Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
"Lịch Sử Tên Nước Việt Nam" - Từ Thiện - Trần Văn Giang (viết lại).
Theo dòng lịch sử, nước Việt Nam đã lần lượt mang 16 Quốc hiệu như sau:
1) Xích Quỷ
Vào niên đại Kinh Dương Vương (năm 2879 - thế kỷ thứ 2 BC), địa bàn quốc gia rộng lớn: phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải, một phần của Thái Bình Dương, phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên) thuộc nước Tàu ngày nay.
Về sau do sự lấn áp bằng vũ lực của giống du mục Hoa tộc thì dòng Việt tộc lui dần về địa bàn gốc. Đánh dấu bằng các niên đại vua Hùng với tên nước là Văn Lang. Năm chót của niên đại này là năm 257 AD.
2) Văn Lang
Thuộc về đời Hồng Bàng (2879 - 258 BC). Đầu thời kỳ đồ đồng, những bô lạc người Việt sống ở miền Bắc và phía Bắc trung tâm Việt Nam. Tính ra có khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống trên vùng cao nguyên miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng Hà, hơn 12 nhóm Âu Việt sống nơi miền Đông Bắc.
Để tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù... Họ có khuynh hướng tụ lại thành một nhóm to lớn hơn. Trong số những bộ lạc Lạc Việt, Văn Lang là mạnh nhất. Những bộ lạc Lạc Việt được gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang tự xưng Hùng Vương.
[Thời kỳ Bắc thuộc]
Trong thời kỳ đô hộ bởi chế độ phong kiến phương Bắc, nước Việt Nam bị chia cắt nhiều và mang tên như là những quận huyện của nhà nước cai trị đương thời. Năm 221 BC – (Trước Công Nguyên - TCN), Tần Thủy Hoàng, vua Trung Hoa, xâm chiếm lãnh thổ Việt. Nhà Tần lược định phía Nam và gọi là Tượng quận (246 -206 BC)
3) Âu Lạc
Đời nhà Thục An Dương Vương Âu Việt (257-207 BC) đã đuổi được Trung hoa và lấy tên Âu Lạc. Khoảng năm 208 TCN, Triệu Đà, vua nước Nam Việt (203-137 BC) xưng hiệu Nam Việt Võ Vương hay là Nam Việt Võ Đế đã tung quân đánh chiếm Âu Lạc (Việt Nam). Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, tên nước Âu Lạc bị xóa sổ.
- Nhà Hán lật đổ nhà Triệu và chia Tượng quận ra thành 3 quận nhỏ: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (202-220 BC).
- Cuối nhà Đông Hán trị vì ở Trung Quốc, vua Hiến Đế đổi quận Giao Chỉ thành Giao Châu. Nơi đây là cái nôi của nước Việt Nam ta ngày nay.
4) Vạn Xuân
Lý Bí hiệu Lý Nam Đế (542-602) đuổi được quân Tàu nhưng không bao lâu lại bị quân Tàu chiếm trở lại từ năm 602 (cho đến khi Ngô Quyền chiến thắng trận Bạch Đằng năm 938 và chấm dứt sự đô hộ của người Tàu).
[An Nam Quốc (An Nam đô hộ phủ)]
Năm 673-757 và 768-866, Nhà Đường thụ phong cho nước ta. Nước Việt Nam lại mang tên mới là "An Nam đô hộ phủ" nay là khu vực lãnh thổ tương ứng với miền Bắc Việt Nam. Nguồn gốc danh xưng này là của người nước ngoài chỉ lãnh thổ Việt Nam trong một số thời kỳ lúc Việt Nam bị Trung hoa đô hộ. Các triều vua Việt Nam thường phải nhận thụ phong của Trung hoa với danh hiệu “An Nam Quốc Vương.”
5) Đại Cồ Việt
Từ năm (968-1054), Đinh Bộ Lĩnh đánh thắng Thập nhị Tướng Quân và thống nhất lãnh thổ, ông xưng Vương và đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Tên này giữ nguyên dưới triều đại nhà Đinh (869-979), Lê (980-1009) và cho đến đầu triều đại Lý Thánh Tông (1010-1053)
6) Đại Việt
Nhà Tống công nhận nước ta là một quốc gia độc lập, dưới triều vua Lý Thánh Tông (1054-1226).
