Nhân Vật
F. von Hayek - Vì sao những kẻ xấu xa nhất lại leo cao nhất? ( Như Hồ Chí Minh chẳng hạn )
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét quan niệm làm chỗ dựa cho những người cho rằng chế độ toàn trị là tất yếu; nó là quan niệm làm suy sụp sức kháng cự của nhiều người khác, những người sẽ chiến đấu một mất một còn với nó nếu họ hiểu được bản chất của nó. Quan
Chúng
ta chớ có tự dối lòng: không phải cứ người tốt là dân chủ và không phải
tất cả người tốt đều muốn tham gia quản lí nhà nước. Không nghi ngờ gì
rằng nhiều người thích giao việc đó cho những người mà họ cho là có hiểu
biết hơn. Và điều này nghe có vẻ không hợp lí lắm, nhưng tại sao lại
không ủng hộ chế độ độc tài của những người tốt? Chế độ toàn trị là một
hệ thống hữu hiệu, nó có thể làm cả việc tốt lẫn việc xấu, tất cả phụ
thuộc vào nhà độc tài, họ lí luận như thế. Và nếu ta không phải sợ hệ
thống mà chỉ phải sợ những người lãnh đạo không ra gì thì điều đáng quan
tâm đơn giản chỉ là khi thời cơ đến phải làm sao để quyền lực rơi vào
tay những người tốt là được.
“Cơ sở đạo đức của chủ nghĩa tập thể” đã từng là đề tài của nhiều cuộc thảo luận, nhưng điều chúng ta quan tâm ở đây không phải là cơ sở đạo đức của nó mà là những hệ quả đạo đức của nó. Các cuộc thảo luận về khía cạnh đạo đức của chủ nghĩa tập thể thường bàn vấn đề là liệu chủ nghĩa tập thể và các nguyên tắc đạo hiện hành có tương thích với nhau hay không hay là muốn cho chủ nghĩa tập thể thực hiện được những điều mà người ta kì vọng thì phải lập ra những nguyên tắc đạo đức mới nào. Nhưng chúng ta sẽ đặt vấn đề theo một cách khác: tổ chức xã hội theo chủ nghĩa tập thể sẽ đưa đến những nguyên tắc đạo đức nào hay quan điểm đạo đức nào sẽ ngự trị? Tác động qua lại giữa đạo đức và các thiết chế xã hội có thể dẫn đến hệ quả là đạo đức do chủ nghĩa tập thể tạo ra có thể sẽ khác hoàn toàn với những lí tưởng đạo đức đã từng làm cho người ta thấy cần phải có chủ nghĩa tập thể. Chúng ta thường nghĩ rằng nếu lòng khao khát chủ nghĩa tập thể của chúng ta bắt nguồn từ những động cơ đạo đức cao thượng thì hệ thống đó phải là thiên đường của phẩm hạnh, nhưng trên thực tế chẳng có lí do gì để một hệ thống phải đề cao những phẩm chất nhằm phục vụ cho các mục tiêu mà người ta dự kiến cho nó. Quan điểm đạo đức ngự trị sẽ phụ thuộc một phần vào những phẩm chất có thể dẫn các cá nhân đến thành công trong hệ thống toàn trị hay hệ thống tập thể và phụ thuộc một phần vào đòi hỏi của bộ máy toàn trị.
[12] Knight F.H. trong Journal of Political Economy. 1938. December. trang. 869.
http://phamnguyentruong.blogspot.com/2014/11/f-von-hayek-vi-sao-nhung-ke-xau-xa-nhat.html
Quyền lực dẫn đến tha hóa, quyền lực tuyệt đối dẫn đến tha hóa tuyệt đối
Lord Acton
Bây
giờ chúng ta sẽ xem xét quan niệm làm chỗ dựa cho những người cho rằng
chế độ toàn trị là tất yếu; nó là quan niệm làm suy sụp sức kháng cự của
nhiều người khác, những người sẽ chiến đấu một mất một còn với nó nếu
họ hiểu được bản chất của nó. Quan niệm này cho rằng các đặc điểm kinh
tởm nhất của các chế độ toàn trị xảy ra là do sự ngẫu nhiên của lịch sử,
ở đâu cũng đều do những người đê tiện và lưu manh thiết lập nên. Và
nếu, thí dụ, ở Đức những người như Streicher và Killinger, Ley và Heine,
Himler và Heydrich nắm được quyền lực, thì điều đó chỉ chứng tỏ rằng
người Đức là một dân tộc xấu xa chứ không phải việc nổi lên của những kẻ
như thế là kết quả tất yếu của hệ thống toàn trị. Chả lẽ những người tử
tế, những người lo lắng cho lợi ích của cộng đồng, những người sẽ giải
quyết những nhiệm vụ vĩ đại lại không thể đứng đầu hệ thống toàn trị
được ư?
Không
nghi ngờ gì rằng hệ thống “phát xít” ở Anh hay ở Mĩ sẽ khác rất xa mô
hình của Ý hay Đức; không nghi ngờ gì rằng nếu việc chuyển hóa được thực
hiện một cách phi bạo lực thì chúng ta có thể hi vọng có được những nhà
lãnh đạo tử tế hơn. Và nếu một lúc nào đó số phận buộc tôi phải sống
dưới chế độ phát xít thì tôi sẽ thích chế độ phát xít do người Anh hay
người Mĩ đứng đầu hơn bất kì người đứng đầu nào khác. Nhưng xét theo
tiêu chuẩn hiện nay thì điều đó cũng không có nghĩa là hệ thống phát xít
của chúng ta sẽ hoàn toàn khác hay sẽ dễ chịu hơn nguyên mẫu của chúng.
Có đầy đủ lí do để tin rằng những đặc điểm xấu xa nhất của các hệ thống
toàn trị hiện nay không phải là sản phẩm phụ ngẫu nhiên mà là những
hiện tượng mà chế độ toàn trị trước sau gì cũng sẽ tạo ra. Khi một chính
khách dân chủ quyết định lập kế hoạch cho toàn bộ các hoạt động kinh tế
thì chẳng mấy chốc ông ta sẽ phải đối mặt với một trong hai lựa chọn:
chấp nhận chế độ độc tài hay từ bỏ các dự định của mình, còn nhà lãnh
đạo toàn trị thì phải giẫm lên đạo đức truyền thống nếu không muốn thất
bại. Đấy là lí do vì sao trong các xã hội có khuynh hướng toàn trị những
kẻ vô liêm sỉ thường dễ thành công hơn. Không hiểu điều đó là không
hiểu được khoảng cách mênh mông, có thể nói một trời một vực, giữa chế
độ toàn trị và chế độ tự do, không hiểu điều đó là không hiểu được rằng
đạo đức tập thể không thể đội trời chung với những giá trị nền tảng của
chủ nghĩa cá nhân của nền văn minh phương Tây.
“Cơ sở đạo đức của chủ nghĩa tập thể” đã từng là đề tài của nhiều cuộc thảo luận, nhưng điều chúng ta quan tâm ở đây không phải là cơ sở đạo đức của nó mà là những hệ quả đạo đức của nó. Các cuộc thảo luận về khía cạnh đạo đức của chủ nghĩa tập thể thường bàn vấn đề là liệu chủ nghĩa tập thể và các nguyên tắc đạo hiện hành có tương thích với nhau hay không hay là muốn cho chủ nghĩa tập thể thực hiện được những điều mà người ta kì vọng thì phải lập ra những nguyên tắc đạo đức mới nào. Nhưng chúng ta sẽ đặt vấn đề theo một cách khác: tổ chức xã hội theo chủ nghĩa tập thể sẽ đưa đến những nguyên tắc đạo đức nào hay quan điểm đạo đức nào sẽ ngự trị? Tác động qua lại giữa đạo đức và các thiết chế xã hội có thể dẫn đến hệ quả là đạo đức do chủ nghĩa tập thể tạo ra có thể sẽ khác hoàn toàn với những lí tưởng đạo đức đã từng làm cho người ta thấy cần phải có chủ nghĩa tập thể. Chúng ta thường nghĩ rằng nếu lòng khao khát chủ nghĩa tập thể của chúng ta bắt nguồn từ những động cơ đạo đức cao thượng thì hệ thống đó phải là thiên đường của phẩm hạnh, nhưng trên thực tế chẳng có lí do gì để một hệ thống phải đề cao những phẩm chất nhằm phục vụ cho các mục tiêu mà người ta dự kiến cho nó. Quan điểm đạo đức ngự trị sẽ phụ thuộc một phần vào những phẩm chất có thể dẫn các cá nhân đến thành công trong hệ thống toàn trị hay hệ thống tập thể và phụ thuộc một phần vào đòi hỏi của bộ máy toàn trị.
* * *
Xin
quay lại trong chốc lát với tình hình trước khi diễn ra việc đàn áp các
thiết chế dân chủ và thiết lập chế độ toàn trị. Đấy là lúc sự bất mãn
của toàn dân đối với chính phủ, một chính phủ vừa chậm chạp, vừa thụ
động, bị trói chân trói tay vì các thủ tục dân chủ rắc rối. Đây là nhân
tố chủ chốt khiến người ta mong có một chính phủ quyết đoán. Trong tình
hình như thế, trong khi mọi người đều đòi hỏi phải có những hành động
khẩn trương và dứt khoát thì một chính khách hay một đảng tỏ ra mạnh mẽ,
sẵn sàng “hành động”, sẽ là người được quần chúng mến mộ. “Mạnh mẽ” ở
đây hoàn toàn không có nghĩa là nắm được đa số vì lúc đó chính sự bất
lực của đa số trong quốc hội đã làm người ta bất mãn. Điều quan trọng là
người cầm đầu có được hậu thuẫn mạnh mẽ, một sự hậu thuẫn cho người ta
cảm tưởng rằng ông ta sẽ thực hiện được mọi điều ông ta muốn. Đảng kiểu
mới, được tổ chức theo lối nhà binh, xuất hiện trên vũ đài chính trị như
thế đấy.
Tại
các nước thuộc khu vực Trung Âu, nhờ nỗ lực của những người xã hội chủ
nghĩa mà quần chúng đã quen với những tổ chức chính trị theo kiểu nhà
binh, những tổ chức tìm mọi cách quản lí đời sống riêng tư của tất cả
các thành viên của nó. Vì vậy nếu một nhóm nào đó muốn chiếm đoạt quyền
lực không hạn chế thì nó phải sử dụng nguyên tắc này rồi tiến xa thêm và
dựa không phải vào lá phiếu của những người ủng hộ trong những cuộc bầu
cử thỉnh thoảng mới được tiến hành mà phải dựa vào sự ủng hộ tuyệt đối
và vô điều kiện của một tổ chức, không cần phải lớn nhưng được tổ chức
tốt. Khả năng thiết lập chế độ toàn trị trên cả nước phần lớn phụ thuộc
vào khả năng tập hợp xung quanh lãnh tụ một nhóm những kẻ tự nguyện phục
tùng cái kỉ luật toàn trị mà họ sẽ dùng vũ lực áp đặt cho toàn bộ nhân
dân.
Mặc
dù các đảng xã hội chủ nghĩa là những đảng khá mạnh, nếu quyết định sử
dụng bạo lực thì họ có thể giành được tất cả những thứ mà họ muốn, nhưng
họ đã dao động. Chính họ cũng không ngờ rằng mình đã đặt ra mục tiêu mà
chỉ có những kẻ tàn nhẫn, những kẻ sẵn sàng bước qua mọi rào cản về đạo
đức mới có thể thực hiện được.
Chủ
nghĩa xã hội chỉ có thể được đưa vào thực tiễn bằng những biện pháp mà
đa số những người xã hội chủ nghĩa phản đối, đấy chính là bài học của
nhiều nhà cải cách xã hội trong quá khứ. Các đảng xã hội chủ nghĩa cổ
điển hoạt động trong khuôn khổ của các lí tưởng dân chủ; họ không có
tính tàn nhẫn cần thiết để thực thi các nhiệm vụ mà họ đã chọn. Điều đặc
biệt là cả ở Đức lẫn ở Ý, chủ nghĩa phát xít đã thành công sau khi các
đảng xã hội từ chối nhận trách nhiệm lãnh đạo chính phủ. Họ không muốn
áp dụng một cách triệt để những biện pháp mà học thuyết của họ đã dạy.
Họ vẫn hi vọng vào phép màu rằng đa số sẽ đồng ý về một kế hoạch tổ chức
toàn bộ xã hội, nhưng những người khác thì đã học được bài học rằng
trong xã hội được kế hoạch hóa vấn đề không còn là đa số sẽ đồng ý mà là
nhóm lớn nhất là nhóm nào, chỉ cần các thành viên của nó đồng ý là đủ
để hình thành đường lối thống nhất cho tất cả mọi công việc. Còn nếu
chưa có một nhóm như thế thì ai và làm thế nào để thành lập ra một nhóm
như thế.
Có
ba lí do vì sao cái nhóm đông và mạnh, với những thành viên có quan
điểm giống nhau, lại không được hình thành từ những người tử tế nhất mà
thường là từ những phần tử xấu xa nhất của xã hội. Theo tiêu chuẩn của
chúng ta thì cái nhóm như thế chỉ có thể hình thành trên những nguyên lí
hoàn toàn mang tính tiêu cực.
