu công tác cũng bỗng dưng trở thành cô Tú, bà Bác sĩ, bà Thiếu tướng, bà Tỉnh trưởng v.v... để ra oai tác yêu tác quái, có khi còn thêm màn phụ diễn "gà mái đá gà cồ". Ðiều này có vẻ như là một bất công đối với phái nam vì khi một anh chàng nghèo dốt đặc nào đó vô phúc vớ được một bà luật sư, bà bác sĩ cũng không bao giờ được thiên hạ gọi là ông luật sư, ông bác sĩ gì cả để mà hậm họe với đời hay lên lớp chị vợ.
Thời còn chế độ phong kiến thì tuy vua thay trời trị dân, nhưng vì có vài ông vua lại học được cái câu "nhất vợ nhì trời" của dân gian nên có nhiều bà gốc dân giã, không cần dựng cờ khởi nghĩa để làm vua mà chỉ cần được một ông vua loại trên tuyển về làm Hoàng hậu rồi sau đó lại còn lên Thái hậu là cũng đủ làm cho đất nước điêu đứng.
Riêng đối với đa số các bà thường thường bậc trung không có gì để thi thố với đời thì nhờ có sẵn nhãn hiệu cầu chứng lận trong lưng nên rất hãnh diện phô trương cái thành quả tòm tem của mình, đi đâu cũng vác cái bụng phình chương ướng nghễu nghện ra cái điều ta đây nết na đức hạnh để cho xã hội nhìn vào mà nể nang chứ không giống như mấy cô nàng tòm tem lén, tòm tem chui, lỡ có kết quả là tìm cách dấu còn hơn "mèo dấu cứt".
Mặc dù các nhà đạo đức và các nhà luật pháp thường khuyến cáo con người chỉ nên và chỉ được tòm tem có đăng ký chính thức tại một nơi thường trú, nhưng nhiều khi vì tính ham vui mà có những cặp chưa kịp làm xong thủ tục đăng ký đã tòm tem. Ðây là loại tòm tem lén cha lén mẹ. Hình thức này rất phổ biến trong lứa tuổi rường cột của tương lai nên đây cũng là niềm lo lắng của các bậc làm cha mẹ. Tuy nhiên có nhiều cô cậu gặp khó khăn trong vấn đề đăng ký hành nghề, thì lại nhờ cái khoản có kinh nghiệm hành nghề trước mà sau đó được cấp giấy phép điều chỉnh, hoặc cũng có khi là bị bắt buộc điều chỉnh giấy phép tùy trường hợp.
Cũng có khi đã đăng ký có nơi có chốn, nhưng vì thích điều mới lạ hoặc ngán cơm nhà ăn hoài nhạt miệng nên ở đâu lúc nào cũng có chuyện "ông ăn chả bà ăn nem" hoặc là ông đi lính "nhảy dù" bà đi tìm nơi "ăn vụng". Ðây là loại tòm tem chui, trốn thuế cho nên thường xảy ra nhiều màn đấu gươm, nổ súng, rượt bắt rất sôi nổi, hoặc nhiều cảnh trừng trị rất rùng rợn. Ngày xưa khi mà "phép vua thua lệ làng", dân nông thôn ở các vùng ven sông đôi khi vẫn vớt được đôi trai gái bị trói thúc ké thả trôi theo giòng nước chỉ vì bị bắt quả tang đang ăn vụng.
Phần 1/2
(Còn tiếp) Ler Thiem chuyen
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
ĐỜI CÒN VUI VÌ CÒN CHÚT “TÒM TEM” Khuyết danh
Không biết hai tiếng “tòm tem” xuất hiện trong ngôn ngữ Việt từ bao giờ nhưng cái chuyện tòm tem thì quả là xưa không kém gì quả đất.
Không biết hai tiếng “tòm tem” xuất hiện trong ngôn ngữ Việt từ bao giờ nhưng cái chuyện tòm tem thì quả là xưa không kém gì quả đất.
