Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
John McCain: Hồi ký Hỏa Lò
Lời giới thiệu: Xuất thân trong một dòng họ ba đời binh nghiệp danh tiếng khi có ông nội và cha là những Đô Đốc Hải Quân Hoa Kỳ, Thượng Nghị Sĩ John McCain là một trong các chính khách đương thời có những kinh nghiệm cá nhân sâu đậm với cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong một phi vụ oanh tạc Hà Nội vào ngày 26 Tháng 10 năm 1967, phi cơ của Thiếu tá không quân lực lượng Hải quân Hoa Kỳ John McCain, 31 tuổi, bị bắn hạ ngay trên bầu trời Hà Nội. Bị bắt sống, bị tra tấn và cầm tù trong hơn 5 năm trời, TNS McCain được trao trả tù binh vào Tháng 3 năm 1973 và đã viết về những năm tháng tù tội tại Hỏa Lò Hà Nội ngay sau khi được trả tự do. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên tờ US News & World Report vào Tháng 5 năm 1973 và được đưa lên trang mạng này vào năm 2008. Trong bức tranh Tháng Tư, chuyên mục xin chuyển dịch và giới thiệu đến độc giả một hồi ký giá trị và xác tín của TNS John McCain về những ngày ngục tù này. Bản dịch do chuyên mục đặt tựa và sẽ được đăng làm nhiều kỳ nhân dịp tưởng niệm 30 Tháng Tư năm nay. --Đinh Yên Thảo
oOo
			
Đó là 
			ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm 
			Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị 
			một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải 
			chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 
			feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần như chúi thẳng đầu xuống đất. 
			Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc 
			độ gió đâu khoảng 500 knot (chú KTT: 926 km/giờ). Lúc đó tôi không 
			nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba nơi trên 
			cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh lại 
			ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc 
			của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây. Mũ phi công và mặt 
			nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước và bị 
			chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có thể 20. 
			Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi không cảm 
			thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một hơi không khí và bắt đầu chìm 
			xuống lại. Tất nhiên là vậy vì tôi đang mang đồ bay và các thiết bị 
			trên người nặng ít nhất cũng 50 lbs. Tôi chìm xuống và cố gắng chòi 
			lên mặt nước lần nữa. Tôi không thể hiểu tại sao tôi không thể sử 
			dụng chân phải hay tay của mình. Tôi choáng váng, trồi lên lần nữa 
			và lại bị chìm xuống. Lần này thì tôi không thể trồi lên lại mặt 
			nước. Mang chiếc áo phao cứu sinh trên người, tôi cúi xuống dùng 
			miệng kéo dây và cuối cùng cũng nổi lên lại mặt nước.
			
			Vài cán binh Bắc Việt đã bơi ra kéo tôi vào bờ và ngay lập tức họ 
			bắt đầu lột đồ tôi ra, theo như thủ tục chung của họ. Tất nhiên vì 
			đây là ngay trung tâm thành phố nên có đông người tụ tập, và tất cả 
			bọn họ đã hò reo, gào hét, chửi rủa, phun nước miếng và đá tôi túi 
			bụi. Khi họ đã cởi gần hết quần áo của tôi ra, tôi mới bắt đầu thấy 
			đau nhói nơi đầu gối phải. Tôi gượng dậy và nhìn xuống nó. Bàn chân 
			phải nằm xéo lên đầu gối trái của tôi, gần như vuông góc. Tôi thốt 
			lên, “Chúa ơi! Chân tôi”. Dường như điều này làm họ điên tiết dù tôi 
			không biết lý do tại sao. Một kẻ trong số họ dộng báng súng trường 
			xuống vai tôi một cú khá nặng. Một kẻ khác đâm lưỡi lê vào chân tôi. 
			Đám đông này thực sự đang nổi cuồng. Ngay lúc đó, một thanh niên 
			xuất hiện và hét nạt đám đông dạt ra. Một người phụ nữ khác đỡ tôi 
			dậy và kề lên miệng tôi tách trà, trong lúc có mấy tay chụp hình bấm 
			vài pô hình. Điều này làm đám đông dịu lại một chút. Thế rồi họ đưa 
			tôi lên cáng, khiêng vào một chiếc xe tải và chở thẳng đến nhà tù 
			chính của Hà Nội. Tôi được đưa vào một xà lim và đặt xuống sàn nhà. 
			Tôi vẫn còn nằm trên cáng, chỉ mặc đồ lót và có khoác cho một tấm 
			chăn lên người.
			
			Trong ba hay bốn ngày sau, tôi tỉnh lại vài lần giữa cơn mê man bất 
			tỉnh. Dù vậy tôi cũng bị đưa ra khảo cung nhiều lần – điều mà chúng 
			tôi gọi là một cuộc “kiểm tra vấn đáp”. Đó là những lúc tôi bị đánh 
			với đủ gán ghép về tội phạm chiến tranh. Bắt đầu bị đánh ngay ngày 
			đầu tiên. Tôi không thèm khai bất cứ điều gì ngoại trừ họ tên, cấp 
			bậc, số quân và ngày tháng năm sinh. Họ đánh tôi dập vùi, đánh tôi 
			bất tỉnh. Họ liên tục hăm dọa, “Mày sẽ không nhận được bất kỳ chữa 
			trị thuốc men gì cho đến khi mày mở miệng”. Tôi không tin lắm. Tôi 
			nghĩ rằng nếu ráng cầm cự, thế nào rồi họ cũng đưa tôi đến bệnh 
			viện. Tôi được tên lính canh cho ăn một tí thức ăn và uống chút 
			nước. Nước thì tôi còn nuốt được, nhưng đồ ăn vẫn tiếp tục bị ói ra. 
			Lúc đó, bọn họ chỉ muốn khảo tin tức quân sự chứ không phải tin tức 
			chính trị. Nhưng mỗi khi họ hỏi tôi một cái gì đó, thì tôi cũng chỉ 
			khai tên họ, cấp bậc, số quân và ngày tháng năm sinh chừng đó. Tôi 
			nghĩ đến đâu ngày thứ tư gì đó thì có hai tên bước vào, thay vì chỉ 
			một. Một tên kéo tấm chăn để chỉ cho tên kia vết thương của tôi. Tôi 
			nhìn xuống đầu gối. Kích thước, hình dạng và màu sắc của trái banh 
			sao thì nó cũng y vậy. Tôi còn nhớ khi tôi còn là một sĩ quan huấn 
			luyện bay thì một đồng ngũ của tôi cũng đã bị đẩy ra khỏi máy bay 
			của anh và bị gãy đùi. Chân bị tụ máu và rồi anh bị chết, một điều 
			khá bất ngờ đối với chúng tôi – khi có người chết vì bị gãy chân. 
			Tôi nhận ra rằng tôi cũng đang bị y hệt như vậy.
			
			Khi tôi nhìn thấy vậy, tôi nói với người lính canh, “OK, cho tôi gặp 
			cấp trên các anh”. Chỉ dăm phút, một sĩ quan tới, đó là người mà 
			chúng ta sẽ còn biết rõ về sau, tạm gọi là “Con Rệp”. Hắn ta là một 
			kẻ tra tấn tâm thần, một trong những quái vật tồi tệ nhất mà chúng 
			tôi phải đối phó. Tôi nói, “OK, tôi sẽ cung cấp cho anh tin tức quân 
			sự nếu anh đưa tôi đến bệnh viện”. Hắn rời phòng và trở lại với một 
			bác sĩ, một gã mà chúng ta gọi là “Zorba”, một tên hoàn toàn không 
			có khả năng. Hắn cúi xuống bắt mạch. Hắn không nói được tiếng Anh, 
			nhưng lắc đầu và lúng búng gì đó với “Con Rệp”. Tôi hỏi: “Các anh có 
			đưa tôi đến bệnh viện không?” “Con Rệp” trả lời, “Trễ rồi”. Tôi nói, 
			“Nếu anh đưa tôi đến bệnh viện, tôi sẽ hồi phục”. “Zorba” bắt mạch 
			tôi lần nữa, và lặp đi lặp lại, “Đã quá trễ”. Họ đứng dậy và bỏ đi, 
			để tôi nằm lại bất tỉnh. Chỉ một lúc sau, “Con Rệp” ập vào phòng hét 
			toáng lên, “Cha mày là một đô đốc gộc. Bây giờ bọn tao sẽ đưa mày 
			đến bệnh viện”.
			
			Tôi kể lại chuyện này để nói lên điều này: Khó mà có tù nhân cụt tay 
			chân nào còn sống sót trở về vì bọn Bắc Việt sẽ chẳng mất thì giờ 
			chữa trị cho những ai bị trọng thương. Chỉ riêng việc chuyển từ kiểu 
			đời sống tại Mỹ sang chốn lao tù bẩn thỉu, bụi bặm và nhiễm trùng, 
			cũng đã khó cho ai còn sống sót. Trong thực tế, nội việc chữa trị 
			tôi trong bệnh viện cũng đã xém làm tôi mất mạng.
			
			Tôi thức dậy một vài lần trong ba bốn ngày sau. Huyết thanh và máu 
			đang được truyền cho tôi. Tôi trở nên khá tỉnh táo. Căn phòng mà tôi 
			nằm không đến nỗi nhỏ lắm, khoảng đâu 15×15 feet, nhưng dơ dáy bẩn 
			thỉu và bị trũng, mỗi khi trời mưa thì nước ngập sàn cũng từ nửa đến 
			một inch. Tôi chẳng được tắm rửa lấy một lần trong bệnh viện. Tôi 
			cũng gần như không hề thấy bóng dáng một bác sĩ hoặc một y tá nào, 
			ngoại trừ bác sĩ có ghé liếc sơ tôi vài lần. Họ nói tiếng Pháp chớ 
			không phải tiếng Anh.
			
			Người canh tôi là thằng bé 16 tuổi, chắc vừa lên khỏi ruộng lúa. Trò 
			tiêu khiển ưa thích của thằng bé là ngồi cạnh giường tôi và đọc một 
			cuốn truyện có vẽ hình một ông già cầm khẩu súng trường trong tay, 
			đang ngồi trên thân máy bay một chiếc F-105 bị bắn hạ. Thằng bé chỉ 
			trỏ gì đó vào mình, rồi tát và đánh tôi. Nó làm điều đó một cách đầy 
			khoái trá. Nó đút tôi ăn vì cả hai cánh tay của tôi đã bị gãy. Nó 
			bưng vào chén mì gói có chút xương sụn, rồi đút tôi. Các xương sụn 
			rất khó nhai. Tôi ngậm đầy miệng đâu ba bốn muỗng gì đó rồi nuốt 
			trộng. Tôi chẳng ăn thêm được nữa, thế là thằng bé bưng ăn hết. Mỗi 
			ngày hai lần tôi ăn khoảng ba hoặc bốn muỗng thức ăn như vậy.
			
			Tôi nằm đó đâu khoảng 10 ngày, thì một buổi sáng có một tên “gook”- 
			kiểu chúng ta gọi bọn Bắc Việt – đến. Gã này nói tiếng Anh rất giỏi. 
			Hắn hỏi thăm tôi rồi bảo, “Chúng tôi có một người Pháp đến thăm Hà 
			Nội và muốn mang tin tức về cho gia đình của anh”. Đóng chút ngây 
			ngô vào lúc đó – vì cần phải khôn ngoan hơn với những loại người này 
			– tôi hình dung chuyện này cũng chẳng thiệt thòi gì, nếu anh chàng 
			này đến gặp tôi và quay về thông báo cho gia đình tôi rằng tôi vẫn 
			còn sống sót. Khi đó tôi chưa biết được rằng tên của tôi đã được 
			công bố trong chiến dịch tuyên truyền rầm rộ của Bắc Việt và bọn họ 
			rất hí hửng vì đã bắt được tôi. Họ nói với một số bạn của tôi khi 
			tôi bị bắt rằng, “Chúng tôi đang nắm thái tử trong tay”, làm tôi 
			cũng mắc cười. Họ bảo tay người Pháp sẽ tới thăm tôi tối đó. Khoảng 
			trưa, tôi được đặt lên chiếc xe lăn và đưa vào phòng mổ để băng bột 
			tay phải cho tôi. Họ rất vất vả để nối xương lại với nhau, bởi vì 
			cánh tay tôi đã bị gãy ba nơi, có hai khúc bị trôi dật dờ. Tôi phải 
			chứng kiến cảnh một gã vật lộn để sắp lại xương tay cho mình trong 
			khoảng một giờ rưỡi đồng hồ mà không có thuốc tê. Sự đau đớn tột độ 
			làm tôi xỉu đi nhiều lần. Cuối cùng hắn ta đành bỏ cuộc và gắn cái 
			ngực băng bột vào tôi. Điều này làm tôi kiệt sức và đó là lý do tại 
			sao sau này, khi một số phim truyền hình được quay, nhiều người xem 
			thấy tôi như thể đang bị say thuốc là vậy. Khi mọi chuyện đã xong, 
			họ đưa tôi vào một căn phòng lớn với một chiếc giường ra trắng tươm 
			tất. Tôi nghĩ, “Boy, mọi thứ coi bộ thực sự khá hơn”. Tay lính canh 
			nói với tôi: “Bây giờ mày sẽ ở trong căn phòng mới này”.
			
			Khoảng một giờ thì một gã đàn ông được gọi là “Mèo” đến. Về sau tôi 
			mới biết rằng hắn ta là người đã phụ trách tất cả các trại tù binh 
			tại Hà Nội cho đến cuối năm 1969. Hắn khá lanh lợi, một loại trí 
			thức đang nắm quyền Bắc Việt. Hắn nằm trong Cục chính trị của Đảng 
			Lao động Việt Nam. Điều đầu tiên hắn làm là đưa tôi nhận diện thẻ 
			quân của Đại tá John Flynn – tức tướng John Flynn bây giờ –viên chỉ 
			huy cao cấp của chúng tôi. Ông cũng bị bắn hạ trong cùng một ngày 
			với tôi. “Mèo” nói qua một thông dịch viên, hắn không nói tiếng Anh 
			lúc đó. “Người của truyền hình Pháp đang đến”. Tôi nói, “Tôi không 
			nghĩ rằng tôi muốn được quay phim”. Hắn xẵng giọng, “Anh cần hai 
			cuộc giải phẫu, và nếu anh không nói chuyện với anh ta thì chúng tôi 
			sẽ lấy lớp băng bột ở ngực anh ra và anh sẽ không được giải phẫu gì 
			thêm nữa”. Hắn tiếp: “Anh phải nói rằng anh biết ơn nhân dân Việt 
			Nam và xin lỗi về những tội ác của mình”. Tôi nói với hắn ta là tôi 
			sẽ không làm điều đó.
			
			Cuối cùng, một người Pháp tên là Chalais bước vào, một tay Cộng sản, 
			như tôi biết ra sau đó, cùng với hai phóng viên ảnh khác. Ông ta hỏi 
			tôi về sự đối xử và tôi nói với ông là thỏa đáng. “Mèo” và 
			“Chihuahua”, một tên thẩm vấn khác, nhắc sau lưng tôi để nói theo 
			rằng, tôi rất biết ơn cho việc chữa trị khoan hồng và nhân đạo của 
			họ. Tôi từ chối, và khi chúng ép tôi, Chalais nói: “Tôi nghĩ rằng 
			những gì ông nói với tôi cũng đủ rồi”. Sau đó Chalais hỏi tôi có 
			nhắn tin gì về cho gia đình. Tôi bảo với ông là hãy nhắn vợ và những 
			người khác trong gia đình là tôi đang hồi phục và rất yêu thương họ. 
			Một lần nữa, từ đàng sau, “Mèo” khăng khăng bắt tôi nói thêm đại 
			loại là hy vọng rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc để tôi có thể được 
			về nhà. Chalais cứng rắn cắt ngang lời hắn ta, bảo rằng ông đã hài 
			lòng với câu trả lời của tôi. Ông đã giúp tôi thoát khỏi một tình 
			huống đầy khó khăn. Chalais ở ngay Paris. Vợ tôi sau đó đã bay sang 
			đó gặp ông ta và ông đã cho cô ấy một bản sao đoạn phim, về sau được 
			chiếu trên đài truyền hình CBS tại Mỹ. Ngay khi ông vừa đi khỏi, bọn 
			chúng lập tức đưa tôi lên xe đẩy và tống về lại căn phòng bẩn thỉu 
			trước đó.
			
			Sau đó, đã có nhiều người đã đến nói chuyện với tôi. Không phải ai 
			trong họ cũng đến để thẩm vấn. Có lần một nhà văn già có chòm râu 
			dài như Hồ Chí Minh và nổi tiếng của Bắc Việt đến phòng của tôi, 
			muốn trò chuyện về Ernest Hemingway (Chú KTT: Đó là nhà văn Nguyễn 
			Tuân, người đã đưa cuộc nói chuyện này vào tập bút ký “Hà Nội ta 
			đánh Mỹ giỏi” theo chỉ thị đảng để ca ngợi chính sách “nhân đạo” 
			(!?) của đảng với tù binh chiến tranh). Tôi nói với ông ta rằng 
			Ernest Hemingway chống Cộng bằng vũ lực. Nó cho ông ta một điều gì 
			đó để suy nghĩ. Những người khác đến để tìm hiểu về đời sống ở Mỹ. 
			Họ hình dung rằng cha tôi cấp bậc quân sự cao như vậy, tất tôi phải 
			được nhiều đặc quyền và trong vòng quyền lực. Họ không có khái niệm 
			gì hết về cách vận hành dân chủ của chúng ta. Một trong những người 
			đàn ông đến gặp tôi là tướng Võ Nguyên Giáp, được gọi là người hùng 
			của Điện Biên Phủ mà tôi nhận biết qua ảnh sau này. Ông đến xem tôi 
			ra sao, mà không nói gì. Ông là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng và nằm trong 
			Trung Ương Đảng Cộng sản Bắc Việt.
			
			Khoảng hai tuần sau, tôi đã được đưa vào giải phẫu chân có quay 
			phim. Họ chẳng hề chữa trị gì cánh tay trái bị gãy của tôi. Nó tự 
			lành. Họ bảo chân tôi cần hai cuộc giải phẫu, nhưng vì tôi đã có một 
			“thái độ xấu” nên họ sẽ không cho làm cuộc thứ hai. Tôi cũng chẳng 
			biết họ đã làm cái quỷ gì trên chân tôi. Nhưng bây giờ quay về Mỹ, 
			một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình sẽ mổ và xem xét lại. Chưa gì ông 
			đã báo với tôi rằng họ đã rạch sai đường mổ và cắt hết gân chằng ở 
			một bên. Tôi ở trong bệnh viện khoảng đâu sáu tuần, sau đó được đưa 
			đến một trại giam ở Hà Nội tạm gọi là “Đồn Điền”. Đó là vào cuối 
			Tháng 12 năm 1967. Tôi được đưa vào chung một xà lim với hai người 
			khác là George Day và Norris Overly, cả hai cùng là Thiếu tá Không 
			quân. Tôi nằm trên cáng, chân còn cứng đơ và bộ ngực băng bột mà tôi 
			đã mang được khoảng hai tháng. Từ trọng lượng bình thường 155 lbs, 
			tôi tụt xuống còn khoảng 100 lbs. Sau này Thiếu Tá Day kể họ không 
			nghĩ tôi sống thêm quá một tuần. Tôi cố gượng ngồi dậy được. Mỗi 
			ngày tôi ngủ mê man khoảng 18 giờ, 20 giờ. Họ đã phải chăm sóc mọi 
			thứ cho tôi. Họ được phép xách một xô nước để thỉnh thoảng rửa ráy 
			cho tôi. Họ đút tôi ăn và chăm sóc tận tụy, và tôi hồi phục rất 
			nhanh.
			
			Chúng tôi chuyển đến một căn phòng khác ngay sau lễ Giáng sinh. Vào 
			đầu Tháng Hai năm 1968, Thiếu Tá Overly được đưa ra khỏi phòng của 
			chúng tôi và được trả tự do cùng với David Matheny và John Black. Họ 
			là ba người tù binh đầu tiên được Bắc Việt trao trả. Tôi hiểu họ đã 
			được khuyến dụ là không nên nói gì về việc đối xử tù nhân, để không 
			gây nguy hiểm cho những người của chúng ta vẫn còn đang bị giam cầm. 
			Chỉ còn lại Day và tôi một mình với nhau. Ông còn bó bột tay phải vì 
			bị bắn sau lần ông đã bị bắt tận phía Nam, định vượt trốn và bị bắt 
			lại lần nữa. Ngay sau khi tôi đã có thể đi được, vào khoảng Tháng 3 
			năm 1968, thì Thiếu Tá Day bị chuyển đi.
			
