Tham Khảo
LUẬN CỨ BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ PHÚC THẨM NGÀY 22/09/2016
Luận cứ bào chữa tại phiên tòa hình sự phúc thẩm ngày 22/9/2016 cho ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy về “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” quy định khoản 2 Điều 258, BLHS.
23-9-2016
Kính thưa HĐXX,
Tôi, Luật sư Hà Huy Sơn thuộc Công ty Luật TNHH Hà Sơn xin trình bày luận cứ bào chữa cho ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy như sau:
I. Tóm tắt các sự kiện chính của vụ án:
1. Ngày 05/05/2014, ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy bị bắt tạm giam.
2. Ngày 13/05/2014, Cơ quan An ninh điều tra (ANĐT), Bộ Công an ra Quyết định khởi tố vụ án về “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, Điều 258 Bộ luật hình sự (BLHS).
3. Ngày 13/05/2014, Cơ quan ANĐT, Bộ Công an ra Quyết định khởi tố bị can số 18/ANĐT-P3 đối với ông Nguyễn Hữu Vinh; Quyết định khởi tố bị can số 19/ANĐT-P3 đối với bà Nguyễn Thị Minh Thúy.
4. Ngày 30/10/2014, Cơ quan ANĐT, Bộ Công an ra Bản kết luận điều tra số 14/ANĐT.
5. Này 26/01/2015, Cơ quan ANĐT, Bộ Công an ra Bản kết luận điều tra bổ sung số 03/KLĐTB. (Lần thứ 01)
6. Ngày 06/02/2015, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao ra Cáo trạng số 05/VKSTC-V2; quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Hà Nội ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy theo khoản 2 Điều 258, BLHS; ủy quyền cho VKSND thành phố Hà Nội thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm.
7. Ngày 22/05/2015, Cơ quan ANĐT, Bộ Công an ra Bản kết luận điều tra bổ sung số 11/KLĐTB. (Lần thứ 02)
8. Ngày 03/06/2015, Viện trưởng VKSND tối cao ra Văn bản số 2063/VKSTC-V2 giữ nguyên Cáo trạng số 05/VKSTC-V2 ngày 06/02/2015.
9. Ngày 07/08/2015, Cơ quan An ninh điều tra của Bộ Công an ra Kết luận điều tra bổ sung số 21/KLĐTBS (Lần thứ 03).
10. Ngày 22/10/2015, Cơ quan An ninh điều tra của Bộ Công an ra Kết luận điều tra bổ sung số 26/KLĐTBS (Lần thứ 04).
11. Ngày 05/11/2015, VKSND tối cao ra văn bản số 4400/VKSTC-V1 về việc giữ nguyên cáo trạng số 05/VKSTC-V2 ngày 06/02/2015 và chuyển đến Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xét xử sơ thẩm theo quy định.
12. Ngày 30/12/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (TAND Tp.Hà Nội) ra thụ lý số 637/2015/HSST.
13. Ngày 04/01/2016, TAND Tp.Hà Nội ra Quyết định số 04/2016/HSST-QĐ đưa vụ án ra xét xử vào ngày 19/01/2016. Ngày 12/01/2016, Thẩm phán Nguyễn Văn Phổ ra Thông báo hoãn phiên tòa số 45/TB-TA.
14. Ngày 09/03/2016, TAND Tp.Hà Nội ra Thông báo số 86/HS-TB mở phiên tòa vào ngày 23/03/2016.
15. Ngày 23/03/2016, TAND Tp.Hà Nội ra Bản án hình sự sơ thẩm số 96/2016/HSST, tuyên: ông Nguyễn Hữu Vinh 05 (năm) năm tù, tính từ 05/05/2014; bà Nguyễn Thị Minh Thúy 03 (ba) năm tù, tính từ 05/05/2014.
16. Ngày 05/09/2016, TAND cấp cao tại Hà Nội ra giấy báo số 4995, phiên tòa phúc thẩm mở ngày 22/09/2016.
Ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy bị tạm giam tại Trại tạm giam B14, Bộ Công an ở Hà Nội từ ngày 05/05/2014 cho đến nay.
Điều 258. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân
1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
II. Không có chứng cứ buộc tội:
Điều 64. Chứng cứ
1. Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
2. Chứng cứ được xác định bằng:
a) Vật chứng;
b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Kết luận giám định;
d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Bản án hình sự sơ thẩm số 96/2016/HSST, ngày 23/03/2016 của TAND Tp.Hà Nội đã tuyên, không có để chứng cứ buộc tội:
Thứ nhất:
Không có một bút lục nào, không có một lời khai nào của ông Nguyễn Hữu Vinh, bà Nguyễn Thị Minh Thúy hoặc lời người khai của người tham gia tố tụng nào khác làm chứng cứ chứng minh ông Vinh, bà Thúy có hành vi liên quan đến việc đăng tải 12 bài viết trên blog “Dân quyền” và 12 bài viết trên blog “Chép Sử Việt” như bản án sơ thẩm nêu.