Tuy nhiên dù có xưa cách mấy thì tòm tem vẫn không bao giờ cũ vì loài người còn tồn tại tới ngày hôm nay cũng là nhờ vào tòm tem. Chính vì thế mà thiên hạ vẫn cứ mãi mãi tòm tem và nói về chuyện tòm tem.
Sở dĩ tôi dùng hai tiếng tòm tem này để nói về một chuyện mà ngôn từ dùng để diễn tả lại vô cùng phong phú và thường được thả nổi, ấy là tại vì hai tiếng này vừa có gốc có gác, vừa nôm na dễ hiểu, lại không bị coi là tục để các vị thích rao giảng đạo đức bắt bẻ mà cũng không khô khan như từ ngữ chuyên môn của nhà khoa học. Tôi học được hai chữ này trong bài ca dao sau:
Ðang khi lửa đỏ cơm sôi
Lợn kêu con khóc lại đòi tòm tem
Bây giờ cơm chín lửa tàn
Lợn no con ngủ, tòm tem thì tòm
Lợn kêu con khóc lại đòi tòm tem
Bây giờ cơm chín lửa tàn
Lợn no con ngủ, tòm tem thì tòm
Phải nói là mặc dù mấy câu ca dao này tuy thật là đơn giản nhưng càng đọc tôi càng thấy thấm ý. Con người từ thủa xa xưa cho tới ngày nay, sống trên đời lúc nào cũng cứ tối tăm mặt mũi với hàng trăm thứ chuyện lỉnh kỉnh hằng ngày nhưng xét cho cùng thì chẳng qua cũng chỉ là nhằm đáp ứng cho hai nhu cầu cơ bản là ăn để sống và tòm tem để bảo tồn chủng loại. Có khác chăng là theo đà tiến hóa, con người càng văn minh thì cái ăn và cách ăn cũng trở thành cầu kỳ và cái tòm tem cũng được bày đặt thêm nhiều quy định có tính cách hình thức rắc rối hơn mà thôi.
Tuy cả hai nhu cầu trên đều là căn bản nhưng nếu sắp theo thứ tự ưu tiên thì cái ăn vẫn là trước tiên rồi mới tới chuyện tòm tem, vì chỉ có "no cơm ấm cật" thì lúc đó mới có thể "rậm rật khắp nơi" chứ bụng mà đói meo thì "chó cũng đành chê cứt". Cái sự ví von này tôi cũng học được trong kho tàng ca dao tục ngữ. Ai không tin cứ giở ca dao tục ngữ ra sẽ gặp khối câu như:
Em như cục cứt trôi sông
Anh như con chó ngồi trông trên bờ
Anh như con chó ngồi trông trên bờ
Nếu nhu cầu ăn có từ khi lọt lòng thì trái lại nhu cầu tòm tem phải đợi đến một cái tuổi gọi là biết mắc cỡ vì khám phá ra những cái khang khác nơi mình và nơi người mới bắt đầu có. Lại nữa, cái cường độ của nhu cầu này cũng biến thiên tùy theo nguời và tùy theo thời gian: sung độ nhất vào lúc tuổi còn trẻ nhưng càng về già thì yếu lần và có thể không còn nữa. Chính vì thế mà người ta mới hối nhau:
Ai ơi chơi lấy kẻo già
Măng mọc có lứa người ta có thì
Chơi Xuân kẻo hết Xuân đi
Cái già sồng sộc nó thì theo sau.
Măng mọc có lứa người ta có thì
Chơi Xuân kẻo hết Xuân đi
Cái già sồng sộc nó thì theo sau.
Mặc dù trong văn học Việt Nam cũng đã có những nhà nho xông xáo cỡ cụ Nguyễn Công Trứ từng vỗ ngực tự hào trong một bài hát nói "càng già càng dẻo càng dai" và trong ca dao cũng có những bài như:
Bà già đã tám mươi tư
Ngồi bên cửa sổ biên thư lấy chồng.
Hoặc là:
Bà già đi chợ cầu Ðông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng
Thầy bói gieo quẻ đoán rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn.
