Phạm Văn Lương
TD34/ LD6BĐQ
Chuyện chẳng ai ngờ lại xảy ra, nhiều người khi rời Pleiku chỉ mang bình nước nhỏ, vài vắt cơm, một hai bộ đồ đủ thay đổi. Nhiều người chưa bao giờ ra khỏi Pleiku, chỉ quanh quẩn tại thành phố mưa bùn, nắng bụi này, nếu có ai hỏi họ từ đâu tới lập nghiệp tại đây, nhiều người chẳng biết trả lời làm sao, họ từ khắp nơi tới, rồi mọc rễ ở đây, họ là những người lính, suốt đời, khi về già, họ ở lại, đất lành chim đậu, đi đâu cũng vậy, họ trở thành người dân Pleiku, có một điều rất giống nhau của họ, ai cũng không muốn xa Pleiku. Mời các bạn đọc truyện ngắn, gói ghém tâm sự của những người phải bỏ thành phố này, dù tới phút chót, họ vẫn tự hỏi, họ sẽ đi đâu?
Chỉ còn vài giờ đồng hồ nữa tiểu đoàn Hoàng sẽ di chuyển từ KonTum
xuống Pleiku, đời lính đi hành quân chẳng có gì lạ, nhiều khi thật bất
ngờ, chẳng hạn định, có nhiều lần đơn vị mới về sau một cuộc hành quân
xa, dài ngày, lính vừa ra khỏi trại, súng vừa lau sạch, người có gia
đình, đi chợ mua chút thức ăn, ăn một bữa cơm gia đình, người khác đi
hớt tóc, mấy chục ngày hành quân tóc phủ ngang tai, những sĩ quan độc
thân, ngồi chật trên chiếc xe, ra phố, tắm nước nóng, uống cà phê, hay
một vài ly bia, nói chuyện với mấy cô ngồi két, phút giây hạnh phúc.
Tiểu đoàn Hoàng đóng trên tiền đồn 4, Hoàng nhận lệnh xuống núi từ hôm
qua, trước khi đi Trân, tiểu đoàn trưởng cũng là bạn cùng khóa, tôi gởi
alpha xuống trước một đêm, nhớ nghe ngóng tình hình, luôn hỏi niên
trưởng San và anh Năm Nhí, báo cho tôi liền khi có tin gì lạ. Trân biết
Hoàng chỉ loanh quanh tại Kon Tum, thể nào cũng vào quán cà phê, cô Dung
chủ quán , còn ở lứa tuổi học trò, gọi là quán cũng đúng , mà gọi là
nhà cũng phần nào đúng, ba Dung làm việc tại tiểu khu, má Dung buôn bán
lặt vặt ngoài chợ, Dung và cô em gái gần bằng tuổi nhau, dùng cái phòng
lớn, trang hoàng tươm tất , bán cà phê , những quán loại này ở đâu cũng
có, nhất là chỗ nào nhiều lính từ xa tới như vùng này, hay vùng Tân
Cảnh, trong một thành phố điạ đầu , chiến tranh làm những cô gái mới lớn
như Dung, tuổi còn mơ ước được vào trường, nhiều lần Hoàng nói chuyện,
Dung tâm sự, em muốn được học tiếp lên đại học, nhưng anh thử coi ,
thành phố này chưa có tới lớp đệ nhất, Pleiku cũng chưa có, chỉ hứa hẹn
sẽ có, nếu xin được tiền mở thêm lớp. Em muốn học nơi tốt hơn như Dalat,
Huế hay Sai Gòn, thì ba má em không có tiền , tính đi tính lại, muốn
xuống Qui Nhơn học sư phạm, nhưng cũng không dễ gì, đâu đâu cũng đổ về
Qui Nhơn, lớp học có hạn, chỉ ai học giỏi lắm, mới hy vọng.
Hoàng thông cảm, nhìn Dung ái ngại, thôi người ta nói phi thương bất
phú, em thấy người Tàu, ở đâu cũng chỉ buôn bán, nhỏ lớn cũng chỉ có một
nghề, mà đâu phải ai cũng có quán to quan lớn đâu, anh thấy quán em
đông khách, chẳng lẽ thu hoạch không bằng lương giáo viên ư, theo anh
nhìn, lương em hơn cả lương anh nữa.
Dung cười, nếu tính tới tiền thì anh nói đúng, nhưng dậy học, người ta
nhìn khác, người ta kêu khác, đứng bán cà phê, người ta nhìn cách khác,
người ta kêu khác, mà là sĩ quan thì lại càng khác.
Hoàng cười, quan quyền gì, em thấy cả tháng nằm ẹp trên núi, xuống dưới thành phố huy hoàng vài bữa là xong, lại mong lên núi,
Dung hỏi, thật anh mong lên núi không?, em không tin rồi, biết Dung đánh
ngay yếu điểm của mình, Hoàng chỉ cười, nói là một chuyện mà thực tế
thì cũng khác chút chứ.
Khách đã vắng, Dung châm bình trà nóng cho Hoàng, vừa kéo ghế ngồi cạnh
Hoàng, mấy ngày nay, ba em đi làm về, lúc nào cũng bồn chồn lo lắng, cả
nhà lo theo, đài phát thanh thì ngày nào cũng thấy tin di tản, nhất là
ngoài Huế, Quảng Trị, Đông Hà, anh có bao giờ đi hành quân mấy vùng đó
không anh?
Hoàng hơi ngạc nhiên, sao Dung có vẻ quan tâm tới tình hình như vậy,
thật tình sau khi họp hành quân tại Liên Đoàn, Hoàng nói chuyện với Trân
trên tiền đồn 4, tả tỉ mỉ những điều mình nhận lệnh, và ngay cả những
gì mình nhận xét khi nhìn dân chúng, thấy vậy mà dân chúng cũng đánh hơi
được nhiều điều, họ đã quen rồi, dù dấu sao thì dấu, một chút thay đổi,
một vài chuyến xe GMC chạy, dân cũng bắt được tin, nhà nào không có
người thân đi lính, từ hơn nửa tháng nay, dân chúng ai cũng mở đài VOA,
đài BBC nghe tin chiến sự.
Dung nhìn Hoàng tư lự, hơi lo, anh suy nghĩ gì, anh biết gì đừng dấu em nghe.
Hoàng cười, anh cũng không hơn em một chút nào, Dung vẫn không tin,
nhưng không muốn hỏi thêm, con gái nhiều khi họ tinh ý, nhưng không tiện
nói.
