Thân Hữu Tiếp Tay...
Hữu Xạ Tự Nhiên Hương: 2/9 - Lối xưa xe ngựa “Sài Gòn cũ”
                Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải...” - Dương Thu Hương.
            
                
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 24-10-1966 - Các Phu nhân Tổng Thống -  bà Thiệu, bà Johnson, bà Kỳ, bà Marcos tháp tùng cùng Phu quân là các  tổng thống, thủ tướng tại Philippines, trong phiên họp thượng đỉnh của  các nguyên thủ quốc gia trong Hiệp Ước Liên Phòng Đông Nam Á.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Những cuộc biểu tình của đồng bào miền Nam - Việt Nam Cộng Hòa toàn quốc và khắp nơi trên thế giới của Sinh viên và Việt kiều năm 1974 tố cáo và phản đối Cộng Sản Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Những bánh xích chiến xa của cộng sản miền Bắc VN đã nghiền nát giấc mơ của gần 30 triệu người miền Nam đang mang khát vọng đưa Sài Gòn và miền Nam VN cất cánh bay lên như Singapore, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc ngày nay.
 
 
 
 
 
            
        
 “Vào Nam tôi mới hiểu rằng,  chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ  tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ  đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền  văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải...” - Dương Thu Hương.
“Một câu hỏi da diết xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương mặt mà ta đã gặp, những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm chí một tiếng chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như không có Ngày Độc lập 2/9 ấy?...” - Trương Tấn Sang
*
“Một câu hỏi da diết xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương mặt mà ta đã gặp, những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm chí một tiếng chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như không có Ngày Độc lập 2/9 ấy?...” - Trương Tấn Sang
*
 “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường 
 Đến nay thấm thoát mấy tinh sương 
 Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo 
 Nền cũ lâu đài bóng tịch dương 
 Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt 
 Nước còn cau mặt với tang thương 
 Ngàn năm gương cũ soi kim cổ 
 Cảnh ấy người đây luống đoạn trường” (Bà Huyện Thanh Quan) 
 Bài thơ tác giả “hoài cảm” sau năm 1802 khi Nguyễn Ánh đánh bại  nhà Tây Sơn lên ngôi, niên hiệu Gia Long và định đô ở Huế. Từ đó, Thăng  Long (Hà Nội) chỉ còn là “cố đô” - Lời thơ mang âm hưởng hoài niệm tiếc nuối một thời vàng son dĩ vãng. 
 Bối cảnh cũng gần giống như vậy – Sài Gòn xưa “hòn ngọc Viễn Đông”  một hình ảnh thiêng liêng, thân thương không thể nào phai nhòa trong  trái tim của gần ba mươi triệu người miền Nam, Việt Nam, có một thời, dù  khói lửa chiến chinh từ phía Bắc, bên kia  vĩ tuyến 17 tràn sang nhưng cũng cố gắng vươn lên trong những khoảnh  khắc “tạm yên bình” ngắn ngủi giữa thập niên 60-70 – Ngắn ngủi thôi,  nhưng những gì có được cũng đã làm cho những trái tim còn thuần khiết  “tính người” như nhà văn nữ miền Bắc Dương Thu Hương phải mềm lòng thổn  thức rơi lệ bởi cảm xúc trong ngậm ngùi, “tiếc nuối”, giữa lòng TP/phố  Sài Gòn 30/4/1975. Nhà văn này tâm sự…. 
Dương Thu Hương: (thở dài) Điên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có hai lần khóc. 
 Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng  vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong đội quân chúng  tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã  hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp lắm vì nhà cao cửa rộng  của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được  xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ  biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy  dẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện  đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo  đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội  mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài  Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ  được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng  nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó  chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam  người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta  muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải. (Nguồn: Nhật Báo Người Việt). 
 Và mới đây trong một bài viết nói về ngày 2/9 có cái tựa “Phải biết hổ thẹn với tiền nhân” ông “Tổng thống” (CT nước) Trương tấn Sang như “tâm sự” rằng (nguyên văn): “Một  câu hỏi da diết xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương mặt  mà ta đã gặp, những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm  chí một tiếng chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như  không có Ngày Độc lập 2/9 ấy?...” thì những dòng của viết bài  này ngoài mục đích hoài cảm “một thoáng hương xưa” với đồng bào, nhất  là các bạn đọc trẻ trong và ngoài nước sinh sau 1975 thì cũng nhân tiện  gửi đến ngài “Tổng thống nước” một số hình ảnh cũ của Sài Gòn ngày xưa,  nơi mà chắc ngài không lạ (vì ngài từng là “chủ nhân ông”, hít thở không  khí Sài Gòn một thuở) với cùng một câu hỏi: “… cảnh cũ này sẽ thay đổi ra sao, nếu như không có Ngày 2/9 định mệnh ấy?...” thưa ông!?... 