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng
Thầy bói gieo quẻ đoán rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn.
Tuy nhiên nếu nghiệm cho kỹ thì chẳng qua các cụ cũng chỉ là tiếc nuối cho một thời oanh liệt đã qua đi mà nói vớt vát cho vui thế thôi chứ thực tế thì các cụ cũng không làm sao xoay ngược lại định luật của tạo hóa.
Ngoài ra, nếu nhu cầu ăn không thể thiếu thì ngược lại nhu cầu tòm tem có thể hy sinh mà không làm cho cá nhân ấy chết, trừ trường hợp nếu như tất cả giống người đều hy sinh cái nhu cầu này thì lúc đó loài người mới bị tuyệt chủng thôi. Về cái khoản này thì Phật có dạy đời là bể khổ và con người phải diệt dục thì mới dứt được nghiệp chướng để tịnh độ Niết Bàn. Tuy vậy, có một số người dù đã quy y đầu Phật thành sư, nhưng lòng thì vọng động, đôi khi còn bạo hơn cả người phàm nên người đời mới gọi các vị này là "sư hổ mang". Còn nếu chỉ nhè nhẹ thôi thì ca dao cũng đã từng môtả:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Khác với Phật giáo chủ trương diệt dục, người Thiên Chúa giáo lại tin rằng khi Chúa dựng nên người nam và người nữ đầu tiên rồi thì có phán: "Hãy sinh sản ra cho đầy mặt đất này". Tuy nhiên khi loài người đã sinh ra tràn đầy trên mặt đất này rồi thì Hội Thánh mỗi khi muốn tuyển chọn người thay Chúa chăn dắt bầy chiên ở trần gian thì lại đòi hỏi người đó phải hy sinh cái niềm vui tòm tem. Ðiều này gây trở ngại cho một số người vừa muốn làm kẻ chăn chiên của Chúa lại vừa không muốn sống trong cảnh "cám treo heo nhịn đói", do đó mà nảy sinh ra Giáo phái Tin Lành. Các ngài mục sư nhờ hiểu Kinh Thánh một cách cởi mở hơn nên đã giúp cho một số người an tâm vừa làm tôi tớ Chúa, vừa vui thú trần gian mà không hề mang mặc cảm phạm tội. Riêng về phía Giáo hội La Mã vì khắt khe với lề luật mà có những kẻ lúc bắt đầu những mong theo chân Chúa làm đến chức cha, chức cố, nhưng rốt cuộc chỉ mới tới được chức "ta ru", nghĩa là đã vào tu rồi nhưng thấy đời còn vui quá lại nhảy ra.
Mặc dù bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền có khẳng định: "Mọi người sinh ra bình đẳng" nhưng thực tế thì Tạo hóa vốn có trước loài người nên hình như không biết có cái luật đó cho nên mới để lọt một số người bị mụ bà nắn thiếu cái "gia tài của mẹ để lại cho con" khiến cho những kẻ này không bao giờ biết được cái niềm vui tòm tem ở cõi đời này. Tuy nhiên vào cái thời đất nước còn được cai trị bởi những ông vua thì cũng có vài anh chàng lại tự nguyện cắt bỏ cái gia tài này để được hầu hạ trong cung hầu kiếm miếng cơm manh áo như mấy anh chàng muốn xin làm thái giám.
Số là trong xã hội phong kiến ngày xưa, một kẻ làm vua thì tự cho mình có cái quyền tha hồ tòm tem. Do đó mà ông vua nào cũng có trong cung hàng ngàn cung tần mỹ nữ. Tuy nhiều thế và nhiều khi tòm tem không xuể nhưng vì tham lam và ích kỷ nên ông vua nào cũng sợ kẻ khác tòm tem giùm mình do đó mới phải chọn mấy anh chàng thái giám để hầu hạ trong cung cho chắc ăn. Nhiều ông vua cũng vì mê tòm tem đến độ phế bỏ cả triều chính cho nên đành phải mất nước hay mất cả cái chỗ đội vương miện. Có ông thì bệ rạc đến nỗi không còn ngồi dậy nổi để thiết triều đành nằm ườn ra cho đình thần vào chầu như ông vua Long Ðĩnh nhà Lê. Sử gia khi nhắc đến phải đặt cho triều đại này cái biệt danh là Lê ngọa triều.