Thứ
nhất, những người có trình độ học vấn và tri thức càng cao thì thị hiếu
và quan điểm càng phân hóa, họ khó có thể thống nhất về bất cứ thang
giá trị cụ thể nào. Nghĩa là nếu chúng ta muốn tìm một sự thống nhất cao
về quan điểm thì chúng ta phải tìm trong những tầng lớp xã hội với tiêu
chuẩn đạo đức và tri thức không cao, với thị hiếu và bản năng nguyên
thuỷ và thô lậu. Điều đó không có nghĩa là đa số dân chúng có tiêu chuẩn
đạo đức thấp; nó chỉ có nghĩa là cái nhóm gồm nhiều thành viên với
những chuẩn mực giá trị giống nhau là những người có tiêu chuẩn đạo đức
không cao. Có thể nói chính cái mẫu số chung đạo đức cực kì thấp đã liên
kết rất nhiều người lại với nhau. Nếu chúng ta cần một nhóm tương đối
đông và đủ mạnh, để buộc những người khác phải chấp nhận các quan điểm
và giá trị của nhóm mình thì không bao giờ chúng ta lại tìm đến những
người có thị hiếu phát triển cao và phân hóa một cách sâu sắc. Chúng ta
sẽ tìm đến “quần chúng”, với ý nghĩa tiêu cực của từ này, tìm đến những
người kém độc đáo và ít độc lập nhất, những người có thể lấy số lượng làm bệ đỡ cho lí tưởng của họ.
Nhưng
nếu nhà độc tài tương lai chỉ dựa vào những người có những bản năng đơn
sơ và giống nhau thì số người như thế sẽ không thể đủ để thực hiện
nhiệm vụ đặt ra. Hắn sẽ phải tăng thêm số thành viên của mình bằng cách
kết nạp thật nhiều người vào cùng tín điều đơn giản của hắn.
Tiêu
chuẩn chọn lựa tiêu cực thứ hai: Hắn phải tìm được sự ủng hộ của những
kẻ dễ bảo và cả tin, những kẻ không có niềm tin riêng mà sẵn sàng chấp
nhận các hệ thống giá trị sẵn có miễn là được rót vào tai họ một cách
liên tục. Chính những kẻ với các tư tưởng mù mờ và được hình thành một
cách dở dang, những kẻ dễ dao động, những kẻ mà tình cảm và niềm đam mê
sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào lại là thành phần đông nhất của các đảng
toàn trị.
Tiêu
chuẩn thứ ba, và có lẽ là quan trọng và cần thiết nhất để một kẻ mị dân
lão luyện có tập họp quanh mình một nhóm cố kết những người ủng hộ. Bản
chất của con người là dễ dàng đồng thuận trên cơ sở một cương lĩnh mang
tính tiêu cực - chí căm thù giặc, lòng ghen tức với những kẻ khá giả -
hơn là trên cơ sở một nhiệm vụ mang tính tích cực. Sự tương phản giữa
“chúng ta” và “chúng nó”, cuộc chiến đấu chống lại những kẻ nằm bên
ngoài tổ chức có vẻ như là chất kết dính chủ yếu trong mọi giáo lí,
chính nó sẽ gắn chặt người ta thành một nhóm cho những hành động chung.
Những kẻ cầm đầu muốn săn tìm không chỉ sự ủng hộ về mặt chinh trị mà
còn săn tìm lòng trung thành vô điều kiện của quần chúng đã cố tình lợi
dụng cái phần tiêu cực đó trong bản chất của con người cho mục đích của
mình. Theo họ thì các cương lĩnh tiêu cực có ưu điểm là dành cho họ
quyền tự do hành động hơn bất kì cương lĩnh tích cực nào. Hình ảnh kẻ
thù, bất kể ở bên trong như “Do Thái” ở Đức hay “kulak” ở Nga, hay ở bên
ngoài, đều là một trong những phương tiện thiết yếu trong kho vũ khí
của lãnh tụ toàn trị.
Việc
người Do Thái ở Đức bị tuyên bố là kẻ thù trước khi các nhà tài phiệt
thế chỗ cho họ cũng chỉ là kết quả của xu hướng bài tư bản của phong
trào, chẳng khác gì việc chọn tầng lớp phú nông (kulak) ở Nga. Sự thật
là ở Đức và Áo người Do Thái bị coi là đại diện của chủ nghĩa tư bản vì
sự thù địch thâm căn cố đế của quần chúng đối với thương nghiệp đã làm
cho lĩnh vực này trở thành dễ
thâm nhập hơn đối với những nhóm người không có quyền lựa chọn những
nghề cao quý hơn. Câu chuyện này cũng cũ như là thế giới vậy: Các sắc
dân ngụ cư chỉ được làm những nghề hèn mọn và thế là người ta càng căm
ghét họ hơn. Việc chủ nghĩa bài Do Thái và bài tư bản ở Đức có cùng một
nguồn gốc là một mắt xích cực kì quan trọng, nó giúp ta hiểu được những
sự việc đang diễn ra trên đất nước này; nhưng nói chung, những người
quan sát nước ngoài đã không nhận ra điều đó.
* * *
Coi
khuynh hướng biến chủ nghĩa tập thể thành chủ nghĩa dân tộc đang diễn
ra khắp nơi chỉ là do người ta muốn nhận được sự ủng hộ dứt khoát của
những tầng lớp xã hội nhất định nào đó, đồng nghĩa với bỏ sót một tác
nhân không kém phần quan trọng. Thật vậy, người ta có thể hỏi rằng liệu
có người nào tưởng tượng nổi một cương lĩnh của chủ nghĩa tập thể mà
không nhằm phục vụ cho một nhóm hạn chế nào đó hay không, liệu chủ nghĩa
tập thể có thể tồn tại dưới một hình thức nào khác ngoài hình thức của
một chủ nghĩa phân lập (particularism) nào đó hay không, thí dụ như chủ
nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc hay là chủ nghĩa giai cấp.
Niềm tin rằng các thành viên trong cộng đồng cùng có chung mục đích và
quyền lợi làm người ta dễ dàng thống nhất về quan điểm và tư tưởng hơn
là với những cư dân khác trên Trái đất. Và nếu chúng không biết mặt tất
cả các thành viên của nhóm thì ít nhất chúng ta cũng phải tin rằng họ
giống những người xung quanh ta, họ nói và nghĩ về những thứ như ta. Chỉ
khi đó ta mới có thể đồng nhất mình với họ. Không thể hình dung nổi chủ
nghĩa tập thể ở quy mô toàn cầu, trừ phi nó được dùng để bảo vệ quyền
lợi của một nhóm ưu tú cực kì nhỏ. Đây không phải là vấn đề kĩ thuật mà
là vấn đề đạo đức, một vấn đề mà tất cả những người xã hội chủ nghĩa đều
không muốn đối mặt. Nếu, thí dụ, người vô sản Anh được hưởng ngang nhau
phần thu nhập có xuất xứ từ các nguồn lực tư bản của nước họ và có
quyền tham gia kiểm soát việc sử dụng các nguồn lực tư bản, thì bởi vì
chúng là kết quả của sự bóc lột, nên cũng theo nguyên tắc đó, tất cả
người Ấn không chỉ có quyền hưởng thu nhập từ tư bản mà còn có cả quyền
sử dụng một phần tương ứng của các nguồn lực tư bản Anh nữa.
Nhưng
những người xã hội chủ nghĩa dự định phân chia đồng đều nguồn vốn tư
bản hiện có trên thế giới cho các dân tộc như thế nào? Tất cả đều cho
rằng tư bản không phải là tài sản của toàn nhân loại mà là tài sản của
một dân tộc, nhưng ngay cả trong khuôn khổ của các quốc gia cũng ít
người dám đặt vấn đề tước bớt một phần tư bản “của họ” để giúp cho các
vùng nghèo hơn. Những người xã hội chủ nghĩa cũng không sẵn sàng bảo đảm
cho người nước ngoài cái mà họ tuyên bố là trách nhiệm trước các công
dân nước mình. Nếu theo quan điểm của chủ nghĩa tập thể một cách nhất
quán thì phải công nhận rằng những đòi hỏi phân chia lại thế giới do các
dân tộc nghèo nàn đưa ra là hợp lí, mặc dù nếu tư tưởng này mà được
thực thi thì những quốc gia ủng hộ nhiệt tình nhất sẽ bị mất mát chẳng
khác gì các quốc gia giàu có. Vì vậy mà họ luôn tỏ ra
thận trọng, họ không đặt nặng yêu cầu vào nguyên tắc bình quân chủ
nghĩa nhưng lại làm ra vẻ rằng không có ai có thể tổ chức đời sống của
các dân tộc trên thế giới tốt hơn là họ.
Một
trong những mâu thuẫn nội tại của triết lí của chủ nghĩa tập thể là,
bản thân nó dựa trên một nền đạo đức nhân văn, tức là nền đạo đức phát
triển trong khuôn khổ của chủ nghĩa cá nhân, nhưng nó chỉ có thể được áp
dụng cho những nhóm tương đối nhỏ mà thôi. Về lí thuyết, chủ nghĩa xã
hội là chủ nghĩa quốc tế, nhưng khi đem ra áp dụng thì dù là ở Nga hay ở
Đức nó đều biến thành chủ nghĩa dân tộc cực đoan nhất. Vì vậy mà chủ
nghĩa xã hội tự do, như nhiều người châu Âu hình dung, chỉ là sản phẩm
thuần túy lí thuyết, trong khi trên thực tế chủ nghĩa xã hội luôn luôn
đồng hành với chủ nghĩa toàn trị[1].
Chủ nghĩa tập thể không chấp nhận chủ nghĩa nhân đạo theo nghĩa rộng
của chủ nghĩa tự do, nó chỉ có thể chấp nhận chủ nghĩa biệt lập toàn trị
mà thôi.
Nếu
“cộng đồng” hay nhà nước đứng cao hơn cá nhân và có những mục tiêu
không ăn nhập gì với các mục tiêu của cá nhân và cao hơn các mục tiêu cá
nhân thì chỉ những người hoạt động cho các mục tiêu đó mới được coi là
thành viên của cộng đồng. Hậu quả tất yếu của quan điểm này là chỉ khi
là thành viên của nhóm cá nhân mới được tôn trọng, tức là chỉ khi và
trong chừng mực cá nhân đó có tác dụng thúc đẩy cho việc thực hiện các
mục tiêu được tất cả mọi người thừa nhận thì cá nhân đó mới được tôn
trọng. Người ta chỉ có nhân phẩm khi là thành viên của nhóm, con người
đơn lẻ chẳng có giá trị gì. Vì vậy tất cả các giá trị nhân bản, kể cả
chủ nghĩa quốc tế, vốn là sản phẩm của chủ nghĩa cá nhân đều không có
chỗ trong triết lí của chủ nghĩa tập thể[2].
Cộng
đồng theo chủ nghĩa tập thể chỉ có thể trở thành hiện thực khi tất cả
các thành viên của nó có hoặc có thể đạt được sự nhất trí về tất cả các
mục tiêu, nhưng bên cạnh đó còn có một loạt tác nhân làm cho cái xã hội
như thế có xu hướng trở thành xã hội khép kín và biệt lập. Điều quan
trọng nhất là việc cá nhân khát khao đồng nhất mình với nhóm lại là hậu
quả của cảm giác bất toàn của chính mình, việc có chân trong nhóm trong
trường hợp đó sẽ làm cho anh ta cảm thấy ưu thế của mình so với những
người xung quanh, so với những người không thuộc nhóm của anh ta. Đôi
khi, có thể chính bản năng gây hấn mà người ta biết rằng phải bị kiềm
chế trong nội bộ nhóm lại được thả lỏng trong hành động của tập thể
chống lại những người bên ngoài đã giúp cho cá nhân hòa đồng hơn với tập
thể. Moral Man and Immoral Society (Con người đức hạnh và xã hội vô luân)
là nhan đề tuyệt vời và rất chính xác của một tác phẩm của Reinhold
Niebuhr, mặc dù chúng ta không thể đồng ý với tất cả các kết luận của
ông. Nhưng, đúng như ông đã nói: “Con người hiện nay thường có xu hướng
coi mình là có đức vì họ đã chuyển sự đồi bại của mình cho những nhóm
người ngày càng đông hơn[3]”.
Khi hành động nhân danh nhóm người ta thường rũ bỏ được nhiều hạn chế
về mặt đạo đức, vốn là những thứ vẫn đóng vai trò kiềm chế hành vi của
người ta trong nội bộ nhóm.
Thái
độ thù địch không thể che giấu đối với chủ nghĩa quốc tế của phần đông
những người ủng hộ kế hoạch hóa có thể được lí giải, bên cạnh các nguyên
nhân khác, là trong thế giới hiện đại mọi mối liên hệ với bên ngoài đều
ngăn cản việc tiến hành kế hoạch hóa một cách hữu hiệu. Cho nên không
phải ngẫu nhiên mà biên tập viên của một trong những công trình nghiên
cứu tập thể toàn diện nhất về vấn đề kế hoạch hóa đã vô cùng thất vọng
khi phát hiện ra rằng: “Phần lớn những người ủng hộ kế hoạch hóa lại là
những người theo đường lối dân tộc chủ nghĩa hiếu chiến nhất[4]”.
