Truyện Ngắn & Phóng Sự
Mẩu Chuyện Đứt Quãng Sau 30/4 Về Dân Học Văn Khoa_Phạm Nga
Nhớ mấy ngày đầu sau 30/4, có một ông "nón cối" thường xuất hiện ở nhà tôi. Tội nghiệp ba mẹ tôi đã tốn nhiều quà cáp, trọng vọng quá sức người bà con mới nhận lại này, chỉ mong dựa hơi cán bộ để kiếm việc làm cho con cái.
Vu That
1. Nhớ
mấy ngày đầu sau 30/4, có một ông "nón cối" thường xuất hiện ở
nhà tôi. Tội nghiệp ba mẹ tôi đã tốn nhiều quà cáp, trọng vọng quá sức
người bà con mới nhận lại này, chỉ mong dựa hơi cán bộ để kiếm
việc làm cho con cái. Do đó, không ai được phép nhắc tới cái thời ông
này đi tập kết năm 54, làm việc mấy năm trên lưng mấy con bò ở nông
trường Sơn La hay Mộc Châu gì đó rồi được đề bạt đi học, rồi cũng
thành y sĩ ngành răng-hàm-mặt, tức rành rành thuộc giới trí thức miền
Bắc. Nghe nói thằng cháu dạy học ở chế độ cũ đang thất nghiệp ở chế
độ mới, ông bảo gọi tôi tới. Ngắm tôi vài giây - chắc ông xem tôi có
"trí thức miền Nam" chút nào không - rồi ông lấy ngón trõ vỗ vỗ vào
màng tang mà phán rằng: " Cháu học Văn khoa? Chà, trí thức tiểu tư sản,
lại học triết nữa thì tư tưởng khó chuyển biến đấy! Phải phấn đấu
nhiều lắm mới
được. Phải chi cháu tốt nghiệp kỷ sư kinh tế chẳng hạn thì bác có
thể giới thiệu cháu tham gia công tác ngay ở…". Lúc
ấy, tôi hiểu ngay tương lai mình hiển nhiên chẳng sáng sủa gì nhưng
lại không hiểu "kỷ sư kinh tế" là gì. Theo phân ngành đại học cũ, "kỷ
sư" thuộc khoa học ứng dụng, làm sao gắn với "kinh tế", thuộc phía
nhân văn - xã hội, trong đó có ngành kinh tế học. Trước kia chỉ có hoặc
" kỷ sư công chánh" của ĐH Bách khoa Phú Thọ, hoặc "cử nhân luật kinh
tế" của ĐH Luật chẳng hạn, nay lại nghe pha tạp thành "kỷ sư kinh
tế"? Sau này, tôi mới hiểu rằng, bị tâm lý chung là không xem trọng
các ngành học từ chương, nghèo tính thực
dụng (chỉ có thực dụng mới sản xuất ra được của cải vật chất?) nên
hình như khoa kinh tế học miền Bắc muốn che dấu tính chất nặng về
nghiên cứu, nặng lý thuyết của mình, đã cho sinh viên ra trường cũng
được cái tên "kỷ sư", thay vì "cử nhân". Tuy cùng là lao động trí óc,
nhưng phải nhập nhằng nhào vô ngồi chung với các anh kỷ sư thủy lợi,
kỷ sư giao thông vận tải, kỷ sư nông nghiệp.v.v…, thì anh "kinh tế"
mới khỏi bị đánh giá là kém ích dụng, ít thực tiễn hơn mấy anh họ
"kỷ". Vào
thập niên 60, bọn chúng tôi đã chọn ghi danh ở một ngôi trường cũ kỹ,
nhưng được cái là nằm trong một khu rất yên tĩnh ở đất Sài Gòn.