			Tôi bị biệt giam từ thời điểm 1968 đó trong hơn hai năm trời. Tôi 
			không được phép gặp mặt, nói chuyện hay giao tiếp với bất kỳ tù nhân 
			đồng ngũ nào. Phòng giam của tôi tạm vừa phải- khoảng 10×10, có cửa 
			ra vào chắc chắn mà không có cửa sổ. Hệ thống thông gió là hai lỗ 
			nhỏ ở trên trần nhà, khoảng 6×4 inch. Mái nhà bằng thiếc nên phòng 
			nóng như thiêu. Phòng mờ mờ đêm cũng như ngày, nhưng họ luôn bật một 
			bóng đèn nhỏ để có thể quan sát tôi. Tôi bị nhốt trong đó suốt hai 
			năm.
			
			Theo cái kiểu bị biệt giam này thì điều quan trọng nhất để tồn tại 
			là liên lạc được với một ai đó, đôi khi nó chỉ là cái vẫy tay hoặc 
			một cái nháy mắt, gõ vào tường, hoặc có ai đưa ngón tay ra hiệu cũng 
			làm mọi chuyện khác đi. Nó cũng rất là quan trọng để giữ cho đầu óc 
			mình làm việc và tất cả chúng tôi đều làm việc này. Một số người 
			thích toán học nên họ nhẩm các phép toán phức tạp trong đầu vì chúng 
			tôi chưa bao giờ được phép có giấy bút. Vài người khác thì xây nhà 
			trong đầu, xây từ tầng hầm lên trên. Tôi thì thiên về triết học. Tôi 
			từng đọc rất nhiều sách về lịch sử nên đã dành hết ngày này đến ngày 
			khác để ôn lại trong đầu những cuốn sách lịch sử này, suy diễn nơi 
			nào nước này hay nước khác đã sai đường, hay Mỹ nên làm gì trong 
			lĩnh vực đối ngoại. Tôi cũng suy niệm rất nhiều về ý nghĩa của đời 
			sống. Cũng dễ dàng rơi vào sự tưởng tượng. Tôi đã từng viết sách và 
			kịch trong tâm trí mình, nhưng tôi nghi ngờ rằng trong số này chẳng 
			có cuốn nào hơn được mức tiểu thuyết rẻ tiền nhất. Người ta đã hỏi 
			tôi làm cách nào mà chúng tôi có thể nhớ được những chi tiết như mật 
			mã, con số, tên họ cùng mọi thứ khác. Thực tế là, khi anh không có 
			bất cứ điều gì khác để suy nghĩ, không bị chia trí thì nó thật dễ 
			dàng. Kể từ khi tôi đã quay lại đây thì lại rất khó cho tôi để nhớ 
			cả những điều đơn giản, ví dụ như tên của một người mà tôi vừa mới 
			gặp. Trong thời gian bị biệt giam, tôi nhớ tên của tất cả 335 tù 
			nhân chiến tranh ở Bắc Việt. Tôi vẫn còn nhớ chúng. Điều bạn phải 
			chống chọi với nó là nỗi lo lắng. Nội tình trạng thể chất mình cũng 
			dễ gây căng thẳng. Một lần tôi bị trĩ và đầu óc tôi bị chết dính vào 
			nó khoảng ba ngày. Cuối cùng, tôi nhủ, “Coi McCain, mày có từng biết 
			thằng nào chết vì bệnh trĩ chưa?” Vì vậy tôi bỏ mặc không nghĩ ngợi 
			nữa và sau vài tháng thì nó tự khỏi.
			
			Câu chuyện của Ernie Brace minh họa cho việc liên lạc là quan trọng 
			với chúng tôi thế nào. Lúc tôi đang bị nhốt tại “Đồn Điền” vào tháng 
			10 năm 1968, có một căn phòng phía sau phòng tôi. Tôi nghe vài tiếng 
			động bên đó vì vậy tôi bắt đầu gõ nhẹ vào tường. Tín hiệu mà chúng 
			tôi gọi là “cạo râu và cắt tóc” để anh chàng khác sẽ gõ lại hai 
			tiếng. Trong hai tuần, tôi không nghe động tĩnh, nhưng cuối cùng thì 
			có hai tiếng gõ. Tôi bắt đầu gõ theo bảng chữ cái – một cái là “a”, 
			hai cái là “b” và cứ vậy. Rồi tôi bảo: “Áp tai vào tường”. Cuối cùng 
			anh ta đến và tôi áp cái cốc vào tường, nói cho anh ta nghe được. 
			Tôi chỉ cho anh mã gõ và các thông tin khác. Anh nói tên mình là 
			Ernie Brace. Ngay lúc đó thì có tên lính canh lai vãng, tôi nói với 
			Ernie, “Thôi, ngày mai tôi gọi lại cho anh”. Cũng mất vài ngày anh 
			ta mới quay lại bức tường. Anh chỉ nói được “Tôi là Ernie Brace” rồi 
			bắt đầu khóc nức nở. Sau khoảng hai ngày thì anh dằn được cảm xúc 
			của mình, và trong vòng một tuần anh chàng này đã biết cách gõ, giao 
			tiếp, nhắn tin và làm rất tốt về sau. Ernie là một phi công dân sự 
			bị bắn rơi ở Lào. Anh bị cùm chân trong một cái lồng tre trong rừng, 
			cổ bị xích lại trong ba năm rưỡi, hầu như chẳng sử dụng đến đôi 
			chân. Anh trốn thoát ba lần và sau lần thứ ba bị bắt lại, anh bị 
			chôn đứng xuống đất, chỉ chừa lại cái đầu.
			
			Trong những ngày đó, vẫn vào năm 1968, theo lẽ là chúng tôi được 
			phép tắm cách ngày. Nhưng cái trại này thiếu nước nên đôi khi hai ba 
			tuần, cả tháng cũng không được tắm. Tôi có một tên chuột cống canh 
			ngục, lúc nào cũng đưa tôi ra sau chót. Bồn tắm kiểu cái chuồng ngựa 
			đổ bê-tông. Sau khi tất cả mọi người tắm, thường là không còn nước 
			dư nhưng tôi cũng bị tống vào đứng không năm phút “tiêu chuẩn tắm” 
			rồi bị đưa về lại phòng. Chuyện vệ sinh thì tôi được phát cho cái xô 
			có nắp đậy không vừa miệng. Ngày nào cũng phải đổ nhưng có người 
			khác xách giùm vì tôi còn đi chưa nổi. Từ lúc Day và Overly rời tôi, 
			Day rời vào tháng 2 còn Overly thì tháng 3 năm 1968, việc đối xử căn 
			bản là có đỡ. Khi tôi bị bắt gặp đang gõ tín hiệu, liên lạc với 
			người phòng khác hay đại loại vậy thì chỉ bị tặc lưỡi “Tắc, tắc! 
			Không được thế, không được thế”. Thật vậy, tôi nghĩ cũng không đến 
			nỗi nào.
			
			Ngày 15 tháng 6 năm 1968, một đêm tôi bị đưa lên phòng thẩm vấn. 
			“Mèo” và một gã đàn ông khác mà chúng ta gọi là “Thỏ” đang ở đó. 
			“Thỏ” nói tiếng Anh rất giỏi. “Mèo” là chỉ huy của tất cả các trại 
			tù tại thời điểm đó. Với tôi, hắn làm như không nói được tiếng Anh, 
			mặc dù rõ ràng theo tôi thì hắn biết, vì trong các cuộc trò chuyện, 
			hắn đặt câu hỏi hoặc nói chuyện trước khi “Thỏ” dịch những gì tôi 
			nói. Như bạn biết, người phương Đông hay nói vòng vo một chút. Đêm 
			đầu tiên, “Mèo” nói chuyện với tôi khoảng hai tiếng. Tôi không biết 
			ý hắn ra sao nhưng đại loại hắn nói với tôi là hắn từng quản các 
			trại tù binh Pháp trong những năm 1950 và đã tha cho một vài người, 
			và rằng gần đây hắn gặp lại thì họ đã cám ơn về lòng tốt của hắn. 
			Hắn bảo Overly đã về nhà “với danh dự”. Tôi thực sự không biết phải 
			nghĩ gì, bởi vì tôi đã từng có những cuộc thẩm vấn khác mà tôi chẳng 
			khai báo. Lần này thì họ không tra tấn tôi. Họ chỉ nói rằng tôi sẽ 
			không bao giờ được về nhà và sẽ bị xét xử như một tội phạm chiến 
			tranh. Đó là đề tài thường xuyên của họ trong nhiều tháng. Đột nhiên 
			“Mèo” hỏi tôi:
			
			- Anh có muốn về nhà không?
			
			Tôi sững người và tôi nói với bạn rất thẳng thắn rằng, tôi đã trả 
			lời rằng tôi phải suy nghĩ về nó. Tôi trở về phòng và nghĩ ngợi khá 
			lâu. Tôi đâu liên lạc được các sĩ quan cấp trên để có thể nhận được 
			lời khuyên. Tôi lo liệu tôi có còn sống hay không bởi vì tôi đang ở 
			trong tình trạng khá xấu. Tôi vừa bị kiết lỵ khoảng một năm rưỡi 
			nay, bị sụt cân lần nữa. Nhưng tôi hiểu quân cách sĩ quan rằng 
			“không chấp nhận ân huệ hoặc ân xá” và “sẽ không chấp nhận ưu đãi 
			đặc biệt nào”, vì đối với ai đó được về nhà trước đó là một đặc ân 
			đặc biệt. Không thể phá quân cách này. Ba đêm sau tôi được đưa trở 
			lại. Hắn hỏi lại: “Anh có muốn về nhà không?”. Tôi nói: “Không”. Hắn 
			ta muốn biết lý do, và tôi trả lời lý do. Tôi nói rằng, Alvarez 
			(người Mỹ đầu tiên bị bắt) cần được thả đầu tiên, sau đó là các binh 
			lính. “Mèo” nói với tôi rằng Tổng thống Lyndon Johnson đã ra lệnh 
			cho tôi về nhà. Hắn đưa cho tôi một lá thư từ vợ tôi, trong đó cô đã 
			viết: “Em ước chi anh là một trong ba người đã trở về nhà”. Tất 
			nhiên, cô không cách nào hiểu được những phức tạp phía sau. “Mèo” 
			cho biết rằng các bác sĩ đã nói với hắn rằng tôi không thể sống nổi 
			trừ khi tôi được chữa trị tại Mỹ. Chúng tôi cứ vờn nhau điều này và 
			tôi vẫn mực nói “Không”. Ba đêm tiếp sau đó cũng cứ như vậy. Trong 
			sáng lễ Độc Lập 4 tháng 7 năm 1968, cùng một ngày cha tôi được thăng 
			quyền Tổng Tư Lệnh Thái Bình Dương các lực lượng Hoa Kỳ, tôi được 
			dẫn vào một căn phòng thẩm tra khác. “Thỏ” và “Mèo” đã ngồi ở đó. 
			Tôi bước vào và ngồi xuống. “Thỏ” nói:
			
			- Cấp trên chúng tôi muốn biết câu trả lời cuối cùng của anh. – Câu 
			trả lời cuối cùng của tôi cũng vậy. Đó là “Không”. – Câu trả lời 
			cuối cùng của anh phải không? – Đó là câu trả lời cuối cùng của tôi.
			
			“Mèo” đang ngồi với một đống giấy tờ trước mặt và một cây viết trong 
			tay, hắn bẻ đôi cây viết, mực văng tung tóe. Hắn đứng lên, đá sầm 
			cái ghế phía sau và nói: “Chúng dạy mày tốt lắm. Chúng dạy mày tốt 
			lắm”. Tôi có thể thêm vào là, hắn nói bằng một giọng Anh rất chuẩn. 
			Hắn quay ngoắt người, bước ra ngoài và đóng sầm cửa lại, để lại 
			“Thỏ” và tôi ngồi lại. “Thỏ” nói: “Bây giờ, McCain, chuyện sẽ rất 
			xấu cho anh đó. Về lại phòng”.
			
			Giai đoạn Bắc Việt liên tục đối xử tàn nhẫn với tù binh Mỹ kéo dài 
			đến khoảng Tháng Mười năm 69. Họ muốn tôi gặp các nhóm phản chiến 
			đến Hà Nội, trong đó có rất nhiều người nước ngoài như Cuba, Nga. 
			Tôi nghĩ lúc đó chưa có nhiều người Mỹ “phản chiến” sớm vậy, dù các 
			năm sau đó thì nhiều hơn. Tôi từ chối gặp bất kỳ nhóm nào. Với họ 
			thì giá trị tuyên truyền sẽ rất lớn khi cha tôi là Tổng tư lệnh Thái 
			Bình Dương.
			
			Nhóm David Dellinger đến. Nhóm Tom Hayden đến. Ba nhóm tù nhân được 
			thả, trên thực tế, dưới sự bảo trợ của các “nhóm hòa bình” vậy. 
			Những người đầu tiên được thả về với một trong nhóm anh em Berrigan. 
			Nhóm tiếp theo là toàn bộ một phi hành đoàn, có James Johnson, một 
			trong những Bộ Ba Fort Hood (Chú KTT: Nhóm 3 Binh Nhất Mỹ phản đối 
			việc bị đưa sang Việt Nam) về cùng vợ của chủ biên tạp chí 
			“Ramparts” và Rennie Davis. Nói chung, tôi nghĩ có tám hoặc chín 
			người về kiểu đó. Sau đó là một nhóm thứ ba. Bắc Việt muốn tôi gặp 
			tất cả các nhóm này, nhưng tôi đã có thể né được. Nhiều khi không 
			thể làm họ mất mặt, vì vậy bạn phải cố gắng để đu đưa với nó. Bạn 
			biết là “mặt mũi” là chuyện lớn với loại người này, và nếu bạn để họ 
			có thể giữ thể diện thì được dễ dàng hơn rất nhiều. Ví dụ họ đánh 
			tôi tàn nhẫn và bắt tôi phải gặp một phái đoàn, tôi trả lời “Được, 
			tôi muốn gặp một nhóm vậy, nhưng tôi sẽ không nói bất cứ điều gì 
			chống lại đất nước mình và tôi cũng không nói bất cứ điều gì về việc 
			đối xử với tôi, nhưng nếu được hỏi, tôi sẽ kể sự thật về các điều 
			kiện tôi đang bị giam giữ”. Họ bảo, “Anh đồng ý gặp một phái đoàn 
			nên chúng tôi sẽ cho anh gặp”. Nhưng như mọi người thấy, họ chưa bao 
			giờ cho tôi gặp. Một lần, họ muốn tôi viết vài hàng cho các tù nhân 
			chiến hữu của tôi nhân dịp Giáng sinh. Tôi viết thế này: “Gởi đến 
			các tù nhân chiến hữu mà tôi không được phép gặp mặt hay nói chuyện, 
			tôi cầu mong gia đình các chiến hữu được tốt lành và hạnh phúc, và 
			tôi hy vọng rằng các chiến hữu được phép viết và nhận thư gia đình 
			theo Công ước Geneva năm 1949 mà những người đang giam cầm các bạn 
			không cho phép. Xin Thiên Chúa ban phước lành đến các chiến hữu”. Họ 
			nhận thư nhưng tất nhiên là không bao giờ được công bố nó. Nói cách 
			khác, đôi khi viết cái gì đó ca ngợi chính phủ mình hoặc chống lại 
			họ thì tốt hơn chuyện cứ nói “Tôi sẽ không viết bất cứ điều gì”- vì 
			đó cũng có thể là cách câu giờ khi các điều viết ra này phải được 
			thông lên đủ loại cấp trên của chúng.
			
			Bây giờ để tôi kể với bạn câu chuyện của đại úy Dick Stratton. Anh 
			bị bắn rơi vào Tháng Năm 1967, lúc vài nhóm phản chiến Mỹ đã nhao 
			nhao la làng rằng Hoa Kỳ ném bom Hà Nội dù chúng tôi chưa làm vào 
			thời điểm đó. Dick bị bắn rơi phía ngoài Hà Nội, nhưng họ muốn có 
			một lời thú tội nhân lúc một ký giả Mỹ đang có mặt. Đó là vào mùa 
			Xuân và mùa Hè năm 67 – chắc mọi người còn nhớ những câu chuyện rất 
			giật gân về những thiệt hại do bom Mỹ? “Thỏ” và những tên khác thẩm 
			vấn Dick Stratton rất tàn bạo. Tay Dick đầy các vết hằn dây thừng đã 
			bị nhiễm trùng. Chúng thực sự bóp dẹp anh để có được một lời thú 
			nhận rằng, anh đã ném bom Hà Nội như một bằng chứng sống. Chúng rút 
			móng tay và gí tàn thuốc lá vào người anh. Dick bị dồn đến mức không 
			thể nói “không”. Nhưng khi chúng đưa anh đến buổi họp báo, anh làm 
			một hành động cúi chào – anh cúi chào 90 độ theo hướng này, anh cúi 
			chào 90 độ theo hướng khác, đủ bốn góc. Với đám “gooks” thì không 
			phải điều gì quá lạ lẫm vì chúng quen với việc cúi chào vậy. Nhưng 
			bất kỳ người Mỹ nào nhìn thấy hình ảnh của một người Mỹ gập mình đến 
			thắt lưng để cúi chào vậy cũng biết rằng có điều gì đó không ổn, có 
			điều gì đó đã xảy ra với anh ta. Đó là lý do tại sao Dick làm những 
			gì anh đã làm. Sau đó chúng tiếp tục tạo áp lực để anh ta nói rằng 
			anh ta không bị tra tấn. Chúng tra tấn anh để buộc phải nói rằng anh 
			không bị tra tấn. Dick vừa ra tuyên bố mạnh mẽ tại cuộc họp báo một 
			vài tuần trước ở đây rằng anh muốn thấy Bắc Việt bị buộc tội là tội 
			phạm chiến tranh. Anh ấy là một người cao quý. Anh và tôi đã ở chung 
			trại “Đồn Điền” với nhau trong một thời gian dài và anh rất can 
			cường trong đó. Anh là một sĩ quan hải quân xuất sắc, một người Mỹ 
			cống hiến hết mình và có đức tin sâu sắc. Tôi nghĩ đến Dick Stratton 
			rất nhiều. Anh rất, rất là xui bị nhận những đối xử tàn tệ nhất mà 
			đám “gook” có thể nặn ra.
			
			Chúng tôi đã trải qua một mùa Xuân và Hè 1969 đặc biệt xấu vì có một 
			cuộc vượt ngục tại một trong những trại tù. Hai người của ta là Ed 
			Atterberry và John Dramesi lên kế hoạch chuẩn bị rất tốt nhưng đã bị 
			bắt lại. Atterberry bị đánh đến chết sau cuộc vượt ngục bất thành 
			này. Chẳng nghi ngờ gì về điều này khi Dramesi thấy Atterberry bị 
			đưa vào một căn phòng và nghe tiếng đánh đập rồi bị biệt tăm từ đó. 
			Còn Dramesi, nếu anh không phải là một người lì đòn thì cũng có thể 
			đã bị đánh chết. Anh có thể là một trong những người gai góc nhất mà 
			tôi từng gặp. Anh là dân từ Nam Philly, từng là một võ sĩ quyền Anh 
			chuyên nghiệp và là một đô vật khi còn trong đại học. Các đòn thù 
			lây sang tất cả các trại khác. Họ bắt đầu tra khảo chúng tôi về các 
			kế hoạch vượt ngục. Thức ăn trở nên tồi tệ. Việc kiểm tra phòng trở 
			nên rất nghiêm ngặt. Anh không thể có bất cứ điều gì trong phòng 
			mình, không có gì. Họ không cho cả thuốc i-ốt xức ghẻ như trước vì 
			Dramesi và Atterberry đã bôi i-ốt cho sậm da như người Việt Nam 
			trước khi vượt ngục.
			