Thập niên 1960-70 đường ray xe lửa vẫn còn trên đường Hàm Nghi - Sài Gòn 
 Nhưng vóc dáng một góc Sài Gòn, “thủ phủ Đông Dương” như thế này  (1960-65) Bangkok, Singapore, Đài Loan và Seoul sau Đệ II thế chiến chưa  thể có kịp, và những hình ảnh cũ dưới đây của Sài Gòn một thuở, người  dân đang năng động hối hả xây dựng một cuộc sống phồn vinh cho đất nước,  cùng nhịp điệu với các quốc gia tự do dân chủ vừa lấy lại độc lập trong  khu vực Asean (Đông Nam Á) mà không tốn một giọt máu nào.
 Sài Gòn những năm 1960-1970 (trên), cùng thời điểm (ảnh dưới) là Hà Nội.  Không cốt ý bôi bác hay phê phán, bởi Nam Bắc cùng là dân Việt, nỗi  buồn đâu của riêng ai! Mà đơn giản, so sánh để khẳng định cái từ ngữ  chiêu bài mà những người CSVN đã “lừa bịp” đồng bào miền Bắc rằng: “Phải giải phóng đồng bào miền Nam đang bị kềm kẹp trong đói nghèo, đau thương”  là không có thật... mà thời điểm ấy, quốc tế CS (Nga-Tàu) chi viện quân  sự và chỉ thị cho CSVN phải tiến hành đánh chiếm “nhuộm đỏ” miền Nam VN  trước khi “cộng sản hóa” Đông Dương (Việt-Miên-Lào”) và sau đó là Đông  Nam Á, duy nhất trên thế giới tại thời điểm ấy chỉ có CSVN là lấy “máu xương, lương thực” của nhân dân miền Bắc làm “nhiên liệu”  thử nghiệm cổ máy cộng sản làm bàn đạp để tiến xuống phía Nam Châu Á.  Nhân dân miền Bắc không còn gì ngoài một đời sống “hắt hiu, u buồn” bên  trong bức màn sắt CNXH. Lo toan hàng ngày của mọi người, duy nhất, là có  một thứ gì đó cho vào bụng và mơ... một chiếc xe đạp! Tất cả họ, đều  như là những con “ốc vít” trong một cổ máy chiến tranh, không có ngoại  lệ, không ai được phép “sáng tạo” tư hữu cho bản thân và gia đình ngoài  “Bác và đảng cộng sản”… 
 Hình ảnh Hà Nội thập niên 1960 – 1970:
 
 
 
 
Sài Gòn miền Nam - những năm 1960-1970 đang khởi đầu công nghiệp hóa nền kinh tế non trẻ bằng hệ thống Ngân Hàng quốc gia tài trợ cho các dịch vụ nhập khẩu máy móc trang thiết bị đầu tư kỹ thuật trong các dây chuyền sản xuất nâng cao giá trị và năng suất các sản phẩm hướng đến xuất khẩu, điển hình là băng rôn quảng bá cung ứng dịch vụ này treo ngang đường Tự Do (Đồng Khởi ngày nay) - một chính sách thức thời mà chế độ CS/XHCN miền Bắc còn rất xa lạ - không có trong kế hoạch, cũng như kinh phí ngoại tệ...
Sài Gòn miền Nam - những năm 1960-1970 đang khởi đầu công nghiệp hóa nền kinh tế non trẻ bằng hệ thống Ngân Hàng quốc gia tài trợ cho các dịch vụ nhập khẩu máy móc trang thiết bị đầu tư kỹ thuật trong các dây chuyền sản xuất nâng cao giá trị và năng suất các sản phẩm hướng đến xuất khẩu, điển hình là băng rôn quảng bá cung ứng dịch vụ này treo ngang đường Tự Do (Đồng Khởi ngày nay) - một chính sách thức thời mà chế độ CS/XHCN miền Bắc còn rất xa lạ - không có trong kế hoạch, cũng như kinh phí ngoại tệ...
 Thập niên 1960-70 Hà Nội “kỹ thuật” chủ yếu dựa vào thủ công “sức người”  bởi hàng “viện trợ” của Nga Tàu hầu hết chỉ là vũ khí súng đạn cung ứng  cho cổ máy chiến tranh của CSVN rất ít hàng hoá dân dụng tiêu dùng. 
19/5/2010 Bà Phó “PCT/Nước: Nguyễn thị  Doan”(áo đen thứ ba bên phải qua) và các “VIP” phụ nữ của CHXHCN/Việt  Nam tham dự hội nghị thượng đỉnh phụ nữ toàn cầu tại Bắc Kinh.
 Cách nhau gần nửa thế kỷ - hai nhóm phụ nữa trên và dưới có quá nhiều  khác biệt, không biết có phải là do “đặc trưng” của XHCN không? khiến  chúng ta khi so sánh sẽ mỉm cười thú vị mà không cần phải bình luận!  Cũng cần nhắc lại bà Nguyễn Thị Doan là tác giả câu nói bất hủ “Việt Nam dân chủ gấp vạn lần tư bản phương Tây...” 