Trường Văn khoa bao gồm nhiều ban như Việt Hán, Sử địa, Triết,
Ngoại ngữ, Nhân văn… nhưng linh mục Thanh Lãng, dạy môn văn học sử, cứ
thích gọi là “trường Văn” thôi. Hẳn là cha Thanh Lãng đã mơ màng nhìn
những giảng đường lâu năm bụi bám, thấy giống như cửa Khổng sân Trình của đám nho sinh Hán tộc cổ xưa ? Riêng bọn tôi thì có vẻ…cổ xưa, hũ nho thật. Có lần tôi trồng cây si một cô nàng rất hấp dẫn, học cái ban à la mode nhất trong trường là Anh văn. Lân la đến làm quen thì nàng nhìn tôi với con mắt đầy…tội nghiệp: "Toahọc bên Triết đông hả? Sao cái ban gì tên nghe… cải lương dữ vậy!?".
Đáng đời cho tên nghịch đồ của ban phái Đông phương! Người trong mộng của hắn, như lời tình ca quen thuộc Hởi người tình Văn khoa…của
PD., phải là một tiểu thư yểu điệu thục nữ, áo dài tha thướt, trang
trọng, rất Á Đông, chứ sao lại là một nàng vốn học trường đầm, mặc
jupe bó đùi rất gợi cảm? Kẻ thất tình lầm lạc đã được các bạn đồng
môn an ủi bằng cách dẫn đi ngồi café ghế-cao là quán Hân ở Đakao, có
nhạc Paul Mauriat tuyệt vời. Nhưng chỗ ‘đóng đô’ thường nhật của bọn
tôi - trong những ngày… cạn túi - còn là quán cóc ghế-thấp ở lề đường
Nguyễn Du, ở đây có phiêu lãng những mẩu lá me bay lạc vào tách café
bình dân rẻ tiền. Nhưng có gì cấm được đám sinh viên bọn tôi – đa số
là con
nhà nghèo - ngồi đó mà nghĩ suy, dệt mộng lớn cho tương lai, dự
phóng giúp ích cho đời bằng kiến thức, chữ nghĩa mà mình đang dùi mài,
tích lũy từ ngôi trường cổ kính của mình qua mấy mùa mưa nắng ? Rồi
ra trường, thời sinh viên lãng mạn, đầy hoa mộng khép lại tuy vẫn ghi
danh tiếp, làm luận án cao học và không thường xuyên đến trường nữa.
Đa số đi dạy học; có người làm thơ (bệnh làm thơ của đa
số bọn sinh viên trường Văn), có người viết văn, làm báo, nghiên cứu
hay công tác xã hội… - nói chung là làm việc, chọn kế sinh nhai trong
các lãnh vực giáo dục, văn hoá, xã hội. Rồi
ngày 30/4 đã chợt dựng lên cái thời
đại mà hầu như người ta chỉ tôn vinh những ai có bàn tay dính dầu máy,
phân bón, thuốc trừ sâu, bùn đen, đất đỏ… thì dân xuất thân Văn khoa
làm sao khá nỗi? Ai
dính nguỵ quân, nguỵ quyền thì đi học cải tạo. Một số rất ít anh
chị em được cho tiếp tục dạy học với môn dạy khác và lương bậc thấp
hơn. Hãy quên đi danh xưng "giáo sư", "giáo viên" thôi! Cũng nên quên đi
cái bằng cử nhân khi xin vào làm công nhân viên ở cơ quan, xí nghiệp.
Nếu bạn không được hân hạnh là ‘lao động trực tiếp’ đầy vinh quang ở
công trường, xưởng sản xuất thì khi được bố trí làm ở văn phòng, bạn
chỉ là loại ‘lao động gián tiếp’. Nghĩa là tiêu
chuẩn gạo, vải… cùng hàng nhu yếu phẩm, như đường, xà bông, thuốc
lá, dầu hôi… đều thấp, thấp hơn cả tiêu chuẩn của người lao động phổ
thông, tức làm việc chân tay không cần học nghề, như quét dọn, bưng
nước, đào đất, bốc vác… Còn
lại thì chúng tôi làm đủ thứ nghề ngỗng lặt vặt để kiếm tiền mà sống.
