Tham Khảo
Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đánh bật Cộng quân khỏi vòng đai Căn cứ 6, Kontum tháng 4/1971
Sau hai ngày chuẩn bị kế hoạch hỏa yểm và điều động các đơn vị vào khu vực hành quân, sáng ngày 6/4/1971, Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù được trực thăng vận đổ quân xuống ngay khu vực mà Cộng quân ( CQ) đang bố trí các cụm súng phòng không. Trước đó vào ngày 5/4/1971, tiểu đoàn 11 Nhảy Dù đã được điều động chận định ở sườn phía Bắc của căn cứ 6. Theo tài liệu của cựu Trung tá Bùi Đức Lạc (lúc bấy giờ là Thiếu tá tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Pháo binh Dù, người trực tiếp điều động kế hoạch hỏa yểm cho cuộc đổ quân), đối chiếu với một số tài liệu khác, diễn tiến về cuộc tấn công này được ghi nhận như sau:
Giờ G, Ngày N của cuộc đổ quân là 8 giờ ngày 6/4/1971. Lực lượng trực thăng không vận và yểm trợ gồm có 45 chiếc thuộc 2 phi đoàn Không quân VNCH và 2 phi đoàn Không lực Hoa Kỳ tại Cao nguyên, 2 chiếc CNC (trực thăng dành cho các sĩ quan chỉ huy), 2 phi pháo đội Cobra. Về pháo binh có 8 pháo đội, trong đó có 3 pháo đội 105 ly của tiểu đoàn 2 Pháo binh Nhảy Dù, 4 pháo đội 105 ly và 1 pháo đội 155 ly của Pháo binh Sư đoàn 22 BB.
Để chuẩn bị kế hoạch phối hợp hỏa lực yểm trợ đổ quân, từ sáng sớm, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 Pháo binh đã cùng với vị đại tá chỉ huy liên phi đoàn trực thăng Hoa Kỳ sử dụng 1 CNC để điều động các đơn vị Pháo binh và Không quân. Riêng Đại tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng lữ đoàn 2 Nhảy Dù, sử dụng 1 CNC khác bay điều động các cánh quân sau đó. Đúng 7 giờ 30 phút ngày N (6/4/1971), dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Lạc, 8 pháo đội đã đưa các loạt đạn vào từng mục tiêu đã dự định. Trong lúc đó, Không quân đã bay vào vùng và oanh tạc đúng theo thời biểu của kế hoạch yểm trợ hỏa lực từ trên không.
7 giờ 35 phút, các loạt đạn pháo binh đầu tiên hiệu quả trên LZ (bãi đáp cho cuộc đổ quân), những vùng CQ ngụy trang kín đáo đã bị các loạt đạn này bóc trần lộ diện. 7 giờ 50 phút, từng liên đội (2 chiếc) Cobra của Không lực Hoa Kỳ sà vào khu vực LZ ở cao độ 200 mét, nhưng không gặp một phản ứng nào của phòng không địch. Theo phân tích của vị tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 Pháo binh Nhảy Dù, các xạ thủ phòng không của đối phương đã lẩn trốn quanh vị trí do khiếp đảm trước các loạt pháo hỏa tập của Pháo binh VNCH tác xạ tập trung từ chiều ngày 5/4 đến sáng ngày 6/1971 trước giờ G của cuộc đổ quân.
Từ trên phi cơ chỉ huy, Thiếu tá Lạc thấy những loạt đạn nổ mạnh, nhanh và liên tục xối xả trên bãi đáp. Đó là các loạt đạn của 3 pháo đội Nhảy Dù. Ngay sau đó, ông ra hiệu cho đại tá Griffin, chỉ huy liên phi đoàn trực thăng Hoa Kỳ, cho lệnh phi cơ xuống thấp hơn, trong khi ông đang điều động trực thăng đổ quân.