Thứ hai:
Không có một vật chứng nào để chứng minh ông Vinh, bà Thúy có hành vi liên quan đến việc đăng tải 12 bài viết trên blog “Dân quyền” và 12 bài viết trên blog “Chép Sử Việt” như bản án sơ thẩm nêu. Các cuốn sổ tay thu giữ ở nhà ông Nguyễn Hữu Vinh, không theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS 2003 quy định; nội dung không phản ảnh thông tin, hay không chứng minh được những kết luận tại bản án sơ thẩm.
Thứ ba:
Kết luận giám định của Bộ Thông tin và Truyền thông, ngày 19/09/2014, về 12 bài viết trên blog “Dân quyền” và 12 bài viết trên blog “Chép Sử Việt” không có liên quan đến ông Nguyễn Hữu Vinh, bà Nguyễn Thị Minh Thúy. Nó không phải là chứng cứ để giải quyết vụ án.
Thứ tư:
Các bút lục trong hồ sơ vụ án liên quan đến chứng cứ điện tử được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập không theo quy định của pháp luật, không được xác định là chứng cứ. Tòa án cấp sơ thẩm, đã dựa vào các tài liệu này để làm suy đoán chủ quan, buộc tội ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy là không có căn cứ.
III. Đề nghị:
Kính thưa HĐXX,
Với các lý lẽ trình bày ở trên và căn cứ khoản 1 Điều 107 “Không có sự việc phạm tội”, Điều 251 “Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án” và khoản 1 Điều 227 “Trả tự do cho bị cáo” của BL TTHS 2003, tôi đề nghị HĐXX xem xét tuyên hủy bản án hình sự sơ thẩm số 96/2016/HSST, ngày 23/03/2016 của TAND Tp.Hà Nội, tuyên bố ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy không có tội và đình chỉ vụ án.
Tôi xin chân thành cám ơn sự lắng nghe của các quý vị.
Hà Nội, ngày 22/09/2016.
Người bào chữa
Luật sư Hà Huy Sơn
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
LUẬN CỨ BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ PHÚC THẨM NGÀY 22/09/2016
Luận cứ bào chữa tại phiên tòa hình sự phúc thẩm ngày 22/9/2016 cho ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy về “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” quy định khoản 2 Điều 258, BLHS.
23-9-2016
Kính thưa HĐXX,
Tôi, Luật sư Hà Huy Sơn thuộc Công ty Luật TNHH Hà Sơn xin trình bày luận cứ bào chữa cho ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy như sau:
I. Tóm tắt các sự kiện chính của vụ án:
1. Ngày 05/05/2014, ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy bị bắt tạm giam.
2. Ngày 13/05/2014, Cơ quan An ninh điều tra (ANĐT), Bộ Công an ra Quyết định khởi tố vụ án về “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, Điều 258 Bộ luật hình sự (BLHS).
3. Ngày 13/05/2014, Cơ quan ANĐT, Bộ Công an ra Quyết định khởi tố bị can số 18/ANĐT-P3 đối với ông Nguyễn Hữu Vinh; Quyết định khởi tố bị can số 19/ANĐT-P3 đối với bà Nguyễn Thị Minh Thúy.
4. Ngày 30/10/2014, Cơ quan ANĐT, Bộ Công an ra Bản kết luận điều tra số 14/ANĐT.
5. Này 26/01/2015, Cơ quan ANĐT, Bộ Công an ra Bản kết luận điều tra bổ sung số 03/KLĐTB. (Lần thứ 01)
6. Ngày 06/02/2015, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao ra Cáo trạng số 05/VKSTC-V2; quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Hà Nội ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy theo khoản 2 Điều 258, BLHS; ủy quyền cho VKSND thành phố Hà Nội thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm.
7. Ngày 22/05/2015, Cơ quan ANĐT, Bộ Công an ra Bản kết luận điều tra bổ sung số 11/KLĐTB. (Lần thứ 02)
8. Ngày 03/06/2015, Viện trưởng VKSND tối cao ra Văn bản số 2063/VKSTC-V2 giữ nguyên Cáo trạng số 05/VKSTC-V2 ngày 06/02/2015.