Mấy ngày đầu thì đem sách vở, ly tách, chén dĩa… trong nhà ra lề
đường ngồi bán. Hết đồ đạc để bán thì đi làm rẫy, trồng nấm, nuôi
gà vịt, chạy hàng tạp hóa, đứng chợ trời … Thời
kỳ ấy, cả
ngày đạp xe đạp long nhong ngoài đường phố, tôi mới có dịp nhìn thấy
Sài Gòn khác hẳn xưa. Không biết đi ra đường làm những việc gì, nhưng
từ những góc phố, vỉa hè, đến bến xe bus, bến xe lam, người Sài Gòn
đi đi lại lại, hấp tập, vội vã, đăm chiêu… Trong cái hoạt cảnh ảm đạm
diễn ra từ sáng sớm đến tối mịt ấy, mốt thời trang phổ biến cho
cả nam lẫn nữ là nón vải đội đầu, dép lê dưới chân, và một món không
thể thiếu là một cái túi, một cái giỏ xách kè kè bên người. Lục túi
coi thì bên trong chỉ là những món mua-đi-bán-lại: gói thuốc lá hay
cuộn giấy vệ sinh, cái đồng hồ hư hay cuốn sách cũ, hộp thuốc
tây hay chai hoá chất còn ‘đát’… Sài
Gòn biến thành một cái chợ trời rộng mênh mông. Người ta mua mua, bán
bán tất cả mọi thứ vặt vãnh, nhận chút tiền, hẹn gặp lại, quay đi
ngã khác, chạy tiếp… Riêng tôi thì một cách ngoài ý muốn, được ngừng
chạy rong khi đến hạn trình diện học tập cải tạo ở Trảng Lớn, Tây Ninh. 2. Năm
76, học tập cải tạo về, tôi đang cùng một anh bạn, nguyên là tổng thư
ký một viện đại học tư của giới Công giáo, làm ‘nghề’ phạc-ma-xiên-à-la-mái- Dù
sao, đối với tôi, tập phim "tình nguyện đi lao động" ở cánh đồng
bưng quanh năm ngập nước, cách Sài Gòn 55km ấy cũng có vài cảnh vui
vẻ. Tất nhiên, về phần xác thì khó có gì gọi là phấn khởi – một
từ không mới nhưng hay được dùng thời ấy. Sau khi đăng ký làm việc ở
công trường thủy lợi 6
tháng, 1 năm… tùy ý, bạn được ở láng trại cất bằng tre nứa, xài đèn
dầu và nước giếng, cơm canh theo tiêu chuẩn đạm bạc và lãnh sinh hoạt
phí (không phải lương) là 50 đồng/tháng thời chưa đổi tiền lần 2
(năm1978). Riêng lao động nữ được phụ cấp mấy chục xu cho khoản … vệ
sinh trong tháng. Tôi hơi bất mãn và thầm ganh tị với cánh phụ nữ. Đáng
lẽ lao động nam cũng nên có phụ cấp về khoản… quần xà-lõn, vì cũng
chỉ cỡ sau một tháng là quần vải gì cũng mục rách do ngày ngày phải
ngâm mình dưới nước phèn khi đào kênh ngoài bưng. Có một anh, coi vậy mà
vẫn còn khá lạc quan, yêu đời (?), đã nhăn nhó tâm sự: “Ngâm nước phèn
suốt ngày, suốt tháng kiểu này thì đồ đạc của mình cũng hư tuốt. Về phép chủ
nhật, tối ráng âu yếm bà xả sau cả tuần xa cách thì nócứ xuôi xị!”. Về
phần hồn thì phải nói là tôi cũng có được vài niềm vui nho nhỏ riêng tư
khi tình cờ gặp lại vài bạn bè trí thức cũ vào những lúc cùng ra bưng
đắp đê hay trên đường về phép cuối tuần. Vui nhất là gặp lại C.H.K. Nhà
phê bình văn học nổi tiếng này dạy triết ở Nha Trang, sau 30-4 bị đố kỵ
gì đó mà phải nghỉ dạy, trôi dạt vô Sài Gòn, rồi cũng lên Củ Chi làm
thủy lợi. Ở một đội khác, lại gặp hai cậu "đàn em" Văn khoa cũ, sau