			Mùa hè năm đó, từ Tháng Năm đến khoảng Tháng Chín thì cứ ngày hai 
			lần, tuần sáu ngày, tất cả chúng tôi được cho ăn chỉ là canh bí đỏ 
			và bánh mì tại trại mình. Đó là một chế độ ăn uống rất kham khổ, đầu 
			tiên là ngán tận cổ thứ canh bí đỏ đó, kế đến là nó không có bất kỳ 
			giá trị dinh dưỡng thực sự nào. Điều duy nhất để có thể giữ cho bất 
			kỳ trọng lượng trên người là bánh mì, một cục bột nhão nhoét. Ngày 
			Chủ Nhật, chúng tôi được cho ăn món chè đậu, đậu nấu với đường, 
			không có chút thịt nào. Rất nhiều người chúng tôi ốm tong teo và hốc 
			hác. Tôi xui xẻo bị bắt gặp đang liên lạc bạn tù bốn lần trong Tháng 
			Năm năm 1969. Tôi bị tống vào một phòng trừng phạt đối diện với xà 
			lim của tôi nhiều lần. Cũng Tháng Năm 1969 đó, họ muốn tôi viết, như 
			tôi còn nhớ, một lá thư cho các phi công Mỹ đang bay trên Bắc Việt 
			để yêu cầu họ đừng làm điều đó nữa. Tôi đã bị buộc phải đứng liên 
			tục – đôi khi chúng phạt mình đứng yên hay ngồi trên một chiếc ghế 
			suốt một thời gian dài. Tôi bị bắt đứng vậy cũng mấy ngày, chỉ được 
			nghỉ vài tiếng khi một lính canh – một người thực sự là con người 
			duy nhất mà tôi từng gặp ở trong đó – cho tôi nằm xuống cho một vài 
			giờ khi ông gác trong một đêm khuya. Một trong những thủ thuật chúng 
			tôi đối phó để chúng chẳng hủy được mình là nếu cảm thấy đứng mệt 
			quá thì tự ngồi xuống, để chúng buộc đứng lên lại. Vì vậy, tôi ngồi 
			xuống và bị một tên lính canh bé choắt đặc biệt đáng căm ghét xông 
			vào, nhảy giậm lên xuống đầu gối tôi. Vì chuyện này mà tôi đã phải 
			mang nạng trở lại cả một năm rưỡi sau đó. 
			
			Đó là một mùa Hè dài đăng đẳng và khó khăn nhưng đến Tháng Mười năm 
			1969, đột nhiên có những thay đổi lớn trong trại. Sự tra tấn ngừng 
			lại. Một ngày kia, gã “Công tử” đến phòng của tôi và thông báo tôi 
			sẽ có được một người bạn tù ở chung phòng. Thức ăn đỡ hơn và phần ăn 
			cũng nhiều hơn, còn đám lính canh ra vẻ thân thiện. Tôi cho rằng tất 
			cả điều này trực tiếp nhờ vào các nỗ lực vận động của chính phủ và 
			người dân ở Hoa Kỳ vào năm 1969. Em trai tôi là Joe rất tích cực 
			trong Liên Đoàn Quốc gia những gia đình các tù nhân chiến tranh và 
			mất tích người Mỹ tại Đông Nam Á. Tổ chức này bao trùm tất cả các 
			nhóm gia đình tù binh chiến tranh POW. Joe đã giải thích cho tôi 
			biết lý do tại sao thái độ Bắc Việt Nam đối với tù binh Mỹ lại thay 
			đổi vậy. Vào khoảng những năm 1965, 1966 trước đó, khi việc ném bom 
			miền Bắc tăng dần, Hà Nội trình diễn màn tuyên truyền đầu tiên của 
			mình bằng cách điệu các phi công Mỹ bị đánh đập diễn hành qua các 
			đường phố. Đáng ngạc nhiên với họ là phản ứng của truyền thông thế 
			giới nói chung là tiêu cực. Kế đó Bắc Việt đã cố gắng chiến thuật 
			buộc Thiếu tá Dick Stratton xuất hiện và xin lỗi vì những tội ác 
			chiến tranh. Nhưng rõ ràng là ông đã bị ngược đãi và buộc phải làm 
			điều này chỉ dưới sự cưỡng ép. Điều đó chỉ phản tác dụng. Họ làm 
			tiếp việc trả tự do hai nhóm ba tù binh vào Tháng Hai và Tháng Mười 
			năm 1968. Những tù binh này bị bắt dưới sáu tháng, chưa bị giảm cân 
			đáng kể và nhìn còn khỏe mạnh.
			
			Cho đến khi Nixon lên nắm chính phủ đầu năm 1969 thì trước đó chính 
			phủ ở nhà còn giữ thái độ: “Không nói về tình trạng tù binh chiến 
			tranh vì e rằng sẽ làm nguy hại tù binh Mỹ đang bị giam”. Bộ trưởng 
			Quốc phòng Melvin Laird, đầu năm 1969, đã có các cuộc đàm phán hòa 
			bình với Bắc Việt và Việt Cộng tại Paris (đàm phán đã bắt đầu dưới 
			thời Tổng thống Johnson vào cuối năm 1968). Laird đem hình ảnh của 
			những tù binh bị đánh đập tàn nhẫn mà các hãng tin nước ngoài chụp 
			được, chẳng hạn như Frishman, Stratton, Hegdahl – tất cả đều bị 
			xuống ký trầm trọng. Ông nói với Bắc Việt: “Công ước Geneva nói rằng 
			các ông phải thả tất cả các tù binh bị bệnh và bị thương. Những 
			người này đang bị bệnh và bị thương, tại sao họ không được trả tự 
			do?” Tháng Tám năm 1969, Hà Nội thả Frishman. Anh không còn khuỷu 
			tay, chỉ được gắn cánh tay cao su khập khiễng và sụt mất 65 lbs. 
			Hegdahl ra tù và sụt 75 lbs. Wes Rumbull cũng được thả, phải bó bột 
			vì gãy sống lưng. Frishman được phép tổ chức một cuộc họp báo và kể 
			ra các chi tiết sự tra tấn và ngược đãi. Tin tức này xuất hiện trên 
			toàn thế giới, và từ đó, bắt đầu từ mùa Thu năm 1969, việc đối xử tù 
			binh đỡ hơn. Chúng tôi nghĩ tác động trực tiếp là đến từ thực tế 
			Frishman là một nhân chứng sống thực về sự ngược đãi tù binh Mỹ của 
			Bắc Việt.
			
			Tôi tự hào về các hoạt động tranh đấu cho tù nhân chiến tranh của em 
			trai tôi là Joe và Carol-vợ tôi, bên nhà. Sự khao khát của những 
			người vợ có chồng tù tội theo thời gian thường là “Lạy Chúa, bất kể 
			sao cũng được, con chỉ muốn chồng con được về”. Với Carol thì câu 
			trả lời của cô ấy là, “Chỉ cần có được chồng tôi trở về không đủ đối 
			với tôi và không đủ với John, mà tôi muốn anh ấy đứng thẳng người 
			trở về”. Tôi được nhận khá ít thư từ Carol. Chỉ có ba thư trong bốn 
			tháng đầu tiên tôi bị bắn hạ. Đám “gook” cho tôi nhận chỉ một lá thư 
			trong bốn năm tù cuối. Gói quà đầu tiên được nhận vào Tháng Năm 
			1969, sau đó họ cho mỗi năm một lần. Lý do tôi nhận rất ít thư từ 
			Carol vì cô khăng khăng chỉ sử dụng các tổ chức hoạt động theo Công 
			ước Geneva về việc đối xử với tù nhân chiến tranh, mà từ chối gửi 
			thư thông qua Ủy ban liên lạc với các gia đình tù nhân do các nhóm 
			phản chiến điều hành. Điều này mang lại cho tôi vài điều cần nói chi 
			tiết hơn.
			
			Như mọi người biết, trở lại thời điểm 1954, Bắc Việt đã ở thế tay 
			trên trong việc lật đổ chính phủ Pháp tại Paris vì các cử tri Pháp 
			đã chẳng còn quan tâm đến cuộc chiến Việt Nam mà chính phủ của họ đã 
			dự phần. Đó là cách Bắc Việt chiến thắng vào năm 1954, thắng ngay 
			tại Pháp chớ không phải tại Việt Nam. Pháp đồng ý rút khỏi Đông 
			Dương mà không đặt vấn đề gì khác khi ký thỏa thuận và kết quả là họ 
			chỉ nhận lại một phần ba số tù binh chiến tranh của mình. Tôi tin 
			rằng Hà Nội cũng hy vọng sẽ giành chiến thắng trong trường hợp chúng 
			ta bằng cách làm suy giảm tinh thần dân Mỹ như vậy. Họ phải dẫn đưa 
			dư luận thế giới về phía họ. Tôi nhớ vào năm 1968 hoặc 69, trong bài 
			phát biểu của Phạm Văn Đồng với Quốc Hội VN, chúng ta bị banh tai 
			với diễn văn có tiêu đề “Cả thế giới ủng hộ chúng ta” chớ không phải 
			kiểu “Chúng ta đã đánh bại quân Mỹ xâm lược” hoặc bất cứ điều tương 
			tự vậy.
			
			Năm 1969, sau khi ba tù nhân được trả tự do về đến Mỹ và kể lại sự 
			tàn bạo trong các trại tù binh chiến tranh thì Tổng Thống Nixon đã 
			bật đèn xanh cho công bố điều này. Nó tác động mạnh đến việc đối xử 
			với chúng tôi. Cảm tạ Chúa cho điều này, bởi nếu không phải vậy thì 
			rất nhiều người trong chúng tôi sẽ chẳng bao giờ còn cơ hội sống sót 
			trở về. Một ví dụ nhỏ về cách thay đổi như sau: trên cửa xà lim tôi 
			là các chấn song sắt, thường bị che bởi một tấm ván để tôi khỏi nhìn 
			ra ngoài và để chặn sự thông gió. Một đêm, vào khoảng cuối Tháng 
			Chín năm 1969, “Đầu Lệch”- tên trưởng trại tùđ ích thân đến và lấy 
			nó ra để tôi bắt đầu có chút thoáng gió. Tôi chẳng tin vào mắt mình. 
			Từ đó, mỗi đêm họ hé ô cửa trên để tôi có được chút thông gió. Chúng 
			tôi bắt đầu được tắm thường xuyên hơn. Thiệt hết sức là ngạc nhiên. 
			Vào Tháng 12 năm 1969, tôi được chuyển từ “Ngũ Giác Đài” sang “Las 
			Vegas”, là một khu vực nhỏ tại Hỏa Lò do người Pháp xây năm 1945. 
			Người Mỹ thì gọi nó là “Hà Nội Hilton”. “Khách Sạn Tan Tác” cũng là 
			ở đó – đó là nơi đầu tiên mà ai cũng bị đưa đến thẩm vấn mở màn và 
			sau đó bị đưa đến các trại khác. Toàn bộ nhà tù này có diện tích 
			khoảng hai block đường. Tại “Las Vegas”, tôi bị đưa vào một nhà nhỏ 
			gọi là “Gold Nugget” có ba phòng giam. Chúng tôi đặt tên cho các 
			ngôi nhà theo tên các khách sạn tại Las Vegas như “Thunderbird”, 
			“Stardust”, “Riviera”, “Gold Nugget” và “Desert Inn”. Bị chuyển đến 
			“Gold Nugget” và ngay lập tức tôi có thể tạo sự liên lạc với những 
			tù nhân quanh trại, vì khu vực tắm ở ngay cửa sổ phòng tôi nên tôi 
			có thể nhìn qua kẽ trên cửa phòng tắm và liên lạc với nhau. Tôi bị 
			biệt giam ở đó cho đến Tháng Ba năm 1970.
			
			Họ ép tôi gặp các đoàn phản chiến Mỹ đã bắt đầu tăng dần nhưng không 
			bị bất kỳ sự tra tấn nào để ép buộc. Vào Tháng Giêng năm 1970, tôi 
			được đưa đến “Mèo” để thẩm vấn. Hắn nói với tôi rằng, hắn muốn tôi 
			gặp một khách nước ngoài. Tôi lặp lại điều đã luôn nói với hắn trước 
			đó rằng, tôi sẽ gặp họ nhưng tôi sẽ không nói bất cứ điều gì chống 
			lại đất nước mình và nếu được hỏi về việc đối xử, tôi sẽ kể với họ 
			về sự khắc nghiệt của nó. Rất ngạc nhiên cho tôi, hắn nói: “Tốt, anh 
			không cần phải nói bất cứ điều gì”. Tôi nói với hắn tôi sẽ suy nghĩ 
			về đề nghị này. Tôi trở về phòng và tìm cố vấn từ một sĩ quan cấp 
			trên trong khu vực tù của mình và ông khuyên tôi cứ đi gặp. Vì thế 
			tôi đã gặp một tay nói rằng hắn đến từ Tây Ban Nha, nhưng sau này 
			tôi nghe được là đến từ Cuba. Hắn chẳng hỏi tôi bất kỳ câu hỏi nào 
			về các vấn đề gây tranh cãi hoặc chuyện đối xử hay suy nghĩ của tôi 
			về cuộc chiến. Tôi nói với hắn là tôi chẳng hối hận gì về những gì 
			tôi đã làm và nếu có xảy ra lần nữa, tôi cũng sẽ làm lại y vậy. Điều 
			đó dường như làm hắn nổi giận vì hắn là một cảm tình viên của Bắc 
			Việt. Giữa lúc đó, một phóng viên bước vào chụp vài tấm hình. Tôi đã 
			nói với “Mèo” trước đó là tôi không muốn có bất cứ sự công bố hình 
			ảnh nào của tôi, vì vậy khi tôi về phòng sau cuộc phỏng vấn kéo dài 
			khoảng 15, 20 phút gì đó, tôi nói với hắn là tôi sẽ không gặp khách 
			nào khác vì hắn đã không giữ lời hứa. Sau đó Đại úy Jeremiah Denton, 
			người đang điều hành khu tù chúng tôi lúc đó đưa ra đường lối là 
			chúng tôi không nên gặp bất kỳ đoàn nào khác. Tới Tháng Ba, tôi có 
			được một bạn tù chung phòng là Đại tá Không quân John Finley. Ông và 
			tôi sống chung được khoảng hai tháng. Một tháng sau khi ông nhập 
			phòng, “Mèo” đến gặp tôi và bắt phải gặp một phái đoàn khác. Tôi từ 
			chối nên bị phạt ngồi ghế ngoài trời trong ba ngày đêm liên tục. Sự 
			ép buộc lên chúng tôi liên tục để phải gặp các phái đoàn phản chiến. 
			Đầu Tháng Sáu tôi bị tách khỏi Đại tá Finley và bị đưa vào một xà 
			lim gọi là “Calcutta”, cách xa các tù nhân gần nhất cũng khoảng 50 
			mét. Nó rộng chỉ 6×2 feet, không có lỗ thông gió và rất, rất là 
			nóng. Suốt mùa hè tôi bị lả nhiệt vài ba lần và bị lỵ. Sức khỏe tồi 
			tệ hẳn, tôi không được tắm rửa và khẩu phần bị cắt giảm xuống còn 
			một nửa, thỉnh thoảng lại bị bỏ đói một ngày hay hơn. Suốt thời gian 
			này tôi bị đưa đi thẩm vấn và bị ép phải gặp những người phản chiến 
			nhưng tôi từ chối.
			
			Tháng Chín tôi bị chuyển đến khu gọi là “Riviera” nằm tách biệt sau 
			trại. Tôi ở đó cho đến Tháng Mười Hai năm 1970. Ở đó tôi có thể liên 
			lạc với bạn tù khá tốt vì có một cánh cửa có lỗ thông gió quay ra 
			ngoài. Tôi đứng lên cái xô rồi dùng bàn chải đánh răng để quơ tín 
			hiệu cho các tù nhân khác và họ sẽ quơ lại cho tôi. Tháng Mười Hai 
			tôi bị chuyển đến “Thunderbird”, một trong những ngôi nhà lớn với 
			khoảng 15 phòng giam. Việc liên lạc với bạn tù rất tốt ở đây khi 
			chúng tôi gõ tín hiệu lên vách giữa các phòng giam với nhau. Tôi học 
			được rất nhiều về âm học trong thời gian này, vì nếu bạn biết gõ 
			đúng chỗ trên vách thì có thể nghe được người khác ở cách xa bốn năm 
			phòng. Cuối Tháng 12 năm 1970, tôi đoán là khoảng ngày 20, tôi được 
			cho ra ngoài vào ban ngày với bốn người khác. Vào đêm Giáng Sinh, 
			chúng tôi được đưa ra khỏi phòng mình và chuyển đến “Trại Thống 
			nhất”, một phần khác của Hỏa Lò. Khoảng 45 người, chủ yếu bị đưa từ 
			“Vegas” bị nhốt chung vào một phòng lớn. Có bảy phòng lớn như vậy và 
			mỗi phòng giam 45 hoặc 50 tù nhân. Chúng tôi có tổng cộng 335 tù 
			nhân tại thời điểm đó. Có bốn hoặc năm người không trong tình trạng 
			tốt nên bị nhốt riêng. Các Đại Tá Flynn, Wynn, Bean và Caddis cũng 
			bị nhốt riêng biệt, không được chuyển vào với chúng tôi lúc đó.
			
			Tên giám thị của chúng tôi lại là “Con Rệp” mà chúng tôi rất căm 
			ghét. Hắn hành hạ chúng tôi đủ điều, không cho chúng tôi tụ tập hơn 
			ba người cùng lúc. Chúng sợ chúng tôi sẽ thiết lập sự truyền bá 
			chính trị cho nhau. Chúng không cho chúng tôi được làm Thánh lễ. 
			Tháng Ba năm 1971, các sĩ quan cấp trên quyết định rằng chúng tôi sẽ 
			tổ chức một Thánh lễ. Đó là điều quan trọng với chúng tôi và cũng là 
			điều đúng để tranh đấu. Chúng tôi tiến hành và tổ chức lễ. Những 
			người chủ Thánh lễ ngay lập tức bị đưa ra khỏi phòng. Chúng tôi bắt 
			đầu hát vang những bài Thánh ca và Quốc ca. Đám “gook” nghĩ đó là 
			một cuộc nổi loạn nên mang dây thừng và dùng judo vật trói chúng 
			tôi. Sau khoảng một hoặc hai tuần họ bắt đầu đưa các sĩ quan cấp 
			trên ra khỏi phòng chúng tôi đến nơi khác. Cuối Tháng Ba chúng lại 
			đưa thêm ba hay bốn người mỗi một trong bảy phòng ra, tổng cộng là 
			36 người. Chúng tôi bị đưa đến một trại chúng tôi gọi là “Skid Row”, 
			một trại trừng phạt từ Tháng Ba đến Tháng Tám, được trở về khoảng 
			bốn tuần khi có ngập lụt quanh Hà Nội, rồi sau đó chúng tôi lại bị 
			đưa ra đó lại cho đến Tháng Mười.
			
			Ở đó chúng không đối xử tệ lắm với chúng tôi. Đám lính canh được 
			phép đánh chúng tôi chỉ khi chúng tôi ngang ngạnh nhưng không được 
			phép tra tấn chúng tôi để có được các tuyên bố mang tính tuyên 
			truyền. Các xà lim đều rất nhỏ, khoảng 6×4 feet và chúng tôi bị biệt 
			giam lần nữa. Đó là điều khó chịu nhất vì cứ làm mình nghĩ đến tất 
			cả bạn bè đã từng bị giam chung một phòng lớn với nhau. Nhưng so với 
			những năm 69 và trước đó thì chẳng đáng gì. Lợi thế lớn nhất khi bị 
			giam chung phòng lớn là chỉ cần vài ba người trong nhóm phải đối phó 
			với đám “gook” còn khi bị biệt giam thì lúc nào cũng phải tự mình 
			đối phó với chúng, mà lúc nào chẳng có chuyện lục đục với chúng. Lẽ 
			ra mình được phép có 15 phút để tắm nhưng mới năm phút thì tên 
			“gook” đã bắt về lại phòng, vì vậy phải cãi với hắn và thế là bị hắn 
			nhốt lại, không cho tắm một tuần. Nhưng khi ở trong một phòng lớn 
			với những người khác, chẳng thèm dòm ngó đến chúng sẽ làm mình dễ 
			chịu hơn rất nhiều.
			