-Một đơn vị Nhảy Dù VNCH trong 1 cuộc hành quân trực thăng vận
* Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù nhảy vào cụm phòng không của địch quân
Đúng 8 giờ, loạt đạn khói vừa chấm dứt, đoàn Cobra cộng với trực thăng võ trang Gunship bay cùng với đoàn trực thăng đổ quân đồng loạt tác xạ ồ ạt. Lính Dù của tiểu đoàn 6 Nhảy Dù phóng mình ra khỏi trực thăng nhảy xuống trận địa. Từng toán xung phong đến các vị trí phòng không của địch. Ngay đợt đổ quân đầu với 2 đại đội, đơn vị Nhảy Dù hoàn toàn vô sự, các trung đội nhảy xuống đầu tiên đã bắt sống 12 CQ đang cúi đầu tránh pháo, tịch thu 6 súng phòng không. Tiếp đó, từng trung đội của tiểu đoàn 6 Dù bung rộng để kiểm soát khu vực đổ quân. Cuộc đổ quân đợt 2 của tiểu đoàn 6 Dù cũng vô sự. Từ trận địa, Thiếu tá Nguyễn Văn Dĩnh, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6 Nhảy Dù, báo cáo kết quả cho Đại tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng, đang ở trên phi cơ chỉ huy để điều động quân. Theo kế hoạch của vị lữ đoàn trưởng lữ đoàn 2, sau khi hoàn tất cuộc đổ quân, Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù được lệnh đánh tạt ngang, không đánh thẳng vào các đơn vị CQ đang bao vây căn cứ 6. Đại tá Lịch muốn sau 15 phút đầu, tiểu đoàn 6 Nhảy Dù phải chiếm xong những vị trí phòng không của địch.
* Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đánh bật CQ quanh căn cứ 6
Tiếp theo hai đợt đổ quân của Tiểu đoàn 6, là hai đợt đổ quân của Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù do Trung tá Nguyễn Chí Hiếu, tiểu đoàn trưởng chỉ huy. Sau khi toàn bộ tiểu đoàn đã nhảy xuống trận địa, Trung tá Hiếu cho lệnh xung phong. Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù tiến quân ồ ạt tấn công địch: 1 đại đội đánh ngay trên đường đỉnh để vào bắt tay với đơn vị trú phòng của căn cứ hỏa lực 6, còn lại 3 đại đội tác chiến và đại đội chỉ huy tiếp tục thọc sâu bên sườn địch. Do bị đánh từ phía sau, các vị trí súng cộng đồng của CQ đã không sử dụng được vì đối phương đã đào công sự chiến đấu hướng vào Căn cứ Hỏa lực số 6. Bị tấn công bất ngờ và ở trong thế thụ động, Cộng quân không kịp phản ứng, tháo chạy tán loạn, bỏ lại cả xác 1 tiểu đoàn trưởng.
Cùng lúc diễn ra cuộc tấn công của Tiểu đoàn 5 Dù ở sườn Đông căn cứ, thì tại sườn phía Tây, Tiểu đoàn 6 Dù đã chạm súng với 2 tiểu đoàn và 1 đơn vị phòng không của CQ. Do Cộng quân phải rải 3 tiểu đoàn để bao vây căn cứ, nên chỗ nào đông nhất là cấp đại đội, nên khi tiểu đoàn 6 Dù từ ngang sườn đánh sang, cấp chỉ huy của đối phương đã bối rối không kịp sửa lại đội hình.
Toàn cảnh 1 căn cứ hỏa lực số 6
Về cánh quân của Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù do Trung tá Ngô Lê Tĩnh chỉ huy, từ ngày N-1 (5/4/1971), đơn vị này được điều động sang sườn phía Bắc để chận đường rút lui của Cộng quân. Suốt đêm 5/4, tiểu đoàn đã thử tung các đợt tấn công nghi binh lên thẳng căn cứ 6, nhưng gặp bộ binh của đối phương. Đơn vị Cộng quân này không trang bị súng cối như các đơn vị khác, nhưng không hiểu sao đối phương vẫn tránh khai hỏa, có thể địch quân lo lẫn tránh đạn vì Pháo binh Nhảy Dù và Sư đoàn 22 BB tác xạ liên tục vào khu vực được chọn làm LZ (bãi đáp, đổ quân), và các vị trí có đặt súng phòng không.
Khai thác cung từ của tù binh, bộ chỉ huy cuộc hành quân biết rõ kế hoạch phối trí lực lượng của Cộng quân quanh căn cứ 6 như sau: 3 tiểu đoàn bộ binh bao vây căn cứ 6, trong đó 1 tiểu đoàn dàn quân ở sườn Đông (hướng tiến quân của Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù), 2 tiểu đoàn trải quân ở sườn Tây (hướng tiến quân của Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù). Ngoài ra 1 đơn vị phòng không gồm 10 khẩu đội đã án ngữ đỉnh 1250 (tiền đồn của căn cứ 6). Trong ngày 6/4/1971, 10 khẩu đội phòng không của địch quân đã bị tiêu diệt hoàn toàn, trong đó có tiểu đoàn 6 Nhảy Dù đã tịch thu được 6 khẩu còn nguyên vẹn, xạ thủ của 6 khẩu đội này có một số chết, một số bị bắt tại trận; 4 khẩu còn lại bị tiêu diệt cả xạ thủ lẫn súng. Về nhân mạng, 1/2 quân số của trung đoàn bị chết ngay tại trận địa, số còn lại tháo chạy.