30-4 chỉ được dạy học thêm ít tháng ở Bến Tre, một vùng thời đó có
tiếng là kỳ thị người trí thức chế độ cũ. C.H.K. cũng
nói do ở Nha Trang cũng khó thở như thế nên anh mới bỏ dạy. Lại gặp
Bích D., một phụ nữ Huế duyên dáng, được làm ở tổ bếp và căn-tin sau
hai tháng chuyền đất ngoài đê. C.H.K.(cũng dân Huế) cho biết chị
chính là Diễm trong Diễm xưa của T.C.S. Chị D. thố lộ mình tình nguyện lao động và có mang tiếng là kiếm điểm như nhiều người khác cũng đành, do
chị cần có chút ‘thành tích phấn đấu’ dính-bùn-dính-đất mà kể ra
trong đơn bảo lãnh cho chồng, một phó tỉnh trưởng, được học tập về
sớm… Nhân vật Diễm nay rất khả ái và công tác rất nhiệt tình,
như để kiếm phân súc vật về cho vườn ươm cây tràm bông vàng của công
trường, chị đã từng góp bàn tay nõn nà hốt sạch
từng bãi phân trâu, bò rải rác trên con đường tỉnh lộ 7 dẫn vào công
trường. Tôi còn phục chị D. hơn qua một sáng kiến của chị là rủ chúng
tôi và mấy nữ tu xin phép ban chỉ huy công trường mở một lớp Anh văn và
Pháp văn. Đêm đêm, dưới ánh đèn dầu ở chái nhà ăn, một nhóm người
hiếu học cùng vài bạn bè còn muốn phục vụ bằng chính sở học của mình,
để cùng nhau học tập, ôn luyện ngoại ngữ… Có một chuyện là tuy không còn lạc quan, cứ tìm-cách-yêu-đời như anh bạn bị hư đồ đạc đã kể ở trên, nhưng có lần, khi nhờ ‘có trình độ văn hóa’ mà được đề bạt từ đội viên lên chức tổ trưởng tổ thủy lợi, tôi cũng
thử lay động, thử thách cái con người yếm thế, thân tâm đều trì trệ, xuống dốc…của mình một chút xem sao. Công
trường rùm beng mở một đợt thi đắp đê cấp 3. Ngoài bưng, nước ngập
sâu đến thắt lưng, mô hình đê được thấy qua hai hàng cây cọc tiêu(làm
mốc) được cắm song song, ló lên khỏi mặt nước. Đã suy tính trước nên
vào bữa thi, trong tổ gồm 8 người (6 nam, 2 nữ) thì về 2 cô nữ – thường
lãnh phần chuyền đất ngoài đê – vốn yếu sức sẽ ảnh hưởng đến năng suất
chung, tôi cho kiếm chuyện khai bệnh, nghỉ tại trại. Kế đó, tôi mượn
thêm ở kho vài cái len mới, loại xắn đất thật tốt, đóng thêm đinh cho
thật chắc, để đang làm mà gặp chuyện rất hay xảy ra ngoài đồng là gảy len thì
quăng cái gảy, khỏi sửa mất thì giờ, chụp ngay cái khác làm tiếp
ngay... Ở hiện trường, tôi bố trí đội hình là cạnh mỗi hàng cọc tiêumột cặp 2 người, để cùng lúc lấy đất được cả từ hai bên. Người đứng xắn đất ( tôi lãnh một vai này với cây len kiểu thuận theo chân trái của mình) thì
đi lui để khỏi cản trở người ngồi ngâm mình, nhận và chuyền đất trước
mặt đồng đội. Cũng không xắn cục đất quá lớn, để người kia có thể
bê, chuyền trên tay cho 2 người còn lại đắp từ giữa hình chân đê – bên
trong 2 hàng cọc tiêu - mà đắp ra. Đặc biệt giữa 4 người ngồi
chuyền
đất/đắp đê, tránh tình trạng làm cục đất xắn rơi khỏi những cánh tay
chuyền mà chìm xuống nước, sẽ mất công mò tìm và đất cũng dễ rã nát.