Thiên
hướng dân tộc và đế quốc chủ nghĩa thường thấy ở những người xã hội chủ
nghĩa hơn là người ta tưởng, mặc dù không phải lúc nào cũng thể hiện
công khai, thí dụ như hai ông bà Webb hay một số người thuộc hội Fabian
trước đây, ở những người này lòng nhiệt tình với kế hoạch hóa thường kết
hợp với lòng sùng kính đặc thù trước những quốc gia lớn mạnh và khinh
thường những nước nhỏ. Hồi tưởng lại cuộc gặp gỡ đầu tiên với ông bà
Webb bốn mươi năm về trước, sử gia Élie Halévy nhận xét rằng tinh thần
xã hội chủ nghĩa của họ hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa tự do: “Ông bà
ấy không căm ghét những người bảo thủ (Tories), thậm chí còn tỏ ra độ
lượng đối với họ, nhưng lại không chấp nhận chủ nghĩa tự do của
Gladston. Lúc đó đang diễn ra cuộc chiến tranh Anh-Boer (người Phi gốc
Hà Lan- ND) và những người tự do tiến bộ nhất cùng với những người đang
đứng ra thành lập Đảng Lao động đã ủng hộ người Boer chống lại đế quốc
Anh, nhân danh tự do và lòng nhân đạo. Nhưng ông bà Webb và bạn họ là
nhà văn Bernard Shaw lại đứng tách ra. Họ đã thể hiện tinh thần đế quốc
một cách đầy khiêu khích. Nền độc lập của các dân tộc nhỏ bé có thể có ý
nghĩa nào đó đối với một người tự do theo tư tưởng cá nhân chủ nghĩa,
nhưng lại chẳng có ý nghĩa gì đối với những người theo chủ nghĩa tập thể
như họ. Bên tai tôi vẫn văng vẳng lời giải thích của Sidney Webb rằng
tương lai thuộc về các nước lớn, nơi các viên chức sẽ cai trị, còn cảnh
sát sẽ giữ trật tự”. Ở một chỗ khác, Halévy còn dẫn lại lời nói của B.
Shaw, cũng nói về khoảng thời gian đó: “Thế giới nhất định thuộc về các
nước lớn và mạnh; các nước nhỏ không nên thò đầu qua biên giới kẻo sẽ bị
bóp chết đấy[5]”.
Tôi
đã trích dẫn một đoạn dài, nếu đấy là phát biểu của những bậc tiền bối
người Đức của chủ nghĩa xã hội quốc gia thì sẽ chẳng làm ai ngạc nhiên
vì nó là thí dụ điển hình của thái độ tôn thờ quyền lực, một
thái độ dễ dàng đưa người ta từ chủ nghĩa xã hội chuyển sang chủ nghĩa
dân tộc và có ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm đạo đức của những người
theo chủ nghĩa tập thể. Nói đến quyền của các dân tộc nhỏ thì quan điểm
của Marx và Engels cũng chẳng khác gì quan điểm của những người theo chủ
nghĩa tập thể khác, những lời phát biểu của họ về người Czech và người
Ba Lan giống hệt như những gì mà các đảng viên xã hội chủ nghĩa quốc gia
hiện nay đang nói[6].
* * *
Nếu
đối với các triết gia cá nhân chủ nghĩa vĩ đại thế kỉ XIX, bắt đầu từ
Lord Acton và Jacob Burckhardt và đến những người xã hội chủ nghĩa đương
đại, như Bertrand Russell, những người kế thừa các truyền thống của chủ
nghĩa tự do, quyền lực là cái ác tuyệt đối, thì đối với những người
theo chủ nghĩa tập thể thuần thành, quyền lực lại là mục đích tự thân.
Vấn đề không chỉ là, như Russell đã chỉ rõ, bản thân ước muốn tổ chức
đời sống xã hội theo một kế hoạch duy nhất bắt nguồn từ khát vọng quyền
lực[7].
Điều quan trọng hơn là, để đạt được mục tiêu, những người theo chủ
nghĩa tập thể phải tạo ra quyền lực - thứ quyền lực do con người áp đặt
lên con người – với sức mạnh chưa từng được biết đến trước đây, thành
công của họ phụ thuộc vào mức độ quyền lực mà họ giành được.
Điều
này vẫn đúng dẫu cho nhiều người xã hội chủ nghĩa có tư tưởng tự do
đang nỗ lực làm việc vì bị dẫn dắt bởi cái ảo tưởng đầy bi kịch rằng
tước đoạt quyền lực mà các cá nhân sở hữu trong hệ thống cá nhân chủ
nghĩa và chuyển quyền lực này vào tay xã hội là họ đang thực hiện việc
xóa bỏ quyền lực. Những người lí sự như thế đã bỏ qua sự kiện rõ ràng
sau đây: tập trung quyền lực để nó có thể phục vụ cho một kế hoạch duy
nhất thì quyền lực không những không được chuyển hóa mà còn trở thành
quyền lực tuyệt đối. Tập trung vào tay một nhóm người cái quyền lực
trước đó vẫn nằm trong tay nhiều người độc lập với nhau, thì quyền lực
chẳng những đã tăng lên đến mức chưa từng có trước đây mà còn có ảnh
hưởng sâu rộng đến mức gần như trở thành khác hẳn về chất. Thật sai lầm
khi cho rằng quyền lực của cơ quan lập kế hoạch trung ương cũng “không
hơn gì quyền lực tập thể của ban giám đốc xí nghiệp tư nhân[8]”.
Thực tế là trong xã hội cạnh tranh, không người nào có thể nắm được dù
chỉ một phần quyền lực mà ủy ban kế hoạch xã hội chủ nghĩa có thể sở hữu
và nếu không có người nào có thể tự ý sử dụng quyền lực thì lời khẳng
định rằng các nhà tư bản có một “quyền lực cộng đồng” thì đấy đơn giản
chỉ là trò đánh tráo thuật ngữ mà thôi[9].
Câu “quyền lực bị hội đồng các giám đốc tư nhân thao túng”, trong khi
họ chưa thực hiện các hành động có phối hợp, chỉ là một trò chơi chữ,
còn khi họ đã phối hợp hành động thì cũng có nghĩa là sự cáo chung của
nền kinh tế cạnh tranh và bắt đầu nền kinh tế kế hoạch hóa. Muốn giảm
quyền lực tuyệt đối thì phải chia nhỏ nó ra hay là phi tập trung hóa nó
và hệ thống cạnh tranh là hệ thống duy nhất được thiết kế nhằm phi tập
trung hóa quyền lực và bằng cách đó làm giảm tối đa quyền lực của một số
người đối với một số người khác.
Như
chúng ta đã thấy, việc tách các mục tiêu kinh tế ra khỏi mục tiêu chính
trị là sự bảo đảm thiết yếu cho tự do cá nhân, nhưng đây chính là đối
tượng tấn công không khoan nhượng của những người xã hội chủ nghĩa. Cần
phải nói thêm rằng khẩu hiệu thịnh hành hiện nay “đưa quyền lực chính
trị thay thế cho quyền lực kinh tế” có nghĩa đem cái gông xiềng không ai
có thể chạy thoát được thế chỗ cho cái quyền lực về bản chất là có giới
hạn. Mặc dù quyền lực kinh tế có thể là một công cụ áp bức, nhưng khi
còn nằm trong tay những cá nhân riêng lẻ, nó không thể là vô giới hạn và
không thể bao trùm lên toàn bộ đời sống của một con người. Nhưng khi
tập trung vào tay một nhóm người như là một công cụ của quyền lực chính
trị thì nó sẽ biến người ta thành những người phụ thuộc chẳng khác gì nô
lệ.
* * *
Từ
hai đặc điểm trung tâm của mọi hệ thống tập thể chủ nghĩa tức là nhu
cầu phải có một hệ thống các mục tiêu được tất cả mọi người trong nhóm
chấp nhận và ước mơ của nhóm có một quyền lực tuyệt đối, nhằm thực thi
các mục tiêu đó, chắc chắn sẽ nảy sinh ra một hệ thống đạo đức nhất định
với một số điểm trùng hợp trong khi một số điểm lại khác hẳn với nền
đạo đức của chúng ta. Nhưng có một điểm mà sự khác biệt rõ ràng đến nỗi
có thể làm người ta ngờ rằng đây có phải là đạo đức hay không nữa: nó
không để cho lương tâm của cá nhân được áp dụng các quy tắc của chính
mình và nó cũng không chấp nhận bất kì quy tắc chung nào mà cá nhân phải
tuân theo hoặc được phép theo trong mọi hoàn cảnh. Điều này làm cho đạo
đức tập thể trở thành khác hẳn với cái mà chúng ta vẫn gọi là đạo đức
và thật khó mà tìm được bất kì nguyên tắc nào dù rằng đạo đức tập thể
vẫn có những nguyên tắc như thế.
Sự
khác biệt về nguyên tắc cũng gần giống như trường hợp Pháp Trị mà chúng
ta đã có dịp xem xét trước đây. Tương tự như các đạo luật hình thức,
các tiêu chuẩn đạo đức cá nhân chủ nghĩa, dù không phải lúc nào cũng cụ
thể chi li, nhưng là các tiêu chuẩn chung và vạn năng khi áp dụng. Các
tiêu chuẩn này quy định hoặc cấm đoán một số hành động nhất định, không
phụ thuộc vào mục đích mà những hành động ấy theo đuổi. Thí dụ ăn cắp
hay nói dối, tra tấn hoặc phản bội được coi là xấu, ngay cả trong trường
hợp cụ thể nào đó những hành động như thế không gây ra bất cứ thiệt hại
trực tiếp nào. Dù không có ai phải chịu đau khổ hay ngay cả đấy là
những hành động nhân danh một mục đích cao đẹp nào đó thì cũng không thể
làm thay đổi được sự kiện là đấy là những hành động xấu. Mặc dù đôi khi
chúng ta phải lựa chọn, phải làm một việc đỡ xấu hơn, nhưng dù sao đấy
vẫn là việc xấu.
Trong
đạo đức học cá nhân chủ nghĩa, nguyên tắc mục đích biện minh cho phương
tiện được coi là sự phủ nhận mọi tiêu chuẩn đạo đức. Trong đạo đức học
của chủ nghĩa tập thể nguyên tắc này nhất định phải trở thành quy tắc
tối thượng; một người theo chủ nghĩa tập thể kiên định phải sẵn sàng làm
tất cả mọi việc nếu đó là việc mang lại “hạnh phúc cho tất cả mọi
người” vì đối với anh ta đấy là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá tính đạo
đức của hành động. Đạo đức tập thể thể hiện rõ ràng nhất trong công
thức raison d'état[10],
một động cơ không chấp nhận bất kì giới hạn nào, ngoài tính vụ lợi,
chính tính vụ lợi sẽ quyết định phải hành động như thế nào để đạt cho
bằng được các mục tiêu trước mắt. Cách mà reason d’état thực hiện
trong quan hệ giữa các quốc gia cũng được đem ra áp dụng trong quan hệ
giữa các công dân trong các nước theo chủ nghĩa tập thể. Trong các nước
theo chủ nghĩa tập thể lương tâm cũng như tất cả các tác nhân khác đã
không còn đóng vai trò kiềm chế các hành động của con người nếu như đấy
là các hành động nhằm thực hiện các mục tiêu do cộng đồng hay do cấp
trên giao phó.
* * *
Sự
thiếu vắng các quy tắc đạo đức tuyệt đối mang tính hình thức dĩ nhiên
không có nghĩa là xã hội theo chủ nghĩa tập thể không khuyến khích một
số thói quen có ích của các công dân và không đè nén một số thói quen
khác. Ngược lại, xã hội theo đường lối tập thể quan tâm tới thói quen
của con người hơn là xã hội theo đường lối cá nhân chủ nghĩa. Để trở
thành người có ích cho xã hội theo đường lối tập thể cần phải có một số
phẩm chất, những phẩm chất này lại đòi hỏi phải được rèn luyện thường
xuyên. Chúng ta gọi đó là “những thói quen có ích” chứ không phải là đức
hạnh vì trong bất kì trường hợp nào chúng cũng không được phép trở
thành chướng ngại vật trên con đường tiến đến mục đích chung hay là cản
trở việc thực thi mệnh lệnh của cấp trên. Các thói quen đó chỉ làm mỗi
một nhiệm vụ là lấp đầy khoảng trống mà các mệnh lệnh hay các mục tiêu
chưa nói tới chứ không bao giờ được mâu thuẫn với ý chí của nhà cầm
quyền.
Có
thể thấy rõ sự khác nhau giữa những phẩm chất sẽ được đánh giá cao
trong xã hội theo chủ nghĩa tập thể và những phẩm chất nhất định sẽ phải
biến mất trong thí dụ sau. Có một số phẩm chất đạo đức đặc trưng của
người Đức, hay nói đúng hơn “đặc trưng Phổ” được cả những kẻ thù không
đội trời chung của họ công nhận và cũng có những phẩm chất mà theo ý
kiến chung là người Đức không có, nhưng lại có ở người Anh, khiến cho
người Anh cảm thấy tự hào. Chắc chẳng mấy người phủ nhận rằng người Đức
nói chung là yêu lao động và có kỉ luật, cẩn trọng và nghị lực đến mức
tàn nhẫn, tận tuỵ và ngay thẳng trong mọi công việc; họ có ý thức cao về
trật tự, về trách nhiệm và thói quen tuân phục chính quyền; họ sẵn sàng
hi sinh quyền lợi cá nhân và tỏ ra là những người cực kì dũng cảm khi
tính mạng bị đe dọa. Tất cả những điều đó đã biến người Đức thành công
cụ thực hiện mọi nhiệm vụ do nhà cầm quyền đặt ra, chính phủ Phổ và Đế
chế mới trong đó xu hướng Phổ giữ thế thượng phong, đã giáo dục họ theo
đúng tinh thần như thế. Trong khi đó người ta lại cho rằng “người Đức
điển hình” thiếu những phẩm chất của chủ nghĩa cá nhân như tinh thần bao
dung, thái độ tôn trọng người khác, tôn trọng ý kiến của người khác, sự
độc lập về trí tuệ, tính ngay thẳng và sẵn sàng bảo vệ ý kiến của mình
trước những người có quyền lực, chính người Đức cũng nhận thấy như thế
và gọi nó là Zivilcourage[11],
họ thiếu sự quan tâm đến những kẻ yếu đuối, thiếu sự nghi ngờ lành mạnh
đối với quyền lực, không thích quyền lực, những phẩm chất chỉ có thể
được hình thành bởi truyền thống tự do cá nhân lâu đời. Người ta còn cho
rằng người Đức không có các phẩm chất, có thể là không dễ nhận ra,
nhưng rất quan trọng nếu xét từ quan điểm quan hệ giữa những người sống
trong xã hội tự do, đấy là lòng nhân từ, tính khôi hài, cởi mở và tôn
trọng đời sống cá nhân của người khác cũng như niềm tin vào ý định tốt
đẹp của những người xung quanh.