Dung rót ly nước đưa Hoàng, uống chút nước nóng đi anh, trà thơm ghê, em mới mua loại này, nước xanh mà ướp lài thơm lừng.
Dung đứng dậy tiếp người khách mới vào, tuy tiếp khách, nhưng mắt vẫn
trông chừng, cô bé hơi nhăn mặt, khi người khách chọc cô, như mọi khi,
Dung ít khi làm khách bực mình, nhưng hôm nay, Dung hình như cũng suy
nghĩ nhiều, đây là lần đầu tiên cô bé nhăn mặt, không bằng lòng, nhiều
lần trước , Hoàng vẫn thầm khen, đúng là buôn bán như Dung, chiều khách
hết mực, khách khó tính mấy cũng không phật lòng.
Hoàng hiểu, Dung lo lắng về tương lai, mà cũng đúng thôi, làm ăn đang
yên ổn, mà nghe tin tức nơi này chạy, nơi nọ rút quân, ai mà không lo
lắng, nhất là những vùng như Kon Tum, người dân đã có kinh nghiệm, mùa
hè đỏ lửa, dân chúng phải bỏ nhà bỏ cửa, để thoát thân, để tránh đạn,
khi về lại nhà, nhiều người trắng tay, nhiều người thiếu may mắn, nhà bị
cháy rụi, họ phải bắt đầu lại, mới chỉ hai năm, vết thương cũ chưa lành
, dấu hiệu của mất mát, của chia lìa đã hiện ra, qua những tin tức hàng
ngày, ai chẳng não lòng.
Trong khi họp hành quân, nghe nói lệnh trực tiếp từ tổng thống và tư
lệnh quân đoàn, toàn bộ quân đoàn II sẽ xuống Nha Trang lập bô chỉ huy
nhẹ. Trong khi đơn vị Hoàng bỏ căn cứ 4, xuống núi, quân đoàn lại điều
đơn vị địa phương quân lên trám chỗ, Hoàng chép miệng, lệnh gì kỳ quặc
thật, như vậy là quân đoàn muốn thí quân, mang con bỏ chợ, Hoàng đau
khổ, cũng chung nỗi buồn, nỗi buồn cho thân phận lính, lính nào, cuối
cùng cũng là con người, chỉ huy sao kỳ lạ thật, mang một mạng người đi,
bỏ một mạng người khác thế, bằng một lệnh mập mờ, lúc họp hành quân,
Hoàng là cấp thấp, nhưng liên đoàn cũng chẳng khá gì hơn, cũng hoang
mang, cũng chỉ theo lệnh, chẳng ai có quyền hỏi, và hỏi ai. Ai khôn
khéo, ai suy luận hơn một chút, ai nghe đài ngoại quốc hơn một chút, đây
chính là những lúc, đơn vị bảo nhau, mỗi đơn vị làm sai một chút để tự
bảo vệ mình. Thay vì mang nhiều đạn, lại mang nhiều cơm sấy, nhiều xăng
dầu, thay vì mang thêm vũ khí nặng, đơn vị lại bỏ bớt một vài cây súng
cối, bỏ bớt một vài khẩu 57 ly không giật , thành thử , không ai dám
chống lệnh, nhưng chẳng đơn vị nào thi hành đúng lệnh.
Chiến tranh chỉ là một cớ, nhưng chính cách chỉ huy cứng nhắc, sợ trách
nhiệm, thiếu tình người đã làm cho các đơn vị như đơn vị Hoàng càng ngày
càng xuống tinh thần, thiếu tin tức, gây hoang mang , làm mất niềm tin
của lính rất nhiều. Hoàng đang mải suy nghĩ, Dung kéo ghế ngồi cạnh, hỏi
nhỏ, em biết anh có gì bận tâm lắm, có gì làm anh suy nghĩ nhiều lắm
phải không? Nhìn đôi mắt lo lắng, hơi buồn của Dung, chút xíu nữa Hoàng
đã nói cho Dung những gì mình biết, những gì mình đã nhận lệnh từ trên,
nhưng Hoàng chợt ngưng lại, trách khéo để che đậy chút bối rối, “ Em chỉ
đoán non, đoán già ‘, anh đâu bao giờ nói dối em gì đâu?, em thấy có
bao giờ anh nói dối không” , trái lại em hơi khác hơn mọi ngày, lúc nãy,
ông khách nào hơi xui, bị em nhăn mặt, chau mày, Dung bật cười, em đang
lo nhiều chuyện, mà ông khách cứ đòi nhạc này, nhạc kia, nhưng nếu chỉ
có vậy, em ráng nhịn, đằng này, ông ta kéo tay, em, làm như thân tình
lắm, chỉ về phía anh, hỏi em, Dung biết ông lính đó không, em quên cả
khách , trả lời, ông tới mà hỏi, cũng tội ông khách, mặt tiu nghỉu, buồn
thiu, khi mang cà phê lại cho khách, em cũng ân hận, cười giả lả, nói
“em xin lỗi anh nghe”, đáng lẽ, em không nên nói thế, rồi làm bộ hỏi
tiếp “lúc nãy, anh muốn bản nhạc nào, em tới mở nghe”, ông khách tươi
tỉnh, thôi “Dung để nhạc nào cũng được”.
Hoàng hỏi Dung, anh thấy em không được vui như mọi ngày, khuôn mặt lo
âu, mắt thì quầng, như mất ngủ mấy đêm liền vậy, Hoàng đánh đúng tâm lý,
nói gì chứ đụng tới sắc đẹp, là có phản ứng ngay, Dung hỏi lại, em coi
tệ lắm ư, Hoàng biết đàn bà dù khôn ngoan mấy đi nữa, nhiều khi chỉ cần
một câu hỏi đúng lúc, là có thể biết nhiều chuyện, Hoàng biết Dung đã
sẵn sàng kể lể , sẵn sàng nói hết cả những nỗi lo lắng của mình, nhất là
nói với người mình tin tưởng, hơn lúc nào hết, lúc này Dung cần được
nghe, Hoàng hỏi nhỏ, mấy bữa nay , ba em ở tiểu khu , đi làm về, có nói
gì, có chuẩn bị gì không ?, Hoàng vừa hỏi vừa rót ly nước , đưa cho
Dung, uống chút đi, cho bớt mệt, nước trà nhiều khi giúp người ta trấn
tỉnh được nỗi lo lắng em à, Dung tươi hẳn lên, thật hả anh, Hoàng lại
cười, thật với dối gì nữa, em thấy anh chưa, uống trà cả ngày nên em
thấy anh lo lắng bao giờ đâu, Dung nắm tay Hoàng, sao không thấy anh lo
lắng, từ nãy tới giờ, tuy em bận bịu tiếp khách, em vẫn để ý nhìn anh,
em biết chắc, anh đang suy nghĩ điều gì quan trọng lắm.