7) Đại Ngu
Năm 1400-1407, Hồ Quý Ly cướp ngôi vua Trần và đổi quốc hiệu là Đại Ngu (Chữ "Ngu" (虞) trong quốc hiệu "Đại Ngu" (大虞) của nhà Hồ có nghĩa là "Sự yên vui, hòa bình," không phải chữ "Ngu" (愚) khác mang nghĩa là "Ngu ngốc." "Đại Ngu" có thể hiểu là "Ước vọng về một sự bình yên rộng lớn trên khắp cõi giang sơn"). Tên này được dùng cho đến khi quân Minh xâm chiếm nước Đại Ngu và thắng họ Hồ năm 1407.
Sau 10 năm kháng cự với quân Minh đang xâm chiếm nước ta (1418-1427), Lê Lợi đại thắng quân Minh. Năm 1428 ông lên ngôi và lấy trở lại tên cũ là Đại Việt. Tên này tồn tại trong suốt triều đại nhà Lê (1428-1787) và nhà Tây Sơn (1788-1810).
8) Việt Nam
Đầu Thế kỷ 19, vua Gia Long (1802-1820) thống nhất cả hai miền Nam Bắc, lấy quốc hiệu là Việt Nam từ chữ “An Nam” và “Việt Thường.” Tuy nhiên, tên gọi “Việt Nam” có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề “Việt Nam Thế Chí” (nay không còn?) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Còn cuốn “Dư Địa Chí" viết vào đầu thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi (1380-1442) đã nhiều lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam."
Người ta cũng tìm thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như: Bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương; Bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Tây; Bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh; Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" có nghĩa là “Đây là cửa ngõ, yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc.”
9) Đại Nam
Trong triều đại Minh Mạng (1820-1840) tên nước lại được đổi là Đại Nam nhưng cái tên Việt Nam vẫn tồn tại rộng rãi khắp nơi trong văn chương, kinh tế và xã hội.
10) Đế quốc Việt Nam
Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập và thành lập chính phủ độc lập ngày 17 tháng 4 năm 1945, đứng đầu là học giả Trần Trọng Kim, với quốc hiệu “Đế quốc Việt Nam.” Trong thực tế Nhật vẫn cai trị Nam Kỳ. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Nam Kỳ mới được trao trả ngày 14 tháng 8 năm 1945, nhưng 10 ngày sau đó Hoàng đế Bảo Đại thoái vị.
11) Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
Là tên gọi của cả nước Việt Nam (1945-1954), riêng miền Bắc Việt Nam (1954-1976) trên vĩ tuyến 17 vẫn tiếp tục tên gọi này. Chính quyền này được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (ngày quốc khánh của Việt Nam ngày nay) do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu với Pháp và Quốc gia Việt Nam được lập ra dưới cái ô của Pháp năm 1949. Trong thời kỳ 1954-1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu với Việt Nam Cộng Hoà được thành lập tại miền Nam Việt Nam.
12) Nam Kỳ Quốc
Hay Nam kỳ Cộng hòa Quốc (tiếng Pháp là “République de Cochinchine”) là danh xưng do chính phủ Pháp đặt ra cho vùng lãnh thổ Việt Nam phía dưới vĩ tuyến 17. Chính quyền Nam Kỳ quốc được thành lập ngày 26 tháng 3 năm 1946, về danh nghĩa là một quốc gia độc lập với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Danh xưng này tồn tại được 2 năm, sau đó lại chính quyền Nam kỳ quốc giải thể, đổi tên lại thành Chính phủ Nam phần Việt Nam, rồi sát nhập vào chính quyền lâm thời Quốc gia Việt Nam ngày 2 tháng 6 năm 1948.
13) Quốc gia Việt Nam
Là danh xưng của toàn bộ vùng lãnh thổ Việt Nam tồn tại trong 6 năm (1949-1955), ra đời chính thức từ “Hiệp ước Elysée” ký ngày 8 tháng 3 năm 1949, giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại.
Về danh nghĩa, chính quyền thuộc khối Liên hiệp Pháp, độc lập, đối kháng và tồn tại trên cùng lãnh thổ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
14) Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)
Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, giải tán Quốc gia Việt Nam, thành lập chính quyền VNCH và là tên gọi quốc gia được thành lập tại miền Nam Việt Nam, kế theo Quốc gia Việt Nam. Năm 1955, trong một cuộc trưng cầu dân ý, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính quyền VNCH (1955-1975) Chính quyền VNCH tồn tại và độc lập trong 20 năm và sụp đổ vào lúc 11:30 sáng ngày 30 tháng 04 năm 1975.
15) Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Là tên gọi mà Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hậu thuẫn, đặt ra cho miền Nam Việt Nam với việc thành lập một chính phủ mới để chống lại chính quyền VNCH. Danh xưng này tồn tại trong 7 năm (1969-1976), sau đó, chính quyền lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã bị giải tán để hợp nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành một quốc gia Việt Nam thống nhất.
16) Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội khóa 6 nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này được sử dụng từ đó đến nay
Lời cuối
Đất nước ta hiện nay theo chế độ CS toàn trị, theo cơ chế "Đảng cử, Dân bầu" với hệ thống "Song Trùng (đảng và nhà nước?)" nhưng Đảng phí lại lấy từ nguồn thu thuế bên chính phủ mà tài chính bên Đảng CS lại không được công bố minh bạch!
Muốn xã hội Việt Nam phát triển thì phải có dân chủ đa nguyên... Nếu cs không chấp nhận ai có tư tưởng khác mình, không chấp nhận những bất đồng của dân tộc, trù dập những nhà bất đồng chính kiến ôn hòa thì đó chỉ là một nền dân chủ giả hiệu của những xã hội có chế độ độc tài cai trị.
Đất nước đã thống nhất 48 năm (?), nhưng lòng dân nước Việt Nam vẫn chưa thống nhất được bởi vì đảng CS Việt Nam vẫn còn đứng trên luật pháp, vẫn chỉ đạo luật pháp, vẫn chưa chịu hòa hợp và hòa giải dân tộc; cho nên cs không thể tổng hợp được sức mạnh của toàn dân – một yếu tố then chốt cho việc phát triển xã hội.
____________
Chú thích
Bắc Kỳ (Tonkin),
Trung Kỳ (Annam)
và Nam Kỳ (Cochinchine).
Từ Thiện
Trần Văn Giang (ghi lại)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
"Lịch Sử Tên Nước Việt Nam" - Từ Thiện - Trần Văn Giang (viết lại).
Theo dòng lịch sử, nước Việt Nam đã lần lượt mang 16 Quốc hiệu như sau:
1) Xích Quỷ
Vào niên đại Kinh Dương Vương (năm 2879 - thế kỷ thứ 2 BC), địa bàn quốc gia rộng lớn: phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải, một phần của Thái Bình Dương, phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên) thuộc nước Tàu ngày nay.
Về sau do sự lấn áp bằng vũ lực của giống du mục Hoa tộc thì dòng Việt tộc lui dần về địa bàn gốc. Đánh dấu bằng các niên đại vua Hùng với tên nước là Văn Lang. Năm chót của niên đại này là năm 257 AD.
2) Văn Lang
Thuộc về đời Hồng Bàng (2879 - 258 BC). Đầu thời kỳ đồ đồng, những bô lạc người Việt sống ở miền Bắc và phía Bắc trung tâm Việt Nam. Tính ra có khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống trên vùng cao nguyên miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng Hà, hơn 12 nhóm Âu Việt sống nơi miền Đông Bắc.
Để tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù... Họ có khuynh hướng tụ lại thành một nhóm to lớn hơn. Trong số những bộ lạc Lạc Việt, Văn Lang là mạnh nhất. Những bộ lạc Lạc Việt được gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang tự xưng Hùng Vương.
[Thời kỳ Bắc thuộc]
Trong thời kỳ đô hộ bởi chế độ phong kiến phương Bắc, nước Việt Nam bị chia cắt nhiều và mang tên như là những quận huyện của nhà nước cai trị đương thời. Năm 221 BC – (Trước Công Nguyên - TCN), Tần Thủy Hoàng, vua Trung Hoa, xâm chiếm lãnh thổ Việt. Nhà Tần lược định phía Nam và gọi là Tượng quận (246 -206 BC)
3) Âu Lạc
Đời nhà Thục An Dương Vương Âu Việt (257-207 BC) đã đuổi được Trung hoa và lấy tên Âu Lạc. Khoảng năm 208 TCN, Triệu Đà, vua nước Nam Việt (203-137 BC) xưng hiệu Nam Việt Võ Vương hay là Nam Việt Võ Đế đã tung quân đánh chiếm Âu Lạc (Việt Nam). Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, tên nước Âu Lạc bị xóa sổ.