Cũng theo các tù binh, ngoài trung đoàn chủ lực bao vây căn cứ, 2 trung đoàn CQ (6 tiểu đoàn) bố trí dọc cáctrục mà đối phương tiên liệu là lực lượng tăng viện VNCH có thể tiến quân bằng đường bộ để tiếp cứu quân trú phòng tại căn cứ. (Cung từ của tù binh khác với thông tin tình báo ban đầu là có 4 tiểu đoàn Cộng quân bố trí chận đánh lực lượng tăng viện).
Sang ngày N+1 (7/4/1971), các đơn vị Nhảy Dù tiếp tục bung rộng truy kích CQ. Tuy không có các cuộc đụng độ lớn nhưng súng vẫn nổ đều đặn. Phần lớn tiếng súng đó do các binh sĩ Dù dùng súng B 40 và B 41 lấy được của địch bắn phóng theo các đơn vị bỏ chạy. Ngoài ra, các súng đại liên, thượng liên, trung liên của CQ mà Nhảy Dù tịch thu được cũng được xử dụng cho hết đạn, để cho nhẹ đi khi mang chiến lợi phẩm về. Tiếp tục cuộc hành quân truy lùng, 11 ngày sau (N+12), các đơn vị lữ đoàn 2 Dù tìm được các cụm hố cá nhân được ngụy trang kín đáo, các hầm chỉ huy đào ngay dưới những khối đá lớn, nên các đợt phi pháo của Không quân đã không ảnh hưởng đến các công sự kiên cố này.
Tác giả bài viết: VƯƠNG HỒNG ANH
( Tân Sơn Hòa )
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đánh bật Cộng quân khỏi vòng đai Căn cứ 6, Kontum tháng 4/1971
Sau hai ngày chuẩn bị kế hoạch hỏa yểm và điều động các đơn vị vào khu vực hành quân, sáng ngày 6/4/1971, Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù được trực thăng vận đổ quân xuống ngay khu vực mà Cộng quân ( CQ) đang bố trí các cụm súng phòng không. Trước đó vào ngày 5/4/1971, tiểu đoàn 11 Nhảy Dù đã được điều động chận định ở sườn phía Bắc của căn cứ 6. Theo tài liệu của cựu Trung tá Bùi Đức Lạc (lúc bấy giờ là Thiếu tá tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Pháo binh Dù, người trực tiếp điều động kế hoạch hỏa yểm cho cuộc đổ quân), đối chiếu với một số tài liệu khác, diễn tiến về cuộc tấn công này được ghi nhận như sau:
Giờ G, Ngày N của cuộc đổ quân là 8 giờ ngày 6/4/1971. Lực lượng trực thăng không vận và yểm trợ gồm có 45 chiếc thuộc 2 phi đoàn Không quân VNCH và 2 phi đoàn Không lực Hoa Kỳ tại Cao nguyên, 2 chiếc CNC (trực thăng dành cho các sĩ quan chỉ huy), 2 phi pháo đội Cobra. Về pháo binh có 8 pháo đội, trong đó có 3 pháo đội 105 ly của tiểu đoàn 2 Pháo binh Nhảy Dù, 4 pháo đội 105 ly và 1 pháo đội 155 ly của Pháo binh Sư đoàn 22 BB.
Để chuẩn bị kế hoạch phối hợp hỏa lực yểm trợ đổ quân, từ sáng sớm, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 Pháo binh đã cùng với vị đại tá chỉ huy liên phi đoàn trực thăng Hoa Kỳ sử dụng 1 CNC để điều động các đơn vị Pháo binh và Không quân. Riêng Đại tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng lữ đoàn 2 Nhảy Dù, sử dụng 1 CNC khác bay điều động các cánh quân sau đó. Đúng 7 giờ 30 phút ngày N (6/4/1971), dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Lạc, 8 pháo đội đã đưa các loạt đạn vào từng mục tiêu đã dự định. Trong lúc đó, Không quân đã bay vào vùng và oanh tạc đúng theo thời biểu của kế hoạch yểm trợ hỏa lực từ trên không.