Dung bắt đầu kể, đêm hôm kia, cả nhà ăn cơm, ba em nói với em và em
Hằng, ba muốn hai đứa con đi Plei Ku được không? Em hỏi, đi làm gì, ba
nói, hai chị em xuống nhà chú Thìn, ở đó, nếu tình hình chiến sự, không
qua nổi, như mùa hè năm 1972, ba má sẽ xuống với hai đứa, cả nhà mình sẽ
kiếm đường đi Qui Nhơn hay đi đâu cũng được miễn là giữ được mạng sống
là mừng rồi. Má em lại hỏi, thế ông thiếu tá trưởng phòng có nói gì với
anh không, ba em lắc đầu, ổng cũng không hơn gì mình. Nhưng ông ta cũng
nói với tôi, chỗ thân tình, ông giặn giữ chiếc xe dodge, lúc nào cũng
phải lái, đừng bỏ xe cho ai, ông ta còn giặn tiếp, ráng kiếm thêm mấy
can xăng sơ cua, nếu có gì, là nhà mình và nhà ông ta lên chiếc xe, chạy
thẳng xuống Pleiku, ông thiếu tá lập đi lập lại, anh phải kín miệng,
đừng bô bô ra, sau này, không có gì, đi tù cả đám, ông nói nhà mình 4
người, nhà ông ta cũng 4 người, còn dư chỗ, thêm một vài người nữa, khi
nào, không còn hy vọng gì nữa, ông ta cho mình biết, là đi ngay.
Em hỏi, như vậy mình đóng cửa quán, không bán hàng ư, ba em nói, nếu con
và con Hằng không đi Plei Ku liền thì cứ bán, được đồng nào thì được,
nhưng đừng mua thêm hàng, nhất là sữa, nặng nề, lỡ đi cũng phải bỏ lại,
em tiếc, phàn nàn với cả nhà, quán làm ăn đang được, mà phải đóng cửa,
mẹ em xen vào, ai cũng vậy chứ con, người ta nói, nhà tan cửa nát, mình
buôn bán nhỏ còn đỡ, mấy tiệm buôn bán lớn thì chết luôn, nói chung ai
cũng khổ cả, nghèo khổ theo nghèo, giàu khổ theo giàu, nhưng miễn là còn
sống , thì còn gây dựng lại được.
Hoàng lắng nghe chuyện, thầm nghĩ, như vậy, ai cũng biết, ai cũng chuẩn
bị, nhưng muốn hỏi Dung xem, cuối cùng, ba má Dung quyết định thế nào,
Dung buồn bã, em còn quên một chi tiết, biết em quen anh, ba em hỏi, con
có nghe ông biệt động quen con nói gì, đi hay ở gì không, nói tới đây,
Dung khẽ liếc mắt nhìn Hoàng, em hỏi lại, ý ba muốn hỏi anh Hoàng phải
không?, em dấu diếm, bán quán mà ba hỏi ông lính này, lính kia, ai cũng
quen, như khách bình thường, ba em cười, mày muốn lấy vải thưa che mắt
thánh, ba từng qua tuổi con rồi, nhìn vài cử chỉ, ba cũng biết khách nào
thường, khách nào thân, nội thấy con lúng ta, lúng túng khi ông biệt
động đó tới quán là ba và mẹ mày biết ngay rồi, tiện thể, ba em còn răn ,
coi chừng con ạ, mấy lính từ xa tới, chẳng biết người ta ra sao, đừng
thấy hợp nhãn là đa vào, vào thì dễ, mà ra thì khó lắm con à.
Dung kể tiếp, ba em nói, thường thì các đơn vị từ xa tới, nếu họ đi là
có chuyện, vì thường họ tới khi thành phố mình bị nguy hiểm, nhưng tự
nhiên đùng đùng bỏ đi, là mệt rồi, ba nhớ mùa hè 72, mọi đơn vị của nhẩy
dù bỏ đi hết trơn, mang mấy đơn vị địa phương quân về thay thế, chỉ hơn
tuần sau, thành phố bỏ hoang, tan tành. Em nghe ba em vặn đi vặn lại,
em thật tình, anh Hoàng, chỉ có nước ba cậy miệng thì may mới biết tin
đơn vị anh, giờ này, con cũng chẳng biết anh thuộc đơn vị nào, tiểu đoàn
nào, sở dĩ con biết anh là lính biệt động là nhờ con cọp nhe răng, anh
may bên vai trái áo, nghe Dung nói, Hoàng véo nhẹ tai Dung, cọp cười đẹp
như vầy mà gọi là cọp nhe răng, em hay thật, em kêu vậy là thương lắm
đấy, bữa con bạn em tới, miệng giòn tan, Dung, cọp đói của mày đâu rồi,
sao tao không thấy, em phải chặn lại, mày giữ mồm, giữ miệng giùm tao
chút được không? Dung lại chọc Hoàng tiếp, nhéo vào tay Hoàng, cọp này
thì cười đẹp, em công nhận từ khuya rồi.
Hoàng muốn biết thêm chuyện, nên hỏi tiếp, chẳng lẽ, ba em hỏi về đơn vị
anh, chỉ có vậy thôi a, Dung không che dấu, ba em hỏi, con thử hỏi xin
một hai can xăng được không?. Thật tình, từ nãy tới giờ Hoàng muốn hỏi
về xăng cộ rồi, từ nãy tới giờ Hoàng chờ câu hỏi này, Hoàng chỉ giúp
Dung xăng, hoặc ít gạo mà thôi, vì sau khi họp hành quân, Hoàng gọi C25,
nói chuyện với Trân, tiểu đoàn trưởng, Trân nhắc những gì cần mang, thứ
gì cũng cần, nhưng tiểu đoàn chỉ có 1 GMC, 5 chiếc dodge cho đại đội, 7
chiếc jeep, một xe hồng thập tự, tiếp liệu thì mới lãnh, chỗ nào cũng
gạo, cũng xăng,
Hoàng lúc đó, lắc đầu ngao ngán, lúc cần không có, lúc có thì không cần,
không mang được, chiến tranh bao giờ cũng đầy bất ngờ, bây giờ không
mang được chứ, không chừng vài ngày nữa, kiếm không ra, giống hệt như
đơn vị qua suối nước, lúc gần đóng quân chiều, ai cũng biết chỉ chút nữa
, là cần nước nấu cơm, nấu trà , nhưng mỗi người chỉ mang được một bi
đông, ráng xách thêm một nón sắt , lên tới chỗ đóng quân đêm, lại thiếu
nước, nấu cơm mà chẳng bao giờ có nước để vo gạo. Suy nghĩ thật lung,
Hoàng nói với tiếp liệu đại đội và tiểu đoàn, tiếc mấy, cũng chỉ mang
vừa đủ, đừng mang nhiều, nặng xe, thì càng chết. Hoàng gọi máy bàn với
Trân, không có cách gì mang tất cả, đành phải bỏ nhiều thứ lại, kể cả
xăng dầu, súng đạn.