			Suốt giai đoạn này, bọn “gook” tấn công chúng tôi bằng các phát biểu 
			phản chiến từ một số nhân vật cao cấp ngay Washington. Đây là cách 
			tuyên truyền hữu hiệu nhất để tấn công chúng tôi khi dùng chính phát 
			biểu, tuyên bố của vài người nói chung là được trọng vọng tại Hoa 
			Kỳ. Chúng dùng nhiều lời lẽ của Thượng Nghị Sĩ Fulbright, rồi TNS 
			Brooke. Chúng lặp đi lặp lại lời của TNS Ted Kennedy, cũng như 
			Averell Harriman. Chúng cũng thích Clark Clifford, ngay sau khi ông 
			trở thành Bộ Trưởng Quốc Phòng thời Tổng Thống Johnson. Đến khi 
			Ramsey Clark vào cuộc thì họ xem đó là bước tuyệt vời cho mục tiêu 
			của họ (Chú KTT: Ramsey Clark, cựu Bộ Trưởng Tư Pháp thời TT 
			Johnson, người phản đối mạnh mẽ chiến tranh Việt Nam và năm 1972 đã 
			sang Hà Nội để phản đối việc ném bom Hà Nội). Khi công luận ồn ào 
			sau vụ công bố Hồ Sơ Ngũ Giác Đài (Chú KTT: Pentagon Papers là tài 
			liệu nghiên cứu mật của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ về sự can dự chính trị 
			và quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau Đệ 
			Nhị Thế Chiến cho đến năm 1967, đã bị một nhân vật phản chiến trong 
			nhóm nghiên cứu tiết lộ cho báo New York Times vào năm 1971) thì đây 
			là một bước đệm lớn lao cho Hà Nội để tận dụng nó như một bằng chứng 
			về những “âm mưu đen tối của đế quốc” mà họ vẫn thường rêu rao trong 
			nhiều năm.
			
			Tháng 11 năm 1971, Bắc Việt chuyển chúng tôi từ trại trừng phạt 
			“Skid Row” về lại trại giam chung “Thống Nhất” trong phạm vi Hỏa Lò. 
			Từ đó về sau thì hầu như chúng tôi bị nhốt chung với những người 
			khác, kể cả những người được đưa vào sau, cũng khoảng 40 tù binh. 
			Tháng 5 năm 1972, khi Mỹ bắt đầu oanh tạc mạnh sau khi Tổng Thống 
			Nixon ra lịnh ném bom Bắc Việt và thả mìn các cảng, họ chuyển hầu 
			như tất cả các sĩ quan cấp nhỏ lên trại “Dogpatch”- Trại Chó Vá gần 
			biên giới Trung cộng, chừa lại các sĩ quan cao cấp và nhóm chúng 
			tôi. Tôi nghĩ rằng họ sợ Hà Nội sẽ bị đánh bom và nếu nhốt chung tất 
			cả chúng tôi cùng một trại thì chỉ một quả bom rơi trúng cũng có thể 
			xóa sổ tất cả. Vào thời điểm này, đám “gook” rất cộc cằn, hung dữ. 
			Chúng từng kéo một tù binh ra khỏi phòng chúng tôi và đánh anh ta 
			một trận bán sống bán chết vì anh đã làm lá cờ Mỹ trên lưng áo một 
			tù binh khác. Anh là một thanh niên tốt, có tên là Mike Christian. 
			Chúng thoi anh túi bụi ngay ngoài cửa phòng giam chúng tôi, sau đó 
			cứ kéo lê vài feet lại đánh anh tàn nhẫn hết cả vòng quanh sân trại. 
			Anh bị bể một bên màng nhĩ và gãy xương sườn. Nó là một bài học dằn 
			mặt tất cả chúng tôi.
			
			Cuối cùng đến cái ngày mà tôi sẽ không bao giờ quên được là ngày 18 
			tháng 12 năm 1972. Khắp nơi rền tiếng bom theo lịnh ném bom dịp 
			Giáng Sinh của Tổng Thống Nixon. Hà Nội bị đánh bom tức thời. Từ 
			khung cửa sổ phòng giam nhìn ra trời, đó là cảnh tượng ngoạn mục 
			nhất tôi đã từng chứng kiến và tất nhiên, nhìn rõ những ánh chớp 
			trong đêm. Bom thả rất gần làm rung chuyển cả tòa nhà. Hỏa tiễn SAM 
			đất-đối-không đan chéo bầu trời giữa tiếng còi hụ báo động inh tai 
			quả thực là một cảnh tượng dữ dội. Khi một chiếc B-52 trúng đạn, ở 
			độ cao hơn 30,000 feet, nó nổ sáng rực cả bầu trời, rồi ánh đỏ như 
			ban ngày khá lâu vì rơi xuống từ trên không rất cao. Vào thời điểm 
			đó chúng tôi biết là chúng tôi sẽ không bao giờ được trả tự do trừ 
			khi chính phủ có hành động gì đó rất quyết liệt. Chúng tôi bị giam 
			ba năm rưỡi trời mà không có vụ ném bom nào xảy ra nên nhận thức khá 
			rõ cách duy nhất để chúng tôi được thả là chính phủ phải mạnh tay 
			với Hà Nội. Vì vậy chúng tôi rất vui mừng, hò reo cổ vũ. Đám “gook” 
			thì không thích điều đó chút nào, nhưng chúng tôi cóc để ý. Với 
			chúng tôi thì rõ ràng là đàm phán sẽ không giải quyết được vấn đề. 
			Lý do duy nhất tại sao Bắc Việt bắt đầu chịu đàm phán vào tháng 10 
			năm 1972 bởi vì họ cũng có thể đọc được các thăm dò và biết rằng 
			Nixon sẽ chiến thắng áp đảo trong việc tái tranh cử nên họ muốn đàm 
			phán Hiệp định đình chiến trước bầu cử.
			
			Tôi ngưỡng mộ sự dũng lược của Tổng Thống Nixon. Có thể có chỉ trích 
			ông trong vài điều, như vụ Watergate chẳng hạn. Nhưng ông phải đưa 
			ra những quyết định không được ủng hộ lắm mà tôi có thể tưởng tượng 
			như thả mìn, phong tỏa, ném bom. Tôi biết làm điều đó rất, rất là 
			khó khăn cho ông nhưng đó là điều để kết thúc chiến tranh. Tôi nghĩ 
			lý do ông hiểu điều này vì ông có kinh nghiệm đối phó với Cộng sản. 
			Ông biết sử dụng chiến thuật cây gậy và củ cà rốt. Chuyến công du 
			của ông tới Trung cộng và khi ký Hiệp ước Giới hạn Vũ khí Chiến lược 
			với Nga được dựa trên thực tế là chúng ta mạnh hơn Cộng sản nên họ 
			mới đàm phán. Họ chỉ hiểu khi dùng vũ lực. Và đó là lý do tại sao 
			bây giờ tôi vẫn còn khó hiểu là trong khi mọi người đều biết rằng 
			việc ném bom cuối cùng đã dẫn đến thỏa thuận ngừng bắn, thì tại sao 
			mọi người vẫn chỉ trích chính sách đối ngoại của ông? Sau cuộc tấn 
			công Tết Mậu Thân 1968, Bắc Việt lên mặt hẳn. Họ biết Tổng Thống 
			Johnson sẽ ngừng thả bom trước cuộc bầu cử 1968. Tháng Năm 1968, hai 
			tướng Bắc Việt thẩm vấn tôi trong hai lần riêng biệt thì cả hai đều 
			nói hầu như giống nhau từng chữ rằng: “Sau khi chúng tôi giải phóng 
			miền Nam thì sẽ sang giải phóng Campuchia. Sau Campuchia sẽ đến Lào 
			và sau Lào, chúng tôi sẽ giải phóng sang Thái Lan, Malaysia, Miến 
			Điện. Chúng tôi sẽ giải phóng hết cả khu vực Đông Nam Á”. Họ làm tôi 
			chẳng còn nghi ngờ gì nữa về âm mưu của họ không chỉ riêng với Nam 
			Việt Nam. Một số người cười cợt bác bỏ “lý thuyết domino” nhưng Bắc 
			Việt tin vào nó, chưa bao giờ chối bỏ nó. Hồ Chí Minh đã phát biểu 
			nhiều, rất nhiều lần rằng, “Chúng ta tự hào ở tuyến đầu trong cuộc 
			đấu tranh vũ trang giữa phe Xã hội Chủ nghĩa và bọn đế quốc Mỹ xâm 
			lược”. Nó hiện hình không còn là cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh 
			giành độc lập cho miền Nam Việt Nam mà mang đúng nghĩa những gì ông 
			ta đã nói. Đó là tất cả những gì chủ nghĩa Cộng sản nhắm tới: một 
			cuộc đấu tranh vũ trang để lật đổ các nước Tư bản Chủ nghĩa. Tôi đọc 
			nhiều sách lịch sử của họ. Họ đưa chúng tôi khá các loại sách tuyên 
			truyền. Tại thời điểm sau Tết Mậu Thân này, Bắc Việt nghĩ rằng họ đã 
			thắng cuộc chiến. Họ nghĩ họ làm tướng Westmoreland mất chức. Họ tin 
			rằng họ làm đắm cơ hội để Johnson tái đắc cử. Và họ nghĩ rằng đa số 
			người dân Mỹ đứng về phía họ. Đó là lý do tại sao họ oang oang tham 
			vọng của mình quá sớm vì đánh giá sai bản lĩnh của Tổng Thống Nixon.
			
			Quay trở lại vụ đánh bom Tháng 12 thì thoạt đầu, Bắc Việt có lẽ có 
			rất nhiều hỏa tiễn SAM trong tay nhưng ngày càng thấy bắn ít dần, có 
			nghĩa họ đã xài gần hết. Ngoài ra, trong vài ngày đầu tiên thì B-52 
			thả bom chủ yếu ngay quanh Hà Nội, sau đó trải ra xa thành phố thì 
			theo tôi nghĩ, ta đã phá hủy được tất cả các mục tiêu quân sự trong 
			Hà Nội. Tôi không biết số lượng phi hành đoàn B-52 bị bắn rơi bởi vì 
			họ chỉ đưa các phi công bị thương vào trại của chúng tôi. Thái độ 
			của các phi công chúng ta rất tốt. Tôi hỏi một phi công trẻ khóa 
			West Point 70 rằng “Anh nghĩ sao khi nhận lịnh ném bom Hà Nội?” Anh 
			trả lời, “Tinh thần chúng tôi tăng vọt”. Tôi cũng nghe có một phi 
			công B-52 khước từ nhiệm vụ trong vụ đánh bom Giáng sinh. Bạn luôn 
			gặp chuyện kiểu đó, gặp những người khi khó khăn thì họ bị lương tâm 
			cắn rứt. Tôi muốn nói điều này với bất cứ ai trong quân đội rằng, 
			nếu anh không biết quốc gia mình đang làm cái gì thì nên tìm hiểu 
			chúng và nếu thấy mình không thích điều quốc gia mình đang làm thì 
			hãy đứng ngoài trước khi mọi chuyện được quyết định.
			
			Một khi trở thành một tù binh chiến tranh, anh không có quyền bất 
			đồng chính kiến, bởi vì những gì anh làm sẽ tổn hại đến quốc gia của 
			mình. Anh không còn nói với tư cách cá nhân, mà nói như một quân 
			nhân của quân đội Hoa Kỳ và mang trách nhiệm trung thành với Tổng Tư 
			Lệnh chứ không phải với lương tâm của mình. Vài bạn tù của tôi đã 
			không làm vậy nhưng chỉ là một thiểu số rất nhỏ. Tôi tự hỏi họ có 
			nên bị truy tố không và thấy chẳng dễ dàng để trả lời chút nào. Nó 
			có thể phá hủy hình ảnh đẹp của phần lớn chúng tôi mang về từ địa 
			ngục đó. Hãy nhớ rằng, một số kẻ thay lòng đổi dạ sau chiến tranh 
			Triều Tiên đã làm phần lớn dân Mỹ nghĩ rằng hầu hết các tù binh 
			trong cuộc chiến này cũng là những kẻ phản bội. Nếu họ có bị xét xử 
			thì không phải vì lập trường chống chiến tranh của họ, mà vì họ đã 
			hợp tác với Bắc Việt đến mức độ gây nguy hại cho các tù binh khác. 
			Và có điều này cần xem xét: Hoa Kỳ sẽ có những cuộc chiến tranh khác 
			để chiến đấu cho đến khi Cộng sản từ bỏ chủ thuyết bạo lực lật đổ 
			chúng ta, những người này phải chịu sự lên án để sẽ không gây tiền 
			lệ cho thái độ làm tổn hại quốc gia trong những cuộc chiến tương 
			lai.
			
			Vào cuối Tháng Giêng năm nay (1973), chúng tôi biết việc kết thúc 
			chiến tranh đã đến gần. Tôi bị chuyển đến “Đồn Điền” và được cho ở 
			chung theo nhóm được phân loại theo thời gian bị bắn hạ. Họ đã chuẩn 
			bị sẵn sàng để trả tù binh theo nhóm. Đó là ngày 20 Tháng Giêng. Kể 
			từ đó, mọi chuyện trở nên dễ chịu, họ chẳng sách nhiễu chúng tôi 
			nữa. Nhưng theo kiểu của họ thì chúng tôi vẫn bị ăn uống kham khổ 
			trong khoảng hai tuần, chỉ đêm trước khi được trao trả mới được ăn 
			một bữa no nê ngon lành. Có một điều rất thú vị là sau khi tôi trở 
			về, Henry Kissinger có kể với tôi rằng khi ông ở Hà Nội để ký thỏa 
			thuận cuối cùng, Bắc Việt có đề nghị cho phép ông ta có thể mang một 
			người cùng theo về Washington và đó là tôi. Tất nhiên là ông từ chối 
			và tôi đã cảm ơn ông về điều đó rất nhiều, vì tôi không muốn là biệt 
			lệ. Hầu hết mọi người đều cá cược rằng tôi là người cuối cùng được 
			thả, nhưng bạn không bao giờ có thể hiểu được bọn “gook”.
			
			Không có nghi lễ đặc biệt gì khi chúng tôi rời trại. Ủy ban kiểm 
			soát Quốc tế đến và chúng tôi được phép nhìn quanh trại lần cuối. Có 
			rất nhiều phóng viên ảnh, nhưng chẳng có gì trịnh trọng. Chúng tôi 
			lên xe buýt và được đưa ra sân bay Gia Lâm. Người bạn cũ của tôi là 
			“Thỏ” đã ở đó. Hắn đứng phía trước và bảo chúng tôi: “Khi nghe tôi 
			đọc tên, các anh lên máy bay và về nhà”. Đó là ngày 15 tháng 3. Cho 
			đến tận lúc đó, tôi cũng không cho phép bản thân mình có nhiều hơn 
			một cảm giác hy vọng đầy thận trọng. Chúng tôi đã mừng hụt rất nhiều 
			lần trước đó đến độ tôi quyết định rằng mình sẽ không được phấn 
			khích cho đến khi nào bắt tay được với một người Mỹ mang quân phục. 
			Điều đó đã xảy ra tại Gia Lâm và tôi biết nó đã kết thúc thật sự. 
			Tôi chẳng thể nào diễn tả được cảm xúc của mình khi đi về chiếc phi 
			cơ Không Quân Hoa Kỳ.
			
			Bây giờ khi về nhà, tôi thấy có rất nhiều cuộc tranh cãi về quốc gia 
			chúng ta. Tôi không đồng ý lắm. Tôi nghĩ nước Mỹ ngày nay là một 
			quốc gia tốt đẹp hơn so với khi tôi rời nó sáu năm trước. Bắc Việt 
			cung cấp cho chúng tôi rất ít tin tức, ngoại trừ các tin xấu về Hoa 
			Kỳ. Chúng tôi không biết cuộc đổ bộ thành công lên mặt trăng đầu 
			tiên năm 1969 cho đến khi nó được đề cập trong bài phát biểu của 
			George McGovern rằng, Nixon có thể đưa con người lên mặt trăng nhưng 
			ông không thể kết thúc chiến tranh Việt Nam. Họ dội lên chúng tôi 
			những tin tức về cái chết của Martin Luther King và các cuộc bạo 
			loạn sau đó. Thông tin như vậy cứ liên tục nhả ra khỏi loa. Tôi nghĩ 
			Hoa Kỳ bây giờ là một quốc gia tốt đẹp hơn vì chúng tôi đã trải qua 
			một quá trình thanh lọc, tái thẩm định chính mình. Tôi thấy một tinh 
			thần tri ân về đời sống của chúng ta nhiều hơn, thấy tinh thần ái 
			quốc cao hơn và nhìn thấy Quốc kỳ tung bay khắp mọi nơi. Tôi nghe 
			thấy những giá trị mới đang được nhấn mạnh, như mối quan tâm về môi 
			trường chẳng hạn.
			
			Tôi nhận được rất nhiều thư từ các bạn trẻ và nhiều người đã gửi 
			tặng tôi những chiếc vòng đeo tay POW có tên tôi mà họ đã mang. Một số không biết gì nhiều về cuộc chiến, 
			nhưng họ có lòng ái quốc mạnh mẽ, các giá trị của họ đều tốt đẹp và 
			tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ nhìn thấy họ sẽ lớn lên thành những người 
			Mỹ tốt hơn nhiều người trong chúng ta. Những tình cảm tuôn tràn này 
			làm những người tù binh chiến tranh chúng tôi choáng ngợp và có chút 
			ngượng ngùng bởi vì trên căn bản, chúng tôi cảm thấy rằng chúng tôi 
			chỉ là người lính Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân bình 
			thường. Bất cứ ai khác ở vị trí của chúng tôi cũng làm vậy. Dự tính 
			tương lai của tôi là vẫn tiếp tục phục vụ trong Hải Quân nếu tôi còn 
			có thể bay được. Điều đó phụ thuộc vào sự thành công của các phẫu 
			thuật chỉnh hình cho cánh tay và chân tôi. Nếu tôi phải rời Hải 
			Quân, tôi hy vọng sẽ phục vụ cho chính phủ trong khả năng của mình, 
			tốt nhất trong ban đối ngoại của Bộ Ngoại Giao. Tôi đã có rất nhiều 
			thời gian để suy nghĩ trong tù và nghiệm ra rằng, một trong những 
			điều quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi người là, bên cạnh gia đình, 
			hãy đóng góp gì đó cho đất nước của mình.
 
			có tên tôi mà họ đã mang. Một số không biết gì nhiều về cuộc chiến, 
			nhưng họ có lòng ái quốc mạnh mẽ, các giá trị của họ đều tốt đẹp và 
			tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ nhìn thấy họ sẽ lớn lên thành những người 
			Mỹ tốt hơn nhiều người trong chúng ta. Những tình cảm tuôn tràn này 
			làm những người tù binh chiến tranh chúng tôi choáng ngợp và có chút 
			ngượng ngùng bởi vì trên căn bản, chúng tôi cảm thấy rằng chúng tôi 
			chỉ là người lính Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân bình 
			thường. Bất cứ ai khác ở vị trí của chúng tôi cũng làm vậy. Dự tính 
			tương lai của tôi là vẫn tiếp tục phục vụ trong Hải Quân nếu tôi còn 
			có thể bay được. Điều đó phụ thuộc vào sự thành công của các phẫu 
			thuật chỉnh hình cho cánh tay và chân tôi. Nếu tôi phải rời Hải 
			Quân, tôi hy vọng sẽ phục vụ cho chính phủ trong khả năng của mình, 
			tốt nhất trong ban đối ngoại của Bộ Ngoại Giao. Tôi đã có rất nhiều 
			thời gian để suy nghĩ trong tù và nghiệm ra rằng, một trong những 
			điều quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi người là, bên cạnh gia đình, 
			hãy đóng góp gì đó cho đất nước của mình. 
			John McCain
			Đinh Yên Thảo chuyển dịch
			
			http://vietthuc.org
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Ngày 30 Tháng 4 thứ 50" - by Bùi Xuân Cảnh / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Lịch Sử Tên Nước Việt Nam" - by Từ Thiện / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Lối Xưa Xe Ngựa Hồn Thu Thảo" - by Nguyễn Thị Chân Quỳnh / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
John McCain: Hồi ký Hỏa Lò
Lời giới thiệu: Xuất thân trong một dòng họ ba đời binh nghiệp danh tiếng khi có ông nội và cha là những Đô Đốc Hải Quân Hoa Kỳ, Thượng Nghị Sĩ John McCain là một trong các chính khách đương thời có những kinh nghiệm cá nhân sâu đậm với cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong một phi vụ oanh tạc Hà Nội vào ngày 26 Tháng 10 năm 1967, phi cơ của Thiếu tá không quân lực lượng Hải quân Hoa Kỳ John McCain, 31 tuổi, bị bắn hạ ngay trên bầu trời Hà Nội. Bị bắt sống, bị tra tấn và cầm tù trong hơn 5 năm trời, TNS McCain được trao trả tù binh vào Tháng 3 năm 1973 và đã viết về những năm tháng tù tội tại Hỏa Lò Hà Nội ngay sau khi được trả tự do. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên tờ US News & World Report vào Tháng 5 năm 1973 và được đưa lên trang mạng này vào năm 2008. Trong bức tranh Tháng Tư, chuyên mục xin chuyển dịch và giới thiệu đến độc giả một hồi ký giá trị và xác tín của TNS John McCain về những ngày ngục tù này. Bản dịch do chuyên mục đặt tựa và sẽ được đăng làm nhiều kỳ nhân dịp tưởng niệm 30 Tháng Tư năm nay. --Đinh Yên Thảo
oOo
			
Đó là 
			ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm 
			Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị 
			một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải 
			chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 
			feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần như chúi thẳng đầu xuống đất. 
			Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc 
			độ gió đâu khoảng 500 knot (chú KTT: 926 km/giờ). Lúc đó tôi không 
			nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba nơi trên 
			cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh lại 
			ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc 
			của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây. Mũ phi công và mặt 
			nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước và bị 
			chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có thể 20. 
			Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi không cảm 
			thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một hơi không khí và bắt đầu chìm 
			xuống lại. Tất nhiên là vậy vì tôi đang mang đồ bay và các thiết bị 
			trên người nặng ít nhất cũng 50 lbs. Tôi chìm xuống và cố gắng chòi 
			lên mặt nước lần nữa. Tôi không thể hiểu tại sao tôi không thể sử 
			dụng chân phải hay tay của mình. Tôi choáng váng, trồi lên lần nữa 
			và lại bị chìm xuống. Lần này thì tôi không thể trồi lên lại mặt 
			nước. Mang chiếc áo phao cứu sinh trên người, tôi cúi xuống dùng 
			miệng kéo dây và cuối cùng cũng nổi lên lại mặt nước.
			