 Nửa thế kỷ cách ngày hôm nay nhưng vóc dáng phong thái của “phái yếu”  người Sài Gòn ngày xưa đó nét duyên dáng trí thức không lẫn vào đâu  được, đa dạng mái tóc kiểu phương Tây, chiếc áo dài ngày ấy đã canh tân  không còn “cổ cao”, tay áo cắt “raplan” và đặc biệt dễ nhận ra nhất của  thập niên 60-70 là áo dài có “chít eo” ngang hông rất rõ, những chiếc  “jup” tây phương sắc màu tươi trẻ nhưng không cao “quá gối” và nữ sinh,  sinh viên tóc thề áo trắng nên thơ, nói chung, phụ nữ xã hội miền Nam  Sài Gòn thuở ấy có đủ mọi thứ, để hoàn toàn tự do trang điểm làm đẹp cho  chính mình mà không bị lệ thuộc bất cứ chủ nghĩa giáo điều khe khắt nào  khác...
 Phương tiện xe gắn máy cá nhân phổ biến thông dụng ở thủ đô Sài Gòn ngày  đó ngoài các loại xe Vespa, Lamberetta Ý và Gobel, Mobilete, Velosolet  của Pháp thì đa phần là hai loại xe Nhật, Honda 67 cho nam và Honda Dame  cho nữ, nhìn hình ảnh các “bóng hồng” ngày ấy, đẹp và lịch sự trên  đường phố Sài Gòn cách nay nữa thế kỷ mà cứ ngỡ như mới ngày hôm qua -  (cô gái có cái bảng nhắc nhở mọi người lấy thẻ cử tri bầu cử Tổng Thổng  1967 – Và hai cô gái váy đen bên chiếc taxi hai màu xanh vàng mang số  hiệu 7533 của Sài Gòn thập niên 1960). Hình ảnh đủ để chúng ta chiêm  nghiệm cái lạc hậu độc tài bảo thủ cố chấp của CSVN đã kéo lùi thời gian  gây nên sự trì trệ trong phát triển của dân tộc như thế nào so với  những gì chỉ trong một thời gian ngắn Sài Gòn làm được trước kia và so  với các nước láng giềng trong khu vực.
 Tương phản khác biệt quá nhiều của khung cảnh, con người Sài Gòn và Hà  Nội cùng thời điểm, rất khó khăn và buồn lòng để bình luận khi mà mơ ước  lớn lao nhất của mọi người miền Bắc lúc bấy giờ chỉ là chiếc xe đạp tầm  thường Phượng Hoàng Trung Quốc trong khi xe đạp cực tốt mang nhãn hiệu  “bồrô” của Pháp là mặt hàng bình dân ở miền Nam buôn bán đầy đường …. 
 Hà Nội 1960-70:
 Thập niên 1960-70 minh chứng cho sự năng động phát triển kinh tế của Sài  Gòn miền Nam mang tầm khu vực Châu Á hướng ra thế giới là hãng Hàng  Không AIR Việt Nam với đội ngũ phi cơ phản lực mới nhất và các phi công  chuyên nghiệp đường bay quốc tế mà hãng hàng không cộng sản Trung Cộng  lúc bấy giờ chưa sở hữu được. Còn chế độ CS miền Bắc, Hà Nội thì chẳng  biết gì về hàng không dân dụng ở thời điểm ấy. Người dân và sinh viên  Sài Gòn miền Nam hoàn toàn tự do đi du học và xuất cảnh ra nước ngoài mà  không bị ràng buộc bất cứ lý do gì, đó là một điều không tưởng với nhân  dân miền Bắc... bị cô lập trong bức màn sắt CSVN.
 Nói đến hàng hóa tiêu dùng dân dụng thì tại thời điểm ấy thị trường Sài  Gòn miền Nam hàng hóa trù phú chất lượng cao, còn nhiều hơn Trung Quốc,  tấp nập bày bán tự do. Tại miền Bắc, Hà Nội chẳng có bất cứ một thứ gì  để mà so sánh, bởi vì người dân bình thường Sài Gòn thời điểm ấy đang sử  dụng quạt máy, tủ lạnh, máy may và TV đen trắng. Trong khi hai mặt hàng  mà bất cứ người dân miền Bắc nào cũng mơ ước (như nhà văn Dương Thu  Hương nói) là đồng hồ đeo tay và Radio thì thừa mứa ở các quầy hàng khắp  miền Nam đến nỗi các hảng sản xuất phải treo bảng quảng cáo trên đường  (trong ảnh). Nói cho vui, miền Bắc dưới sự lãnh đạo của đảng chỉ có hai  thứ mà miền Nam không có là (tên lửa Sam 2 và phân người hoại mục).
 So với miền Nam- Ngắm nhìn hình ảnh bà con nhân dân miền Bắc và Hà Nội -  CS/XHCN với chế độ “tem phiếu” tranh nhau từng chiếc “lốp” xe đạp, mảnh  thịt, lạng đường, hộp diêm ngày đó... mà buồn nản đến nao lòng.
 Cụ thể hơn, Sài Gòn miền Nam không cần phải CNXH hay “đấu tranh giai  cấp” nhưng nhìn hai hình ảnh dưới đây có cùng xấp xỉ thời gian thập niên  1960-70 để thấy, cùng một kiếp người “thì ai mới cần giải phóng cho ai”?  (Sài Gòn phương tiện mưu sinh gắn máy giải phóng sức người lao động  mang lại hiệu quả cao, Hà Nội công cụ mưu sinh còm cõi tiêu hao sinh lực  không thấy tương lai).