Hoàng hỏi Dung, em có mấy can trống trong nhà không, Dung vào bếp, em có
3 can, hai thùng đạn, Hoàng nói, tiện không có khách, em mang cho anh,
anh nói tài xế đổ đầy cho, Dung trợn mắt, ngạc nhiên, anh nói thật hả,
Hoàng không nói thêm, xách hết can và thùng đạn mang ra xe jeep, nói nhỏ
với người tài xế, anh chạy về tiền cứ đổ đầy mấy cái này, mình để lại
cũng chẳng làm gì, mỡ treo, mèo nhịn, người tài xế đi, Hoàng bước vào,
Dung vẫn ngồi chỗ cũ, ngạc nhiên, sao lính anh nhiều xăng vậy, ba em
muốn xin thùng đạn để chạy xe Honda mà còn khó, anh cho xăng sao dễ dàng
quá,
Hoàng không trả lời, nghĩ thầm trong bụng, Dung đâu biết, không chừng
lần này là lần cuối, lần cuối của mọi thứ, lần cuối nói chuyện, lần cuối
được uống ly cà phê , lần cuối uống trà tại quán nhỏ thành phố này.
Chiếc xe jeep trở lại, Hoàng phụ mang xăng vào cho Dung, giặn hờ, từ giờ
tới chiều, nếu anh chưa trở lại đơn vị, em cần xăng cứ nói, nhưng đừng
nói cho ai hết nghe, anh không cho ai đâu.
Dung cảm động, nhìn Hoàng, không nói. Hoàng lại nghĩ khác, tránh tiếng
thở dài, có ai ngờ, ngày mai, ngày mốt, nhiều gia đình trong thành phố
này, sẽ phải bỏ lại tất cả, bỏ mà không hề suy nghĩ, đắn đo, kề cả gia
đình Dung, giờ này thì xin từng lít xăng, ngày mai khác hẳn, những gì họ
gầy dựng cả cuộc đời, tiếng bỏ của chạy lấy người, lúc nào cũng đúng,
chiến tranh tàn nhẫn, chiến tranh ở đâu cũng vậy, tàn phá mà không bao
giờ xây dựng.
Đã mấy lần Hoàng tính nói cho Dung một phần câu chuyện Hoàng biết, nhưng
suy nghĩ đắn đo, Hoàng vẫn im lặng, Hoàng cứ lập đi lập lại “Ba em nói
vậy, em đã chuẩn bị gì chưa”, Hoàng nhắc khéo, quần áo, tiền bạc , chằng
hạn, Hoàng làm bộ kể những chuyện ngày xưa trong chiến tranh, Hoàng nói
cho Dung, ba má anh ngày xưa chạy tản cư, ông bà nói, không gì bằng
vàng, dễ mang, dễ dấu, tiền mặt cũng vậy, thời ba má anh, đâu ai gởi
tiền ngân hàng, ông bà thường kể cho anh nghe, chạy tản cư, có chút vốn
liếng, khi cần, bán một chỉ vàng, là yên chuyện, vàng bán ở đâu cũng
được, và tuy hai ông bà chỉ có anh, nhưng tiền bạc, vòng vàng cũng chia
làm 3, mỗi người giữ một chút, kinh nghiện, khi chạy loạn, đã chắc gì,
cả gia đình lúc nào cũng gần nhau, nhiều khi lạc nhau, lúc đó mới khổ,
người ăn không hết, người lại đói, vì tiền dồn cho một người, em biết
không? ba má anh luôn nhắc, đừng mang quần áo, gạo thóc nhiều, lỡ chạy
xa thì cũng phải bỏ, nhất là thời ba má anh còn trẻ, tản cư từ làng này,
sang làng kia, nhiều khi cứ loanh quanh, hết chạy ngược, lại chạy xuôi.
Dung chăm chú nghe, có vẻ suy nghĩ, anh nói cũng có lý, em phải nói ba em chuẩn bị, mỗi người một chút,
Hoàng chọc, đừng mang nhiều vàng quá, đi không nổi nghe,
Dung đập vai Hoàng, vàng mà anh làm như đạn của anh, anh đánh em 3 ngày
cũng không ra được vài chỉ vàng cho đỏ tay. Dung cũng chọc Hoàng, anh có
vàng không, đưa em giữ giùm, bảo đảm đưa bao nhiêu, lấy lại bao nhiêu,
không thiếu một phân,
Hoàng cười, hỏi lại, thật không, Dung ngoắc tay Hoàng, thật mà, Hoàng
nói tiếp “Như vậy anh gửi em một thùng đạn hay một mũ sắt vậy”, Dung
hiểu, mặt cô bé đỏ gay, thôi đi, ai mà giữ của nợ đó, quê chết.
Hoàng biết gia đình Dung không nhiều thì ít cũng đã chuẩn bị, Hoàng cũng
biết hướng đi của mọi người vùng địa đầu này, nếu họ thuần túy là dân,
không nhiều tài sản, họ chọn ở lại, còn gia đình nào như gia đình Dung,
bằng mọi gíá, họ sẽ bỏ tất cả, họ chạy tới khi không còn đường nào khác.
Mỗi lần im lặng là một lần Dung ngờ vực, em biết anh vẫn còn giữ một tin
tức gì cho riêng anh, còn em, đã chia sẻ tất cả những gì em biết, Hoàng
buồn bã, lắc đầu, những điều anh biết cũng như ba em biết, và chỉ có
vậy, khác một chút là ba em có thể bỏ đơn vị, cùng gia đình đi Pleku,
anh thì không được, vì anh là lính tác chiến, ngay tại đây, anh không
bận bịu gia đình, nhưng đơn vị anh, bạn bè, lính tráng chính là gia
đình, anh phải sống chết với họ, họ đi, họ ở, anh không làm gì khác hơn ,
bọn anh cùng một định mạng. Nếu giả thử, chút nữa đây, anh rời khỏi chỗ
này, ngày mai, không trở lại, hay đi thật xa, cầu chúc em và gia đình
em luôn có nhau, ở đây hay ở mọi nơi.