Sau
tất cả những điều đã trình bày, có thể thấy rõ rằng những phẩm hạnh đặc
trưng của chủ nghĩa cá nhân cũng đồng thời là những phẩm hạnh mang tính
xã hội, giúp cho tương tác xã hội diễn ra thuận lợi hơn, nhờ thế mà
không cần và rất khó kiểm soát từ bên trên. Những phẩm hạnh này chỉ phát
triển trong các xã hội mang tính cá nhân chủ nghĩa hoặc đã phát triển
về mặt thương mại, và không hiện diện trong xã hội nơi chủ nghĩa tập thể
hay quân phiệt giữ thế thượng phong. Có thể nhận thấy rõ sự khác biệt
này ở những vùng khác nhau của Đức, và hiện nay chúng ta cũng có thể
thấy khi so sánh Đức với các nước phương Tây. Cho mãi đến tận thời gian
gần đây, tại những vùng phát triển nhất về thương mại, tức là tại những
thành phố buôn bán ở phía Nam và phía Tây, cũng như các thành phố vùng
Hanse, các quan niệm đạo đức vẫn gần với tiêu chuẩn của phương Tây hơn
là những tiêu chuẩn đang giữ thế thượng phong ở Đức hiện nay.
Tuy
vậy, sẽ cực kì bất công khi cho rằng khối quần chúng ủng hộ chế độ
trong các nhà nước toàn trị, mà chúng ta coi là chế độ vô luân, là những
người chẳng còn động lực đạo đức nào. Đối với đa số thì tình hình hoàn
toàn ngược lại: chỉ có thể so sánh những xúc cảm về mặt đạo đức đằng sau
các phong trào như quốc xã hay cộng sản với những trải nghiệm của những
người đã từng tham gia các phong trào tôn giáo vĩ đại trong lịch sử.
Nhưng một khi đã thừa nhận rằng cá nhân chỉ là phương tiện phục vụ cho
những mục tiêu của một thực thể cao quý hơn, gọi là xã hội hay quốc gia
thì cũng thế, thì những đặc điểm của chế độ toàn trị nhất định sẽ xuất
hiện. Từ quan điểm của chủ nghĩa tập thể thì thái độ bất dung và đàn áp
thô bạo bất đồng quan điểm, khinh thường đời sống và hạnh phúc cá nhân
chính là những hậu quả thiết yếu và không thể tránh khỏi của những tiền
đề lí luận nền tảng. Đồng ý như thế, nhưng đồng thời những người ủng hộ
chủ nghĩa tập thể lại khẳng định rằng chế độ này tiến bộ hơn là cái chế
độ, nơi những quyền lợi “ích kỉ” của từng cá nhân có thể cản trở các mục
tiêu mà cộng đồng theo đuổi. Các triết gia Đức là những người chân
thành khi họ cố gắng chứng minh hết lần này đến lần khác rằng phấn đấu
cho hạnh phúc cá nhân là việc làm phi đạo đức và chỉ có thực hiện nghĩa
vụ trước xã hội mới là việc làm đáng tôn trọng, nhưng những người được
giáo dục theo truyền thống khác thì khó mà hiểu nổi chuyện đó.
Ở
đâu chỉ tồn tại một mục tiêu chung cao quý duy nhất thì ở đó không còn
chỗ cho bất kì tiêu chuẩn hay quy phạm đạo đức nào. Trong thời kì chiến
tranh chúng ta cũng từng trải nghiệm những điều như thế ở một mức độ nào
đó. Nhưng ngay cả chiến tranh với những mối hiểm nguy vốn có của nó
cũng chỉ tạo ra trong lòng các nước dân chủ một phiên bản toàn trị tương
đối ôn hòa: chỉ một vài giá trị cá nhân bị đặt sang một bên để dành chỗ
cho mục tiêu duy nhất lúc đó mà thôi. Nhưng khi toàn xã hội chỉ theo
đuổi một vài mục tiêu chung nào đó thì nhất định sự tàn bạo đôi khi sẽ
được coi là nhiệm vụ và những hành động làm chúng ta kinh tởm như bắn
giết con tin, giết người già hay
người ốm được coi là những việc làm thích hợp; di dân cưỡng bức và bắt
lưu đầy hàng trăm ngàn người trở thành biện pháp chính trị được hầu như
tất cả mọi nguời, trừ các nạn nhân, ủng hộ; thậm chí người ta còn nghiên
cứu cả những đề nghị như “gọi đàn bà nhập ngũ để sinh con đẻ cái” nữa.
Những người theo chủ nghĩa tập thể chỉ nhìn thấy những mục tiêu vĩ đại,
họ đủ sức biện hộ cho những hành động như thế vì không có quyền con
người nào hay giá trị cá nhân nào có thể trở thành lực cản cho sự nghiệp
phụng sự xã hội của họ.
Nhưng
trong khi đối với phần đông công dân của nhà nước toàn trị, lí tưởng,
mặc dù đối với chúng ta đấy là lí tưởng chẳng ra gì, chính là thứ họ sẵn
sàng hy sinh hết mình, là thứ khiến họ ủng hộ, thậm chí thực hiện những
hành động bất nhân nói trên, thì đối với những kẻ điều hành chính sách
đó lại không hẳn như thế. Muốn trở thành trợ thủ đắc lực trong việc điều
hành nhà nước toàn trị thì sẵn sàng chấp nhận những lời giải thích có
vẻ hợp lí cho những việc làm đốn mạt là chưa đủ, y còn phải sẵn sàng chà
đạp lên mọi quy tắc đạo đức từng được biết đến nếu
đấy là việc cần thiết để đạt mục tiêu đề ra cho y. Vị lãnh tụ tối cao
là người duy nhất có quyền đặt ra mục tiêu cho nên các trợ thủ trong tay
ông ta không được có quan điểm đạo đức riêng của mình. Yêu cầu quan
trọng nhất đối với người cán bộ là lòng trung thành tuyệt đối đối với cá
nhân lãnh tụ, kèm theo lòng trung thành là tính vô nguyên tắc và sẵn
sàng làm bất cứ việc gì. Cán bộ không được có lí tưởng thầm kín của
riêng mình hoặc quan điểm riêng về thiện ác, có thể ảnh hưởng tới các dự
định của lãnh tụ. Từ đó có thể thấy rằng các chức vụ cao khó có sức hấp
dẫn đối với những người có quan điểm đạo đức vốn từng là kim chỉ nam
cho hành động trong quá khứ của người Âu châu. Bởi vì, chẳng có gì có
thể đền bù được cho những hành động bất lương mà họ nhất định phải làm,
sẽ không còn cơ hội theo đuổi những ước mơ lí tưởng hơn, chẳng có gì có
thể đền bù được những mạo hiểm không thể nào tránh khỏi, chẳng có gì có
thể đền bù được những niềm vui của cuộc sống riêng tư và sự độc lập của
cá nhân mà chức vụ lãnh đạo cao nhất định phải làm. Chỉ có một khát
khao, đấy là khát khao quyền lực theo nghĩa đen của từ này và cái khoái
cảm được người khác phục tùng và được là một phần của một cỗ máy quyền
lực khổng lồ không ai có thể cản trở được, là có thể được thỏa mãn theo
cách đó mà thôi.
Nếu
các chức vụ cao trong bộ máy quyền lực toàn trị không hấp dẫn được
những người xứng đáng, theo tiêu chuẩn của chúng ta, thì điều đó có
nghĩa là những kẻ tàn nhẫn và vô liêm sỉ sẽ có nhiều cơ hội. Không nghi
ngờ gì rằng sẽ có nhiều việc gọi là “bẩn thỉu”, nhưng cần phải làm vì
mục đích cao thượng và phải làm một cách dứt khoát và chuyên nghiệp như
bất kì công việc nào khác. Và cũng có nhiều hành động bản thân chúng đã
là xấu xa rồi, những loại mà những người còn có quan niệm đạo đức truyền
thống sẽ không chịu làm, nên những kẻ sẵn sàng làm những việc xấu xa
như thế sẽ có tấm giấy thông hành để thăng tiến và đi đến quyền lực.
Trong xã hội toàn trị nhất định sẽ có nhiều chức vụ đòi hỏi sự tàn nhẫn,
dọa nạt, lừa dối và chỉ điểm. Gestapo hay các ban quản lí các trại tập
trung, Bộ tuyên truyền hay SA hoặc SS (hoặc những cơ quan tương ứng ở Ý
hay ở Nga) không phải là chỗ thể hiện lòng nhân đạo của con người. Nhưng
đấy chính là con đường tiến thân trong ban lãnh đạo của nhà nước toàn
trị. Một nhà kinh tế học nổi tiếng người Mĩ sau khi xem xét sơ qua trách
nhiệm của chính quyền trong xã hội theo đường lối tập thể đã rút ra kết
luận rất đúng rằng: “Dù muốn hay không họ cũng phải làm những việc đó:
xác suất những người nắm chính quyền là các cá nhân không thích giữ và
thể hiện quyền lực cũng ngang bằng với xác suất một người cực kì dịu
dàng muốn làm công việc của cai đội trong đồn điền nô lệ[12]”.
Nhưng
như thế chưa phải đã hết. Vấn đề lựa chọn người lãnh đạo là một phần
của một vấn đề lớn hơn: vấn đề lựa chọn người phù hợp với quan điểm của
họ hay nói đúng hơn là lựa chọn những người sẵn sàng thích nghi với học
thuyết thường xuyên thay đổi của họ. Và điều đó dẫn chúng ta đến một
trong những đặc điểm nổi bật nhất của đạo đức của chủ nghĩa toàn trị:
quan hệ của nó với và ảnh hưởng của nó lên những đức tính được gọi bằng
một tên chung là tính trung thực. Nhưng đây là đề tài lớn, cần phải cả
một chương mới mong nói hết được.
[1] Xem cuộc thảo luận rất đáng nghiên cứu trong tác phẩm: Socialism. National or International? (Chủ nghĩa xã hội. Quốc gia hay quốc tế) -1942 của Franz Borkenau.
[2] Zarathustra của Nietzsche đã nói đúng theo tinh thần của chủ nghĩa tập thể: “Cho đến nay đã từng tồn tại cả ngàn mục tiêu vì đã tồn tại cả ngàn người. Nhưng vẫn chưa có một cái cùm chung cho cả ngàn cái cổ, chưa có một mục tiêu duy nhất. Nhân loại chưa có một mục tiêu. Tôi cầu xin những người anh em, hãy nói đi: nhân loại không có mục tiêu, thế chẳng phải là không có nhân loại đó ư?”
[3] Theo Carr E.H. trong tác phẩm The Twenty Year's Crisis (Hai mươi năm khủng hoảng, 1941. trang. 203.
[4] Findlay Mackenzie (ed). Planned Society, Yesterday, Today, Tomorrow: A Simposium. (Xã hội được lập trình, hôm qua, hôm nay và ngày mai), 1937. trang. XX.
[5] Halevy E. L'Ere des Tyrannies. Paris, 1938; History of the English People. "Epilogue", vol. I, trang. 105—106.
[6] Xem K. Marx. Cách mạng và phản cách mạng, cũng như thư của Engels gửi Marx đề ngày 23 tháng 5 năm 1851.
[7] Russell В. The Scientific Outlook (Quan điểm khoa học). 1931. trang. 211.
[8] Lippincott B.E. trong Introduction to Oscar Lange, Taylor F.M. On the Economic Theory of Socialism (Bàn về lí thuyết kinh tế của chủ nghĩa xã hội). Minneapolis, 1938. trang. 35.
[9]
Chúng ta không được phép để mình bị mắc lừa bởi sự kiện là từ “lực”,
ngoài ý nghĩa được sử dụng liên quan đến con người, còn được sử dụng
theo nghĩa phi nhân cách (đúng hơn là đã được nhân cách hóa) đối với bất
kì nguyên nhân nào. Dĩ nhiên là luôn luôn có một cái gì đó là nguyên
nhân cho tất cả những cái khác, theo nghĩa đó thì tổng quyền lực phải
luôn luôn là một hằng số. Nhưng điều này không liên quan gì đến quyền
lực mà một số người cố ý áp đặt lên một số người khác.
[10] Lí trí của nhà nước- Tiếng Pháp –ND.
