Có lẽ chẳng ai hiểu cảm giác đau đớn về thể xác và tinh thần của hủ tục cắt âm vật hơn Margaret, một phụ nữ trong độ tuổi trên 70 tại khu vực Pokot ở phía bắc Kenya, Guardian đưa tin.
Cuộc đời Margaret bắt đầu từ khi Kenya vẫn còn là thuộc địa của Anh. Khi bà còn trẻ, thực dân Anh đã cố gắng cấm hủ tục cắt âm vật phụ nữ. Lệnh cấm của họ tạo nên động lực cho phong trào vũ trang chống sự cai trị của Anh. Thế rồi sau khi Kenya giành độc lập, chính phủ lại tiếp tục thực hiện những nỗ lực nhằm tiêu diệt hủ tục cắt âm vật.
Margaret không thể nhớ bao nhiêu cô gái từng hứng chịu đau đớn bởi bàn tay của bà. Khi bà mới hành nghề, công cụ cắt âm vật là đinh cong. Giờ đây bà thay đinh bằng dao lam.
Cắt âm vật, theo mô tả của Margaret, là một công việc rùng rợn. Thông thường các cô gái sẽ ngồi trên một tảng đá trong tình trạng khỏa thân để bà cắt một phần bộ phận sinh dục. Nếu họ chống cự, một nhóm người sẽ giữ họ để bà thực hiện nghi lễ. Sau khi hoàn thành công việc, bà thường vứt âm vật cho lũ chim. Thù lao cho mỗi lần hành sự của “koko mekong”, biệt danh của người cắt âm vật, là 2.500 shilling (tiền tệ Kenya), tương đương với hơn 500.000 đồng. Đó là một khoản thù lao lớn.
“Nếu chúng tôi từ bỏ công việc này, chúng tôi sẽ lấy gì để ăn?”, những "đồng nghiệp" của Margaret thường hỏi bà như thế mỗi khi bà khuyên họ bỏ nghề.
Theo Margaret, chính phủ phải tìm một công việc phù hợp cho những người như bà để họ từ bỏ công việc cắt âm vật.
“Họ sẽ chẳng bỏ nghề chỉ vì chính phủ muốn thế”, bà bình luận.
Bà Margaret không thể nhớ nổi số lượng cô gái mà bà cắt âm vật. Ảnh: Guardian |
Luật pháp Kenya cấm hành vi cắt âm vật từ năm 2001. Nhưng bất chấp thực tế đó, một cuộc khảo sát y tế vào năm 2009 cho thấy 27% phụ nữ Kenya vẫn trở thành nạn nhân của hủ tục. Tỷ lệ phụ nữ cắt âm vật trong các dân tộc thiểu số còn cao hơn nhiều (98% đối với người Somalis và 73% đối với người Masai).
Quốc hội Kenya phê chuẩn một bộ luật thứ hai vào năm 2011 để cấm quảng cáo hay cổ vũ hủ tục cắt âm vật, đồng thời tăng mức độ nghiêm khắc của các hình phạt. Nhưng thói quen, suy nghĩ của dân chúng thay đổi chậm hơn nhiều so với luật pháp.
Elijah Kipteroi, một quan chức cảnh sát, nói rằng sự ra đời của luật chỉ khiến hủ tục chuyển sang hình thức bí mật thay vì công khai như trước đây.
“Hồi xưa bạn có thể quan sát quá trình chuẩn bị của nghi lễ cắt âm vật. Nhưng ngày nay họ làm việc đó một cách bí mật”, ông nói.
Đối với nhiều dân tộc thiểu số tại Kenya, luật cấm cắt âm vật của chính phủ là thứ xa lạ. Họ cáo buộc chính phủ hình sự hóa hoạt động văn hóa của họ.
Tại Kenya, gia đình chú rể phải trả một khoản hồi môn lớn cho gia đình cô dâu. Vì thế gia đình chú rể coi cô dâu là một tài sản có giá trị cao. Nhưng họ chỉ nhận cô dâu nếu cô thỏa mãn một số điều kiện.
“Phần lớn gia đình Kenya coi con gái như gia súc, nghĩa là một ngày nào đó họ sẽ phải đưa các cô ra khỏi nhà để lấy một món tiền lớn. Người ta định giá cô dâu bằng trâu, bò. Chẳng hạn, gia đình chú rể phải trả 30 con bò để đổi lấy cô dâu. Nhưng chẳng ai thương lượng giá với một cô gái chưa được cắt âm vật”, Kipteroi nói.
Những người hàng xóm sẽ thể hiện thái độ khinh miệt đối với một phụ nữ nếu cô chưa cắt âm vật. Cộng đồng buộc những cô như thế tới những nơi rất xa để lấy nước, bởi họ sợ các cô sẽ làm ô uế các giếng trong làng. Thậm chí những bà đỡ còn không tắm cho những đứa trẻ sơ sinh nếu họ thấy mẹ của chúng chưa cắt âm vật.
Còn nữa