Cũng vì cái mục ham tòm tem này của kẻ làm vua mà nhiều khi đi đoong luôn cả một dân tộc. Xưa Chiêm thành cũng là một vương quốc lừng lẫy. Vào thời nhà Trần ở nước ta thì có vua Chiêm là Chế Mân bỗng dưng nổi hứng đem dâng luôn hai châu Ô và châu Rí để xin với vua Trần cho được rước công chúa Huyền Trân về tòm tem. Không hiểu có phải vì nàng công chúa xứ Việt tài cao hay vua Chiêm lụ khụ sao đó mà ít lâu sau thì vua Chiêm tịch. Theo phong tục Chiêm thành thì khi vua chết hoàng hậu và phi tần cũng phải tịch theo vua để tiếp tục hầu hạ cho nhà vua cũng được tòm tem nơi chín suối. Nhà Trần tiếc cho tuổi xuân phơi phới của nàng công chúa của mình mà bị đưa lên giàn hỏa với vua Chiêm thì thật là phí hương trời, bèn sai Trần Khắc Chung vào kinh thành Chiêm lén đem công chúa về. Tương truyền sau đó hai người đưa nhau đi đâu làm gì chẳng ai rõ, nhưng dù sao thì cái tên Huyền Trân cũng đi vào lịch sử, còn Chiêm Thành thì theo cái đà mất hai châu mà mất lần cho đến mất luôn cả nước và bị diệt vong.
Theo các nhà nghiên cứu về sinh vật học thì trong vấn đề tòm tem, giống cái bao giờ cũng khỏe hơn giống đực. Nguyên lý này hình như cũng đúng cả với con người. Chúng ta chỉ nghe kể ông này ngài nọ đang tòm tem thì bị ngã ngựa rồi đi đoong chứ chẳng bao giờ nghe nói có bà nào lăn quay ra ngáp ngáp trong lúc tòm tem cả. Nghe khoản này có lẽ các ông không đồng ý vì tự hồi nào các ông vẫn tự cho mình là phái khỏe còn đàn bà mới là "liễu yếu đào tơ" phải "núp bóng tùng quân". Tuy nhiên tục ngữ cũng có câu: "con gái mười bảy, bẻ gãy sừng trâu", cho nên nam nhi cỡ mấy anh chàng "trói gà không chặt" mà gặp phải mấy cô này thì cũng coi như là đi đoong, bằng không thì cũng bị cô nàng cắm cho năm bảy cái sừng to tổ bố.
Trở lại với cái chuyện tòm tem ngã ngựa này ở nước ta mà có liên quan đến lịch sử thì phải kể câu chuyện đời Lê. Nguyễn Trãi là một khai quốc công thần từng giúp Lê Lợi đánh thắng quân Minh giành lại nền độc lập cho Tổ quốc và lập nên nhà Hậu Lê. Lúc vua Lê Thái tổ quy tiên, vua con lên nối ngôi thì cụ cũng đã già về nghỉ hưu. Tuy thế, có một hôm nghe tiếng cô nàng Thị Lộ rao bán chiếu trước dinh, cụ bỗng hứng chí cho gọi vào ra mắt, và khi thấy cô hàng chiếu trông cũng tươi mát, cụ bèn ứng khẩu mấy vần thơ trêu ghẹo:
Ả ở đâu mà bán chiếu gon
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn
Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi
Ðã có chồng chưa được mấy con?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn
Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi
Ðã có chồng chưa được mấy con?
Cô hàng chiếu cũng chẳng vừa, họa lại ngay:
Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon
Cớ chi ông hỏi hết hay còn
Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!
Cớ chi ông hỏi hết hay còn
Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!