[11] Dũng cảm công dân - Tiếng Đức–ND.
http://phamnguyentruong.blogspot.com/2014/11/f-von-hayek-vi-sao-nhung-ke-xau-xa-nhat.html
Bàn ra tán vào (2)
quang dinh
BA KHÍA ĐÍA CÓC TÍA
*
Điền địa vãng lai lại cổng thiền
Đầu niễng Ma Dze Hướng Vấn Thiên
Bác bảo bồi hoàn cho Các Chú
Nợ công cháu xấu tốt tư tiền
*
Ngu gì làm thép tế điên Võ Kim Cự tuyệt ruột liền Đỗ Cường Minh
Kim Ngân Tòng Thị Phóng sinh
Lồn tiên chàm quạp xuống sình Đinh La Thăng
Phú Yên Yên Bái xích thằng kim cô cô độc mặt bằng Đinh Thế Huynh
*
Chem chép Nguyễn Trường Tô Huy Rứa
Lẩu cầy rựa mận vén màn tuynh
Hồ Quang Vũng Áng nước lưu huỳnh
Lê Chiêu Thống cống Sông Đà đà đã vỡ
*
Formosa xót xa người tình lỡ mỡ miệng mèo mèo chê mỡ được sao
Sao kế đô đô hơn Phạm Văn Đồng
Đồng chí chóe chóe nhái bà cóc tía
Ngu gì làm thép Cu Ba cu ba khía đía bịa hơn cha Núp cặc bần
*
TÂM THANH
----------------------------------------------------------------------------------
quang dinh
BA KHÍA ĐÍA CÓC TÍA
*
Điền địa vãng lai lại cổng thiền
Đầu niễng Ma Dze Hướng Vấn Thiên
Bác bảo bồi hoàn cho Các Chú
Nợ công cháu xấu tốt tư tiền
*
Ngu gì làm thép tế điên Võ Kim Cự tuyệt ruột liền Đỗ Cường Minh
Kim Ngân Tòng Thị Phóng sinh
Lồn tiên chàm quạp xuống sình Đinh La Thăng
Phú Yên Yên Bái xích thằng kim cô cô độc mặt bằng Đinh Thế Huynh
*
Chem chép Nguyễn Trường Tô Huy Rứa
Lẩu cầy rựa mận vén màn tuynh
Hồ Quang Vũng Áng nước lưu huỳnh
Lê Chiêu Thống cống Sông Đà đà đã vỡ
*
Formosa xót xa người tình lỡ mỡ miệng mèo mèo chê mỡ được sao
Sao kế đô đô hơn Phạm Văn Đồng
Đồng chí chóe chóe nhái bà cóc tía
Ngu gì làm thép Cu Ba cu ba khía đía bịa hơn cha Núp cặc bần
*
TÂM THANH
----------------------------------------------------------------------------------
Các tin đã đăng
- Huỳnh Ngọc Chênh - Hôm nay đón Nguyễn Thúy Hạnh về nhà, kịch tính như phim
- "Sư Minh Tuệ" - by Đỗ Duy Ngọc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Thế lực nào đã đầu độc tướng vi-xi Nguyễn Chí Vịnh?" - Lê Văn Đoành / Trần Văn Giang (ghi lại)
- NHỮNG NỮ LƯU LỪNG DANH Ở MỸ & THẾ GIỚI - TRẦN VĂN NGÀ
- Putin tiến thoái lưỡng nan vì đã tính sai nước cờ _ Hoài Việt
F. von Hayek - Vì sao những kẻ xấu xa nhất lại leo cao nhất? ( Như Hồ Chí Minh chẳng hạn )
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét quan niệm làm chỗ dựa cho những người cho rằng chế độ toàn trị là tất yếu; nó là quan niệm làm suy sụp sức kháng cự của nhiều người khác, những người sẽ chiến đấu một mất một còn với nó nếu họ hiểu được bản chất của nó. Quan
Quyền lực dẫn đến tha hóa, quyền lực tuyệt đối dẫn đến tha hóa tuyệt đối
Lord Acton
Bây
giờ chúng ta sẽ xem xét quan niệm làm chỗ dựa cho những người cho rằng
chế độ toàn trị là tất yếu; nó là quan niệm làm suy sụp sức kháng cự của
nhiều người khác, những người sẽ chiến đấu một mất một còn với nó nếu
họ hiểu được bản chất của nó. Quan niệm này cho rằng các đặc điểm kinh
tởm nhất của các chế độ toàn trị xảy ra là do sự ngẫu nhiên của lịch sử,
ở đâu cũng đều do những người đê tiện và lưu manh thiết lập nên. Và
nếu, thí dụ, ở Đức những người như Streicher và Killinger, Ley và Heine,
Himler và Heydrich nắm được quyền lực, thì điều đó chỉ chứng tỏ rằng
người Đức là một dân tộc xấu xa chứ không phải việc nổi lên của những kẻ
như thế là kết quả tất yếu của hệ thống toàn trị. Chả lẽ những người tử
tế, những người lo lắng cho lợi ích của cộng đồng, những người sẽ giải
quyết những nhiệm vụ vĩ đại lại không thể đứng đầu hệ thống toàn trị
được ư?
Không
nghi ngờ gì rằng hệ thống “phát xít” ở Anh hay ở Mĩ sẽ khác rất xa mô
hình của Ý hay Đức; không nghi ngờ gì rằng nếu việc chuyển hóa được thực
hiện một cách phi bạo lực thì chúng ta có thể hi vọng có được những nhà
lãnh đạo tử tế hơn. Và nếu một lúc nào đó số phận buộc tôi phải sống
dưới chế độ phát xít thì tôi sẽ thích chế độ phát xít do người Anh hay
người Mĩ đứng đầu hơn bất kì người đứng đầu nào khác. Nhưng xét theo
tiêu chuẩn hiện nay thì điều đó cũng không có nghĩa là hệ thống phát xít
của chúng ta sẽ hoàn toàn khác hay sẽ dễ chịu hơn nguyên mẫu của chúng.
Có đầy đủ lí do để tin rằng những đặc điểm xấu xa nhất của các hệ thống
toàn trị hiện nay không phải là sản phẩm phụ ngẫu nhiên mà là những
hiện tượng mà chế độ toàn trị trước sau gì cũng sẽ tạo ra. Khi một chính
khách dân chủ quyết định lập kế hoạch cho toàn bộ các hoạt động kinh tế
thì chẳng mấy chốc ông ta sẽ phải đối mặt với một trong hai lựa chọn:
chấp nhận chế độ độc tài hay từ bỏ các dự định của mình, còn nhà lãnh
đạo toàn trị thì phải giẫm lên đạo đức truyền thống nếu không muốn thất
bại. Đấy là lí do vì sao trong các xã hội có khuynh hướng toàn trị những
kẻ vô liêm sỉ thường dễ thành công hơn. Không hiểu điều đó là không
hiểu được khoảng cách mênh mông, có thể nói một trời một vực, giữa chế
độ toàn trị và chế độ tự do, không hiểu điều đó là không hiểu được rằng
đạo đức tập thể không thể đội trời chung với những giá trị nền tảng của
chủ nghĩa cá nhân của nền văn minh phương Tây.
“Cơ sở đạo đức của chủ nghĩa tập thể” đã từng là đề tài của nhiều cuộc thảo luận, nhưng điều chúng ta quan tâm ở đây không phải là cơ sở đạo đức của nó mà là những hệ quả đạo đức của nó. Các cuộc thảo luận về khía cạnh đạo đức của chủ nghĩa tập thể thường bàn vấn đề là liệu chủ nghĩa tập thể và các nguyên tắc đạo hiện hành có tương thích với nhau hay không hay là muốn cho chủ nghĩa tập thể thực hiện được những điều mà người ta kì vọng thì phải lập ra những nguyên tắc đạo đức mới nào. Nhưng chúng ta sẽ đặt vấn đề theo một cách khác: tổ chức xã hội theo chủ nghĩa tập thể sẽ đưa đến những nguyên tắc đạo đức nào hay quan điểm đạo đức nào sẽ ngự trị? Tác động qua lại giữa đạo đức và các thiết chế xã hội có thể dẫn đến hệ quả là đạo đức do chủ nghĩa tập thể tạo ra có thể sẽ khác hoàn toàn với những lí tưởng đạo đức đã từng làm cho người ta thấy cần phải có chủ nghĩa tập thể. Chúng ta thường nghĩ rằng nếu lòng khao khát chủ nghĩa tập thể của chúng ta bắt nguồn từ những động cơ đạo đức cao thượng thì hệ thống đó phải là thiên đường của phẩm hạnh, nhưng trên thực tế chẳng có lí do gì để một hệ thống phải đề cao những phẩm chất nhằm phục vụ cho các mục tiêu mà người ta dự kiến cho nó. Quan điểm đạo đức ngự trị sẽ phụ thuộc một phần vào những phẩm chất có thể dẫn các cá nhân đến thành công trong hệ thống toàn trị hay hệ thống tập thể và phụ thuộc một phần vào đòi hỏi của bộ máy toàn trị.
* * *
Xin
quay lại trong chốc lát với tình hình trước khi diễn ra việc đàn áp các
thiết chế dân chủ và thiết lập chế độ toàn trị. Đấy là lúc sự bất mãn
của toàn dân đối với chính phủ, một chính phủ vừa chậm chạp, vừa thụ
động, bị trói chân trói tay vì các thủ tục dân chủ rắc rối. Đây là nhân
tố chủ chốt khiến người ta mong có một chính phủ quyết đoán. Trong tình
hình như thế, trong khi mọi người đều đòi hỏi phải có những hành động
khẩn trương và dứt khoát thì một chính khách hay một đảng tỏ ra mạnh mẽ,
sẵn sàng “hành động”, sẽ là người được quần chúng mến mộ. “Mạnh mẽ” ở
đây hoàn toàn không có nghĩa là nắm được đa số vì lúc đó chính sự bất
lực của đa số trong quốc hội đã làm người ta bất mãn. Điều quan trọng là
người cầm đầu có được hậu thuẫn mạnh mẽ, một sự hậu thuẫn cho người ta
cảm tưởng rằng ông ta sẽ thực hiện được mọi điều ông ta muốn. Đảng kiểu
mới, được tổ chức theo lối nhà binh, xuất hiện trên vũ đài chính trị như
thế đấy.
Tại
các nước thuộc khu vực Trung Âu, nhờ nỗ lực của những người xã hội chủ
nghĩa mà quần chúng đã quen với những tổ chức chính trị theo kiểu nhà
binh, những tổ chức tìm mọi cách quản lí đời sống riêng tư của tất cả
các thành viên của nó. Vì vậy nếu một nhóm nào đó muốn chiếm đoạt quyền
lực không hạn chế thì nó phải sử dụng nguyên tắc này rồi tiến xa thêm và
dựa không phải vào lá phiếu của những người ủng hộ trong những cuộc bầu
cử thỉnh thoảng mới được tiến hành mà phải dựa vào sự ủng hộ tuyệt đối
và vô điều kiện của một tổ chức, không cần phải lớn nhưng được tổ chức
tốt. Khả năng thiết lập chế độ toàn trị trên cả nước phần lớn phụ thuộc
vào khả năng tập hợp xung quanh lãnh tụ một nhóm những kẻ tự nguyện phục
tùng cái kỉ luật toàn trị mà họ sẽ dùng vũ lực áp đặt cho toàn bộ nhân
dân.
Mặc
dù các đảng xã hội chủ nghĩa là những đảng khá mạnh, nếu quyết định sử
dụng bạo lực thì họ có thể giành được tất cả những thứ mà họ muốn, nhưng
họ đã dao động. Chính họ cũng không ngờ rằng mình đã đặt ra mục tiêu mà
chỉ có những kẻ tàn nhẫn, những kẻ sẵn sàng bước qua mọi rào cản về đạo
đức mới có thể thực hiện được.
Chủ
nghĩa xã hội chỉ có thể được đưa vào thực tiễn bằng những biện pháp mà
đa số những người xã hội chủ nghĩa phản đối, đấy chính là bài học của
nhiều nhà cải cách xã hội trong quá khứ. Các đảng xã hội chủ nghĩa cổ
điển hoạt động trong khuôn khổ của các lí tưởng dân chủ; họ không có
tính tàn nhẫn cần thiết để thực thi các nhiệm vụ mà họ đã chọn. Điều đặc
biệt là cả ở Đức lẫn ở Ý, chủ nghĩa phát xít đã thành công sau khi các
đảng xã hội từ chối nhận trách nhiệm lãnh đạo chính phủ. Họ không muốn
áp dụng một cách triệt để những biện pháp mà học thuyết của họ đã dạy.
Họ vẫn hi vọng vào phép màu rằng đa số sẽ đồng ý về một kế hoạch tổ chức
toàn bộ xã hội, nhưng những người khác thì đã học được bài học rằng
trong xã hội được kế hoạch hóa vấn đề không còn là đa số sẽ đồng ý mà là
nhóm lớn nhất là nhóm nào, chỉ cần các thành viên của nó đồng ý là đủ
để hình thành đường lối thống nhất cho tất cả mọi công việc. Còn nếu
chưa có một nhóm như thế thì ai và làm thế nào để thành lập ra một nhóm
như thế.
Có
ba lí do vì sao cái nhóm đông và mạnh, với những thành viên có quan
điểm giống nhau, lại không được hình thành từ những người tử tế nhất mà
thường là từ những phần tử xấu xa nhất của xã hội. Theo tiêu chuẩn của
chúng ta thì cái nhóm như thế chỉ có thể hình thành trên những nguyên lí
hoàn toàn mang tính tiêu cực.