Không hiểu Dung có hiểu lới úp mở của Hoàng không, nhìn khóe mắt Dung
đỏ, những giọt nước mắt, lăn nhẹ trên gó má, Hoàng thấy đã tới lúc phải
đi,
Dung ngước mắt nhìn, nắm chặt bàn tay Hoàng như kéo lại, nói trong nước
mắt, em cảm ơn anh, cảm ơn những ý nghĩ tốt về em, mặc dù, chưa bao giờ
anh nói những tiếng mà nhiều người hay nói cho nhau, anh không nói thật
hết lòng mình, nhưng chẳng bao giờ em trách, anh có nhiệm vụ của anh,
chính vì thế, em càng tôn trọng anh, quí mến anh, ngày mai, nếu đơn vị
anh còn ở đây, anh nhớ ra uống cà phê nghe.
Hoàng tránh cặp mắt buồn và những giọt nước mắt của Dung, khẽ trả lời,
nếu mai anh chưa lên núi, anh sẽ tới quán em, nhớ mở cửa sớm nghe, Dung
bật cười, mấy giờ, Hoàng cười , 5 giờ sáng, Dung lau nước mắt vội vàng,
ừa, anh tới quạt lửa, đun nước pha trà giùm em.
Hoàng biết, sẽ không bao giờ có sáng mai tại chỗ này, ngày mai biết bao
giờ trở lại. Hoàng bước ra khỏi quán, vừa ngoái cổ lại, nếu ba em cần
thêm xăng, em chỉ ba em tới tiền cứ, chỗ em đã mấy lần tới với anh, anh
dặn lính rồi, muốn bao nhiêu cũng được. Có lẽ Dung hiểu, Hoàng sẽ đi xa.
Đoạn đường đi PleiKu, không xa, đoàn xe của tiểu đoàn 34 chạy thật
nhanh. Tới Pleiku, tiểu đoàn đóng quân ngay sân vận động. Hoàng lái xe
chạy quanh thành phố, trong lòng ngổn ngang, Hoàng lái trên đường Hoàng
Diệu, chạy lên chợ mới, chạy qua những đường kỷ niệm, qua khu tòa án,
cũng chỗ này, khi đang xây dựng dở dang, Hoàng và Trâm mới quen nhau,
Trâm học đệ tam tại trung học Pleime, Hoàng và Trâm ngồi hàng giờ vào
những đêm , sáng trăng, nhất là những buổi mới hành quân về, chỗ này có
thể nhìn thấy toàn thành phố dưới chân, hơn nữa, lại gần nhà Trâm, ngay
đường Phan đình Phùng, Hoàng ngậm ngùi, ngày ấy nay còn đâu, mấy năm rồi
còn gì, Trâm đã có chồng, cũng mấy lần Hoàng tính chạy ngang qua nhà
Trâm, nghe nói chồng Trâm là một phó phòng , Hoàng cũng mừng, Trâm yên
bề, sống hạnh phúc, Hoàng chỉ mong có thế sĩ.
Một lần từ Kontum xuống, Hoàng đi Phượng Hoàng, phòng ăn bên cạnh có
buổi ra mắt thơ của Kim Tuấn, Hoàng vừa bước vào, tìm được một chỗ
trống, vừa ngồi vào ghế , trong ánh nến mờ của phòng ra mắt tập thơ,
Hoàng chợt thấy Trâm, ngồi cạnh một người trạc tuổi Hoàng, Trâm hơi cúi
mặt, người ngồi bên cạnh, chắc là chồng Trâm, khi chồng Trâm ra ngoài
hút thuốc, Trâm khẽ chào Hoàng, Hoàng chào lại, cả hai không nói thêm
lời nào, cả buổi nghe bình thơ, đọc thơ, Hoàng chẳng nghe được gì, cứ
vấn vương chuyện cũ, cuối cùng Hoàng bỏ phòng ra mắt thơ, Trâm nhìn
Hoàng, khẽ thở dài, không nói .
Hoàng nhớ lại, lần Trâm xa Hoàng vì Hoàng đi Mỹ, không trở lại Pleiku,
lệnh phải về Dục Mỹ, mất liên lạc, chẳng ai lỗi gì, chẳng nợ nần gì, một
mối tình học trò, nhiều kỷ niệm, nhất là những ngày Hoàng bị thương,
Trâm thăm Hoàng, quà bánh liên tục.
Đêm nay, mấy lần lái xe gần nhà Trâm, Hoàng lại lái đi hướng khác, tự
hỏi mình, gặp Trâm, mình có nói cho Trâm biết tin tức mình đã biết hay
không, hay cũng giống như ở Kon Tum, mà tệ hại hơn nữa, nếu không nói
thì gặp làm gì, cố nhân vẫn chỉ là cố nhân. Hoàng chợt nhớ, mấy thằng
bạn hay nói, “mày tin tao đi, mấy cô ở Pleiku, ở Dalat, Di Linh hay ở
đâu cũng vậy, khi cần có người rước đèn, đi dạo phố, họ chọn biệt động,
không quân, nhưng khi tính nhận trầu cau, thì họ tính tới lính đeo chữ
thọ, gần gũi họ, mối tình con, tình lớn, tình nào cũng đội nón ra đi,
mấy ông không quân thì ở tận Nha Trang, sau khi thân nhau rồi, sẵn máy
bay, anh tung cánh sắt, biết đâu mà tìm. Có cô nào dại gì lấy quan biệt
động, hành quân thăm thẳm, mạng sống như chỉ mành treo chuông, có cô nào
chịu cảnh Góa phụ thơ ngây, hay cảnh ngày mai đi nhận xác chồng“.
Thường sau khi nói triết lý của tình đời, tụi bạn hay chọc nhau, tình
lớn hơn tình con, nhưng không tình nào còn nước mắt, vì nước mắt khóc
mừng ngày cưới hết rồi.