- Nhà Hán lật đổ nhà Triệu và chia Tượng quận ra thành 3 quận nhỏ: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (202-220 BC).
- Cuối nhà Đông Hán trị vì ở Trung Quốc, vua Hiến Đế đổi quận Giao Chỉ thành Giao Châu. Nơi đây là cái nôi của nước Việt Nam ta ngày nay.
4) Vạn Xuân
Lý Bí hiệu Lý Nam Đế (542-602) đuổi được quân Tàu nhưng không bao lâu lại bị quân Tàu chiếm trở lại từ năm 602 (cho đến khi Ngô Quyền chiến thắng trận Bạch Đằng năm 938 và chấm dứt sự đô hộ của người Tàu).
[An Nam Quốc (An Nam đô hộ phủ)]
Năm 673-757 và 768-866, Nhà Đường thụ phong cho nước ta. Nước Việt Nam lại mang tên mới là "An Nam đô hộ phủ" nay là khu vực lãnh thổ tương ứng với miền Bắc Việt Nam. Nguồn gốc danh xưng này là của người nước ngoài chỉ lãnh thổ Việt Nam trong một số thời kỳ lúc Việt Nam bị Trung hoa đô hộ. Các triều vua Việt Nam thường phải nhận thụ phong của Trung hoa với danh hiệu “An Nam Quốc Vương.”
5) Đại Cồ Việt
Từ năm (968-1054), Đinh Bộ Lĩnh đánh thắng Thập nhị Tướng Quân và thống nhất lãnh thổ, ông xưng Vương và đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Tên này giữ nguyên dưới triều đại nhà Đinh (869-979), Lê (980-1009) và cho đến đầu triều đại Lý Thánh Tông (1010-1053)
6) Đại Việt
Nhà Tống công nhận nước ta là một quốc gia độc lập, dưới triều vua Lý Thánh Tông (1054-1226).
7) Đại Ngu
Năm 1400-1407, Hồ Quý Ly cướp ngôi vua Trần và đổi quốc hiệu là Đại Ngu (Chữ "Ngu" (虞) trong quốc hiệu "Đại Ngu" (大虞) của nhà Hồ có nghĩa là "Sự yên vui, hòa bình," không phải chữ "Ngu" (愚) khác mang nghĩa là "Ngu ngốc." "Đại Ngu" có thể hiểu là "Ước vọng về một sự bình yên rộng lớn trên khắp cõi giang sơn"). Tên này được dùng cho đến khi quân Minh xâm chiếm nước Đại Ngu và thắng họ Hồ năm 1407.
Sau 10 năm kháng cự với quân Minh đang xâm chiếm nước ta (1418-1427), Lê Lợi đại thắng quân Minh. Năm 1428 ông lên ngôi và lấy trở lại tên cũ là Đại Việt. Tên này tồn tại trong suốt triều đại nhà Lê (1428-1787) và nhà Tây Sơn (1788-1810).
8) Việt Nam
Đầu Thế kỷ 19, vua Gia Long (1802-1820) thống nhất cả hai miền Nam Bắc, lấy quốc hiệu là Việt Nam từ chữ “An Nam” và “Việt Thường.” Tuy nhiên, tên gọi “Việt Nam” có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề “Việt Nam Thế Chí” (nay không còn?) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Còn cuốn “Dư Địa Chí" viết vào đầu thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi (1380-1442) đã nhiều lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam."
Người ta cũng tìm thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như: Bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương; Bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Tây; Bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh; Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" có nghĩa là “Đây là cửa ngõ, yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc.”
9) Đại Nam
Trong triều đại Minh Mạng (1820-1840) tên nước lại được đổi là Đại Nam nhưng cái tên Việt Nam vẫn tồn tại rộng rãi khắp nơi trong văn chương, kinh tế và xã hội.