 Thượng tầng cấu trúc Quốc Gia – Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam, Sài Gòn) 
 Thời điểm ấy 1960-70 đầy đủ chuẩn mực, khuôn mẫu, của một đất nước văn  minh ngày hôm nay. Tổng Thống và Lưỡng viện Quốc Hội (Thượng và Hạ Viện)  – Điển hình là một cuộc họp tại thượng nghị viện Việt Nam Cộng Hòa  (ảnh). Tự Do báo chí với hơn 50 tờ báo tư nhân các loại tại Sài Gòn so  với không có tờ báo tư nhân nào dưới chế độ CSVN ngày nay, sau hơn 2/3  thế kỷ - CSVN gọi đó là thống nhất tự do dân chủ?
 Sài Gòn miền Nam - người dân luôn được giáo dục nhắc nhở phải tôn trọng  tri ân tưởng nhớ công lao các anh hùng tiền nhân của dân tộc, uống nước  nhớ nguồn, tưởng niệm và tôn vinh, làm tấm gương soi rọi cho hậu thế noi  theo (Kỷ niệm Lễ Hai Bà Trưng giữa lòng TP/Sài Gòn- và toàn dân tưởng  nhớ đức Trần Hưng Đạo – Anh hùng Vua Lê Lợi).
 Ngược lại dưới chế độ CSVN – Đục bia xóa bỏ chiến công Hoàng Đế Quang  Trung (Đền Vua Quang Trung núi Dũng Quyết), gắn thêm ngôi sao VN lên cờ  trung Quốc, tổ chức “Đại Hội Toàn Dân, Quân VN nhớ ơn trung Quốc” tại  thủ đô Hà Nội!? cho vui lòng “đồng chí” 4 tốt 16 vàng...
 Hai hình ảnh trên, dưới – cách nay nửa thế kỷ cho thấy 1967 nhân dân SG  bất đồng chính kiến vẫn được chính quyền Sài Gòn tôn trọng chấp nhận cho  biểu tình. 
 Hơn 40 năm sau, 2011, dưới chế độ CSVN tại Hà Nội - Sài Gòn, người dân  biểu tình, dù là “yêu nước” chống TQ xâm lược lại bị đàn áp tàn bạo!
 Ông Phạm Văn Đồng (CS Bắc Việt) dưới sự chỉ đạo của ông HCM, ký công hàm xác nhận Hoàng Sa nằm trong lãnh hải Trung Quốc.
 1974 – Hải quân Trung Quốc xâm lược đánh chiếm Hoàng Sa trong tay QL/VNCH – CS Bắc Việt im lặng. 
 Trong khi nhân dân Sài Gòn miền Nam và kiều bào hải ngoại biểu tình lên án và phản đối hành vi xâm lược của Trung Quốc khắp nơi.
Những cuộc biểu tình của đồng bào miền Nam - Việt Nam Cộng Hòa toàn quốc và khắp nơi trên thế giới của Sinh viên và Việt kiều năm 1974 tố cáo và phản đối Cộng Sản Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
 Băng rôn sinh viên học sinh đồng bào SàiGòn biểu tình tố cáo, phản đối Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa năm 1974: “Cương quyết tận diệt Trung Cộng kẻ thù truyền kiếp của dân tộc”. 
 27-1-1973, CSVN ký hiệp định đình chiến chấm dứt chiến tranh tại Paris.
 Trong đó Điều khoản 5 qui định: Sự tái thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng các biện pháp hòa bình.
Bà Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam (27/1/1973).
 Tuy nhiên – Khi Mỹ rút hết quân – 1975 cộng sản Bắc Việt xua quân tràn  vào đánh chiếm miền Nam Việt Nam, bất chấp chữ ký của họ trước đó trong  Hiệp Định Paris. 
Những bánh xích chiến xa của cộng sản miền Bắc VN đã nghiền nát giấc mơ của gần 30 triệu người miền Nam đang mang khát vọng đưa Sài Gòn và miền Nam VN cất cánh bay lên như Singapore, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc ngày nay.
 Họ, CSVN lừa bịp dân tộc, lừa bịp quốc tế, trơ tráo xé nát Hiệp Định  Paris - Phá bỏ điều khoản 5: (Thống nhất VN bằng những giải pháp hòa  bình), họ dấu tiệt lá “cờ đỏ sao vàng” vượt vĩ tuyến 17 bằng súng đạn,  xâm lược đánh chiếm miền Nam bằng lá cờ “nửa xanh, nửa đỏ” MTGPMN. Để  khỏi vướng bận và “tranh công” vài tháng sau 30/4 họ tự động hạ cờ “xanh  đỏ” giải tán “tấm bình phong bù nhìn” MTGP/MN này. 
 Chính họ - CSVN đã phạm một sai lầm “vĩ đại” bắt cả dân tộc phải huynh  đệ tương tàn hy sinh gần 5 triệu người - một thế hệ thanh niên tinh hoa  của quốc gia nằm xuống vô nghĩa, đổi lại lấy về một giang sơn của cha  ông làm hao hụt đất đai biên giới biển trời hải đảo và còn hơn thế nữa  họ đẩy người Mỹ đi để Biển Đông trống trải không ai canh giữ, cho bọn  bành trướng Trung Quốc rảnh tay tự do thôn tính biển đảo quê nhà VN mà  họ, CSVN, đang lực bất tòng tâm bắt cả nước phải “Đại Hội toàn Dân-Quân VN nhớ ơn Trung Quốc”! 