Thứ
nhất, những người có trình độ học vấn và tri thức càng cao thì thị hiếu
và quan điểm càng phân hóa, họ khó có thể thống nhất về bất cứ thang
giá trị cụ thể nào. Nghĩa là nếu chúng ta muốn tìm một sự thống nhất cao
về quan điểm thì chúng ta phải tìm trong những tầng lớp xã hội với tiêu
chuẩn đạo đức và tri thức không cao, với thị hiếu và bản năng nguyên
thuỷ và thô lậu. Điều đó không có nghĩa là đa số dân chúng có tiêu chuẩn
đạo đức thấp; nó chỉ có nghĩa là cái nhóm gồm nhiều thành viên với
những chuẩn mực giá trị giống nhau là những người có tiêu chuẩn đạo đức
không cao. Có thể nói chính cái mẫu số chung đạo đức cực kì thấp đã liên
kết rất nhiều người lại với nhau. Nếu chúng ta cần một nhóm tương đối
đông và đủ mạnh, để buộc những người khác phải chấp nhận các quan điểm
và giá trị của nhóm mình thì không bao giờ chúng ta lại tìm đến những
người có thị hiếu phát triển cao và phân hóa một cách sâu sắc. Chúng ta
sẽ tìm đến “quần chúng”, với ý nghĩa tiêu cực của từ này, tìm đến những
người kém độc đáo và ít độc lập nhất, những người có thể lấy số lượng làm bệ đỡ cho lí tưởng của họ.
Nhưng
nếu nhà độc tài tương lai chỉ dựa vào những người có những bản năng đơn
sơ và giống nhau thì số người như thế sẽ không thể đủ để thực hiện
nhiệm vụ đặt ra. Hắn sẽ phải tăng thêm số thành viên của mình bằng cách
kết nạp thật nhiều người vào cùng tín điều đơn giản của hắn.
Tiêu
chuẩn chọn lựa tiêu cực thứ hai: Hắn phải tìm được sự ủng hộ của những
kẻ dễ bảo và cả tin, những kẻ không có niềm tin riêng mà sẵn sàng chấp
nhận các hệ thống giá trị sẵn có miễn là được rót vào tai họ một cách
liên tục. Chính những kẻ với các tư tưởng mù mờ và được hình thành một
cách dở dang, những kẻ dễ dao động, những kẻ mà tình cảm và niềm đam mê
sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào lại là thành phần đông nhất của các đảng
toàn trị.
Tiêu
chuẩn thứ ba, và có lẽ là quan trọng và cần thiết nhất để một kẻ mị dân
lão luyện có tập họp quanh mình một nhóm cố kết những người ủng hộ. Bản
chất của con người là dễ dàng đồng thuận trên cơ sở một cương lĩnh mang
tính tiêu cực - chí căm thù giặc, lòng ghen tức với những kẻ khá giả -
hơn là trên cơ sở một nhiệm vụ mang tính tích cực. Sự tương phản giữa
“chúng ta” và “chúng nó”, cuộc chiến đấu chống lại những kẻ nằm bên
ngoài tổ chức có vẻ như là chất kết dính chủ yếu trong mọi giáo lí,
chính nó sẽ gắn chặt người ta thành một nhóm cho những hành động chung.
Những kẻ cầm đầu muốn săn tìm không chỉ sự ủng hộ về mặt chinh trị mà
còn săn tìm lòng trung thành vô điều kiện của quần chúng đã cố tình lợi
dụng cái phần tiêu cực đó trong bản chất của con người cho mục đích của
mình. Theo họ thì các cương lĩnh tiêu cực có ưu điểm là dành cho họ
quyền tự do hành động hơn bất kì cương lĩnh tích cực nào. Hình ảnh kẻ
thù, bất kể ở bên trong như “Do Thái” ở Đức hay “kulak” ở Nga, hay ở bên
ngoài, đều là một trong những phương tiện thiết yếu trong kho vũ khí
của lãnh tụ toàn trị.
Việc
người Do Thái ở Đức bị tuyên bố là kẻ thù trước khi các nhà tài phiệt
thế chỗ cho họ cũng chỉ là kết quả của xu hướng bài tư bản của phong
trào, chẳng khác gì việc chọn tầng lớp phú nông (kulak) ở Nga. Sự thật
là ở Đức và Áo người Do Thái bị coi là đại diện của chủ nghĩa tư bản vì
sự thù địch thâm căn cố đế của quần chúng đối với thương nghiệp đã làm
cho lĩnh vực này trở thành dễ
thâm nhập hơn đối với những nhóm người không có quyền lựa chọn những
nghề cao quý hơn. Câu chuyện này cũng cũ như là thế giới vậy: Các sắc
dân ngụ cư chỉ được làm những nghề hèn mọn và thế là người ta càng căm
ghét họ hơn. Việc chủ nghĩa bài Do Thái và bài tư bản ở Đức có cùng một
nguồn gốc là một mắt xích cực kì quan trọng, nó giúp ta hiểu được những
sự việc đang diễn ra trên đất nước này; nhưng nói chung, những người
quan sát nước ngoài đã không nhận ra điều đó.
* * *
Coi
khuynh hướng biến chủ nghĩa tập thể thành chủ nghĩa dân tộc đang diễn
ra khắp nơi chỉ là do người ta muốn nhận được sự ủng hộ dứt khoát của
những tầng lớp xã hội nhất định nào đó, đồng nghĩa với bỏ sót một tác
nhân không kém phần quan trọng. Thật vậy, người ta có thể hỏi rằng liệu
có người nào tưởng tượng nổi một cương lĩnh của chủ nghĩa tập thể mà
không nhằm phục vụ cho một nhóm hạn chế nào đó hay không, liệu chủ nghĩa
tập thể có thể tồn tại dưới một hình thức nào khác ngoài hình thức của
một chủ nghĩa phân lập (particularism) nào đó hay không, thí dụ như chủ
nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc hay là chủ nghĩa giai cấp.
Niềm tin rằng các thành viên trong cộng đồng cùng có chung mục đích và
quyền lợi làm người ta dễ dàng thống nhất về quan điểm và tư tưởng hơn
là với những cư dân khác trên Trái đất. Và nếu chúng không biết mặt tất
cả các thành viên của nhóm thì ít nhất chúng ta cũng phải tin rằng họ
giống những người xung quanh ta, họ nói và nghĩ về những thứ như ta. Chỉ
khi đó ta mới có thể đồng nhất mình với họ. Không thể hình dung nổi chủ
nghĩa tập thể ở quy mô toàn cầu, trừ phi nó được dùng để bảo vệ quyền
lợi của một nhóm ưu tú cực kì nhỏ. Đây không phải là vấn đề kĩ thuật mà
là vấn đề đạo đức, một vấn đề mà tất cả những người xã hội chủ nghĩa đều
không muốn đối mặt. Nếu, thí dụ, người vô sản Anh được hưởng ngang nhau
phần thu nhập có xuất xứ từ các nguồn lực tư bản của nước họ và có
quyền tham gia kiểm soát việc sử dụng các nguồn lực tư bản, thì bởi vì
chúng là kết quả của sự bóc lột, nên cũng theo nguyên tắc đó, tất cả
người Ấn không chỉ có quyền hưởng thu nhập từ tư bản mà còn có cả quyền
sử dụng một phần tương ứng của các nguồn lực tư bản Anh nữa.
Nhưng
những người xã hội chủ nghĩa dự định phân chia đồng đều nguồn vốn tư
bản hiện có trên thế giới cho các dân tộc như thế nào? Tất cả đều cho
rằng tư bản không phải là tài sản của toàn nhân loại mà là tài sản của
một dân tộc, nhưng ngay cả trong khuôn khổ của các quốc gia cũng ít
người dám đặt vấn đề tước bớt một phần tư bản “của họ” để giúp cho các
vùng nghèo hơn. Những người xã hội chủ nghĩa cũng không sẵn sàng bảo đảm
cho người nước ngoài cái mà họ tuyên bố là trách nhiệm trước các công
dân nước mình. Nếu theo quan điểm của chủ nghĩa tập thể một cách nhất
quán thì phải công nhận rằng những đòi hỏi phân chia lại thế giới do các
dân tộc nghèo nàn đưa ra là hợp lí, mặc dù nếu tư tưởng này mà được
thực thi thì những quốc gia ủng hộ nhiệt tình nhất sẽ bị mất mát chẳng
khác gì các quốc gia giàu có. Vì vậy mà họ luôn tỏ ra
thận trọng, họ không đặt nặng yêu cầu vào nguyên tắc bình quân chủ
nghĩa nhưng lại làm ra vẻ rằng không có ai có thể tổ chức đời sống của
các dân tộc trên thế giới tốt hơn là họ.
Một
trong những mâu thuẫn nội tại của triết lí của chủ nghĩa tập thể là,
bản thân nó dựa trên một nền đạo đức nhân văn, tức là nền đạo đức phát
triển trong khuôn khổ của chủ nghĩa cá nhân, nhưng nó chỉ có thể được áp
dụng cho những nhóm tương đối nhỏ mà thôi. Về lí thuyết, chủ nghĩa xã
hội là chủ nghĩa quốc tế, nhưng khi đem ra áp dụng thì dù là ở Nga hay ở
Đức nó đều biến thành chủ nghĩa dân tộc cực đoan nhất. Vì vậy mà chủ
nghĩa xã hội tự do, như nhiều người châu Âu hình dung, chỉ là sản phẩm
thuần túy lí thuyết, trong khi trên thực tế chủ nghĩa xã hội luôn luôn
đồng hành với chủ nghĩa toàn trị[1].
Chủ nghĩa tập thể không chấp nhận chủ nghĩa nhân đạo theo nghĩa rộng
của chủ nghĩa tự do, nó chỉ có thể chấp nhận chủ nghĩa biệt lập toàn trị
mà thôi.
Nếu
“cộng đồng” hay nhà nước đứng cao hơn cá nhân và có những mục tiêu
không ăn nhập gì với các mục tiêu của cá nhân và cao hơn các mục tiêu cá
nhân thì chỉ những người hoạt động cho các mục tiêu đó mới được coi là
thành viên của cộng đồng. Hậu quả tất yếu của quan điểm này là chỉ khi
là thành viên của nhóm cá nhân mới được tôn trọng, tức là chỉ khi và
trong chừng mực cá nhân đó có tác dụng thúc đẩy cho việc thực hiện các
mục tiêu được tất cả mọi người thừa nhận thì cá nhân đó mới được tôn
trọng. Người ta chỉ có nhân phẩm khi là thành viên của nhóm, con người
đơn lẻ chẳng có giá trị gì. Vì vậy tất cả các giá trị nhân bản, kể cả
chủ nghĩa quốc tế, vốn là sản phẩm của chủ nghĩa cá nhân đều không có
chỗ trong triết lí của chủ nghĩa tập thể[2].
Cộng
đồng theo chủ nghĩa tập thể chỉ có thể trở thành hiện thực khi tất cả
các thành viên của nó có hoặc có thể đạt được sự nhất trí về tất cả các
mục tiêu, nhưng bên cạnh đó còn có một loạt tác nhân làm cho cái xã hội
như thế có xu hướng trở thành xã hội khép kín và biệt lập. Điều quan
trọng nhất là việc cá nhân khát khao đồng nhất mình với nhóm lại là hậu
quả của cảm giác bất toàn của chính mình, việc có chân trong nhóm trong
trường hợp đó sẽ làm cho anh ta cảm thấy ưu thế của mình so với những
người xung quanh, so với những người không thuộc nhóm của anh ta. Đôi
khi, có thể chính bản năng gây hấn mà người ta biết rằng phải bị kiềm
chế trong nội bộ nhóm lại được thả lỏng trong hành động của tập thể
chống lại những người bên ngoài đã giúp cho cá nhân hòa đồng hơn với tập
thể. Moral Man and Immoral Society (Con người đức hạnh và xã hội vô luân)
là nhan đề tuyệt vời và rất chính xác của một tác phẩm của Reinhold
Niebuhr, mặc dù chúng ta không thể đồng ý với tất cả các kết luận của
ông. Nhưng, đúng như ông đã nói: “Con người hiện nay thường có xu hướng
coi mình là có đức vì họ đã chuyển sự đồi bại của mình cho những nhóm
người ngày càng đông hơn[3]”.
Khi hành động nhân danh nhóm người ta thường rũ bỏ được nhiều hạn chế
về mặt đạo đức, vốn là những thứ vẫn đóng vai trò kiềm chế hành vi của
người ta trong nội bộ nhóm.
Thái
độ thù địch không thể che giấu đối với chủ nghĩa quốc tế của phần đông
những người ủng hộ kế hoạch hóa có thể được lí giải, bên cạnh các nguyên
nhân khác, là trong thế giới hiện đại mọi mối liên hệ với bên ngoài đều
ngăn cản việc tiến hành kế hoạch hóa một cách hữu hiệu. Cho nên không
phải ngẫu nhiên mà biên tập viên của một trong những công trình nghiên
cứu tập thể toàn diện nhất về vấn đề kế hoạch hóa đã vô cùng thất vọng
khi phát hiện ra rằng: “Phần lớn những người ủng hộ kế hoạch hóa lại là
những người theo đường lối dân tộc chủ nghĩa hiếu chiến nhất[4]”.