10) Đế quốc Việt Nam
Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập và thành lập chính phủ độc lập ngày 17 tháng 4 năm 1945, đứng đầu là học giả Trần Trọng Kim, với quốc hiệu “Đế quốc Việt Nam.” Trong thực tế Nhật vẫn cai trị Nam Kỳ. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Nam Kỳ mới được trao trả ngày 14 tháng 8 năm 1945, nhưng 10 ngày sau đó Hoàng đế Bảo Đại thoái vị.
11) Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
Là tên gọi của cả nước Việt Nam (1945-1954), riêng miền Bắc Việt Nam (1954-1976) trên vĩ tuyến 17 vẫn tiếp tục tên gọi này. Chính quyền này được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (ngày quốc khánh của Việt Nam ngày nay) do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu với Pháp và Quốc gia Việt Nam được lập ra dưới cái ô của Pháp năm 1949. Trong thời kỳ 1954-1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu với Việt Nam Cộng Hoà được thành lập tại miền Nam Việt Nam.
12) Nam Kỳ Quốc
Hay Nam kỳ Cộng hòa Quốc (tiếng Pháp là “République de Cochinchine”) là danh xưng do chính phủ Pháp đặt ra cho vùng lãnh thổ Việt Nam phía dưới vĩ tuyến 17. Chính quyền Nam Kỳ quốc được thành lập ngày 26 tháng 3 năm 1946, về danh nghĩa là một quốc gia độc lập với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Danh xưng này tồn tại được 2 năm, sau đó lại chính quyền Nam kỳ quốc giải thể, đổi tên lại thành Chính phủ Nam phần Việt Nam, rồi sát nhập vào chính quyền lâm thời Quốc gia Việt Nam ngày 2 tháng 6 năm 1948.
13) Quốc gia Việt Nam
Là danh xưng của toàn bộ vùng lãnh thổ Việt Nam tồn tại trong 6 năm (1949-1955), ra đời chính thức từ “Hiệp ước Elysée” ký ngày 8 tháng 3 năm 1949, giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại.
Về danh nghĩa, chính quyền thuộc khối Liên hiệp Pháp, độc lập, đối kháng và tồn tại trên cùng lãnh thổ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
14) Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)
Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, giải tán Quốc gia Việt Nam, thành lập chính quyền VNCH và là tên gọi quốc gia được thành lập tại miền Nam Việt Nam, kế theo Quốc gia Việt Nam. Năm 1955, trong một cuộc trưng cầu dân ý, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính quyền VNCH (1955-1975) Chính quyền VNCH tồn tại và độc lập trong 20 năm và sụp đổ vào lúc 11:30 sáng ngày 30 tháng 04 năm 1975.
15) Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Là tên gọi mà Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hậu thuẫn, đặt ra cho miền Nam Việt Nam với việc thành lập một chính phủ mới để chống lại chính quyền VNCH. Danh xưng này tồn tại trong 7 năm (1969-1976), sau đó, chính quyền lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã bị giải tán để hợp nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành một quốc gia Việt Nam thống nhất.
16) Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội khóa 6 nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này được sử dụng từ đó đến nay
Lời cuối
Đất nước ta hiện nay theo chế độ CS toàn trị, theo cơ chế "Đảng cử, Dân bầu" với hệ thống "Song Trùng (đảng và nhà nước?)" nhưng Đảng phí lại lấy từ nguồn thu thuế bên chính phủ mà tài chính bên Đảng CS lại không được công bố minh bạch!
Muốn xã hội Việt Nam phát triển thì phải có dân chủ đa nguyên... Nếu cs không chấp nhận ai có tư tưởng khác mình, không chấp nhận những bất đồng của dân tộc, trù dập những nhà bất đồng chính kiến ôn hòa thì đó chỉ là một nền dân chủ giả hiệu của những xã hội có chế độ độc tài cai trị.
Đất nước đã thống nhất 48 năm (?), nhưng lòng dân nước Việt Nam vẫn chưa thống nhất được bởi vì đảng CS Việt Nam vẫn còn đứng trên luật pháp, vẫn chỉ đạo luật pháp, vẫn chưa chịu hòa hợp và hòa giải dân tộc; cho nên cs không thể tổng hợp được sức mạnh của toàn dân – một yếu tố then chốt cho việc phát triển xã hội.
____________
Chú thích
Bắc Kỳ (Tonkin),
Trung Kỳ (Annam)
và Nam Kỳ (Cochinchine).
Từ Thiện
Trần Văn Giang (ghi lại)