 “… Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó  là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn  lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải…” - Nhà văn nữ miền Bắc-Dương Thu Hương.
Hữu Xạ Tự Nhiên Hương: 2/9 - Lối xưa xe ngựa “Sài Gòn cũ”
                Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải...” - Dương Thu Hương.
            
            
 “Vào Nam tôi mới hiểu rằng,  chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ  tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ  đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền  văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải...” - Dương Thu Hương.
“Một câu hỏi da diết xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương mặt mà ta đã gặp, những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm chí một tiếng chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như không có Ngày Độc lập 2/9 ấy?...” - Trương Tấn Sang
*
“Một câu hỏi da diết xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương mặt mà ta đã gặp, những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm chí một tiếng chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như không có Ngày Độc lập 2/9 ấy?...” - Trương Tấn Sang
*
 “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường 
 Đến nay thấm thoát mấy tinh sương 
 Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo 
 Nền cũ lâu đài bóng tịch dương 
 Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt 
 Nước còn cau mặt với tang thương 
 Ngàn năm gương cũ soi kim cổ 
 Cảnh ấy người đây luống đoạn trường” (Bà Huyện Thanh Quan) 
 Bài thơ tác giả “hoài cảm” sau năm 1802 khi Nguyễn Ánh đánh bại  nhà Tây Sơn lên ngôi, niên hiệu Gia Long và định đô ở Huế. Từ đó, Thăng  Long (Hà Nội) chỉ còn là “cố đô” - Lời thơ mang âm hưởng hoài niệm tiếc nuối một thời vàng son dĩ vãng. 
 Bối cảnh cũng gần giống như vậy – Sài Gòn xưa “hòn ngọc Viễn Đông”  một hình ảnh thiêng liêng, thân thương không thể nào phai nhòa trong  trái tim của gần ba mươi triệu người miền Nam, Việt Nam, có một thời, dù  khói lửa chiến chinh từ phía Bắc, bên kia  vĩ tuyến 17 tràn sang nhưng cũng cố gắng vươn lên trong những khoảnh  khắc “tạm yên bình” ngắn ngủi giữa thập niên 60-70 – Ngắn ngủi thôi,  nhưng những gì có được cũng đã làm cho những trái tim còn thuần khiết  “tính người” như nhà văn nữ miền Bắc Dương Thu Hương phải mềm lòng thổn  thức rơi lệ bởi cảm xúc trong ngậm ngùi, “tiếc nuối”, giữa lòng TP/phố  Sài Gòn 30/4/1975. Nhà văn này tâm sự…. 
Dương Thu Hương: (thở dài) Điên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có hai lần khóc. 
 Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng  vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong đội quân chúng  tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã  hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp lắm vì nhà cao cửa rộng  của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được  xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ  biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy  dẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện  đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo  đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội  mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài  Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ  được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng  nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó  chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam  người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta  muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải. (Nguồn: Nhật Báo Người Việt). 
 Và mới đây trong một bài viết nói về ngày 2/9 có cái tựa “Phải biết hổ thẹn với tiền nhân” ông “Tổng thống” (CT nước) Trương tấn Sang như “tâm sự” rằng (nguyên văn): “Một  câu hỏi da diết xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương mặt  mà ta đã gặp, những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm  chí một tiếng chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như  không có Ngày Độc lập 2/9 ấy?...” thì những dòng của viết bài  này ngoài mục đích hoài cảm “một thoáng hương xưa” với đồng bào, nhất  là các bạn đọc trẻ trong và ngoài nước sinh sau 1975 thì cũng nhân tiện  gửi đến ngài “Tổng thống nước” một số hình ảnh cũ của Sài Gòn ngày xưa,  nơi mà chắc ngài không lạ (vì ngài từng là “chủ nhân ông”, hít thở không  khí Sài Gòn một thuở) với cùng một câu hỏi: “… cảnh cũ này sẽ thay đổi ra sao, nếu như không có Ngày 2/9 định mệnh ấy?...” thưa ông!?... 
Thập niên 1960-70 đường ray xe lửa vẫn còn trên đường Hàm Nghi - Sài Gòn 
 Nhưng vóc dáng một góc Sài Gòn, “thủ phủ Đông Dương” như thế này  (1960-65) Bangkok, Singapore, Đài Loan và Seoul sau Đệ II thế chiến chưa  thể có kịp, và những hình ảnh cũ dưới đây của Sài Gòn một thuở, người  dân đang năng động hối hả xây dựng một cuộc sống phồn vinh cho đất nước,  cùng nhịp điệu với các quốc gia tự do dân chủ vừa lấy lại độc lập trong  khu vực Asean (Đông Nam Á) mà không tốn một giọt máu nào.