Hoàng trở lại sân vận động, nằm trên chiếc võng, Trân hỏi alpha không đi
thăm người cũ à, Hoàng cười, thôi đi, thành phố buồn này, giờ mà đi thì
chẳng biết bắt đầu từ đoạn nào, chấm dứt ở đoạn nào, giờ này mà chạy
lên Phượng Hoàng, mấy em bám lại, hỏi đủ thứ chuyện, chắc không ra khỏi
được mấy chuồng cu (Hoàng hay gọi phòng mấy cô ở phượng hoàng là chuồng
cu, ngày xưa mỗi khi đi hành quân về, Hoàng đều ghé, mấy cô nghe tiếng
Hoàng, gọi nhau ơi ới, chạy lại, người thì nắm tay, người ôm vai, tíu ta
tíu tít, có cô hỏi, “mai anh đón tụi em ăn sáng nghe”, Hoàng cười, hết
tiền rồi, mấy cô nhanh nhảu, tụi em bao, đừng lo, chuyện nhỏ, thấy vậy
mà mấy cô cũng có tình lắm).
Hoàng nói tiếp với Trân, tôi ngủ sớm, mai đi sớm cho yên thân. Trân cười
alpha mà nói như vậy là PleiKu ế độ rồi, xa PleiKu là đúng rồi. Chỉ vài
vòng dạo lại phố xưa, Pleiku, vẫn in lìm, chỉ khác một chút, rất nhiều
xe quân đội chạy lui tới trên đoạn đường từ bến xe lam vào phi trường Cù
Hanh, phi trường chính nằm cạnh quân đoàn, trên trời lại khác, máy bay
lên xuống liên tục, Hoàng tiếc, nếu gia đình Dung ở đây, chắc ra khỏi
thành phố bằng những chuyến máy bay đáp lên, đáp xuống như vậy thật dễ
dàng, vì chú Dung làm trong phi trường, lại làm ngay ban chuyển vận, sắp
xếp người đi.
Hoàng ngủ thiếp đi, trời hừng sáng, lính tráng đã nấu cơm cho ngày mới.
Hành quân tùng thiết, hỗn hợp cả thiết vận xa và thiết giáp.
Thiết giáp dưới quyền của đại úy Hội đã gặp tiểu đoàn trưởng từ hôm qua,
mọi việc đã sắp xếp, đơn vị nào , theo xe nào đã biết, đúng giờ, lính
bắt đầu lên những xe qui định, nẳm rải rác gần sân vận động, Hoàng và
Trân ngồi cùng xe jeep, lúc nào cũng vậy hai anh em khi đi xa, luôn ngồi
chung, tiểu đoàn khởi hành, chạy về hướng Phú Bổn. Tiếng thiết giáp và
tiếng xe nổ làm những người dân chung quanh tò mò, nhưng họ đã quen rồi,
cảnh hàng đoàn dài, xe đầy lính, chẳng ai nghĩ, đây là đoàn xe đầu tiên
của cuộc di tản khỏi PleiKu, còn những vai chính như Trân, Hoàng hay
Hội, thiết giáp, không ngờ được, đây là chuyến hành quân cuối cùng của
họ, của cả một quân đội họ đã phục vụ.
Đoàn xe với hỏa lực thật mạnh của thiết giáp chạy nhanh, Hoàng không
biết đằng sau lưng Hoàng, những đơn vị nào sẽ nối nối kế tiếp. chẳng ai
biết lệnh gì cả, xe chạy tới Phú Bổn, gặp Lạn, bạn cùng khóa, tiểu đoàn
trưởng 11, , Lạn hỏi Hoàng và Trân, tụi mày đi đâu đây, Hoàng nói thật,
quân đoàn bỏ rồi, tiểu đoàn tao đi mở đường, có lẽ sắp dừng lại để an
ninh cho đoàn xe lớn của quân đòn theo sau, chậm lắm là ngày mai, mày sẽ
thấy đầy xe cộ theo đường này. Lạn không tin, mày nói thật không? bỏ
PleiKu ư, còn KonTum thì sao, Hoàng cười, vỗ vai Lạn, Kon Tum nào nữa,
giao cho Thượng hết rồi. Lạn trố mắt, tao có nghe lệnh lạc gì đâu, Trân
cũng xen vào câu chuyện, cả hai đứa, Hoàng và Trân đều nói, mày lo cho
mày và đơn vị mày đi là vừa, gọi về hậu cứ coi xem còn ai không, không
chừng họ đi trước khi nhận lệnh của mày, Trân và Hoàng cho đoàn xe chạy
tiếp, quên cả hỏi thăm vợ con Lạn ra sao.
Đoàn thiết giáp và tiểu đoàn 34, nhận lệnh trải dài quân trên tuyến
đường, Hoàng và chiếc xe, nằm sát cạnh đường, Hoàng thấy cả những chiếc
Honda, xe vespa, chỉ vài tiếng đồng hồ sau, cả đoạn đường dài, xe chạy
liên tục, chạy cả đêm, không ngưng nghỉ, nhìn nét mặt mọi người, ai cũng
căng thẳng, bàng hoàng cũng phải, ai có ngờ lịch sử tái diễn, họ phải
bỏ tất cả sau lưng. Một ngày, rồi hai ngày, những đoàn xe vẫn tiếp tục
chạy, họ cứ theo nhau, chẳng ai biết đoạn đường sẽ dẫn họ tới đâu. Hai
ngày không tiếng súng, nếu đơn vị Hoàng không phải dừng giữ đường, chắc
chắn Hoàng đã xuống tới Tuy Hòa. Sở dĩ Hoàng luôn nằm trên gần tuyến
đường, bên cạnh chiếc M41, để thấy từng đoàn xe, lúc đầu còn ít, càng
lâu càng nhiều xe, chẳng biết đơn vị nào, xe GMC, xe dodge, xe du lịch,
trời nắng, nhiều chiếc bẻ cành cây cắm dọc than xe, đầy người, lính có,
dân có, thôi thì đủ, áo xanh áo đỏ, món che, nón đội, mọi người mệt mỏi,
tả tơi. Nhiều xe, thấy đơn vị Hoàng, họ dừng lại, ăn vội ăn vàng chút
cơm trong chiếc nồi nhỏ, nhiều người có chuẩn bị hơn, cắt mấy miếng cơm
vắt, tay cầm mấy miếng thịt, nhai nhốn nháo, ăn xong, hai tay chùi trên
quần, uống miếng nước vội vàng, tiếp tục nhập theo đoàn xe. Hoàng mỏi
mắt, chỉ cố tìm chiếc xe dodge, Hoàng nghĩ, Dung sẽ theo đoàn xe, nếu
không ra khỏi được Pleiku bằng máy bay, theo như gia đình Dung dự tính.