Thiên
hướng dân tộc và đế quốc chủ nghĩa thường thấy ở những người xã hội chủ
nghĩa hơn là người ta tưởng, mặc dù không phải lúc nào cũng thể hiện
công khai, thí dụ như hai ông bà Webb hay một số người thuộc hội Fabian
trước đây, ở những người này lòng nhiệt tình với kế hoạch hóa thường kết
hợp với lòng sùng kính đặc thù trước những quốc gia lớn mạnh và khinh
thường những nước nhỏ. Hồi tưởng lại cuộc gặp gỡ đầu tiên với ông bà
Webb bốn mươi năm về trước, sử gia Élie Halévy nhận xét rằng tinh thần
xã hội chủ nghĩa của họ hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa tự do: “Ông bà
ấy không căm ghét những người bảo thủ (Tories), thậm chí còn tỏ ra độ
lượng đối với họ, nhưng lại không chấp nhận chủ nghĩa tự do của
Gladston. Lúc đó đang diễn ra cuộc chiến tranh Anh-Boer (người Phi gốc
Hà Lan- ND) và những người tự do tiến bộ nhất cùng với những người đang
đứng ra thành lập Đảng Lao động đã ủng hộ người Boer chống lại đế quốc
Anh, nhân danh tự do và lòng nhân đạo. Nhưng ông bà Webb và bạn họ là
nhà văn Bernard Shaw lại đứng tách ra. Họ đã thể hiện tinh thần đế quốc
một cách đầy khiêu khích. Nền độc lập của các dân tộc nhỏ bé có thể có ý
nghĩa nào đó đối với một người tự do theo tư tưởng cá nhân chủ nghĩa,
nhưng lại chẳng có ý nghĩa gì đối với những người theo chủ nghĩa tập thể
như họ. Bên tai tôi vẫn văng vẳng lời giải thích của Sidney Webb rằng
tương lai thuộc về các nước lớn, nơi các viên chức sẽ cai trị, còn cảnh
sát sẽ giữ trật tự”. Ở một chỗ khác, Halévy còn dẫn lại lời nói của B.
Shaw, cũng nói về khoảng thời gian đó: “Thế giới nhất định thuộc về các
nước lớn và mạnh; các nước nhỏ không nên thò đầu qua biên giới kẻo sẽ bị
bóp chết đấy[5]”.
Tôi
đã trích dẫn một đoạn dài, nếu đấy là phát biểu của những bậc tiền bối
người Đức của chủ nghĩa xã hội quốc gia thì sẽ chẳng làm ai ngạc nhiên
vì nó là thí dụ điển hình của thái độ tôn thờ quyền lực, một
thái độ dễ dàng đưa người ta từ chủ nghĩa xã hội chuyển sang chủ nghĩa
dân tộc và có ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm đạo đức của những người
theo chủ nghĩa tập thể. Nói đến quyền của các dân tộc nhỏ thì quan điểm
của Marx và Engels cũng chẳng khác gì quan điểm của những người theo chủ
nghĩa tập thể khác, những lời phát biểu của họ về người Czech và người
Ba Lan giống hệt như những gì mà các đảng viên xã hội chủ nghĩa quốc gia
hiện nay đang nói[6].
* * *
Nếu
đối với các triết gia cá nhân chủ nghĩa vĩ đại thế kỉ XIX, bắt đầu từ
Lord Acton và Jacob Burckhardt và đến những người xã hội chủ nghĩa đương
đại, như Bertrand Russell, những người kế thừa các truyền thống của chủ
nghĩa tự do, quyền lực là cái ác tuyệt đối, thì đối với những người
theo chủ nghĩa tập thể thuần thành, quyền lực lại là mục đích tự thân.
Vấn đề không chỉ là, như Russell đã chỉ rõ, bản thân ước muốn tổ chức
đời sống xã hội theo một kế hoạch duy nhất bắt nguồn từ khát vọng quyền
lực[7].
Điều quan trọng hơn là, để đạt được mục tiêu, những người theo chủ
nghĩa tập thể phải tạo ra quyền lực - thứ quyền lực do con người áp đặt
lên con người – với sức mạnh chưa từng được biết đến trước đây, thành
công của họ phụ thuộc vào mức độ quyền lực mà họ giành được.
Điều
này vẫn đúng dẫu cho nhiều người xã hội chủ nghĩa có tư tưởng tự do
đang nỗ lực làm việc vì bị dẫn dắt bởi cái ảo tưởng đầy bi kịch rằng
tước đoạt quyền lực mà các cá nhân sở hữu trong hệ thống cá nhân chủ
nghĩa và chuyển quyền lực này vào tay xã hội là họ đang thực hiện việc
xóa bỏ quyền lực. Những người lí sự như thế đã bỏ qua sự kiện rõ ràng
sau đây: tập trung quyền lực để nó có thể phục vụ cho một kế hoạch duy
nhất thì quyền lực không những không được chuyển hóa mà còn trở thành
quyền lực tuyệt đối. Tập trung vào tay một nhóm người cái quyền lực
trước đó vẫn nằm trong tay nhiều người độc lập với nhau, thì quyền lực
chẳng những đã tăng lên đến mức chưa từng có trước đây mà còn có ảnh
hưởng sâu rộng đến mức gần như trở thành khác hẳn về chất. Thật sai lầm
khi cho rằng quyền lực của cơ quan lập kế hoạch trung ương cũng “không
hơn gì quyền lực tập thể của ban giám đốc xí nghiệp tư nhân[8]”.
Thực tế là trong xã hội cạnh tranh, không người nào có thể nắm được dù
chỉ một phần quyền lực mà ủy ban kế hoạch xã hội chủ nghĩa có thể sở hữu
và nếu không có người nào có thể tự ý sử dụng quyền lực thì lời khẳng
định rằng các nhà tư bản có một “quyền lực cộng đồng” thì đấy đơn giản
chỉ là trò đánh tráo thuật ngữ mà thôi[9].
Câu “quyền lực bị hội đồng các giám đốc tư nhân thao túng”, trong khi
họ chưa thực hiện các hành động có phối hợp, chỉ là một trò chơi chữ,
còn khi họ đã phối hợp hành động thì cũng có nghĩa là sự cáo chung của
nền kinh tế cạnh tranh và bắt đầu nền kinh tế kế hoạch hóa. Muốn giảm
quyền lực tuyệt đối thì phải chia nhỏ nó ra hay là phi tập trung hóa nó
và hệ thống cạnh tranh là hệ thống duy nhất được thiết kế nhằm phi tập
trung hóa quyền lực và bằng cách đó làm giảm tối đa quyền lực của một số
người đối với một số người khác.
Như
chúng ta đã thấy, việc tách các mục tiêu kinh tế ra khỏi mục tiêu chính
trị là sự bảo đảm thiết yếu cho tự do cá nhân, nhưng đây chính là đối
tượng tấn công không khoan nhượng của những người xã hội chủ nghĩa. Cần
phải nói thêm rằng khẩu hiệu thịnh hành hiện nay “đưa quyền lực chính
trị thay thế cho quyền lực kinh tế” có nghĩa đem cái gông xiềng không ai
có thể chạy thoát được thế chỗ cho cái quyền lực về bản chất là có giới
hạn. Mặc dù quyền lực kinh tế có thể là một công cụ áp bức, nhưng khi
còn nằm trong tay những cá nhân riêng lẻ, nó không thể là vô giới hạn và
không thể bao trùm lên toàn bộ đời sống của một con người. Nhưng khi
tập trung vào tay một nhóm người như là một công cụ của quyền lực chính
trị thì nó sẽ biến người ta thành những người phụ thuộc chẳng khác gì nô
lệ.
* * *
Từ
hai đặc điểm trung tâm của mọi hệ thống tập thể chủ nghĩa tức là nhu
cầu phải có một hệ thống các mục tiêu được tất cả mọi người trong nhóm
chấp nhận và ước mơ của nhóm có một quyền lực tuyệt đối, nhằm thực thi
các mục tiêu đó, chắc chắn sẽ nảy sinh ra một hệ thống đạo đức nhất định
với một số điểm trùng hợp trong khi một số điểm lại khác hẳn với nền
đạo đức của chúng ta. Nhưng có một điểm mà sự khác biệt rõ ràng đến nỗi
có thể làm người ta ngờ rằng đây có phải là đạo đức hay không nữa: nó
không để cho lương tâm của cá nhân được áp dụng các quy tắc của chính
mình và nó cũng không chấp nhận bất kì quy tắc chung nào mà cá nhân phải
tuân theo hoặc được phép theo trong mọi hoàn cảnh. Điều này làm cho đạo
đức tập thể trở thành khác hẳn với cái mà chúng ta vẫn gọi là đạo đức
và thật khó mà tìm được bất kì nguyên tắc nào dù rằng đạo đức tập thể
vẫn có những nguyên tắc như thế.
Sự
khác biệt về nguyên tắc cũng gần giống như trường hợp Pháp Trị mà chúng
ta đã có dịp xem xét trước đây. Tương tự như các đạo luật hình thức,
các tiêu chuẩn đạo đức cá nhân chủ nghĩa, dù không phải lúc nào cũng cụ
thể chi li, nhưng là các tiêu chuẩn chung và vạn năng khi áp dụng. Các
tiêu chuẩn này quy định hoặc cấm đoán một số hành động nhất định, không
phụ thuộc vào mục đích mà những hành động ấy theo đuổi. Thí dụ ăn cắp
hay nói dối, tra tấn hoặc phản bội được coi là xấu, ngay cả trong trường
hợp cụ thể nào đó những hành động như thế không gây ra bất cứ thiệt hại
trực tiếp nào. Dù không có ai phải chịu đau khổ hay ngay cả đấy là
những hành động nhân danh một mục đích cao đẹp nào đó thì cũng không thể
làm thay đổi được sự kiện là đấy là những hành động xấu. Mặc dù đôi khi
chúng ta phải lựa chọn, phải làm một việc đỡ xấu hơn, nhưng dù sao đấy
vẫn là việc xấu.
Trong
đạo đức học cá nhân chủ nghĩa, nguyên tắc mục đích biện minh cho phương
tiện được coi là sự phủ nhận mọi tiêu chuẩn đạo đức. Trong đạo đức học
của chủ nghĩa tập thể nguyên tắc này nhất định phải trở thành quy tắc
tối thượng; một người theo chủ nghĩa tập thể kiên định phải sẵn sàng làm
tất cả mọi việc nếu đó là việc mang lại “hạnh phúc cho tất cả mọi
người” vì đối với anh ta đấy là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá tính đạo
đức của hành động. Đạo đức tập thể thể hiện rõ ràng nhất trong công
thức raison d'état[10],
một động cơ không chấp nhận bất kì giới hạn nào, ngoài tính vụ lợi,
chính tính vụ lợi sẽ quyết định phải hành động như thế nào để đạt cho
bằng được các mục tiêu trước mắt. Cách mà reason d’état thực hiện
trong quan hệ giữa các quốc gia cũng được đem ra áp dụng trong quan hệ
giữa các công dân trong các nước theo chủ nghĩa tập thể. Trong các nước
theo chủ nghĩa tập thể lương tâm cũng như tất cả các tác nhân khác đã
không còn đóng vai trò kiềm chế các hành động của con người nếu như đấy
là các hành động nhằm thực hiện các mục tiêu do cộng đồng hay do cấp
trên giao phó.
* * *
Sự
thiếu vắng các quy tắc đạo đức tuyệt đối mang tính hình thức dĩ nhiên
không có nghĩa là xã hội theo chủ nghĩa tập thể không khuyến khích một
số thói quen có ích của các công dân và không đè nén một số thói quen
khác. Ngược lại, xã hội theo đường lối tập thể quan tâm tới thói quen
của con người hơn là xã hội theo đường lối cá nhân chủ nghĩa. Để trở
thành người có ích cho xã hội theo đường lối tập thể cần phải có một số
phẩm chất, những phẩm chất này lại đòi hỏi phải được rèn luyện thường
xuyên. Chúng ta gọi đó là “những thói quen có ích” chứ không phải là đức
hạnh vì trong bất kì trường hợp nào chúng cũng không được phép trở
thành chướng ngại vật trên con đường tiến đến mục đích chung hay là cản
trở việc thực thi mệnh lệnh của cấp trên. Các thói quen đó chỉ làm mỗi
một nhiệm vụ là lấp đầy khoảng trống mà các mệnh lệnh hay các mục tiêu
chưa nói tới chứ không bao giờ được mâu thuẫn với ý chí của nhà cầm
quyền.
Có
thể thấy rõ sự khác nhau giữa những phẩm chất sẽ được đánh giá cao
trong xã hội theo chủ nghĩa tập thể và những phẩm chất nhất định sẽ phải
biến mất trong thí dụ sau. Có một số phẩm chất đạo đức đặc trưng của
người Đức, hay nói đúng hơn “đặc trưng Phổ” được cả những kẻ thù không
đội trời chung của họ công nhận và cũng có những phẩm chất mà theo ý
kiến chung là người Đức không có, nhưng lại có ở người Anh, khiến cho
người Anh cảm thấy tự hào. Chắc chẳng mấy người phủ nhận rằng người Đức
nói chung là yêu lao động và có kỉ luật, cẩn trọng và nghị lực đến mức
tàn nhẫn, tận tuỵ và ngay thẳng trong mọi công việc; họ có ý thức cao về
trật tự, về trách nhiệm và thói quen tuân phục chính quyền; họ sẵn sàng
hi sinh quyền lợi cá nhân và tỏ ra là những người cực kì dũng cảm khi
tính mạng bị đe dọa. Tất cả những điều đó đã biến người Đức thành công
cụ thực hiện mọi nhiệm vụ do nhà cầm quyền đặt ra, chính phủ Phổ và Đế
chế mới trong đó xu hướng Phổ giữ thế thượng phong, đã giáo dục họ theo
đúng tinh thần như thế. Trong khi đó người ta lại cho rằng “người Đức
điển hình” thiếu những phẩm chất của chủ nghĩa cá nhân như tinh thần bao
dung, thái độ tôn trọng người khác, tôn trọng ý kiến của người khác, sự
độc lập về trí tuệ, tính ngay thẳng và sẵn sàng bảo vệ ý kiến của mình
trước những người có quyền lực, chính người Đức cũng nhận thấy như thế
và gọi nó là Zivilcourage[11],
họ thiếu sự quan tâm đến những kẻ yếu đuối, thiếu sự nghi ngờ lành mạnh
đối với quyền lực, không thích quyền lực, những phẩm chất chỉ có thể
được hình thành bởi truyền thống tự do cá nhân lâu đời. Người ta còn cho
rằng người Đức không có các phẩm chất, có thể là không dễ nhận ra,
nhưng rất quan trọng nếu xét từ quan điểm quan hệ giữa những người sống
trong xã hội tự do, đấy là lòng nhân từ, tính khôi hài, cởi mở và tôn
trọng đời sống cá nhân của người khác cũng như niềm tin vào ý định tốt
đẹp của những người xung quanh.