 Sài Gòn những năm 1960-1970 (trên), cùng thời điểm (ảnh dưới) là Hà Nội.  Không cốt ý bôi bác hay phê phán, bởi Nam Bắc cùng là dân Việt, nỗi  buồn đâu của riêng ai! Mà đơn giản, so sánh để khẳng định cái từ ngữ  chiêu bài mà những người CSVN đã “lừa bịp” đồng bào miền Bắc rằng: “Phải giải phóng đồng bào miền Nam đang bị kềm kẹp trong đói nghèo, đau thương”  là không có thật... mà thời điểm ấy, quốc tế CS (Nga-Tàu) chi viện quân  sự và chỉ thị cho CSVN phải tiến hành đánh chiếm “nhuộm đỏ” miền Nam VN  trước khi “cộng sản hóa” Đông Dương (Việt-Miên-Lào”) và sau đó là Đông  Nam Á, duy nhất trên thế giới tại thời điểm ấy chỉ có CSVN là lấy “máu xương, lương thực” của nhân dân miền Bắc làm “nhiên liệu”  thử nghiệm cổ máy cộng sản làm bàn đạp để tiến xuống phía Nam Châu Á.  Nhân dân miền Bắc không còn gì ngoài một đời sống “hắt hiu, u buồn” bên  trong bức màn sắt CNXH. Lo toan hàng ngày của mọi người, duy nhất, là có  một thứ gì đó cho vào bụng và mơ... một chiếc xe đạp! Tất cả họ, đều  như là những con “ốc vít” trong một cổ máy chiến tranh, không có ngoại  lệ, không ai được phép “sáng tạo” tư hữu cho bản thân và gia đình ngoài  “Bác và đảng cộng sản”… 
 Hình ảnh Hà Nội thập niên 1960 – 1970:
 
 
 
 
Sài Gòn miền Nam - những năm 1960-1970 đang khởi đầu công nghiệp hóa nền kinh tế non trẻ bằng hệ thống Ngân Hàng quốc gia tài trợ cho các dịch vụ nhập khẩu máy móc trang thiết bị đầu tư kỹ thuật trong các dây chuyền sản xuất nâng cao giá trị và năng suất các sản phẩm hướng đến xuất khẩu, điển hình là băng rôn quảng bá cung ứng dịch vụ này treo ngang đường Tự Do (Đồng Khởi ngày nay) - một chính sách thức thời mà chế độ CS/XHCN miền Bắc còn rất xa lạ - không có trong kế hoạch, cũng như kinh phí ngoại tệ...
Sài Gòn miền Nam - những năm 1960-1970 đang khởi đầu công nghiệp hóa nền kinh tế non trẻ bằng hệ thống Ngân Hàng quốc gia tài trợ cho các dịch vụ nhập khẩu máy móc trang thiết bị đầu tư kỹ thuật trong các dây chuyền sản xuất nâng cao giá trị và năng suất các sản phẩm hướng đến xuất khẩu, điển hình là băng rôn quảng bá cung ứng dịch vụ này treo ngang đường Tự Do (Đồng Khởi ngày nay) - một chính sách thức thời mà chế độ CS/XHCN miền Bắc còn rất xa lạ - không có trong kế hoạch, cũng như kinh phí ngoại tệ...
 Thập niên 1960-70 Hà Nội “kỹ thuật” chủ yếu dựa vào thủ công “sức người”  bởi hàng “viện trợ” của Nga Tàu hầu hết chỉ là vũ khí súng đạn cung ứng  cho cổ máy chiến tranh của CSVN rất ít hàng hoá dân dụng tiêu dùng. 
19/5/2010 Bà Phó “PCT/Nước: Nguyễn thị  Doan”(áo đen thứ ba bên phải qua) và các “VIP” phụ nữ của CHXHCN/Việt  Nam tham dự hội nghị thượng đỉnh phụ nữ toàn cầu tại Bắc Kinh.
 Cách nhau gần nửa thế kỷ - hai nhóm phụ nữa trên và dưới có quá nhiều  khác biệt, không biết có phải là do “đặc trưng” của XHCN không? khiến  chúng ta khi so sánh sẽ mỉm cười thú vị mà không cần phải bình luận!  Cũng cần nhắc lại bà Nguyễn Thị Doan là tác giả câu nói bất hủ “Việt Nam dân chủ gấp vạn lần tư bản phương Tây...” 
 Nửa thế kỷ cách ngày hôm nay nhưng vóc dáng phong thái của “phái yếu”  người Sài Gòn ngày xưa đó nét duyên dáng trí thức không lẫn vào đâu  được, đa dạng mái tóc kiểu phương Tây, chiếc áo dài ngày ấy đã canh tân  không còn “cổ cao”, tay áo cắt “raplan” và đặc biệt dễ nhận ra nhất của  thập niên 60-70 là áo dài có “chít eo” ngang hông rất rõ, những chiếc  “jup” tây phương sắc màu tươi trẻ nhưng không cao “quá gối” và nữ sinh,  sinh viên tóc thề áo trắng nên thơ, nói chung, phụ nữ xã hội miền Nam  Sài Gòn thuở ấy có đủ mọi thứ, để hoàn toàn tự do trang điểm làm đẹp cho  chính mình mà không bị lệ thuộc bất cứ chủ nghĩa giáo điều khe khắt nào  khác...