			Vài cán binh Bắc Việt đã bơi ra kéo tôi vào bờ và ngay lập tức họ 
			bắt đầu lột đồ tôi ra, theo như thủ tục chung của họ. Tất nhiên vì 
			đây là ngay trung tâm thành phố nên có đông người tụ tập, và tất cả 
			bọn họ đã hò reo, gào hét, chửi rủa, phun nước miếng và đá tôi túi 
			bụi. Khi họ đã cởi gần hết quần áo của tôi ra, tôi mới bắt đầu thấy 
			đau nhói nơi đầu gối phải. Tôi gượng dậy và nhìn xuống nó. Bàn chân 
			phải nằm xéo lên đầu gối trái của tôi, gần như vuông góc. Tôi thốt 
			lên, “Chúa ơi! Chân tôi”. Dường như điều này làm họ điên tiết dù tôi 
			không biết lý do tại sao. Một kẻ trong số họ dộng báng súng trường 
			xuống vai tôi một cú khá nặng. Một kẻ khác đâm lưỡi lê vào chân tôi. 
			Đám đông này thực sự đang nổi cuồng. Ngay lúc đó, một thanh niên 
			xuất hiện và hét nạt đám đông dạt ra. Một người phụ nữ khác đỡ tôi 
			dậy và kề lên miệng tôi tách trà, trong lúc có mấy tay chụp hình bấm 
			vài pô hình. Điều này làm đám đông dịu lại một chút. Thế rồi họ đưa 
			tôi lên cáng, khiêng vào một chiếc xe tải và chở thẳng đến nhà tù 
			chính của Hà Nội. Tôi được đưa vào một xà lim và đặt xuống sàn nhà. 
			Tôi vẫn còn nằm trên cáng, chỉ mặc đồ lót và có khoác cho một tấm 
			chăn lên người.
			
			Trong ba hay bốn ngày sau, tôi tỉnh lại vài lần giữa cơn mê man bất 
			tỉnh. Dù vậy tôi cũng bị đưa ra khảo cung nhiều lần – điều mà chúng 
			tôi gọi là một cuộc “kiểm tra vấn đáp”. Đó là những lúc tôi bị đánh 
			với đủ gán ghép về tội phạm chiến tranh. Bắt đầu bị đánh ngay ngày 
			đầu tiên. Tôi không thèm khai bất cứ điều gì ngoại trừ họ tên, cấp 
			bậc, số quân và ngày tháng năm sinh. Họ đánh tôi dập vùi, đánh tôi 
			bất tỉnh. Họ liên tục hăm dọa, “Mày sẽ không nhận được bất kỳ chữa 
			trị thuốc men gì cho đến khi mày mở miệng”. Tôi không tin lắm. Tôi 
			nghĩ rằng nếu ráng cầm cự, thế nào rồi họ cũng đưa tôi đến bệnh 
			viện. Tôi được tên lính canh cho ăn một tí thức ăn và uống chút 
			nước. Nước thì tôi còn nuốt được, nhưng đồ ăn vẫn tiếp tục bị ói ra. 
			Lúc đó, bọn họ chỉ muốn khảo tin tức quân sự chứ không phải tin tức 
			chính trị. Nhưng mỗi khi họ hỏi tôi một cái gì đó, thì tôi cũng chỉ 
			khai tên họ, cấp bậc, số quân và ngày tháng năm sinh chừng đó. Tôi 
			nghĩ đến đâu ngày thứ tư gì đó thì có hai tên bước vào, thay vì chỉ 
			một. Một tên kéo tấm chăn để chỉ cho tên kia vết thương của tôi. Tôi 
			nhìn xuống đầu gối. Kích thước, hình dạng và màu sắc của trái banh 
			sao thì nó cũng y vậy. Tôi còn nhớ khi tôi còn là một sĩ quan huấn 
			luyện bay thì một đồng ngũ của tôi cũng đã bị đẩy ra khỏi máy bay 
			của anh và bị gãy đùi. Chân bị tụ máu và rồi anh bị chết, một điều 
			khá bất ngờ đối với chúng tôi – khi có người chết vì bị gãy chân. 
			Tôi nhận ra rằng tôi cũng đang bị y hệt như vậy.
			
			Khi tôi nhìn thấy vậy, tôi nói với người lính canh, “OK, cho tôi gặp 
			cấp trên các anh”. Chỉ dăm phút, một sĩ quan tới, đó là người mà 
			chúng ta sẽ còn biết rõ về sau, tạm gọi là “Con Rệp”. Hắn ta là một 
			kẻ tra tấn tâm thần, một trong những quái vật tồi tệ nhất mà chúng 
			tôi phải đối phó. Tôi nói, “OK, tôi sẽ cung cấp cho anh tin tức quân 
			sự nếu anh đưa tôi đến bệnh viện”. Hắn rời phòng và trở lại với một 
			bác sĩ, một gã mà chúng ta gọi là “Zorba”, một tên hoàn toàn không 
			có khả năng. Hắn cúi xuống bắt mạch. Hắn không nói được tiếng Anh, 
			nhưng lắc đầu và lúng búng gì đó với “Con Rệp”. Tôi hỏi: “Các anh có 
			đưa tôi đến bệnh viện không?” “Con Rệp” trả lời, “Trễ rồi”. Tôi nói, 
			“Nếu anh đưa tôi đến bệnh viện, tôi sẽ hồi phục”. “Zorba” bắt mạch 
			tôi lần nữa, và lặp đi lặp lại, “Đã quá trễ”. Họ đứng dậy và bỏ đi, 
			để tôi nằm lại bất tỉnh. Chỉ một lúc sau, “Con Rệp” ập vào phòng hét 
			toáng lên, “Cha mày là một đô đốc gộc. Bây giờ bọn tao sẽ đưa mày 
			đến bệnh viện”.
			
			Tôi kể lại chuyện này để nói lên điều này: Khó mà có tù nhân cụt tay 
			chân nào còn sống sót trở về vì bọn Bắc Việt sẽ chẳng mất thì giờ 
			chữa trị cho những ai bị trọng thương. Chỉ riêng việc chuyển từ kiểu 
			đời sống tại Mỹ sang chốn lao tù bẩn thỉu, bụi bặm và nhiễm trùng, 
			cũng đã khó cho ai còn sống sót. Trong thực tế, nội việc chữa trị 
			tôi trong bệnh viện cũng đã xém làm tôi mất mạng.
			
			Tôi thức dậy một vài lần trong ba bốn ngày sau. Huyết thanh và máu 
			đang được truyền cho tôi. Tôi trở nên khá tỉnh táo. Căn phòng mà tôi 
			nằm không đến nỗi nhỏ lắm, khoảng đâu 15×15 feet, nhưng dơ dáy bẩn 
			thỉu và bị trũng, mỗi khi trời mưa thì nước ngập sàn cũng từ nửa đến 
			một inch. Tôi chẳng được tắm rửa lấy một lần trong bệnh viện. Tôi 
			cũng gần như không hề thấy bóng dáng một bác sĩ hoặc một y tá nào, 
			ngoại trừ bác sĩ có ghé liếc sơ tôi vài lần. Họ nói tiếng Pháp chớ 
			không phải tiếng Anh.
			
			Người canh tôi là thằng bé 16 tuổi, chắc vừa lên khỏi ruộng lúa. Trò 
			tiêu khiển ưa thích của thằng bé là ngồi cạnh giường tôi và đọc một 
			cuốn truyện có vẽ hình một ông già cầm khẩu súng trường trong tay, 
			đang ngồi trên thân máy bay một chiếc F-105 bị bắn hạ. Thằng bé chỉ 
			trỏ gì đó vào mình, rồi tát và đánh tôi. Nó làm điều đó một cách đầy 
			khoái trá. Nó đút tôi ăn vì cả hai cánh tay của tôi đã bị gãy. Nó 
			bưng vào chén mì gói có chút xương sụn, rồi đút tôi. Các xương sụn 
			rất khó nhai. Tôi ngậm đầy miệng đâu ba bốn muỗng gì đó rồi nuốt 
			trộng. Tôi chẳng ăn thêm được nữa, thế là thằng bé bưng ăn hết. Mỗi 
			ngày hai lần tôi ăn khoảng ba hoặc bốn muỗng thức ăn như vậy.
			
			Tôi nằm đó đâu khoảng 10 ngày, thì một buổi sáng có một tên “gook”- 
			kiểu chúng ta gọi bọn Bắc Việt – đến. Gã này nói tiếng Anh rất giỏi. 
			Hắn hỏi thăm tôi rồi bảo, “Chúng tôi có một người Pháp đến thăm Hà 
			Nội và muốn mang tin tức về cho gia đình của anh”. Đóng chút ngây 
			ngô vào lúc đó – vì cần phải khôn ngoan hơn với những loại người này 
			– tôi hình dung chuyện này cũng chẳng thiệt thòi gì, nếu anh chàng 
			này đến gặp tôi và quay về thông báo cho gia đình tôi rằng tôi vẫn 
			còn sống sót. Khi đó tôi chưa biết được rằng tên của tôi đã được 
			công bố trong chiến dịch tuyên truyền rầm rộ của Bắc Việt và bọn họ 
			rất hí hửng vì đã bắt được tôi. Họ nói với một số bạn của tôi khi 
			tôi bị bắt rằng, “Chúng tôi đang nắm thái tử trong tay”, làm tôi 
			cũng mắc cười. Họ bảo tay người Pháp sẽ tới thăm tôi tối đó. Khoảng 
			trưa, tôi được đặt lên chiếc xe lăn và đưa vào phòng mổ để băng bột 
			tay phải cho tôi. Họ rất vất vả để nối xương lại với nhau, bởi vì 
			cánh tay tôi đã bị gãy ba nơi, có hai khúc bị trôi dật dờ. Tôi phải 
			chứng kiến cảnh một gã vật lộn để sắp lại xương tay cho mình trong 
			khoảng một giờ rưỡi đồng hồ mà không có thuốc tê. Sự đau đớn tột độ 
			làm tôi xỉu đi nhiều lần. Cuối cùng hắn ta đành bỏ cuộc và gắn cái 
			ngực băng bột vào tôi. Điều này làm tôi kiệt sức và đó là lý do tại 
			sao sau này, khi một số phim truyền hình được quay, nhiều người xem 
			thấy tôi như thể đang bị say thuốc là vậy. Khi mọi chuyện đã xong, 
			họ đưa tôi vào một căn phòng lớn với một chiếc giường ra trắng tươm 
			tất. Tôi nghĩ, “Boy, mọi thứ coi bộ thực sự khá hơn”. Tay lính canh 
			nói với tôi: “Bây giờ mày sẽ ở trong căn phòng mới này”.
			
			Khoảng một giờ thì một gã đàn ông được gọi là “Mèo” đến. Về sau tôi 
			mới biết rằng hắn ta là người đã phụ trách tất cả các trại tù binh 
			tại Hà Nội cho đến cuối năm 1969. Hắn khá lanh lợi, một loại trí 
			thức đang nắm quyền Bắc Việt. Hắn nằm trong Cục chính trị của Đảng 
			Lao động Việt Nam. Điều đầu tiên hắn làm là đưa tôi nhận diện thẻ 
			quân của Đại tá John Flynn – tức tướng John Flynn bây giờ –viên chỉ 
			huy cao cấp của chúng tôi. Ông cũng bị bắn hạ trong cùng một ngày 
			với tôi. “Mèo” nói qua một thông dịch viên, hắn không nói tiếng Anh 
			lúc đó. “Người của truyền hình Pháp đang đến”. Tôi nói, “Tôi không 
			nghĩ rằng tôi muốn được quay phim”. Hắn xẵng giọng, “Anh cần hai 
			cuộc giải phẫu, và nếu anh không nói chuyện với anh ta thì chúng tôi 
			sẽ lấy lớp băng bột ở ngực anh ra và anh sẽ không được giải phẫu gì 
			thêm nữa”. Hắn tiếp: “Anh phải nói rằng anh biết ơn nhân dân Việt 
			Nam và xin lỗi về những tội ác của mình”. Tôi nói với hắn ta là tôi 
			sẽ không làm điều đó.
			
			Cuối cùng, một người Pháp tên là Chalais bước vào, một tay Cộng sản, 
			như tôi biết ra sau đó, cùng với hai phóng viên ảnh khác. Ông ta hỏi 
			tôi về sự đối xử và tôi nói với ông là thỏa đáng. “Mèo” và 
			“Chihuahua”, một tên thẩm vấn khác, nhắc sau lưng tôi để nói theo 
			rằng, tôi rất biết ơn cho việc chữa trị khoan hồng và nhân đạo của 
			họ. Tôi từ chối, và khi chúng ép tôi, Chalais nói: “Tôi nghĩ rằng 
			những gì ông nói với tôi cũng đủ rồi”. Sau đó Chalais hỏi tôi có 
			nhắn tin gì về cho gia đình. Tôi bảo với ông là hãy nhắn vợ và những 
			người khác trong gia đình là tôi đang hồi phục và rất yêu thương họ. 
			Một lần nữa, từ đàng sau, “Mèo” khăng khăng bắt tôi nói thêm đại 
			loại là hy vọng rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc để tôi có thể được 
			về nhà. Chalais cứng rắn cắt ngang lời hắn ta, bảo rằng ông đã hài 
			lòng với câu trả lời của tôi. Ông đã giúp tôi thoát khỏi một tình 
			huống đầy khó khăn. Chalais ở ngay Paris. Vợ tôi sau đó đã bay sang 
			đó gặp ông ta và ông đã cho cô ấy một bản sao đoạn phim, về sau được 
			chiếu trên đài truyền hình CBS tại Mỹ. Ngay khi ông vừa đi khỏi, bọn 
			chúng lập tức đưa tôi lên xe đẩy và tống về lại căn phòng bẩn thỉu 
			trước đó.
			
			Sau đó, đã có nhiều người đã đến nói chuyện với tôi. Không phải ai 
			trong họ cũng đến để thẩm vấn. Có lần một nhà văn già có chòm râu 
			dài như Hồ Chí Minh và nổi tiếng của Bắc Việt đến phòng của tôi, 
			muốn trò chuyện về Ernest Hemingway (Chú KTT: Đó là nhà văn Nguyễn 
			Tuân, người đã đưa cuộc nói chuyện này vào tập bút ký “Hà Nội ta 
			đánh Mỹ giỏi” theo chỉ thị đảng để ca ngợi chính sách “nhân đạo” 
			(!?) của đảng với tù binh chiến tranh). Tôi nói với ông ta rằng 
			Ernest Hemingway chống Cộng bằng vũ lực. Nó cho ông ta một điều gì 
			đó để suy nghĩ. Những người khác đến để tìm hiểu về đời sống ở Mỹ. 
			Họ hình dung rằng cha tôi cấp bậc quân sự cao như vậy, tất tôi phải 
			được nhiều đặc quyền và trong vòng quyền lực. Họ không có khái niệm 
			gì hết về cách vận hành dân chủ của chúng ta. Một trong những người 
			đàn ông đến gặp tôi là tướng Võ Nguyên Giáp, được gọi là người hùng 
			của Điện Biên Phủ mà tôi nhận biết qua ảnh sau này. Ông đến xem tôi 
			ra sao, mà không nói gì. Ông là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng và nằm trong 
			Trung Ương Đảng Cộng sản Bắc Việt.
			
			Khoảng hai tuần sau, tôi đã được đưa vào giải phẫu chân có quay 
			phim. Họ chẳng hề chữa trị gì cánh tay trái bị gãy của tôi. Nó tự 
			lành. Họ bảo chân tôi cần hai cuộc giải phẫu, nhưng vì tôi đã có một 
			“thái độ xấu” nên họ sẽ không cho làm cuộc thứ hai. Tôi cũng chẳng 
			biết họ đã làm cái quỷ gì trên chân tôi. Nhưng bây giờ quay về Mỹ, 
			một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình sẽ mổ và xem xét lại. Chưa gì ông 
			đã báo với tôi rằng họ đã rạch sai đường mổ và cắt hết gân chằng ở 
			một bên. Tôi ở trong bệnh viện khoảng đâu sáu tuần, sau đó được đưa 
			đến một trại giam ở Hà Nội tạm gọi là “Đồn Điền”. Đó là vào cuối 
			Tháng 12 năm 1967. Tôi được đưa vào chung một xà lim với hai người 
			khác là George Day và Norris Overly, cả hai cùng là Thiếu tá Không 
			quân. Tôi nằm trên cáng, chân còn cứng đơ và bộ ngực băng bột mà tôi 
			đã mang được khoảng hai tháng. Từ trọng lượng bình thường 155 lbs, 
			tôi tụt xuống còn khoảng 100 lbs. Sau này Thiếu Tá Day kể họ không 
			nghĩ tôi sống thêm quá một tuần. Tôi cố gượng ngồi dậy được. Mỗi 
			ngày tôi ngủ mê man khoảng 18 giờ, 20 giờ. Họ đã phải chăm sóc mọi 
			thứ cho tôi. Họ được phép xách một xô nước để thỉnh thoảng rửa ráy 
			cho tôi. Họ đút tôi ăn và chăm sóc tận tụy, và tôi hồi phục rất 
			nhanh.
			