7 giờ 35 phút, các loạt đạn pháo binh đầu tiên hiệu quả trên LZ (bãi đáp cho cuộc đổ quân), những vùng CQ ngụy trang kín đáo đã bị các loạt đạn này bóc trần lộ diện. 7 giờ 50 phút, từng liên đội (2 chiếc) Cobra của Không lực Hoa Kỳ sà vào khu vực LZ ở cao độ 200 mét, nhưng không gặp một phản ứng nào của phòng không địch. Theo phân tích của vị tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 Pháo binh Nhảy Dù, các xạ thủ phòng không của đối phương đã lẩn trốn quanh vị trí do khiếp đảm trước các loạt pháo hỏa tập của Pháo binh VNCH tác xạ tập trung từ chiều ngày 5/4 đến sáng ngày 6/1971 trước giờ G của cuộc đổ quân.
Từ trên phi cơ chỉ huy, Thiếu tá Lạc thấy những loạt đạn nổ mạnh, nhanh và liên tục xối xả trên bãi đáp. Đó là các loạt đạn của 3 pháo đội Nhảy Dù. Ngay sau đó, ông ra hiệu cho đại tá Griffin, chỉ huy liên phi đoàn trực thăng Hoa Kỳ, cho lệnh phi cơ xuống thấp hơn, trong khi ông đang điều động trực thăng đổ quân.
-Một đơn vị Nhảy Dù VNCH trong 1 cuộc hành quân trực thăng vận
* Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù nhảy vào cụm phòng không của địch quân
Đúng 8 giờ, loạt đạn khói vừa chấm dứt, đoàn Cobra cộng với trực thăng võ trang Gunship bay cùng với đoàn trực thăng đổ quân đồng loạt tác xạ ồ ạt. Lính Dù của tiểu đoàn 6 Nhảy Dù phóng mình ra khỏi trực thăng nhảy xuống trận địa. Từng toán xung phong đến các vị trí phòng không của địch. Ngay đợt đổ quân đầu với 2 đại đội, đơn vị Nhảy Dù hoàn toàn vô sự, các trung đội nhảy xuống đầu tiên đã bắt sống 12 CQ đang cúi đầu tránh pháo, tịch thu 6 súng phòng không. Tiếp đó, từng trung đội của tiểu đoàn 6 Dù bung rộng để kiểm soát khu vực đổ quân. Cuộc đổ quân đợt 2 của tiểu đoàn 6 Dù cũng vô sự. Từ trận địa, Thiếu tá Nguyễn Văn Dĩnh, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6 Nhảy Dù, báo cáo kết quả cho Đại tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng, đang ở trên phi cơ chỉ huy để điều động quân. Theo kế hoạch của vị lữ đoàn trưởng lữ đoàn 2, sau khi hoàn tất cuộc đổ quân, Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù được lệnh đánh tạt ngang, không đánh thẳng vào các đơn vị CQ đang bao vây căn cứ 6. Đại tá Lịch muốn sau 15 phút đầu, tiểu đoàn 6 Nhảy Dù phải chiếm xong những vị trí phòng không của địch.
* Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đánh bật CQ quanh căn cứ 6
Tiếp theo hai đợt đổ quân của Tiểu đoàn 6, là hai đợt đổ quân của Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù do Trung tá Nguyễn Chí Hiếu, tiểu đoàn trưởng chỉ huy. Sau khi toàn bộ tiểu đoàn đã nhảy xuống trận địa, Trung tá Hiếu cho lệnh xung phong. Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù tiến quân ồ ạt tấn công địch: 1 đại đội đánh ngay trên đường đỉnh để vào bắt tay với đơn vị trú phòng của căn cứ hỏa lực 6, còn lại 3 đại đội tác chiến và đại đội chỉ huy tiếp tục thọc sâu bên sườn địch. Do bị đánh từ phía sau, các vị trí súng cộng đồng của CQ đã không sử dụng được vì đối phương đã đào công sự chiến đấu hướng vào Căn cứ Hỏa lực số 6. Bị tấn công bất ngờ và ở trong thế thụ động, Cộng quân không kịp phản ứng, tháo chạy tán loạn, bỏ lại cả xác 1 tiểu đoàn trưởng.