Hoàng hoang mang thật sự, chắc gì mới hơn hai ngày, Dung đã ra khỏi được
KonTum, hay ai biết đâu, Dung đang ở Qui Nhơn, hay đang ngồi trên chiếc
máy bay nào đó, tuy nghĩ vậy, nhưng bất cứ chiếc xe nào có bóng dáng
dân thường, Hoàng đều ngó theo, chẳng còn đợi xe dodge hay không gì nữa.
Hơn hai ngày, nằm tại chỗ, Hoàng gặp nhiều người quen, cả lính, cả dân,
Hoàng gặp đại úy Cao, khóa 18 Võ Bị, quân cảnh PleiKu, anh Cao dừng ngay
tại chỗ Hoàng, quần áo sốc xếch, than với Hoàng, đói quá, có gì ăn
không “, Hoàng cười, chỉ có một món duy nhất, cơm sấy, thịt ba lát, ăn
không, anh Cao cười, thịt ba lát, hai lát gì cũng được, hai ngày rồi,
chỉ có chút nước uống thôi, Hoàng nói người lính theo mình, làm cho gói
cơm sấy, mở một hộp ba lát, mang mấy chiếc chén đưa cho mấy người cùng
chuyến xe của anh Cao, Hoàng còn pha một ly cà phê, nói giỡn với anh
Cao, ly cà phê này là ly cà phê tình nghĩa, trả ơn cho niên trưởng, mấy
lần không giam xe đàn em, vì chở đầy đào Phượng Hoàng, niên trưởng Cao
cười, thôi như vậy anh cũng có lời rồi, ly cà phê bây giờ bằng mấy ly cà
phê, anh em mình uống ở Dinh Điền Pleiku. Cơm nước xong xuôi, anh Cao
lật đật từ giã, chiếc jeep quân cảnh ngày nào bóng láng, bây giờ đầy đất
đỏ, Hoàng chép miệng, có ai ngờ.
Mỗi lần dừng xe, Hoàng lại gặp vài người quen, Hoàng thường đứng cạnh
đường, trong thâm tâm, chỉ hy vọng thấy xe của Dung vượt qua, Hoàng
không bỏ xe nào, không ngó theo, Hoàng có quyền chặn bất cứ xe nào lại,
hoặc cho xe theo thứ tự vì càng gần sông ba, càng bị ối đọng, chỉ một
chiếc cầu bằng vỉ sắt ngang đoạn sông ngắn, nhưng rất khó di chuyển,
phía Phú Bổn thì rất cao, phía Tuy Hòa lại thấp. Hoàng phải chạy tới
chạy lui, nhiều lần phải kêu chiếc M41, xé một đoạn đường để giữ trật
tự, Hoàng chép miệng, cứ cảnh này, chắc khó cho đoàn xe qua sông an
toàn. Súng việt cộng thì chưa nghe, nhưng tiếng súng giữa các đơn vị
Hoàng đã phải nổ, dấu hiệu của những lộn xộn bắt đầu, ai cũng muốn vượt
lên trước để ra khỏi vùng núi này, họ biết nếu qua được sông, phía Tuy
Hòa, xe họ sẽ chạy dễ dàng hơn.
Hoàng đứng nhìn theo đoàn xe, nối đuôi, chầm chậm, nghe tiếng kêu tên
mình, Hoàng nhận ra chủ tiệm may Hà Nội, bạn nhẩy đầm của Hoàng, nhìn
chiếc xe Madza trắng, đầy bụi đỏ, dừng sát đường, Hồng, chủ tiệm may nổi
tiếng , đối diện nhà thờ, gần tiệm bún thịt nướng và bàn billard, khách
hàng của tiệm may Hà Nội toàn là đào Phượng Hoàng, tới may một lần 5, 6
bộ đồ, Hồng sống dư giả, nếu không nói là giàu có. Hồng xuống xe, mừng
rỡ, trời, ai ngờ gặp anh ở đây? Hoàng nhìn chiếc xe, chở mấy đầu máy
may, máy vắt sổ, Hồng, giống anh Cao, cũng than đói, Hoàng chọc, chủ
tiệm may mà đói, vừa đùa vừa nói với Hồng, hôm qua tôi gặp anh Cao, cũng
đói, nhưng đây chỉ có cơm sấy, ăn không, Hồng cười, có cơm là tốt rồi,
sấy với sung gì chẳng được. Gói cơm sấy, đổ nước sôi, màu ngà ngà vì
sinh tố trong gạo tan ra, cơm làm xong đưa cho Hồng, thôi anh ăn tạm đi,
tôi ăn cơm này từ ngày ở Kon Tum xuống đây, đúng 5 ngày tròn rồi. Hoàng
rót một nửa ca trà nóng, đưa Hồng, Hồng cảm ơn, đúng là may, tôi tưởng
nhịn đói tiếp, không dám dừng xe, vì dừng rồi, không làm sao vào theo
đoàn được, mấy ông nhà binh ủi thì chết. Hồng ăn xong, vội vã, thôi nhờ
trời, ngày nào anh em mình gặp lại, tôi phải đãi anh một chầu huy hoàng,
Hoàng cười, kêu đào chiến nghe, Hồng cũng cười, chuyện nhỏ, mấy đào
cũng được hết, Hoàng sai người lính chặn một chiếc xe, cho xe Hồng trở
lại đoàn xe, nối đuôi nhau, trước khi đi, Hồng rớm nước mắt, bắt tay
Hoàng, có ai ngờ, những người, Hoàng gặp hôm nay, ngày mai, trên đoạn
đường không đầy hai trăm cây số, đều là lần cuối hết. Nếu biết những gì
xảy ra vài tuần lễ sau ngày hôm nay, chắc không ai có nổi một nụ cười,
một lời hứa, như Hồng hôm nay, hẹn ngày nào sẽ gặp nhau trong phòng
nhẩy.