Nghe cô hàng chiếu ứng đối lanh lẹ, cụ đâm ra mến tài mến sắc nên quyết chí rước nàng về làm nàng hầu. Nếu chuyện chỉ có thế thì cũng chẳng có gì đáng nói. Ðằng này vì cụ đã già nên có lẽ sinh ra lẩm cẩm. Nhân một hôm nhà vua trẻ đi tuần thú qua vùng này bèn ghé lại nhà cụ nghỉ đêm, cụ thương cho cô nàng hầu tuổi xuân phơi phới lâu nay bị bỏ phế mới sai nàng ra hầu hạ nhà vua may ra kiếm được chút ơn mưa móc. Chẳng hiểu ông vua trẻ tòm tem ra sao mà băng ngay đêm đó tại nhà cụ. Thế là triều đình đổ xô vào hạch cụ về cái tội giết vua và cái tước khai quốc công thần của cụ cũng đành vứt đi khiến cho cụ chỉ còn biết cam phận lãnh cái bản án tử đi đoong luôn một lúc cả ba họ.
Các nhà nghiên cứu về sinh vật còn đưa thêm một nhận xét là có nhiều loài sinh vật sau khi tòm tem thì chị cái còn xơi tái luôn anh chàng đực cho đã cơn đói lòng, chẳng hạn như loài bọ ngựa. Ðiều này tưởng chừng không xảy ra nơi con người nhưng nếu nghiệm kỹ ra thì cũng có, nhưng vì con người có đời sống văn minh cho nên cái mục cô nàng xơi tái anh chàng này cũng diễn ra dưới một hình thức mới mẻ hơn, khoa học hơn, tinh vi hơn, trông nhẹ nhàng và không có vẻ rùng rợn nhưng độc ác thì không kém. Nàng chỉ móc cái ví tiền, nắm lấy cái ví tiền thôi chứ không cần moi ngực moi tim gì cả. Có biết bao ông "nam nhi chi chí", chỉ vì tòm tem mà bị thân bại danh liệt do ăn hối lộ, thụt két để cung phụng cho cô nàng no bụng còn ông thì vào nằm nhà đá gỡ lịch. Ðối với những ông có sẵn cơ nghiệp thì cô nàng cứ việc tha hồ ăn cho tới sạt nghiệp rỗng túi phải ra thân ăn mày. Ngay cả những ông được cái tiếng là hiền lành cũng lắm lúc khốn khổ vì đi làm lãnh lương ba cọc ba đồng thôi mà cũng bị bà vợ móc sạch. Thế là đủ cho anh chàng từ đó cứ lệ thuộc vào bà vợ mà ngáp ngáp. Còn bà vợ thì phây phây "chưa đi đến chợ đã lo ăn quà", càng ngày càng phốp pháp ra trong khi đức lang quân thì càng ngày càng cà tong cà teo như que củi.
Chuyện tòm tem mà đi vào văn học sử thì rất nhiều. Vào cái năm Tí Sửu Dần Mẹo gì đó có sứ Tàu sang nước ta. Không hiểu do đâu mà sứ lại gặp bà Ðoàn Thị Ðiểm, lại còn buông lời chọc ghẹo chớt nhả: "An nam nhất thốn thổ, Bất tri kỷ nhân canh", nghĩa là "một tấc đất An nam không biết bao nhiêu là người cày" ý xỏ xiên gái Việt. Bà Ðiểm vốn đã từng dịch Chinh Phụ Ngâm, chữ nghĩa đầy mình, đâu dễ gì chịu mất mặt như vậy, bèn đối ngay: "Trung quốc đại trượng phu, Giai do thử đồ xuất". Câu này có nghĩa là "bậc trượng phu của nước Tàu cũng từ đó mà chui ra cả thôi". Ðúng là chậu nước lạnh hắt vào mặt sứ Trung hoa.
Trên đây là chuyện vào thời nước ta chỉ biết giao hảo với nước Tàu. Vào cái buổi giao thời Tây Tàu nhố nhăng thì có:
Vị Xương có Tú Xương
Dở dở lại ương ương
Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lường.