 Phương tiện xe gắn máy cá nhân phổ biến thông dụng ở thủ đô Sài Gòn ngày  đó ngoài các loại xe Vespa, Lamberetta Ý và Gobel, Mobilete, Velosolet  của Pháp thì đa phần là hai loại xe Nhật, Honda 67 cho nam và Honda Dame  cho nữ, nhìn hình ảnh các “bóng hồng” ngày ấy, đẹp và lịch sự trên  đường phố Sài Gòn cách nay nữa thế kỷ mà cứ ngỡ như mới ngày hôm qua -  (cô gái có cái bảng nhắc nhở mọi người lấy thẻ cử tri bầu cử Tổng Thổng  1967 – Và hai cô gái váy đen bên chiếc taxi hai màu xanh vàng mang số  hiệu 7533 của Sài Gòn thập niên 1960). Hình ảnh đủ để chúng ta chiêm  nghiệm cái lạc hậu độc tài bảo thủ cố chấp của CSVN đã kéo lùi thời gian  gây nên sự trì trệ trong phát triển của dân tộc như thế nào so với  những gì chỉ trong một thời gian ngắn Sài Gòn làm được trước kia và so  với các nước láng giềng trong khu vực.
 Tương phản khác biệt quá nhiều của khung cảnh, con người Sài Gòn và Hà  Nội cùng thời điểm, rất khó khăn và buồn lòng để bình luận khi mà mơ ước  lớn lao nhất của mọi người miền Bắc lúc bấy giờ chỉ là chiếc xe đạp tầm  thường Phượng Hoàng Trung Quốc trong khi xe đạp cực tốt mang nhãn hiệu  “bồrô” của Pháp là mặt hàng bình dân ở miền Nam buôn bán đầy đường …. 
 Hà Nội 1960-70:
 Thập niên 1960-70 minh chứng cho sự năng động phát triển kinh tế của Sài  Gòn miền Nam mang tầm khu vực Châu Á hướng ra thế giới là hãng Hàng  Không AIR Việt Nam với đội ngũ phi cơ phản lực mới nhất và các phi công  chuyên nghiệp đường bay quốc tế mà hãng hàng không cộng sản Trung Cộng  lúc bấy giờ chưa sở hữu được. Còn chế độ CS miền Bắc, Hà Nội thì chẳng  biết gì về hàng không dân dụng ở thời điểm ấy. Người dân và sinh viên  Sài Gòn miền Nam hoàn toàn tự do đi du học và xuất cảnh ra nước ngoài mà  không bị ràng buộc bất cứ lý do gì, đó là một điều không tưởng với nhân  dân miền Bắc... bị cô lập trong bức màn sắt CSVN.
 Nói đến hàng hóa tiêu dùng dân dụng thì tại thời điểm ấy thị trường Sài  Gòn miền Nam hàng hóa trù phú chất lượng cao, còn nhiều hơn Trung Quốc,  tấp nập bày bán tự do. Tại miền Bắc, Hà Nội chẳng có bất cứ một thứ gì  để mà so sánh, bởi vì người dân bình thường Sài Gòn thời điểm ấy đang sử  dụng quạt máy, tủ lạnh, máy may và TV đen trắng. Trong khi hai mặt hàng  mà bất cứ người dân miền Bắc nào cũng mơ ước (như nhà văn Dương Thu  Hương nói) là đồng hồ đeo tay và Radio thì thừa mứa ở các quầy hàng khắp  miền Nam đến nỗi các hảng sản xuất phải treo bảng quảng cáo trên đường  (trong ảnh). Nói cho vui, miền Bắc dưới sự lãnh đạo của đảng chỉ có hai  thứ mà miền Nam không có là (tên lửa Sam 2 và phân người hoại mục).
 So với miền Nam- Ngắm nhìn hình ảnh bà con nhân dân miền Bắc và Hà Nội -  CS/XHCN với chế độ “tem phiếu” tranh nhau từng chiếc “lốp” xe đạp, mảnh  thịt, lạng đường, hộp diêm ngày đó... mà buồn nản đến nao lòng.
 Cụ thể hơn, Sài Gòn miền Nam không cần phải CNXH hay “đấu tranh giai  cấp” nhưng nhìn hai hình ảnh dưới đây có cùng xấp xỉ thời gian thập niên  1960-70 để thấy, cùng một kiếp người “thì ai mới cần giải phóng cho ai”?  (Sài Gòn phương tiện mưu sinh gắn máy giải phóng sức người lao động  mang lại hiệu quả cao, Hà Nội công cụ mưu sinh còm cõi tiêu hao sinh lực  không thấy tương lai).
 Thượng tầng cấu trúc Quốc Gia – Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam, Sài Gòn) 
 Thời điểm ấy 1960-70 đầy đủ chuẩn mực, khuôn mẫu, của một đất nước văn  minh ngày hôm nay. Tổng Thống và Lưỡng viện Quốc Hội (Thượng và Hạ Viện)  – Điển hình là một cuộc họp tại thượng nghị viện Việt Nam Cộng Hòa  (ảnh). Tự Do báo chí với hơn 50 tờ báo tư nhân các loại tại Sài Gòn so  với không có tờ báo tư nhân nào dưới chế độ CSVN ngày nay, sau hơn 2/3  thế kỷ - CSVN gọi đó là thống nhất tự do dân chủ?