Hoàng bực tức, cả một tiểu đoàn Công Binh, cả tuần lễ, bắc được một
chiếc cầu hơn 20 thước, chiều ngang chỉ lớn hơn chiếc GMC, nếu ai lái
không khéo chắc không qua khỏi cầu, Hoàng ngắm nghía, tuy không học công
binh, nhưng Hoàng đã nhiều lần chạy ngang qua những cầu bắc tạm của
công binh Mỹ, họ thiết kế cầu đơn giản, và luôn có một đường phụ, để lỡ
một đoạn hư , sẽ có đoạn khác cho xe chạy liền, đó là chưa kể, mùa nước
cạn, họ có thể ủi san bằng tả luy, dưới lót hàng chục ống cống lớn cho
nước chảy qua, với cách này, vượt sông, không còn gì trở ngại, vì cùng
lúc, họ có ba bốn đường chạy, đằng này, cả Hoàng tìm liên lạc với đơn vị
công binh làm cầu, lạ thật, làm cầu xong, xe ủi, xe cẩu, xe cầy đâu,
chẳng thấy, chẳng ai ở lại, lỡ cầu hư , dù chỉ hư nhỏ , ai sửa. Càng
nhìn chiếc cầu tạm ngang sông, càng nhìn đoàn xe, nối đuôi cả trăm chiếc
chờ lên cầu, càng đau khổ, nhiều lúc Hoàng quên cả coi xem có Dung trên
chiếc xe nào đó không?.
Mỗi chiếc xe qua được cầu, chạy giạt ngang qua lại trên bãi cát lớn,
bằng phẳng, mọi người trên xe cười nói, thôi mạnh ai nấy nhẩy xuống
sông, nước trong ấm, họ không e de gì nữa, nằm trên dòng nước tắm, già
trẻ, gái trai, chẳng ai để ý ai, kẻ thì ăn cơm, người nấu nước, đâu vào
đó, lại lên xe, chạy theo con đường, mất hút bên rừng cây, về phía Tuy
Hòa. Bãi cát phẳng lúc nhiều người, lúc ít người, tùy theo đoàn xe chờ
đợi bên bờ sông, bên phía Phú Bổn. Bãi cát nhộn nhịp, khói lửa làm vui
mọi người, đoàn này đi, đoàn khác tới, ai cũng mừng như mình thoát nạn,
riêng Hoàng, vẫn ngóng đợi, vẫn buồn, và vẫn bực tức nhìn chiếc cầu.
Hoàng di dọc theo bờ cát, hỏi chuyện những người đang nấu cơm, tắm giặt
trên dòng nước ấm, trong vắt, không có ai trả lời họ chạy từ Kon Tum tới
đây, ai cũng từ PleiKu, Hoàng thất vọng, như vậy là không có Dung.
Hoàng lại tự trách mình, biết tình hình ra nông nỗi này, Hoàng đã nói
cho Dung biết hết, để chạy khỏi Kon Tum ngay trong buổi sáng, khi đưa
mấy can xăng, nhưng kỷ luật quân đội đã không cho phép Hoàng tiết lộ bí
mật của cuộc hành quân, giờ này, bí mật chẳng còn giữ được, chẳng cần
giữ nữa, chẳng biết gia đình Dung ở nơi nào. Không thấy bóng dáng chiếc
Dodge như Dung nói, Hoàng quay sang hy vọng, biết đâu chừng, Dung đã ra
khỏi Pleiku trên những chiếc máy bay vần vũ, đêm ngày. Hoàng buồn bã
nhìn những chiếc xe chạy ngang bãi cát lớn, đoàn người vẫn tiếp tục tới
rồi đi, bỗng nhiên đoàn xe bị cắt đoạn, ụn lại, Hoàng giật mình, nhìn
trên đoạn cầu, Hoàng nhận ra ngay , một chiếc xe ben chở cây thật lớn,
trật bánh nằm chặn ngay trên cầu, người tài xế mở ga xe , hy vọng, de xe
cho bánh trở lại đúng đường, nhưng thật khó, nếu không khéo, cả chiếc
xe sẽ bay xuống dòng sông, cả chục người trên xe sẽ chết, hay bị thương
nặng. Hoàng lắc đầu ngao ngán, ngay cả đơn vị Hoàng cũng còn mấy chiếc
thiết giáp, giữ an ninh bên kia sông. Những gì Hoàng nghĩ đã xảy ra,
không một chiếc xe nào vượt qua chiếc cầu, Hoàng lật đật báo cáo cho
Trân, Trân cũng ra xem cầu, nhưng làm gì được, nếu đơn vị làm cầu còn
tại đây, họ có thể dùng cần cẩu, giúp kéo xe , đưa bánh xe trở lại mặt
cầu, hay các chỉ huy cuộc di tản, những mặt trời , mặt trăng chỉ cần một
lệnh nhỏ, một chiếc Chinook, kéo xe, thả xuống dòng sông là yên, một
chiếc xe ben bỗng nhiên phá cả một kế hoạch lớn chỉ cần hai ngày nữa là
hoàn thành.
Dân chúng từ phía Phú Bổn, ngay sau chiếc xe ben không còn chờ đợi được
thêm nữa, họ mất hy vọng, nhiều người chửi rủa, chẳng kiêng dè ai, tiểu
đoàn báo cáo cáo liên đoàn, giờ này, qua giờ kia, chẳng có lệnh lạc gì,
thỉnh thoảng một chiếc trực thăng CNC bay nghiêng qua, nghiêng lại rồi
biến mất, mang theo tất cả hy vọng của đoàn xe dưới đất, dân chúng chờ
không nổi, họ bỏ xe, mang tất cả những gì họ có thể, trên đôi vai, hàng
đoàn người vượt ngang dòng sông Ba, nước cạn, bãi cát trống càng ngày
càng nhiều người, cảnh hỗn loạn bắt đầu, cảnh tượng không bao giờ Hoàng
quên được, họ lại bắt đầu cuộc di tản, bắt đầu đi bộ từ dòng sông trong
vắt, ấm áp, vô tình, hiền hòa chảy trong mùa nước cạn.
Thay đoạn kết: Đơn vị Hoàng nhận lệnh di chuyển về hướng sông
Ba, xuống Tuy Hòa. Hoàng vẫn mỏi mắt trông chờ, và thất vọng, Hoàng vẫn
nhớ mới mấy ngày trước đây, Dung tâm sự ”em chỉ mong ước được học hành
tới nơi tới chốn, xuống Qui Nhơn, học sư phạm, làm cô giáo, một ước vọng
đơn giản, dễ thương, em chẳng thích mở quán cà phê”, nhưng mong một
đường, thành một đường khác, có ai ngờ.
Giờ này, đoàn người đã vơi hẳn đi, đoàn xe không còn lăn bánh được,
tiếng súng việt cộng đã bắt đầu nổ gần đoạn đường 7B. Hoàng không thấy
bóng dáng Dung, chẳng lẽ, Dung vẫn còn ở lại Kontum, mong một ngày thanh
bình trở lại.
Phạm Văn Lương
http://www.quehuongngaymai.com/forums/showthread.php?247756
Sinh Tồn chuyển