9. Ngày 07/08/2015, Cơ quan An ninh điều tra của Bộ Công an ra Kết luận điều tra bổ sung số 21/KLĐTBS (Lần thứ 03).
10. Ngày 22/10/2015, Cơ quan An ninh điều tra của Bộ Công an ra Kết luận điều tra bổ sung số 26/KLĐTBS (Lần thứ 04).
11. Ngày 05/11/2015, VKSND tối cao ra văn bản số 4400/VKSTC-V1 về việc giữ nguyên cáo trạng số 05/VKSTC-V2 ngày 06/02/2015 và chuyển đến Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xét xử sơ thẩm theo quy định.
12. Ngày 30/12/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (TAND Tp.Hà Nội) ra thụ lý số 637/2015/HSST.
13. Ngày 04/01/2016, TAND Tp.Hà Nội ra Quyết định số 04/2016/HSST-QĐ đưa vụ án ra xét xử vào ngày 19/01/2016. Ngày 12/01/2016, Thẩm phán Nguyễn Văn Phổ ra Thông báo hoãn phiên tòa số 45/TB-TA.
14. Ngày 09/03/2016, TAND Tp.Hà Nội ra Thông báo số 86/HS-TB mở phiên tòa vào ngày 23/03/2016.
15. Ngày 23/03/2016, TAND Tp.Hà Nội ra Bản án hình sự sơ thẩm số 96/2016/HSST, tuyên: ông Nguyễn Hữu Vinh 05 (năm) năm tù, tính từ 05/05/2014; bà Nguyễn Thị Minh Thúy 03 (ba) năm tù, tính từ 05/05/2014.
16. Ngày 05/09/2016, TAND cấp cao tại Hà Nội ra giấy báo số 4995, phiên tòa phúc thẩm mở ngày 22/09/2016.
Ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy bị tạm giam tại Trại tạm giam B14, Bộ Công an ở Hà Nội từ ngày 05/05/2014 cho đến nay.
Điều 258. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân
1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
II. Không có chứng cứ buộc tội:
Điều 64. Chứng cứ
1. Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
2. Chứng cứ được xác định bằng:
a) Vật chứng;
b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Kết luận giám định;
d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Bản án hình sự sơ thẩm số 96/2016/HSST, ngày 23/03/2016 của TAND Tp.Hà Nội đã tuyên, không có để chứng cứ buộc tội:
Thứ nhất:
Không có một bút lục nào, không có một lời khai nào của ông Nguyễn Hữu Vinh, bà Nguyễn Thị Minh Thúy hoặc lời người khai của người tham gia tố tụng nào khác làm chứng cứ chứng minh ông Vinh, bà Thúy có hành vi liên quan đến việc đăng tải 12 bài viết trên blog “Dân quyền” và 12 bài viết trên blog “Chép Sử Việt” như bản án sơ thẩm nêu.
Thứ hai:
Không có một vật chứng nào để chứng minh ông Vinh, bà Thúy có hành vi liên quan đến việc đăng tải 12 bài viết trên blog “Dân quyền” và 12 bài viết trên blog “Chép Sử Việt” như bản án sơ thẩm nêu. Các cuốn sổ tay thu giữ ở nhà ông Nguyễn Hữu Vinh, không theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS 2003 quy định; nội dung không phản ảnh thông tin, hay không chứng minh được những kết luận tại bản án sơ thẩm.
Thứ ba:
Kết luận giám định của Bộ Thông tin và Truyền thông, ngày 19/09/2014, về 12 bài viết trên blog “Dân quyền” và 12 bài viết trên blog “Chép Sử Việt” không có liên quan đến ông Nguyễn Hữu Vinh, bà Nguyễn Thị Minh Thúy. Nó không phải là chứng cứ để giải quyết vụ án.
Thứ tư:
Các bút lục trong hồ sơ vụ án liên quan đến chứng cứ điện tử được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập không theo quy định của pháp luật, không được xác định là chứng cứ. Tòa án cấp sơ thẩm, đã dựa vào các tài liệu này để làm suy đoán chủ quan, buộc tội ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy là không có căn cứ.
III. Đề nghị:
Kính thưa HĐXX,
Với các lý lẽ trình bày ở trên và căn cứ khoản 1 Điều 107 “Không có sự việc phạm tội”, Điều 251 “Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án” và khoản 1 Điều 227 “Trả tự do cho bị cáo” của BL TTHS 2003, tôi đề nghị HĐXX xem xét tuyên hủy bản án hình sự sơ thẩm số 96/2016/HSST, ngày 23/03/2016 của TAND Tp.Hà Nội, tuyên bố ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy không có tội và đình chỉ vụ án.
Tôi xin chân thành cám ơn sự lắng nghe của các quý vị.
Hà Nội, ngày 22/09/2016.
Người bào chữa
Luật sư Hà Huy Sơn