Dở dở lại ương ương
Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lường.
Cụ lại còn tự thú thêm:
Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ ấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ ấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
Tuy nhiên đáng nể hơn cả phải nói là bà Hồ Xuân Hương. Sự nghiệp văn chương của bà toàn hướng về trọng tâm duy nhất: phải làm sao nói lên được cái nguyên lý tòm tem ẩn tàng trong mọi sự vật, và tên tuổi của bà gắn liền với sự nghiệp trên đến nỗi hễ một người nào đó chỉ cần nhắc đến tên bà là người khác hiểu ngay ý người kia định nói gì.
Trên đây tôi chỉ đơn cử vài danh nhân tiêu biểu thôi chứ thực ra nếu mà xét cho cùng thì bao nhiêu tác phẩm văn chương nghệ thuật trên thế giới này nếu không liên quan đến ăn thì cũng là do cái động cơ tòm tem thúc đẩy mà ra cả.
Nếu cái chuyện tòm tem nơi loài vật là một sự kiện tự nhiên nên hễ muốn tòm tem thì đi tìm đối tượng hợp tác giải quyết là xong thì nơi con người vì văn minh nên thường "vẽ rắn thêm chân" do đó để thỏa mãn cái nhu cầu tòm tem, con người cũng đặt ra vô số quy định gọi là luật pháp, đạo đức, phong tục, tập quán để làm khó cho mình. Chính vì thế mà chuyện tòm tem của con người mới được phân biệt thành nhiều hình thức.
Thông thường nhất và được xã hội cho phép và nhìn nhận là tòm tem có đăng ký chính thức. Ðể có thể tòm tem theo kiểu này con người phải trải qua nhiều bước gian truân lo lắng và chờ đợi, kết quả có khi được mà cũng có khi chỉ là dã tràng xe cát cho nên mới có chuyện nhiều anh chàng hay cô nàng vì lý do này lý do nọ không hội đủ tiêu chuẩn để xin được giấy phép hành nghề, đành ôm hận đáp chuyến tàu suốt về miền quên lãng, hoặc nhẹ lắm thì cũng là cúi đầu nhìn người yêu ôm cái tòm tem sang ngang không hề ngoảnh lại. Ðiều này nếu có gây đau khổ cho một số người thì chính đó cũng là nguồn cảm hứng để cho những tâm hồn đau khổ đó có thể sáng tác nên những vần thơ tuyệt tác, những áng văn bất hủ và những bản nhạc để đời.
Ðối với những người hân hoan rước được cái tòm tem về rồi thì mọi chuyện bây giờ trở nên như cơm bữa nên không có gì đáng bàn ngoài cái chuyện đêm đêm:
Ðàn ông gì thứ đàn ông
Nửa đêm trở dậy cắm chông đàn bà
Ðàn bà gì thứ đàn bà
Nửa đêm trở dậy rút ruột già đàn ông.
Nửa đêm trở dậy cắm chông đàn bà
Ðàn bà gì thứ đàn bà
Nửa đêm trở dậy rút ruột già đàn ông.
Thỉnh thoảng mới có vài trường hợp cá biệt như:
Lấy chồng từ thủa mười lăm
Chồng chê tôi bé không nằm cùng tôi
Ðến năm mười tám đôi mươi
Tôi nằm dưới đất chồng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn chân giường gãy cả còn đâu...
Chồng chê tôi bé không nằm cùng tôi
Ðến năm mười tám đôi mươi
Tôi nằm dưới đất chồng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn chân giường gãy cả còn đâu...
Chẳng cần phải giải thích ai cũng thừa biết là thương ở trong lòng thì làm sao gãy được chân giường, chẳng qua chuyện gãy cả mấy cái chân giường là do tòm tem sôi nổi mới ra cớ sự. Tuy nhiên cũng không thiếu gì những trường hợp có kẻ vì những lý do không được tiết lộ nào đó mà cứ phải bóp bụng thở than:
Chàng ơi bỏ thiếp làm chi
Thiếp là cơm nguội để khi đói long.