Sau
tất cả những điều đã trình bày, có thể thấy rõ rằng những phẩm hạnh đặc
trưng của chủ nghĩa cá nhân cũng đồng thời là những phẩm hạnh mang tính
xã hội, giúp cho tương tác xã hội diễn ra thuận lợi hơn, nhờ thế mà
không cần và rất khó kiểm soát từ bên trên. Những phẩm hạnh này chỉ phát
triển trong các xã hội mang tính cá nhân chủ nghĩa hoặc đã phát triển
về mặt thương mại, và không hiện diện trong xã hội nơi chủ nghĩa tập thể
hay quân phiệt giữ thế thượng phong. Có thể nhận thấy rõ sự khác biệt
này ở những vùng khác nhau của Đức, và hiện nay chúng ta cũng có thể
thấy khi so sánh Đức với các nước phương Tây. Cho mãi đến tận thời gian
gần đây, tại những vùng phát triển nhất về thương mại, tức là tại những
thành phố buôn bán ở phía Nam và phía Tây, cũng như các thành phố vùng
Hanse, các quan niệm đạo đức vẫn gần với tiêu chuẩn của phương Tây hơn
là những tiêu chuẩn đang giữ thế thượng phong ở Đức hiện nay.
Tuy
vậy, sẽ cực kì bất công khi cho rằng khối quần chúng ủng hộ chế độ
trong các nhà nước toàn trị, mà chúng ta coi là chế độ vô luân, là những
người chẳng còn động lực đạo đức nào. Đối với đa số thì tình hình hoàn
toàn ngược lại: chỉ có thể so sánh những xúc cảm về mặt đạo đức đằng sau
các phong trào như quốc xã hay cộng sản với những trải nghiệm của những
người đã từng tham gia các phong trào tôn giáo vĩ đại trong lịch sử.
Nhưng một khi đã thừa nhận rằng cá nhân chỉ là phương tiện phục vụ cho
những mục tiêu của một thực thể cao quý hơn, gọi là xã hội hay quốc gia
thì cũng thế, thì những đặc điểm của chế độ toàn trị nhất định sẽ xuất
hiện. Từ quan điểm của chủ nghĩa tập thể thì thái độ bất dung và đàn áp
thô bạo bất đồng quan điểm, khinh thường đời sống và hạnh phúc cá nhân
chính là những hậu quả thiết yếu và không thể tránh khỏi của những tiền
đề lí luận nền tảng. Đồng ý như thế, nhưng đồng thời những người ủng hộ
chủ nghĩa tập thể lại khẳng định rằng chế độ này tiến bộ hơn là cái chế
độ, nơi những quyền lợi “ích kỉ” của từng cá nhân có thể cản trở các mục
tiêu mà cộng đồng theo đuổi. Các triết gia Đức là những người chân
thành khi họ cố gắng chứng minh hết lần này đến lần khác rằng phấn đấu
cho hạnh phúc cá nhân là việc làm phi đạo đức và chỉ có thực hiện nghĩa
vụ trước xã hội mới là việc làm đáng tôn trọng, nhưng những người được
giáo dục theo truyền thống khác thì khó mà hiểu nổi chuyện đó.
Ở
đâu chỉ tồn tại một mục tiêu chung cao quý duy nhất thì ở đó không còn
chỗ cho bất kì tiêu chuẩn hay quy phạm đạo đức nào. Trong thời kì chiến
tranh chúng ta cũng từng trải nghiệm những điều như thế ở một mức độ nào
đó. Nhưng ngay cả chiến tranh với những mối hiểm nguy vốn có của nó
cũng chỉ tạo ra trong lòng các nước dân chủ một phiên bản toàn trị tương
đối ôn hòa: chỉ một vài giá trị cá nhân bị đặt sang một bên để dành chỗ
cho mục tiêu duy nhất lúc đó mà thôi. Nhưng khi toàn xã hội chỉ theo
đuổi một vài mục tiêu chung nào đó thì nhất định sự tàn bạo đôi khi sẽ
được coi là nhiệm vụ và những hành động làm chúng ta kinh tởm như bắn
giết con tin, giết người già hay
người ốm được coi là những việc làm thích hợp; di dân cưỡng bức và bắt
lưu đầy hàng trăm ngàn người trở thành biện pháp chính trị được hầu như
tất cả mọi nguời, trừ các nạn nhân, ủng hộ; thậm chí người ta còn nghiên
cứu cả những đề nghị như “gọi đàn bà nhập ngũ để sinh con đẻ cái” nữa.
Những người theo chủ nghĩa tập thể chỉ nhìn thấy những mục tiêu vĩ đại,
họ đủ sức biện hộ cho những hành động như thế vì không có quyền con
người nào hay giá trị cá nhân nào có thể trở thành lực cản cho sự nghiệp
phụng sự xã hội của họ.
Nhưng
trong khi đối với phần đông công dân của nhà nước toàn trị, lí tưởng,
mặc dù đối với chúng ta đấy là lí tưởng chẳng ra gì, chính là thứ họ sẵn
sàng hy sinh hết mình, là thứ khiến họ ủng hộ, thậm chí thực hiện những
hành động bất nhân nói trên, thì đối với những kẻ điều hành chính sách
đó lại không hẳn như thế. Muốn trở thành trợ thủ đắc lực trong việc điều
hành nhà nước toàn trị thì sẵn sàng chấp nhận những lời giải thích có
vẻ hợp lí cho những việc làm đốn mạt là chưa đủ, y còn phải sẵn sàng chà
đạp lên mọi quy tắc đạo đức từng được biết đến nếu
đấy là việc cần thiết để đạt mục tiêu đề ra cho y. Vị lãnh tụ tối cao
là người duy nhất có quyền đặt ra mục tiêu cho nên các trợ thủ trong tay
ông ta không được có quan điểm đạo đức riêng của mình. Yêu cầu quan
trọng nhất đối với người cán bộ là lòng trung thành tuyệt đối đối với cá
nhân lãnh tụ, kèm theo lòng trung thành là tính vô nguyên tắc và sẵn
sàng làm bất cứ việc gì. Cán bộ không được có lí tưởng thầm kín của
riêng mình hoặc quan điểm riêng về thiện ác, có thể ảnh hưởng tới các dự
định của lãnh tụ. Từ đó có thể thấy rằng các chức vụ cao khó có sức hấp
dẫn đối với những người có quan điểm đạo đức vốn từng là kim chỉ nam
cho hành động trong quá khứ của người Âu châu. Bởi vì, chẳng có gì có
thể đền bù được cho những hành động bất lương mà họ nhất định phải làm,
sẽ không còn cơ hội theo đuổi những ước mơ lí tưởng hơn, chẳng có gì có
thể đền bù được những mạo hiểm không thể nào tránh khỏi, chẳng có gì có
thể đền bù được những niềm vui của cuộc sống riêng tư và sự độc lập của
cá nhân mà chức vụ lãnh đạo cao nhất định phải làm. Chỉ có một khát
khao, đấy là khát khao quyền lực theo nghĩa đen của từ này và cái khoái
cảm được người khác phục tùng và được là một phần của một cỗ máy quyền
lực khổng lồ không ai có thể cản trở được, là có thể được thỏa mãn theo
cách đó mà thôi.
Nếu
các chức vụ cao trong bộ máy quyền lực toàn trị không hấp dẫn được
những người xứng đáng, theo tiêu chuẩn của chúng ta, thì điều đó có
nghĩa là những kẻ tàn nhẫn và vô liêm sỉ sẽ có nhiều cơ hội. Không nghi
ngờ gì rằng sẽ có nhiều việc gọi là “bẩn thỉu”, nhưng cần phải làm vì
mục đích cao thượng và phải làm một cách dứt khoát và chuyên nghiệp như
bất kì công việc nào khác. Và cũng có nhiều hành động bản thân chúng đã
là xấu xa rồi, những loại mà những người còn có quan niệm đạo đức truyền
thống sẽ không chịu làm, nên những kẻ sẵn sàng làm những việc xấu xa
như thế sẽ có tấm giấy thông hành để thăng tiến và đi đến quyền lực.
Trong xã hội toàn trị nhất định sẽ có nhiều chức vụ đòi hỏi sự tàn nhẫn,
dọa nạt, lừa dối và chỉ điểm. Gestapo hay các ban quản lí các trại tập
trung, Bộ tuyên truyền hay SA hoặc SS (hoặc những cơ quan tương ứng ở Ý
hay ở Nga) không phải là chỗ thể hiện lòng nhân đạo của con người. Nhưng
đấy chính là con đường tiến thân trong ban lãnh đạo của nhà nước toàn
trị. Một nhà kinh tế học nổi tiếng người Mĩ sau khi xem xét sơ qua trách
nhiệm của chính quyền trong xã hội theo đường lối tập thể đã rút ra kết
luận rất đúng rằng: “Dù muốn hay không họ cũng phải làm những việc đó:
xác suất những người nắm chính quyền là các cá nhân không thích giữ và
thể hiện quyền lực cũng ngang bằng với xác suất một người cực kì dịu
dàng muốn làm công việc của cai đội trong đồn điền nô lệ[12]”.
Nhưng
như thế chưa phải đã hết. Vấn đề lựa chọn người lãnh đạo là một phần
của một vấn đề lớn hơn: vấn đề lựa chọn người phù hợp với quan điểm của
họ hay nói đúng hơn là lựa chọn những người sẵn sàng thích nghi với học
thuyết thường xuyên thay đổi của họ. Và điều đó dẫn chúng ta đến một
trong những đặc điểm nổi bật nhất của đạo đức của chủ nghĩa toàn trị:
quan hệ của nó với và ảnh hưởng của nó lên những đức tính được gọi bằng
một tên chung là tính trung thực. Nhưng đây là đề tài lớn, cần phải cả
một chương mới mong nói hết được.
[1] Xem cuộc thảo luận rất đáng nghiên cứu trong tác phẩm: Socialism. National or International? (Chủ nghĩa xã hội. Quốc gia hay quốc tế) -1942 của Franz Borkenau.
[2] Zarathustra của Nietzsche đã nói đúng theo tinh thần của chủ nghĩa tập thể: “Cho đến nay đã từng tồn tại cả ngàn mục tiêu vì đã tồn tại cả ngàn người. Nhưng vẫn chưa có một cái cùm chung cho cả ngàn cái cổ, chưa có một mục tiêu duy nhất. Nhân loại chưa có một mục tiêu. Tôi cầu xin những người anh em, hãy nói đi: nhân loại không có mục tiêu, thế chẳng phải là không có nhân loại đó ư?”
[3] Theo Carr E.H. trong tác phẩm The Twenty Year's Crisis (Hai mươi năm khủng hoảng, 1941. trang. 203.
[4] Findlay Mackenzie (ed). Planned Society, Yesterday, Today, Tomorrow: A Simposium. (Xã hội được lập trình, hôm qua, hôm nay và ngày mai), 1937. trang. XX.
[5] Halevy E. L'Ere des Tyrannies. Paris, 1938; History of the English People. "Epilogue", vol. I, trang. 105—106.
[6] Xem K. Marx. Cách mạng và phản cách mạng, cũng như thư của Engels gửi Marx đề ngày 23 tháng 5 năm 1851.
[7] Russell В. The Scientific Outlook (Quan điểm khoa học). 1931. trang. 211.
[8] Lippincott B.E. trong Introduction to Oscar Lange, Taylor F.M. On the Economic Theory of Socialism (Bàn về lí thuyết kinh tế của chủ nghĩa xã hội). Minneapolis, 1938. trang. 35.
[9]
Chúng ta không được phép để mình bị mắc lừa bởi sự kiện là từ “lực”,
ngoài ý nghĩa được sử dụng liên quan đến con người, còn được sử dụng
theo nghĩa phi nhân cách (đúng hơn là đã được nhân cách hóa) đối với bất
kì nguyên nhân nào. Dĩ nhiên là luôn luôn có một cái gì đó là nguyên
nhân cho tất cả những cái khác, theo nghĩa đó thì tổng quyền lực phải
luôn luôn là một hằng số. Nhưng điều này không liên quan gì đến quyền
lực mà một số người cố ý áp đặt lên một số người khác.
[10] Lí trí của nhà nước- Tiếng Pháp –ND.
[11] Dũng cảm công dân - Tiếng Đức–ND.
http://phamnguyentruong.blogspot.com/2014/11/f-von-hayek-vi-sao-nhung-ke-xau-xa-nhat.html