Cùng lúc diễn ra cuộc tấn công của Tiểu đoàn 5 Dù ở sườn Đông căn cứ, thì tại sườn phía Tây, Tiểu đoàn 6 Dù đã chạm súng với 2 tiểu đoàn và 1 đơn vị phòng không của CQ. Do Cộng quân phải rải 3 tiểu đoàn để bao vây căn cứ, nên chỗ nào đông nhất là cấp đại đội, nên khi tiểu đoàn 6 Dù từ ngang sườn đánh sang, cấp chỉ huy của đối phương đã bối rối không kịp sửa lại đội hình.
Toàn cảnh 1 căn cứ hỏa lực số 6
Về cánh quân của Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù do Trung tá Ngô Lê Tĩnh chỉ huy, từ ngày N-1 (5/4/1971), đơn vị này được điều động sang sườn phía Bắc để chận đường rút lui của Cộng quân. Suốt đêm 5/4, tiểu đoàn đã thử tung các đợt tấn công nghi binh lên thẳng căn cứ 6, nhưng gặp bộ binh của đối phương. Đơn vị Cộng quân này không trang bị súng cối như các đơn vị khác, nhưng không hiểu sao đối phương vẫn tránh khai hỏa, có thể địch quân lo lẫn tránh đạn vì Pháo binh Nhảy Dù và Sư đoàn 22 BB tác xạ liên tục vào khu vực được chọn làm LZ (bãi đáp, đổ quân), và các vị trí có đặt súng phòng không.
Khai thác cung từ của tù binh, bộ chỉ huy cuộc hành quân biết rõ kế hoạch phối trí lực lượng của Cộng quân quanh căn cứ 6 như sau: 3 tiểu đoàn bộ binh bao vây căn cứ 6, trong đó 1 tiểu đoàn dàn quân ở sườn Đông (hướng tiến quân của Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù), 2 tiểu đoàn trải quân ở sườn Tây (hướng tiến quân của Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù). Ngoài ra 1 đơn vị phòng không gồm 10 khẩu đội đã án ngữ đỉnh 1250 (tiền đồn của căn cứ 6). Trong ngày 6/4/1971, 10 khẩu đội phòng không của địch quân đã bị tiêu diệt hoàn toàn, trong đó có tiểu đoàn 6 Nhảy Dù đã tịch thu được 6 khẩu còn nguyên vẹn, xạ thủ của 6 khẩu đội này có một số chết, một số bị bắt tại trận; 4 khẩu còn lại bị tiêu diệt cả xạ thủ lẫn súng. Về nhân mạng, 1/2 quân số của trung đoàn bị chết ngay tại trận địa, số còn lại tháo chạy.
Cũng theo các tù binh, ngoài trung đoàn chủ lực bao vây căn cứ, 2 trung đoàn CQ (6 tiểu đoàn) bố trí dọc cáctrục mà đối phương tiên liệu là lực lượng tăng viện VNCH có thể tiến quân bằng đường bộ để tiếp cứu quân trú phòng tại căn cứ. (Cung từ của tù binh khác với thông tin tình báo ban đầu là có 4 tiểu đoàn Cộng quân bố trí chận đánh lực lượng tăng viện).
Sang ngày N+1 (7/4/1971), các đơn vị Nhảy Dù tiếp tục bung rộng truy kích CQ. Tuy không có các cuộc đụng độ lớn nhưng súng vẫn nổ đều đặn. Phần lớn tiếng súng đó do các binh sĩ Dù dùng súng B 40 và B 41 lấy được của địch bắn phóng theo các đơn vị bỏ chạy. Ngoài ra, các súng đại liên, thượng liên, trung liên của CQ mà Nhảy Dù tịch thu được cũng được xử dụng cho hết đạn, để cho nhẹ đi khi mang chiến lợi phẩm về. Tiếp tục cuộc hành quân truy lùng, 11 ngày sau (N+12), các đơn vị lữ đoàn 2 Dù tìm được các cụm hố cá nhân được ngụy trang kín đáo, các hầm chỉ huy đào ngay dưới những khối đá lớn, nên các đợt phi pháo của Không quân đã không ảnh hưởng đến các công sự kiên cố này.
Tác giả bài viết: VƯƠNG HỒNG ANH
( Tân Sơn Hòa )