Thiếp là cơm nguội để khi đói long.
Nhờ xã hội bày ra cái chuyện tòm tem phải có “đăng ký” chính thức này mà có những ông vốn coi trời bằng vung bắt đầu biết sợ, dĩ nhiên là không phải sợ trời mà sợ kẻ cao hơn trời nữa kia. Riêng các bà thì có một số khỏi phải khổ công đèn sách, đánh giặc hay phấn đấu công tác cũng bỗng dưng trở thành cô Tú, bà Bác sĩ, bà Thiếu tướng, bà Tỉnh trưởng v.v... để ra oai tác yêu tác quái, có khi còn thêm màn phụ diễn "gà mái đá gà cồ". Ðiều này có vẻ như là một bất công đối với phái nam vì khi một anh chàng nghèo dốt đặc nào đó vô phúc vớ được một bà luật sư, bà bác sĩ cũng không bao giờ được thiên hạ gọi là ông luật sư, ông bác sĩ gì cả để mà hậm họe với đời hay lên lớp chị vợ.
Thời còn chế độ phong kiến thì tuy vua thay trời trị dân, nhưng vì có vài ông vua lại học được cái câu "nhất vợ nhì trời" của dân gian nên có nhiều bà gốc dân giã, không cần dựng cờ khởi nghĩa để làm vua mà chỉ cần được một ông vua loại trên tuyển về làm Hoàng hậu rồi sau đó lại còn lên Thái hậu là cũng đủ làm cho đất nước điêu đứng.
Riêng đối với đa số các bà thường thường bậc trung không có gì để thi thố với đời thì nhờ có sẵn nhãn hiệu cầu chứng lận trong lưng nên rất hãnh diện phô trương cái thành quả tòm tem của mình, đi đâu cũng vác cái bụng phình chương ướng nghễu nghện ra cái điều ta đây nết na đức hạnh để cho xã hội nhìn vào mà nể nang chứ không giống như mấy cô nàng tòm tem lén, tòm tem chui, lỡ có kết quả là tìm cách dấu còn hơn "mèo dấu cứt".
Mặc dù các nhà đạo đức và các nhà luật pháp thường khuyến cáo con người chỉ nên và chỉ được tòm tem có đăng ký chính thức tại một nơi thường trú, nhưng nhiều khi vì tính ham vui mà có những cặp chưa kịp làm xong thủ tục đăng ký đã tòm tem. Ðây là loại tòm tem lén cha lén mẹ. Hình thức này rất phổ biến trong lứa tuổi rường cột của tương lai nên đây cũng là niềm lo lắng của các bậc làm cha mẹ. Tuy nhiên có nhiều cô cậu gặp khó khăn trong vấn đề đăng ký hành nghề, thì lại nhờ cái khoản có kinh nghiệm hành nghề trước mà sau đó được cấp giấy phép điều chỉnh, hoặc cũng có khi là bị bắt buộc điều chỉnh giấy phép tùy trường hợp.
Cũng có khi đã đăng ký có nơi có chốn, nhưng vì thích điều mới lạ hoặc ngán cơm nhà ăn hoài nhạt miệng nên ở đâu lúc nào cũng có chuyện "ông ăn chả bà ăn nem" hoặc là ông đi lính "nhảy dù" bà đi tìm nơi "ăn vụng". Ðây là loại tòm tem chui, trốn thuế cho nên thường xảy ra nhiều màn đấu gươm, nổ súng, rượt bắt rất sôi nổi, hoặc nhiều cảnh trừng trị rất rùng rợn. Ngày xưa khi mà "phép vua thua lệ làng", dân nông thôn ở các vùng ven sông đôi khi vẫn vớt được đôi trai gái bị trói thúc ké thả trôi theo giòng nước chỉ vì bị bắt quả tang đang ăn vụng.
Phần 1/2
(Còn tiếp) Ler Thiem chuyen