			Chúng tôi chuyển đến một căn phòng khác ngay sau lễ Giáng sinh. Vào 
			đầu Tháng Hai năm 1968, Thiếu Tá Overly được đưa ra khỏi phòng của 
			chúng tôi và được trả tự do cùng với David Matheny và John Black. Họ 
			là ba người tù binh đầu tiên được Bắc Việt trao trả. Tôi hiểu họ đã 
			được khuyến dụ là không nên nói gì về việc đối xử tù nhân, để không 
			gây nguy hiểm cho những người của chúng ta vẫn còn đang bị giam cầm. 
			Chỉ còn lại Day và tôi một mình với nhau. Ông còn bó bột tay phải vì 
			bị bắn sau lần ông đã bị bắt tận phía Nam, định vượt trốn và bị bắt 
			lại lần nữa. Ngay sau khi tôi đã có thể đi được, vào khoảng Tháng 3 
			năm 1968, thì Thiếu Tá Day bị chuyển đi.
			
			Tôi bị biệt giam từ thời điểm 1968 đó trong hơn hai năm trời. Tôi 
			không được phép gặp mặt, nói chuyện hay giao tiếp với bất kỳ tù nhân 
			đồng ngũ nào. Phòng giam của tôi tạm vừa phải- khoảng 10×10, có cửa 
			ra vào chắc chắn mà không có cửa sổ. Hệ thống thông gió là hai lỗ 
			nhỏ ở trên trần nhà, khoảng 6×4 inch. Mái nhà bằng thiếc nên phòng 
			nóng như thiêu. Phòng mờ mờ đêm cũng như ngày, nhưng họ luôn bật một 
			bóng đèn nhỏ để có thể quan sát tôi. Tôi bị nhốt trong đó suốt hai 
			năm.
			
			Theo cái kiểu bị biệt giam này thì điều quan trọng nhất để tồn tại 
			là liên lạc được với một ai đó, đôi khi nó chỉ là cái vẫy tay hoặc 
			một cái nháy mắt, gõ vào tường, hoặc có ai đưa ngón tay ra hiệu cũng 
			làm mọi chuyện khác đi. Nó cũng rất là quan trọng để giữ cho đầu óc 
			mình làm việc và tất cả chúng tôi đều làm việc này. Một số người 
			thích toán học nên họ nhẩm các phép toán phức tạp trong đầu vì chúng 
			tôi chưa bao giờ được phép có giấy bút. Vài người khác thì xây nhà 
			trong đầu, xây từ tầng hầm lên trên. Tôi thì thiên về triết học. Tôi 
			từng đọc rất nhiều sách về lịch sử nên đã dành hết ngày này đến ngày 
			khác để ôn lại trong đầu những cuốn sách lịch sử này, suy diễn nơi 
			nào nước này hay nước khác đã sai đường, hay Mỹ nên làm gì trong 
			lĩnh vực đối ngoại. Tôi cũng suy niệm rất nhiều về ý nghĩa của đời 
			sống. Cũng dễ dàng rơi vào sự tưởng tượng. Tôi đã từng viết sách và 
			kịch trong tâm trí mình, nhưng tôi nghi ngờ rằng trong số này chẳng 
			có cuốn nào hơn được mức tiểu thuyết rẻ tiền nhất. Người ta đã hỏi 
			tôi làm cách nào mà chúng tôi có thể nhớ được những chi tiết như mật 
			mã, con số, tên họ cùng mọi thứ khác. Thực tế là, khi anh không có 
			bất cứ điều gì khác để suy nghĩ, không bị chia trí thì nó thật dễ 
			dàng. Kể từ khi tôi đã quay lại đây thì lại rất khó cho tôi để nhớ 
			cả những điều đơn giản, ví dụ như tên của một người mà tôi vừa mới 
			gặp. Trong thời gian bị biệt giam, tôi nhớ tên của tất cả 335 tù 
			nhân chiến tranh ở Bắc Việt. Tôi vẫn còn nhớ chúng. Điều bạn phải 
			chống chọi với nó là nỗi lo lắng. Nội tình trạng thể chất mình cũng 
			dễ gây căng thẳng. Một lần tôi bị trĩ và đầu óc tôi bị chết dính vào 
			nó khoảng ba ngày. Cuối cùng, tôi nhủ, “Coi McCain, mày có từng biết 
			thằng nào chết vì bệnh trĩ chưa?” Vì vậy tôi bỏ mặc không nghĩ ngợi 
			nữa và sau vài tháng thì nó tự khỏi.
			
			Câu chuyện của Ernie Brace minh họa cho việc liên lạc là quan trọng 
			với chúng tôi thế nào. Lúc tôi đang bị nhốt tại “Đồn Điền” vào tháng 
			10 năm 1968, có một căn phòng phía sau phòng tôi. Tôi nghe vài tiếng 
			động bên đó vì vậy tôi bắt đầu gõ nhẹ vào tường. Tín hiệu mà chúng 
			tôi gọi là “cạo râu và cắt tóc” để anh chàng khác sẽ gõ lại hai 
			tiếng. Trong hai tuần, tôi không nghe động tĩnh, nhưng cuối cùng thì 
			có hai tiếng gõ. Tôi bắt đầu gõ theo bảng chữ cái – một cái là “a”, 
			hai cái là “b” và cứ vậy. Rồi tôi bảo: “Áp tai vào tường”. Cuối cùng 
			anh ta đến và tôi áp cái cốc vào tường, nói cho anh ta nghe được. 
			Tôi chỉ cho anh mã gõ và các thông tin khác. Anh nói tên mình là 
			Ernie Brace. Ngay lúc đó thì có tên lính canh lai vãng, tôi nói với 
			Ernie, “Thôi, ngày mai tôi gọi lại cho anh”. Cũng mất vài ngày anh 
			ta mới quay lại bức tường. Anh chỉ nói được “Tôi là Ernie Brace” rồi 
			bắt đầu khóc nức nở. Sau khoảng hai ngày thì anh dằn được cảm xúc 
			của mình, và trong vòng một tuần anh chàng này đã biết cách gõ, giao 
			tiếp, nhắn tin và làm rất tốt về sau. Ernie là một phi công dân sự 
			bị bắn rơi ở Lào. Anh bị cùm chân trong một cái lồng tre trong rừng, 
			cổ bị xích lại trong ba năm rưỡi, hầu như chẳng sử dụng đến đôi 
			chân. Anh trốn thoát ba lần và sau lần thứ ba bị bắt lại, anh bị 
			chôn đứng xuống đất, chỉ chừa lại cái đầu.
			
			Trong những ngày đó, vẫn vào năm 1968, theo lẽ là chúng tôi được 
			phép tắm cách ngày. Nhưng cái trại này thiếu nước nên đôi khi hai ba 
			tuần, cả tháng cũng không được tắm. Tôi có một tên chuột cống canh 
			ngục, lúc nào cũng đưa tôi ra sau chót. Bồn tắm kiểu cái chuồng ngựa 
			đổ bê-tông. Sau khi tất cả mọi người tắm, thường là không còn nước 
			dư nhưng tôi cũng bị tống vào đứng không năm phút “tiêu chuẩn tắm” 
			rồi bị đưa về lại phòng. Chuyện vệ sinh thì tôi được phát cho cái xô 
			có nắp đậy không vừa miệng. Ngày nào cũng phải đổ nhưng có người 
			khác xách giùm vì tôi còn đi chưa nổi. Từ lúc Day và Overly rời tôi, 
			Day rời vào tháng 2 còn Overly thì tháng 3 năm 1968, việc đối xử căn 
			bản là có đỡ. Khi tôi bị bắt gặp đang gõ tín hiệu, liên lạc với 
			người phòng khác hay đại loại vậy thì chỉ bị tặc lưỡi “Tắc, tắc! 
			Không được thế, không được thế”. Thật vậy, tôi nghĩ cũng không đến 
			nỗi nào.
			
			Ngày 15 tháng 6 năm 1968, một đêm tôi bị đưa lên phòng thẩm vấn. 
			“Mèo” và một gã đàn ông khác mà chúng ta gọi là “Thỏ” đang ở đó. 
			“Thỏ” nói tiếng Anh rất giỏi. “Mèo” là chỉ huy của tất cả các trại 
			tù tại thời điểm đó. Với tôi, hắn làm như không nói được tiếng Anh, 
			mặc dù rõ ràng theo tôi thì hắn biết, vì trong các cuộc trò chuyện, 
			hắn đặt câu hỏi hoặc nói chuyện trước khi “Thỏ” dịch những gì tôi 
			nói. Như bạn biết, người phương Đông hay nói vòng vo một chút. Đêm 
			đầu tiên, “Mèo” nói chuyện với tôi khoảng hai tiếng. Tôi không biết 
			ý hắn ra sao nhưng đại loại hắn nói với tôi là hắn từng quản các 
			trại tù binh Pháp trong những năm 1950 và đã tha cho một vài người, 
			và rằng gần đây hắn gặp lại thì họ đã cám ơn về lòng tốt của hắn. 
			Hắn bảo Overly đã về nhà “với danh dự”. Tôi thực sự không biết phải 
			nghĩ gì, bởi vì tôi đã từng có những cuộc thẩm vấn khác mà tôi chẳng 
			khai báo. Lần này thì họ không tra tấn tôi. Họ chỉ nói rằng tôi sẽ 
			không bao giờ được về nhà và sẽ bị xét xử như một tội phạm chiến 
			tranh. Đó là đề tài thường xuyên của họ trong nhiều tháng. Đột nhiên 
			“Mèo” hỏi tôi:
			
			- Anh có muốn về nhà không?
			
			Tôi sững người và tôi nói với bạn rất thẳng thắn rằng, tôi đã trả 
			lời rằng tôi phải suy nghĩ về nó. Tôi trở về phòng và nghĩ ngợi khá 
			lâu. Tôi đâu liên lạc được các sĩ quan cấp trên để có thể nhận được 
			lời khuyên. Tôi lo liệu tôi có còn sống hay không bởi vì tôi đang ở 
			trong tình trạng khá xấu. Tôi vừa bị kiết lỵ khoảng một năm rưỡi 
			nay, bị sụt cân lần nữa. Nhưng tôi hiểu quân cách sĩ quan rằng 
			“không chấp nhận ân huệ hoặc ân xá” và “sẽ không chấp nhận ưu đãi 
			đặc biệt nào”, vì đối với ai đó được về nhà trước đó là một đặc ân 
			đặc biệt. Không thể phá quân cách này. Ba đêm sau tôi được đưa trở 
			lại. Hắn hỏi lại: “Anh có muốn về nhà không?”. Tôi nói: “Không”. Hắn 
			ta muốn biết lý do, và tôi trả lời lý do. Tôi nói rằng, Alvarez 
			(người Mỹ đầu tiên bị bắt) cần được thả đầu tiên, sau đó là các binh 
			lính. “Mèo” nói với tôi rằng Tổng thống Lyndon Johnson đã ra lệnh 
			cho tôi về nhà. Hắn đưa cho tôi một lá thư từ vợ tôi, trong đó cô đã 
			viết: “Em ước chi anh là một trong ba người đã trở về nhà”. Tất 
			nhiên, cô không cách nào hiểu được những phức tạp phía sau. “Mèo” 
			cho biết rằng các bác sĩ đã nói với hắn rằng tôi không thể sống nổi 
			trừ khi tôi được chữa trị tại Mỹ. Chúng tôi cứ vờn nhau điều này và 
			tôi vẫn mực nói “Không”. Ba đêm tiếp sau đó cũng cứ như vậy. Trong 
			sáng lễ Độc Lập 4 tháng 7 năm 1968, cùng một ngày cha tôi được thăng 
			quyền Tổng Tư Lệnh Thái Bình Dương các lực lượng Hoa Kỳ, tôi được 
			dẫn vào một căn phòng thẩm tra khác. “Thỏ” và “Mèo” đã ngồi ở đó. 
			Tôi bước vào và ngồi xuống. “Thỏ” nói:
			
			- Cấp trên chúng tôi muốn biết câu trả lời cuối cùng của anh. – Câu 
			trả lời cuối cùng của tôi cũng vậy. Đó là “Không”. – Câu trả lời 
			cuối cùng của anh phải không? – Đó là câu trả lời cuối cùng của tôi.
			
			“Mèo” đang ngồi với một đống giấy tờ trước mặt và một cây viết trong 
			tay, hắn bẻ đôi cây viết, mực văng tung tóe. Hắn đứng lên, đá sầm 
			cái ghế phía sau và nói: “Chúng dạy mày tốt lắm. Chúng dạy mày tốt 
			lắm”. Tôi có thể thêm vào là, hắn nói bằng một giọng Anh rất chuẩn. 
			Hắn quay ngoắt người, bước ra ngoài và đóng sầm cửa lại, để lại 
			“Thỏ” và tôi ngồi lại. “Thỏ” nói: “Bây giờ, McCain, chuyện sẽ rất 
			xấu cho anh đó. Về lại phòng”.
			
			Giai đoạn Bắc Việt liên tục đối xử tàn nhẫn với tù binh Mỹ kéo dài 
			đến khoảng Tháng Mười năm 69. Họ muốn tôi gặp các nhóm phản chiến 
			đến Hà Nội, trong đó có rất nhiều người nước ngoài như Cuba, Nga. 
			Tôi nghĩ lúc đó chưa có nhiều người Mỹ “phản chiến” sớm vậy, dù các 
			năm sau đó thì nhiều hơn. Tôi từ chối gặp bất kỳ nhóm nào. Với họ 
			thì giá trị tuyên truyền sẽ rất lớn khi cha tôi là Tổng tư lệnh Thái 
			Bình Dương.
			
			Nhóm David Dellinger đến. Nhóm Tom Hayden đến. Ba nhóm tù nhân được 
			thả, trên thực tế, dưới sự bảo trợ của các “nhóm hòa bình” vậy. 
			Những người đầu tiên được thả về với một trong nhóm anh em Berrigan. 
			Nhóm tiếp theo là toàn bộ một phi hành đoàn, có James Johnson, một 
			trong những Bộ Ba Fort Hood (Chú KTT: Nhóm 3 Binh Nhất Mỹ phản đối 
			việc bị đưa sang Việt Nam) về cùng vợ của chủ biên tạp chí 
			“Ramparts” và Rennie Davis. Nói chung, tôi nghĩ có tám hoặc chín 
			người về kiểu đó. Sau đó là một nhóm thứ ba. Bắc Việt muốn tôi gặp 
			tất cả các nhóm này, nhưng tôi đã có thể né được. Nhiều khi không 
			thể làm họ mất mặt, vì vậy bạn phải cố gắng để đu đưa với nó. Bạn 
			biết là “mặt mũi” là chuyện lớn với loại người này, và nếu bạn để họ 
			có thể giữ thể diện thì được dễ dàng hơn rất nhiều. Ví dụ họ đánh 
			tôi tàn nhẫn và bắt tôi phải gặp một phái đoàn, tôi trả lời “Được, 
			tôi muốn gặp một nhóm vậy, nhưng tôi sẽ không nói bất cứ điều gì 
			chống lại đất nước mình và tôi cũng không nói bất cứ điều gì về việc 
			đối xử với tôi, nhưng nếu được hỏi, tôi sẽ kể sự thật về các điều 
			kiện tôi đang bị giam giữ”. Họ bảo, “Anh đồng ý gặp một phái đoàn 
			nên chúng tôi sẽ cho anh gặp”. Nhưng như mọi người thấy, họ chưa bao 
			giờ cho tôi gặp. Một lần, họ muốn tôi viết vài hàng cho các tù nhân 
			chiến hữu của tôi nhân dịp Giáng sinh. Tôi viết thế này: “Gởi đến 
			các tù nhân chiến hữu mà tôi không được phép gặp mặt hay nói chuyện, 
			tôi cầu mong gia đình các chiến hữu được tốt lành và hạnh phúc, và 
			tôi hy vọng rằng các chiến hữu được phép viết và nhận thư gia đình 
			theo Công ước Geneva năm 1949 mà những người đang giam cầm các bạn 
			không cho phép. Xin Thiên Chúa ban phước lành đến các chiến hữu”. Họ 
			nhận thư nhưng tất nhiên là không bao giờ được công bố nó. Nói cách 
			khác, đôi khi viết cái gì đó ca ngợi chính phủ mình hoặc chống lại 
			họ thì tốt hơn chuyện cứ nói “Tôi sẽ không viết bất cứ điều gì”- vì 
			đó cũng có thể là cách câu giờ khi các điều viết ra này phải được 
			thông lên đủ loại cấp trên của chúng.
			
			Bây giờ để tôi kể với bạn câu chuyện của đại úy Dick Stratton. Anh 
			bị bắn rơi vào Tháng Năm 1967, lúc vài nhóm phản chiến Mỹ đã nhao 
			nhao la làng rằng Hoa Kỳ ném bom Hà Nội dù chúng tôi chưa làm vào 
			thời điểm đó. Dick bị bắn rơi phía ngoài Hà Nội, nhưng họ muốn có 
			một lời thú tội nhân lúc một ký giả Mỹ đang có mặt. Đó là vào mùa 
			Xuân và mùa Hè năm 67 – chắc mọi người còn nhớ những câu chuyện rất 
			giật gân về những thiệt hại do bom Mỹ? “Thỏ” và những tên khác thẩm 
			vấn Dick Stratton rất tàn bạo. Tay Dick đầy các vết hằn dây thừng đã 
			bị nhiễm trùng. Chúng thực sự bóp dẹp anh để có được một lời thú 
			nhận rằng, anh đã ném bom Hà Nội như một bằng chứng sống. Chúng rút 
			móng tay và gí tàn thuốc lá vào người anh. Dick bị dồn đến mức không 
			thể nói “không”. Nhưng khi chúng đưa anh đến buổi họp báo, anh làm 
			một hành động cúi chào – anh cúi chào 90 độ theo hướng này, anh cúi 
			chào 90 độ theo hướng khác, đủ bốn góc. Với đám “gooks” thì không 
			phải điều gì quá lạ lẫm vì chúng quen với việc cúi chào vậy. Nhưng 
			bất kỳ người Mỹ nào nhìn thấy hình ảnh của một người Mỹ gập mình đến 
			thắt lưng để cúi chào vậy cũng biết rằng có điều gì đó không ổn, có 
			điều gì đó đã xảy ra với anh ta. Đó là lý do tại sao Dick làm những 
			gì anh đã làm. Sau đó chúng tiếp tục tạo áp lực để anh ta nói rằng 
			anh ta không bị tra tấn. Chúng tra tấn anh để buộc phải nói rằng anh 
			không bị tra tấn. Dick vừa ra tuyên bố mạnh mẽ tại cuộc họp báo một 
			vài tuần trước ở đây rằng anh muốn thấy Bắc Việt bị buộc tội là tội 
			phạm chiến tranh. Anh ấy là một người cao quý. Anh và tôi đã ở chung 
			trại “Đồn Điền” với nhau trong một thời gian dài và anh rất can 
			cường trong đó. Anh là một sĩ quan hải quân xuất sắc, một người Mỹ 
			cống hiến hết mình và có đức tin sâu sắc. Tôi nghĩ đến Dick Stratton 
			rất nhiều. Anh rất, rất là xui bị nhận những đối xử tàn tệ nhất mà 
			đám “gook” có thể nặn ra.
			
			Chúng tôi đã trải qua một mùa Xuân và Hè 1969 đặc biệt xấu vì có một 
			cuộc vượt ngục tại một trong những trại tù. Hai người của ta là Ed 
			Atterberry và John Dramesi lên kế hoạch chuẩn bị rất tốt nhưng đã bị 
			bắt lại. Atterberry bị đánh đến chết sau cuộc vượt ngục bất thành 
			này. Chẳng nghi ngờ gì về điều này khi Dramesi thấy Atterberry bị 
			đưa vào một căn phòng và nghe tiếng đánh đập rồi bị biệt tăm từ đó. 
			Còn Dramesi, nếu anh không phải là một người lì đòn thì cũng có thể 
			đã bị đánh chết. Anh có thể là một trong những người gai góc nhất mà 
			tôi từng gặp. Anh là dân từ Nam Philly, từng là một võ sĩ quyền Anh 
			chuyên nghiệp và là một đô vật khi còn trong đại học. Các đòn thù 
			lây sang tất cả các trại khác. Họ bắt đầu tra khảo chúng tôi về các 
			kế hoạch vượt ngục. Thức ăn trở nên tồi tệ. Việc kiểm tra phòng trở 
			nên rất nghiêm ngặt. Anh không thể có bất cứ điều gì trong phòng 
			mình, không có gì. Họ không cho cả thuốc i-ốt xức ghẻ như trước vì 
			Dramesi và Atterberry đã bôi i-ốt cho sậm da như người Việt Nam 
			trước khi vượt ngục.
			