 Sài Gòn miền Nam - người dân luôn được giáo dục nhắc nhở phải tôn trọng  tri ân tưởng nhớ công lao các anh hùng tiền nhân của dân tộc, uống nước  nhớ nguồn, tưởng niệm và tôn vinh, làm tấm gương soi rọi cho hậu thế noi  theo (Kỷ niệm Lễ Hai Bà Trưng giữa lòng TP/Sài Gòn- và toàn dân tưởng  nhớ đức Trần Hưng Đạo – Anh hùng Vua Lê Lợi).
 Ngược lại dưới chế độ CSVN – Đục bia xóa bỏ chiến công Hoàng Đế Quang  Trung (Đền Vua Quang Trung núi Dũng Quyết), gắn thêm ngôi sao VN lên cờ  trung Quốc, tổ chức “Đại Hội Toàn Dân, Quân VN nhớ ơn trung Quốc” tại  thủ đô Hà Nội!? cho vui lòng “đồng chí” 4 tốt 16 vàng...
 Hai hình ảnh trên, dưới – cách nay nửa thế kỷ cho thấy 1967 nhân dân SG  bất đồng chính kiến vẫn được chính quyền Sài Gòn tôn trọng chấp nhận cho  biểu tình. 
 Hơn 40 năm sau, 2011, dưới chế độ CSVN tại Hà Nội - Sài Gòn, người dân  biểu tình, dù là “yêu nước” chống TQ xâm lược lại bị đàn áp tàn bạo!
 Ông Phạm Văn Đồng (CS Bắc Việt) dưới sự chỉ đạo của ông HCM, ký công hàm xác nhận Hoàng Sa nằm trong lãnh hải Trung Quốc.
 1974 – Hải quân Trung Quốc xâm lược đánh chiếm Hoàng Sa trong tay QL/VNCH – CS Bắc Việt im lặng. 
 Trong khi nhân dân Sài Gòn miền Nam và kiều bào hải ngoại biểu tình lên án và phản đối hành vi xâm lược của Trung Quốc khắp nơi.
Những cuộc biểu tình của đồng bào miền Nam - Việt Nam Cộng Hòa toàn quốc và khắp nơi trên thế giới của Sinh viên và Việt kiều năm 1974 tố cáo và phản đối Cộng Sản Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
 Băng rôn sinh viên học sinh đồng bào SàiGòn biểu tình tố cáo, phản đối Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa năm 1974: “Cương quyết tận diệt Trung Cộng kẻ thù truyền kiếp của dân tộc”. 
 27-1-1973, CSVN ký hiệp định đình chiến chấm dứt chiến tranh tại Paris.
 Trong đó Điều khoản 5 qui định: Sự tái thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng các biện pháp hòa bình.
Bà Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam (27/1/1973).
 Tuy nhiên – Khi Mỹ rút hết quân – 1975 cộng sản Bắc Việt xua quân tràn  vào đánh chiếm miền Nam Việt Nam, bất chấp chữ ký của họ trước đó trong  Hiệp Định Paris. 
Những bánh xích chiến xa của cộng sản miền Bắc VN đã nghiền nát giấc mơ của gần 30 triệu người miền Nam đang mang khát vọng đưa Sài Gòn và miền Nam VN cất cánh bay lên như Singapore, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc ngày nay.
 Họ, CSVN lừa bịp dân tộc, lừa bịp quốc tế, trơ tráo xé nát Hiệp Định  Paris - Phá bỏ điều khoản 5: (Thống nhất VN bằng những giải pháp hòa  bình), họ dấu tiệt lá “cờ đỏ sao vàng” vượt vĩ tuyến 17 bằng súng đạn,  xâm lược đánh chiếm miền Nam bằng lá cờ “nửa xanh, nửa đỏ” MTGPMN. Để  khỏi vướng bận và “tranh công” vài tháng sau 30/4 họ tự động hạ cờ “xanh  đỏ” giải tán “tấm bình phong bù nhìn” MTGP/MN này. 
 Chính họ - CSVN đã phạm một sai lầm “vĩ đại” bắt cả dân tộc phải huynh  đệ tương tàn hy sinh gần 5 triệu người - một thế hệ thanh niên tinh hoa  của quốc gia nằm xuống vô nghĩa, đổi lại lấy về một giang sơn của cha  ông làm hao hụt đất đai biên giới biển trời hải đảo và còn hơn thế nữa  họ đẩy người Mỹ đi để Biển Đông trống trải không ai canh giữ, cho bọn  bành trướng Trung Quốc rảnh tay tự do thôn tính biển đảo quê nhà VN mà  họ, CSVN, đang lực bất tòng tâm bắt cả nước phải “Đại Hội toàn Dân-Quân VN nhớ ơn Trung Quốc”! 
 “… Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó  là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn  lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải…” - Nhà văn nữ miền Bắc-Dương Thu Hương.
 
       


638973501519568371.jpg)





638973501519568371.jpg)




638972638875837638.jpg)
.638972558392097892.jpg)