			Mùa hè năm đó, từ Tháng Năm đến khoảng Tháng Chín thì cứ ngày hai 
			lần, tuần sáu ngày, tất cả chúng tôi được cho ăn chỉ là canh bí đỏ 
			và bánh mì tại trại mình. Đó là một chế độ ăn uống rất kham khổ, đầu 
			tiên là ngán tận cổ thứ canh bí đỏ đó, kế đến là nó không có bất kỳ 
			giá trị dinh dưỡng thực sự nào. Điều duy nhất để có thể giữ cho bất 
			kỳ trọng lượng trên người là bánh mì, một cục bột nhão nhoét. Ngày 
			Chủ Nhật, chúng tôi được cho ăn món chè đậu, đậu nấu với đường, 
			không có chút thịt nào. Rất nhiều người chúng tôi ốm tong teo và hốc 
			hác. Tôi xui xẻo bị bắt gặp đang liên lạc bạn tù bốn lần trong Tháng 
			Năm năm 1969. Tôi bị tống vào một phòng trừng phạt đối diện với xà 
			lim của tôi nhiều lần. Cũng Tháng Năm 1969 đó, họ muốn tôi viết, như 
			tôi còn nhớ, một lá thư cho các phi công Mỹ đang bay trên Bắc Việt 
			để yêu cầu họ đừng làm điều đó nữa. Tôi đã bị buộc phải đứng liên 
			tục – đôi khi chúng phạt mình đứng yên hay ngồi trên một chiếc ghế 
			suốt một thời gian dài. Tôi bị bắt đứng vậy cũng mấy ngày, chỉ được 
			nghỉ vài tiếng khi một lính canh – một người thực sự là con người 
			duy nhất mà tôi từng gặp ở trong đó – cho tôi nằm xuống cho một vài 
			giờ khi ông gác trong một đêm khuya. Một trong những thủ thuật chúng 
			tôi đối phó để chúng chẳng hủy được mình là nếu cảm thấy đứng mệt 
			quá thì tự ngồi xuống, để chúng buộc đứng lên lại. Vì vậy, tôi ngồi 
			xuống và bị một tên lính canh bé choắt đặc biệt đáng căm ghét xông 
			vào, nhảy giậm lên xuống đầu gối tôi. Vì chuyện này mà tôi đã phải 
			mang nạng trở lại cả một năm rưỡi sau đó. 
			
			Đó là một mùa Hè dài đăng đẳng và khó khăn nhưng đến Tháng Mười năm 
			1969, đột nhiên có những thay đổi lớn trong trại. Sự tra tấn ngừng 
			lại. Một ngày kia, gã “Công tử” đến phòng của tôi và thông báo tôi 
			sẽ có được một người bạn tù ở chung phòng. Thức ăn đỡ hơn và phần ăn 
			cũng nhiều hơn, còn đám lính canh ra vẻ thân thiện. Tôi cho rằng tất 
			cả điều này trực tiếp nhờ vào các nỗ lực vận động của chính phủ và 
			người dân ở Hoa Kỳ vào năm 1969. Em trai tôi là Joe rất tích cực 
			trong Liên Đoàn Quốc gia những gia đình các tù nhân chiến tranh và 
			mất tích người Mỹ tại Đông Nam Á. Tổ chức này bao trùm tất cả các 
			nhóm gia đình tù binh chiến tranh POW. Joe đã giải thích cho tôi 
			biết lý do tại sao thái độ Bắc Việt Nam đối với tù binh Mỹ lại thay 
			đổi vậy. Vào khoảng những năm 1965, 1966 trước đó, khi việc ném bom 
			miền Bắc tăng dần, Hà Nội trình diễn màn tuyên truyền đầu tiên của 
			mình bằng cách điệu các phi công Mỹ bị đánh đập diễn hành qua các 
			đường phố. Đáng ngạc nhiên với họ là phản ứng của truyền thông thế 
			giới nói chung là tiêu cực. Kế đó Bắc Việt đã cố gắng chiến thuật 
			buộc Thiếu tá Dick Stratton xuất hiện và xin lỗi vì những tội ác 
			chiến tranh. Nhưng rõ ràng là ông đã bị ngược đãi và buộc phải làm 
			điều này chỉ dưới sự cưỡng ép. Điều đó chỉ phản tác dụng. Họ làm 
			tiếp việc trả tự do hai nhóm ba tù binh vào Tháng Hai và Tháng Mười 
			năm 1968. Những tù binh này bị bắt dưới sáu tháng, chưa bị giảm cân 
			đáng kể và nhìn còn khỏe mạnh.
			
			Cho đến khi Nixon lên nắm chính phủ đầu năm 1969 thì trước đó chính 
			phủ ở nhà còn giữ thái độ: “Không nói về tình trạng tù binh chiến 
			tranh vì e rằng sẽ làm nguy hại tù binh Mỹ đang bị giam”. Bộ trưởng 
			Quốc phòng Melvin Laird, đầu năm 1969, đã có các cuộc đàm phán hòa 
			bình với Bắc Việt và Việt Cộng tại Paris (đàm phán đã bắt đầu dưới 
			thời Tổng thống Johnson vào cuối năm 1968). Laird đem hình ảnh của 
			những tù binh bị đánh đập tàn nhẫn mà các hãng tin nước ngoài chụp 
			được, chẳng hạn như Frishman, Stratton, Hegdahl – tất cả đều bị 
			xuống ký trầm trọng. Ông nói với Bắc Việt: “Công ước Geneva nói rằng 
			các ông phải thả tất cả các tù binh bị bệnh và bị thương. Những 
			người này đang bị bệnh và bị thương, tại sao họ không được trả tự 
			do?” Tháng Tám năm 1969, Hà Nội thả Frishman. Anh không còn khuỷu 
			tay, chỉ được gắn cánh tay cao su khập khiễng và sụt mất 65 lbs. 
			Hegdahl ra tù và sụt 75 lbs. Wes Rumbull cũng được thả, phải bó bột 
			vì gãy sống lưng. Frishman được phép tổ chức một cuộc họp báo và kể 
			ra các chi tiết sự tra tấn và ngược đãi. Tin tức này xuất hiện trên 
			toàn thế giới, và từ đó, bắt đầu từ mùa Thu năm 1969, việc đối xử tù 
			binh đỡ hơn. Chúng tôi nghĩ tác động trực tiếp là đến từ thực tế 
			Frishman là một nhân chứng sống thực về sự ngược đãi tù binh Mỹ của 
			Bắc Việt.
			
			Tôi tự hào về các hoạt động tranh đấu cho tù nhân chiến tranh của em 
			trai tôi là Joe và Carol-vợ tôi, bên nhà. Sự khao khát của những 
			người vợ có chồng tù tội theo thời gian thường là “Lạy Chúa, bất kể 
			sao cũng được, con chỉ muốn chồng con được về”. Với Carol thì câu 
			trả lời của cô ấy là, “Chỉ cần có được chồng tôi trở về không đủ đối 
			với tôi và không đủ với John, mà tôi muốn anh ấy đứng thẳng người 
			trở về”. Tôi được nhận khá ít thư từ Carol. Chỉ có ba thư trong bốn 
			tháng đầu tiên tôi bị bắn hạ. Đám “gook” cho tôi nhận chỉ một lá thư 
			trong bốn năm tù cuối. Gói quà đầu tiên được nhận vào Tháng Năm 
			1969, sau đó họ cho mỗi năm một lần. Lý do tôi nhận rất ít thư từ 
			Carol vì cô khăng khăng chỉ sử dụng các tổ chức hoạt động theo Công 
			ước Geneva về việc đối xử với tù nhân chiến tranh, mà từ chối gửi 
			thư thông qua Ủy ban liên lạc với các gia đình tù nhân do các nhóm 
			phản chiến điều hành. Điều này mang lại cho tôi vài điều cần nói chi 
			tiết hơn.
			
			Như mọi người biết, trở lại thời điểm 1954, Bắc Việt đã ở thế tay 
			trên trong việc lật đổ chính phủ Pháp tại Paris vì các cử tri Pháp 
			đã chẳng còn quan tâm đến cuộc chiến Việt Nam mà chính phủ của họ đã 
			dự phần. Đó là cách Bắc Việt chiến thắng vào năm 1954, thắng ngay 
			tại Pháp chớ không phải tại Việt Nam. Pháp đồng ý rút khỏi Đông 
			Dương mà không đặt vấn đề gì khác khi ký thỏa thuận và kết quả là họ 
			chỉ nhận lại một phần ba số tù binh chiến tranh của mình. Tôi tin 
			rằng Hà Nội cũng hy vọng sẽ giành chiến thắng trong trường hợp chúng 
			ta bằng cách làm suy giảm tinh thần dân Mỹ như vậy. Họ phải dẫn đưa 
			dư luận thế giới về phía họ. Tôi nhớ vào năm 1968 hoặc 69, trong bài 
			phát biểu của Phạm Văn Đồng với Quốc Hội VN, chúng ta bị banh tai 
			với diễn văn có tiêu đề “Cả thế giới ủng hộ chúng ta” chớ không phải 
			kiểu “Chúng ta đã đánh bại quân Mỹ xâm lược” hoặc bất cứ điều tương 
			tự vậy.
			
			Năm 1969, sau khi ba tù nhân được trả tự do về đến Mỹ và kể lại sự 
			tàn bạo trong các trại tù binh chiến tranh thì Tổng Thống Nixon đã 
			bật đèn xanh cho công bố điều này. Nó tác động mạnh đến việc đối xử 
			với chúng tôi. Cảm tạ Chúa cho điều này, bởi nếu không phải vậy thì 
			rất nhiều người trong chúng tôi sẽ chẳng bao giờ còn cơ hội sống sót 
			trở về. Một ví dụ nhỏ về cách thay đổi như sau: trên cửa xà lim tôi 
			là các chấn song sắt, thường bị che bởi một tấm ván để tôi khỏi nhìn 
			ra ngoài và để chặn sự thông gió. Một đêm, vào khoảng cuối Tháng 
			Chín năm 1969, “Đầu Lệch”- tên trưởng trại tùđ ích thân đến và lấy 
			nó ra để tôi bắt đầu có chút thoáng gió. Tôi chẳng tin vào mắt mình. 
			Từ đó, mỗi đêm họ hé ô cửa trên để tôi có được chút thông gió. Chúng 
			tôi bắt đầu được tắm thường xuyên hơn. Thiệt hết sức là ngạc nhiên. 
			Vào Tháng 12 năm 1969, tôi được chuyển từ “Ngũ Giác Đài” sang “Las 
			Vegas”, là một khu vực nhỏ tại Hỏa Lò do người Pháp xây năm 1945. 
			Người Mỹ thì gọi nó là “Hà Nội Hilton”. “Khách Sạn Tan Tác” cũng là 
			ở đó – đó là nơi đầu tiên mà ai cũng bị đưa đến thẩm vấn mở màn và 
			sau đó bị đưa đến các trại khác. Toàn bộ nhà tù này có diện tích 
			khoảng hai block đường. Tại “Las Vegas”, tôi bị đưa vào một nhà nhỏ 
			gọi là “Gold Nugget” có ba phòng giam. Chúng tôi đặt tên cho các 
			ngôi nhà theo tên các khách sạn tại Las Vegas như “Thunderbird”, 
			“Stardust”, “Riviera”, “Gold Nugget” và “Desert Inn”. Bị chuyển đến 
			“Gold Nugget” và ngay lập tức tôi có thể tạo sự liên lạc với những 
			tù nhân quanh trại, vì khu vực tắm ở ngay cửa sổ phòng tôi nên tôi 
			có thể nhìn qua kẽ trên cửa phòng tắm và liên lạc với nhau. Tôi bị 
			biệt giam ở đó cho đến Tháng Ba năm 1970.
			
			Họ ép tôi gặp các đoàn phản chiến Mỹ đã bắt đầu tăng dần nhưng không 
			bị bất kỳ sự tra tấn nào để ép buộc. Vào Tháng Giêng năm 1970, tôi 
			được đưa đến “Mèo” để thẩm vấn. Hắn nói với tôi rằng, hắn muốn tôi 
			gặp một khách nước ngoài. Tôi lặp lại điều đã luôn nói với hắn trước 
			đó rằng, tôi sẽ gặp họ nhưng tôi sẽ không nói bất cứ điều gì chống 
			lại đất nước mình và nếu được hỏi về việc đối xử, tôi sẽ kể với họ 
			về sự khắc nghiệt của nó. Rất ngạc nhiên cho tôi, hắn nói: “Tốt, anh 
			không cần phải nói bất cứ điều gì”. Tôi nói với hắn tôi sẽ suy nghĩ 
			về đề nghị này. Tôi trở về phòng và tìm cố vấn từ một sĩ quan cấp 
			trên trong khu vực tù của mình và ông khuyên tôi cứ đi gặp. Vì thế 
			tôi đã gặp một tay nói rằng hắn đến từ Tây Ban Nha, nhưng sau này 
			tôi nghe được là đến từ Cuba. Hắn chẳng hỏi tôi bất kỳ câu hỏi nào 
			về các vấn đề gây tranh cãi hoặc chuyện đối xử hay suy nghĩ của tôi 
			về cuộc chiến. Tôi nói với hắn là tôi chẳng hối hận gì về những gì 
			tôi đã làm và nếu có xảy ra lần nữa, tôi cũng sẽ làm lại y vậy. Điều 
			đó dường như làm hắn nổi giận vì hắn là một cảm tình viên của Bắc 
			Việt. Giữa lúc đó, một phóng viên bước vào chụp vài tấm hình. Tôi đã 
			nói với “Mèo” trước đó là tôi không muốn có bất cứ sự công bố hình 
			ảnh nào của tôi, vì vậy khi tôi về phòng sau cuộc phỏng vấn kéo dài 
			khoảng 15, 20 phút gì đó, tôi nói với hắn là tôi sẽ không gặp khách 
			nào khác vì hắn đã không giữ lời hứa. Sau đó Đại úy Jeremiah Denton, 
			người đang điều hành khu tù chúng tôi lúc đó đưa ra đường lối là 
			chúng tôi không nên gặp bất kỳ đoàn nào khác. Tới Tháng Ba, tôi có 
			được một bạn tù chung phòng là Đại tá Không quân John Finley. Ông và 
			tôi sống chung được khoảng hai tháng. Một tháng sau khi ông nhập 
			phòng, “Mèo” đến gặp tôi và bắt phải gặp một phái đoàn khác. Tôi từ 
			chối nên bị phạt ngồi ghế ngoài trời trong ba ngày đêm liên tục. Sự 
			ép buộc lên chúng tôi liên tục để phải gặp các phái đoàn phản chiến. 
			Đầu Tháng Sáu tôi bị tách khỏi Đại tá Finley và bị đưa vào một xà 
			lim gọi là “Calcutta”, cách xa các tù nhân gần nhất cũng khoảng 50 
			mét. Nó rộng chỉ 6×2 feet, không có lỗ thông gió và rất, rất là 
			nóng. Suốt mùa hè tôi bị lả nhiệt vài ba lần và bị lỵ. Sức khỏe tồi 
			tệ hẳn, tôi không được tắm rửa và khẩu phần bị cắt giảm xuống còn 
			một nửa, thỉnh thoảng lại bị bỏ đói một ngày hay hơn. Suốt thời gian 
			này tôi bị đưa đi thẩm vấn và bị ép phải gặp những người phản chiến 
			nhưng tôi từ chối.
			
			Tháng Chín tôi bị chuyển đến khu gọi là “Riviera” nằm tách biệt sau 
			trại. Tôi ở đó cho đến Tháng Mười Hai năm 1970. Ở đó tôi có thể liên 
			lạc với bạn tù khá tốt vì có một cánh cửa có lỗ thông gió quay ra 
			ngoài. Tôi đứng lên cái xô rồi dùng bàn chải đánh răng để quơ tín 
			hiệu cho các tù nhân khác và họ sẽ quơ lại cho tôi. Tháng Mười Hai 
			tôi bị chuyển đến “Thunderbird”, một trong những ngôi nhà lớn với 
			khoảng 15 phòng giam. Việc liên lạc với bạn tù rất tốt ở đây khi 
			chúng tôi gõ tín hiệu lên vách giữa các phòng giam với nhau. Tôi học 
			được rất nhiều về âm học trong thời gian này, vì nếu bạn biết gõ 
			đúng chỗ trên vách thì có thể nghe được người khác ở cách xa bốn năm 
			phòng. Cuối Tháng 12 năm 1970, tôi đoán là khoảng ngày 20, tôi được 
			cho ra ngoài vào ban ngày với bốn người khác. Vào đêm Giáng Sinh, 
			chúng tôi được đưa ra khỏi phòng mình và chuyển đến “Trại Thống 
			nhất”, một phần khác của Hỏa Lò. Khoảng 45 người, chủ yếu bị đưa từ 
			“Vegas” bị nhốt chung vào một phòng lớn. Có bảy phòng lớn như vậy và 
			mỗi phòng giam 45 hoặc 50 tù nhân. Chúng tôi có tổng cộng 335 tù 
			nhân tại thời điểm đó. Có bốn hoặc năm người không trong tình trạng 
			tốt nên bị nhốt riêng. Các Đại Tá Flynn, Wynn, Bean và Caddis cũng 
			bị nhốt riêng biệt, không được chuyển vào với chúng tôi lúc đó.
			
			Tên giám thị của chúng tôi lại là “Con Rệp” mà chúng tôi rất căm 
			ghét. Hắn hành hạ chúng tôi đủ điều, không cho chúng tôi tụ tập hơn 
			ba người cùng lúc. Chúng sợ chúng tôi sẽ thiết lập sự truyền bá 
			chính trị cho nhau. Chúng không cho chúng tôi được làm Thánh lễ. 
			Tháng Ba năm 1971, các sĩ quan cấp trên quyết định rằng chúng tôi sẽ 
			tổ chức một Thánh lễ. Đó là điều quan trọng với chúng tôi và cũng là 
			điều đúng để tranh đấu. Chúng tôi tiến hành và tổ chức lễ. Những 
			người chủ Thánh lễ ngay lập tức bị đưa ra khỏi phòng. Chúng tôi bắt 
			đầu hát vang những bài Thánh ca và Quốc ca. Đám “gook” nghĩ đó là 
			một cuộc nổi loạn nên mang dây thừng và dùng judo vật trói chúng 
			tôi. Sau khoảng một hoặc hai tuần họ bắt đầu đưa các sĩ quan cấp 
			trên ra khỏi phòng chúng tôi đến nơi khác. Cuối Tháng Ba chúng lại 
			đưa thêm ba hay bốn người mỗi một trong bảy phòng ra, tổng cộng là 
			36 người. Chúng tôi bị đưa đến một trại chúng tôi gọi là “Skid Row”, 
			một trại trừng phạt từ Tháng Ba đến Tháng Tám, được trở về khoảng 
			bốn tuần khi có ngập lụt quanh Hà Nội, rồi sau đó chúng tôi lại bị 
			đưa ra đó lại cho đến Tháng Mười.
			
			Ở đó chúng không đối xử tệ lắm với chúng tôi. Đám lính canh được 
			phép đánh chúng tôi chỉ khi chúng tôi ngang ngạnh nhưng không được 
			phép tra tấn chúng tôi để có được các tuyên bố mang tính tuyên 
			truyền. Các xà lim đều rất nhỏ, khoảng 6×4 feet và chúng tôi bị biệt 
			giam lần nữa. Đó là điều khó chịu nhất vì cứ làm mình nghĩ đến tất 
			cả bạn bè đã từng bị giam chung một phòng lớn với nhau. Nhưng so với 
			những năm 69 và trước đó thì chẳng đáng gì. Lợi thế lớn nhất khi bị 
			giam chung phòng lớn là chỉ cần vài ba người trong nhóm phải đối phó 
			với đám “gook” còn khi bị biệt giam thì lúc nào cũng phải tự mình 
			đối phó với chúng, mà lúc nào chẳng có chuyện lục đục với chúng. Lẽ 
			ra mình được phép có 15 phút để tắm nhưng mới năm phút thì tên 
			“gook” đã bắt về lại phòng, vì vậy phải cãi với hắn và thế là bị hắn 
			nhốt lại, không cho tắm một tuần. Nhưng khi ở trong một phòng lớn 
			với những người khác, chẳng thèm dòm ngó đến chúng sẽ làm mình dễ 
			chịu hơn rất nhiều.
			
			Suốt giai đoạn này, bọn “gook” tấn công chúng tôi bằng các phát biểu 
			phản chiến từ một số nhân vật cao cấp ngay Washington. Đây là cách 
			tuyên truyền hữu hiệu nhất để tấn công chúng tôi khi dùng chính phát 
			biểu, tuyên bố của vài người nói chung là được trọng vọng tại Hoa 
			Kỳ. Chúng dùng nhiều lời lẽ của Thượng Nghị Sĩ Fulbright, rồi TNS 
			Brooke. Chúng lặp đi lặp lại lời của TNS Ted Kennedy, cũng như 
			Averell Harriman. Chúng cũng thích Clark Clifford, ngay sau khi ông 
			trở thành Bộ Trưởng Quốc Phòng thời Tổng Thống Johnson. Đến khi 
			Ramsey Clark vào cuộc thì họ xem đó là bước tuyệt vời cho mục tiêu 
			của họ (Chú KTT: Ramsey Clark, cựu Bộ Trưởng Tư Pháp thời TT 
			Johnson, người phản đối mạnh mẽ chiến tranh Việt Nam và năm 1972 đã 
			sang Hà Nội để phản đối việc ném bom Hà Nội). Khi công luận ồn ào 
			sau vụ công bố Hồ Sơ Ngũ Giác Đài (Chú KTT: Pentagon Papers là tài 
			liệu nghiên cứu mật của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ về sự can dự chính trị 
			và quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau Đệ 
			Nhị Thế Chiến cho đến năm 1967, đã bị một nhân vật phản chiến trong 
			nhóm nghiên cứu tiết lộ cho báo New York Times vào năm 1971) thì đây 
			là một bước đệm lớn lao cho Hà Nội để tận dụng nó như một bằng chứng 
			về những “âm mưu đen tối của đế quốc” mà họ vẫn thường rêu rao trong 
			nhiều năm.
			
			Tháng 11 năm 1971, Bắc Việt chuyển chúng tôi từ trại trừng phạt 
			“Skid Row” về lại trại giam chung “Thống Nhất” trong phạm vi Hỏa Lò. 
			Từ đó về sau thì hầu như chúng tôi bị nhốt chung với những người 
			khác, kể cả những người được đưa vào sau, cũng khoảng 40 tù binh. 
			Tháng 5 năm 1972, khi Mỹ bắt đầu oanh tạc mạnh sau khi Tổng Thống 
			Nixon ra lịnh ném bom Bắc Việt và thả mìn các cảng, họ chuyển hầu 
			như tất cả các sĩ quan cấp nhỏ lên trại “Dogpatch”- Trại Chó Vá gần 
			biên giới Trung cộng, chừa lại các sĩ quan cao cấp và nhóm chúng 
			tôi. Tôi nghĩ rằng họ sợ Hà Nội sẽ bị đánh bom và nếu nhốt chung tất 
			cả chúng tôi cùng một trại thì chỉ một quả bom rơi trúng cũng có thể 
			xóa sổ tất cả. Vào thời điểm này, đám “gook” rất cộc cằn, hung dữ. 
			Chúng từng kéo một tù binh ra khỏi phòng chúng tôi và đánh anh ta 
			một trận bán sống bán chết vì anh đã làm lá cờ Mỹ trên lưng áo một 
			tù binh khác. Anh là một thanh niên tốt, có tên là Mike Christian. 
			Chúng thoi anh túi bụi ngay ngoài cửa phòng giam chúng tôi, sau đó 
			cứ kéo lê vài feet lại đánh anh tàn nhẫn hết cả vòng quanh sân trại. 
			Anh bị bể một bên màng nhĩ và gãy xương sườn. Nó là một bài học dằn 
			mặt tất cả chúng tôi.
			
			Cuối cùng đến cái ngày mà tôi sẽ không bao giờ quên được là ngày 18 
			tháng 12 năm 1972. Khắp nơi rền tiếng bom theo lịnh ném bom dịp 
			Giáng Sinh của Tổng Thống Nixon. Hà Nội bị đánh bom tức thời. Từ 
			khung cửa sổ phòng giam nhìn ra trời, đó là cảnh tượng ngoạn mục 
			nhất tôi đã từng chứng kiến và tất nhiên, nhìn rõ những ánh chớp 
			trong đêm. Bom thả rất gần làm rung chuyển cả tòa nhà. Hỏa tiễn SAM 
			đất-đối-không đan chéo bầu trời giữa tiếng còi hụ báo động inh tai 
			quả thực là một cảnh tượng dữ dội. Khi một chiếc B-52 trúng đạn, ở 
			độ cao hơn 30,000 feet, nó nổ sáng rực cả bầu trời, rồi ánh đỏ như 
			ban ngày khá lâu vì rơi xuống từ trên không rất cao. Vào thời điểm 
			đó chúng tôi biết là chúng tôi sẽ không bao giờ được trả tự do trừ 
			khi chính phủ có hành động gì đó rất quyết liệt. Chúng tôi bị giam 
			ba năm rưỡi trời mà không có vụ ném bom nào xảy ra nên nhận thức khá 
			rõ cách duy nhất để chúng tôi được thả là chính phủ phải mạnh tay 
			với Hà Nội. Vì vậy chúng tôi rất vui mừng, hò reo cổ vũ. Đám “gook” 
			thì không thích điều đó chút nào, nhưng chúng tôi cóc để ý. Với 
			chúng tôi thì rõ ràng là đàm phán sẽ không giải quyết được vấn đề. 
			Lý do duy nhất tại sao Bắc Việt bắt đầu chịu đàm phán vào tháng 10 
			năm 1972 bởi vì họ cũng có thể đọc được các thăm dò và biết rằng 
			Nixon sẽ chiến thắng áp đảo trong việc tái tranh cử nên họ muốn đàm 
			phán Hiệp định đình chiến trước bầu cử.
			
			Tôi ngưỡng mộ sự dũng lược của Tổng Thống Nixon. Có thể có chỉ trích 
			ông trong vài điều, như vụ Watergate chẳng hạn. Nhưng ông phải đưa 
			ra những quyết định không được ủng hộ lắm mà tôi có thể tưởng tượng 
			như thả mìn, phong tỏa, ném bom. Tôi biết làm điều đó rất, rất là 
			khó khăn cho ông nhưng đó là điều để kết thúc chiến tranh. Tôi nghĩ 
			lý do ông hiểu điều này vì ông có kinh nghiệm đối phó với Cộng sản. 
			Ông biết sử dụng chiến thuật cây gậy và củ cà rốt. Chuyến công du 
			của ông tới Trung cộng và khi ký Hiệp ước Giới hạn Vũ khí Chiến lược 
			với Nga được dựa trên thực tế là chúng ta mạnh hơn Cộng sản nên họ 
			mới đàm phán. Họ chỉ hiểu khi dùng vũ lực. Và đó là lý do tại sao 
			bây giờ tôi vẫn còn khó hiểu là trong khi mọi người đều biết rằng 
			việc ném bom cuối cùng đã dẫn đến thỏa thuận ngừng bắn, thì tại sao 
			mọi người vẫn chỉ trích chính sách đối ngoại của ông? Sau cuộc tấn 
			công Tết Mậu Thân 1968, Bắc Việt lên mặt hẳn. Họ biết Tổng Thống 
			Johnson sẽ ngừng thả bom trước cuộc bầu cử 1968. Tháng Năm 1968, hai 
			tướng Bắc Việt thẩm vấn tôi trong hai lần riêng biệt thì cả hai đều 
			nói hầu như giống nhau từng chữ rằng: “Sau khi chúng tôi giải phóng 
			miền Nam thì sẽ sang giải phóng Campuchia. Sau Campuchia sẽ đến Lào 
			và sau Lào, chúng tôi sẽ giải phóng sang Thái Lan, Malaysia, Miến 
			Điện. Chúng tôi sẽ giải phóng hết cả khu vực Đông Nam Á”. Họ làm tôi 
			chẳng còn nghi ngờ gì nữa về âm mưu của họ không chỉ riêng với Nam 
			Việt Nam. Một số người cười cợt bác bỏ “lý thuyết domino” nhưng Bắc 
			Việt tin vào nó, chưa bao giờ chối bỏ nó. Hồ Chí Minh đã phát biểu 
			nhiều, rất nhiều lần rằng, “Chúng ta tự hào ở tuyến đầu trong cuộc 
			đấu tranh vũ trang giữa phe Xã hội Chủ nghĩa và bọn đế quốc Mỹ xâm 
			lược”. Nó hiện hình không còn là cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh 
			giành độc lập cho miền Nam Việt Nam mà mang đúng nghĩa những gì ông 
			ta đã nói. Đó là tất cả những gì chủ nghĩa Cộng sản nhắm tới: một 
			cuộc đấu tranh vũ trang để lật đổ các nước Tư bản Chủ nghĩa. Tôi đọc 
			nhiều sách lịch sử của họ. Họ đưa chúng tôi khá các loại sách tuyên 
			truyền. Tại thời điểm sau Tết Mậu Thân này, Bắc Việt nghĩ rằng họ đã 
			thắng cuộc chiến. Họ nghĩ họ làm tướng Westmoreland mất chức. Họ tin 
			rằng họ làm đắm cơ hội để Johnson tái đắc cử. Và họ nghĩ rằng đa số 
			người dân Mỹ đứng về phía họ. Đó là lý do tại sao họ oang oang tham 
			vọng của mình quá sớm vì đánh giá sai bản lĩnh của Tổng Thống Nixon.
			
			Quay trở lại vụ đánh bom Tháng 12 thì thoạt đầu, Bắc Việt có lẽ có 
			rất nhiều hỏa tiễn SAM trong tay nhưng ngày càng thấy bắn ít dần, có 
			nghĩa họ đã xài gần hết. Ngoài ra, trong vài ngày đầu tiên thì B-52 
			thả bom chủ yếu ngay quanh Hà Nội, sau đó trải ra xa thành phố thì 
			theo tôi nghĩ, ta đã phá hủy được tất cả các mục tiêu quân sự trong 
			Hà Nội. Tôi không biết số lượng phi hành đoàn B-52 bị bắn rơi bởi vì 
			họ chỉ đưa các phi công bị thương vào trại của chúng tôi. Thái độ 
			của các phi công chúng ta rất tốt. Tôi hỏi một phi công trẻ khóa 
			West Point 70 rằng “Anh nghĩ sao khi nhận lịnh ném bom Hà Nội?” Anh 
			trả lời, “Tinh thần chúng tôi tăng vọt”. Tôi cũng nghe có một phi 
			công B-52 khước từ nhiệm vụ trong vụ đánh bom Giáng sinh. Bạn luôn 
			gặp chuyện kiểu đó, gặp những người khi khó khăn thì họ bị lương tâm 
			cắn rứt. Tôi muốn nói điều này với bất cứ ai trong quân đội rằng, 
			nếu anh không biết quốc gia mình đang làm cái gì thì nên tìm hiểu 
			chúng và nếu thấy mình không thích điều quốc gia mình đang làm thì 
			hãy đứng ngoài trước khi mọi chuyện được quyết định.
			
			Một khi trở thành một tù binh chiến tranh, anh không có quyền bất 
			đồng chính kiến, bởi vì những gì anh làm sẽ tổn hại đến quốc gia của 
			mình. Anh không còn nói với tư cách cá nhân, mà nói như một quân 
			nhân của quân đội Hoa Kỳ và mang trách nhiệm trung thành với Tổng Tư 
			Lệnh chứ không phải với lương tâm của mình. Vài bạn tù của tôi đã 
			không làm vậy nhưng chỉ là một thiểu số rất nhỏ. Tôi tự hỏi họ có 
			nên bị truy tố không và thấy chẳng dễ dàng để trả lời chút nào. Nó 
			có thể phá hủy hình ảnh đẹp của phần lớn chúng tôi mang về từ địa 
			ngục đó. Hãy nhớ rằng, một số kẻ thay lòng đổi dạ sau chiến tranh 
			Triều Tiên đã làm phần lớn dân Mỹ nghĩ rằng hầu hết các tù binh 
			trong cuộc chiến này cũng là những kẻ phản bội. Nếu họ có bị xét xử 
			thì không phải vì lập trường chống chiến tranh của họ, mà vì họ đã 
			hợp tác với Bắc Việt đến mức độ gây nguy hại cho các tù binh khác. 
			Và có điều này cần xem xét: Hoa Kỳ sẽ có những cuộc chiến tranh khác 
			để chiến đấu cho đến khi Cộng sản từ bỏ chủ thuyết bạo lực lật đổ 
			chúng ta, những người này phải chịu sự lên án để sẽ không gây tiền 
			lệ cho thái độ làm tổn hại quốc gia trong những cuộc chiến tương 
			lai.
			
			Vào cuối Tháng Giêng năm nay (1973), chúng tôi biết việc kết thúc 
			chiến tranh đã đến gần. Tôi bị chuyển đến “Đồn Điền” và được cho ở 
			chung theo nhóm được phân loại theo thời gian bị bắn hạ. Họ đã chuẩn 
			bị sẵn sàng để trả tù binh theo nhóm. Đó là ngày 20 Tháng Giêng. Kể 
			từ đó, mọi chuyện trở nên dễ chịu, họ chẳng sách nhiễu chúng tôi 
			nữa. Nhưng theo kiểu của họ thì chúng tôi vẫn bị ăn uống kham khổ 
			trong khoảng hai tuần, chỉ đêm trước khi được trao trả mới được ăn 
			một bữa no nê ngon lành. Có một điều rất thú vị là sau khi tôi trở 
			về, Henry Kissinger có kể với tôi rằng khi ông ở Hà Nội để ký thỏa 
			thuận cuối cùng, Bắc Việt có đề nghị cho phép ông ta có thể mang một 
			người cùng theo về Washington và đó là tôi. Tất nhiên là ông từ chối 
			và tôi đã cảm ơn ông về điều đó rất nhiều, vì tôi không muốn là biệt 
			lệ. Hầu hết mọi người đều cá cược rằng tôi là người cuối cùng được 
			thả, nhưng bạn không bao giờ có thể hiểu được bọn “gook”.
			
			Không có nghi lễ đặc biệt gì khi chúng tôi rời trại. Ủy ban kiểm 
			soát Quốc tế đến và chúng tôi được phép nhìn quanh trại lần cuối. Có 
			rất nhiều phóng viên ảnh, nhưng chẳng có gì trịnh trọng. Chúng tôi 
			lên xe buýt và được đưa ra sân bay Gia Lâm. Người bạn cũ của tôi là 
			“Thỏ” đã ở đó. Hắn đứng phía trước và bảo chúng tôi: “Khi nghe tôi 
			đọc tên, các anh lên máy bay và về nhà”. Đó là ngày 15 tháng 3. Cho 
			đến tận lúc đó, tôi cũng không cho phép bản thân mình có nhiều hơn 
			một cảm giác hy vọng đầy thận trọng. Chúng tôi đã mừng hụt rất nhiều 
			lần trước đó đến độ tôi quyết định rằng mình sẽ không được phấn 
			khích cho đến khi nào bắt tay được với một người Mỹ mang quân phục. 
			Điều đó đã xảy ra tại Gia Lâm và tôi biết nó đã kết thúc thật sự. 
			Tôi chẳng thể nào diễn tả được cảm xúc của mình khi đi về chiếc phi 
			cơ Không Quân Hoa Kỳ.
			
			Bây giờ khi về nhà, tôi thấy có rất nhiều cuộc tranh cãi về quốc gia 
			chúng ta. Tôi không đồng ý lắm. Tôi nghĩ nước Mỹ ngày nay là một 
			quốc gia tốt đẹp hơn so với khi tôi rời nó sáu năm trước. Bắc Việt 
			cung cấp cho chúng tôi rất ít tin tức, ngoại trừ các tin xấu về Hoa 
			Kỳ. Chúng tôi không biết cuộc đổ bộ thành công lên mặt trăng đầu 
			tiên năm 1969 cho đến khi nó được đề cập trong bài phát biểu của 
			George McGovern rằng, Nixon có thể đưa con người lên mặt trăng nhưng 
			ông không thể kết thúc chiến tranh Việt Nam. Họ dội lên chúng tôi 
			những tin tức về cái chết của Martin Luther King và các cuộc bạo 
			loạn sau đó. Thông tin như vậy cứ liên tục nhả ra khỏi loa. Tôi nghĩ 
			Hoa Kỳ bây giờ là một quốc gia tốt đẹp hơn vì chúng tôi đã trải qua 
			một quá trình thanh lọc, tái thẩm định chính mình. Tôi thấy một tinh 
			thần tri ân về đời sống của chúng ta nhiều hơn, thấy tinh thần ái 
			quốc cao hơn và nhìn thấy Quốc kỳ tung bay khắp mọi nơi. Tôi nghe 
			thấy những giá trị mới đang được nhấn mạnh, như mối quan tâm về môi 
			trường chẳng hạn.
			
			Tôi nhận được rất nhiều thư từ các bạn trẻ và nhiều người đã gửi 
			tặng tôi những chiếc vòng đeo tay POW có tên tôi mà họ đã mang. Một số không biết gì nhiều về cuộc chiến, 
			nhưng họ có lòng ái quốc mạnh mẽ, các giá trị của họ đều tốt đẹp và 
			tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ nhìn thấy họ sẽ lớn lên thành những người 
			Mỹ tốt hơn nhiều người trong chúng ta. Những tình cảm tuôn tràn này 
			làm những người tù binh chiến tranh chúng tôi choáng ngợp và có chút 
			ngượng ngùng bởi vì trên căn bản, chúng tôi cảm thấy rằng chúng tôi 
			chỉ là người lính Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân bình 
			thường. Bất cứ ai khác ở vị trí của chúng tôi cũng làm vậy. Dự tính 
			tương lai của tôi là vẫn tiếp tục phục vụ trong Hải Quân nếu tôi còn 
			có thể bay được. Điều đó phụ thuộc vào sự thành công của các phẫu 
			thuật chỉnh hình cho cánh tay và chân tôi. Nếu tôi phải rời Hải 
			Quân, tôi hy vọng sẽ phục vụ cho chính phủ trong khả năng của mình, 
			tốt nhất trong ban đối ngoại của Bộ Ngoại Giao. Tôi đã có rất nhiều 
			thời gian để suy nghĩ trong tù và nghiệm ra rằng, một trong những 
			điều quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi người là, bên cạnh gia đình, 
			hãy đóng góp gì đó cho đất nước của mình.
 
			có tên tôi mà họ đã mang. Một số không biết gì nhiều về cuộc chiến, 
			nhưng họ có lòng ái quốc mạnh mẽ, các giá trị của họ đều tốt đẹp và 
			tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ nhìn thấy họ sẽ lớn lên thành những người 
			Mỹ tốt hơn nhiều người trong chúng ta. Những tình cảm tuôn tràn này 
			làm những người tù binh chiến tranh chúng tôi choáng ngợp và có chút 
			ngượng ngùng bởi vì trên căn bản, chúng tôi cảm thấy rằng chúng tôi 
			chỉ là người lính Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân bình 
			thường. Bất cứ ai khác ở vị trí của chúng tôi cũng làm vậy. Dự tính 
			tương lai của tôi là vẫn tiếp tục phục vụ trong Hải Quân nếu tôi còn 
			có thể bay được. Điều đó phụ thuộc vào sự thành công của các phẫu 
			thuật chỉnh hình cho cánh tay và chân tôi. Nếu tôi phải rời Hải 
			Quân, tôi hy vọng sẽ phục vụ cho chính phủ trong khả năng của mình, 
			tốt nhất trong ban đối ngoại của Bộ Ngoại Giao. Tôi đã có rất nhiều 
			thời gian để suy nghĩ trong tù và nghiệm ra rằng, một trong những 
			điều quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi người là, bên cạnh gia đình, 
			hãy đóng góp gì đó cho đất nước của mình. 
			John McCain
			Đinh Yên Thảo chuyển dịch
			
			http://vietthuc.org
 
       

638974400808704309.jpg)


638973501519568371.jpg)


638974400808704309.jpg)


638973501519568371.jpg)