Phần chân đê phải xong theo chiều ngang rồi mới lo chiều dài. Mệt
thì đổi vai. Con đê cấp 3 dần dần xuất hiện vượt lên trên mặt nước và
từ từ dài ra… Khi
ước lượng – ở trại tôi vẽ hình, làm toán trước - thấy cái khối hình
thang con đê vừa dài, qui ra đủ khoảng 36 mét khối thì dừng, chuyển qua
đắp, bồi theo hướng ngược lại. Tại sao lại là 36m3 là vì theo tình hình
chung các nông trường thủy lợi ở các vùng ngoại thành Sài Gòn thời đó,
dân công đi đắp đê ‘xã hội chủ nghĩa’ – nghĩa
là tự nguyện, hay nghe lời hô hào, tuyên truyền mà chấp hành đi công
trường, không hề là dân ‘thổ đấu’, tức làm đất, đắp đê chuyên nghiệp như
ở miền Bắc, năng suất chung chung của dân ‘tự nguyện’ bình quân là 4 –
5m3/người/ngày công lao động (tức 8 giờ - tổng cộng 2 buổi sáng, chiều),
đồng thời tôi chỉ muốn tổ của mình phấn đấu chừng đó là được, là ‘đạt chỉ tiêu’ rồi. Đắp, bồi đất pô-luya cho
hai mái đê đến lúc trông cũng tạm phẳng phiu thì tôi cho một em đội
viên vừa chạy vừa lội nước đi gọi cán bộ nghiệm thu của ban chấm thi
đến đo liền, vì để lâu đê thấm nước mà lùn xuống, mất
khối lượng… Cứ
thế, cả tổ đắp được khúc đê qui ra là 36m3, chia cho 6 thì mỗi người
đạt 6m3. Sau này, nghe tôi kể lại ‘chiến thuật’ giúp tôi đạt thành tích
trong cuộc thi đắp đê, C.H.K. không thèm khen cho một tiếng, gọi là
‘động viên’ cái danh hiệu ghi đậm trên bằng khen cấp Thành phố "Kiện
tướng thuỷ lợi" của tôi, tức một nhà giáo đồng nghiệp, cũng vốn thư sinh
nho nhã như anh, hiện cũng ốm nhom như anh. Dù sao, anh cũng gật gù
đồng ý với tôi, rằng “Không ai một mình vừa xắn, vừa chuyền, vừa đắp
mà đạt được 6 mét khối/ngày công", và "Cũng không có gì khó nếu mình
biết dùng cái đầu một chút”. Cũng
sau này, khi nghe C.H.K. từ khâu đắp đê được chuyển qua khâu tiếp
phẩm (đi chợ mua hàng cho tổ bếp), rồi nhà cựu nghiên cứu văn học và
cựu giáo sư này được tiếng là tính toán bó rau, hũ mắm, miếng đậu hũ…
rất khéo, tiêu chuẩn thời kỳ ăn độn vẫn thế nhưng bữa cơm trong trại dễ
ăn hơn đôi chút, tôi bèn chọc quê: "Theo lô-gíc thì nhờ cái đầu, ai có
năng lực ở khâu nào thì nên ở luôn khâu ấy để phát huy sáng kiến, cải
tiến kỹ thuật. Có cần tui hót với trên cho ông được làm công tác đi chợ, lo tương-cà-mắm-muối suốt phần đời còn lại không hả?”. 3. Đến
năm 77, chuyển thành nông trường quốc doanh, công trường biên chế
những sĩ quan cải tạo về (về hơi sớm do tình nguyện đi sản xuất) và
đám thanh niên xung phong mới tăng cường sau này thành lực lượng lao
động dài hạn. Những người trí thức, tư sản, tu sĩ… đã đủ (hoặc dư) thời
hạn đăng ký lao động thì được động viên ở lại để tiếp tục phục vụ
cũng… dài hạn. Phải
nói lời giã biệt thôi! Xem đơn xin nghỉ việc vì lý do "… muốn trở
lại nghề dạy học cũ ở thành phố cho đúng khả năng", ông giám đốc nông
trường nói thẳng: " Trở lại nghề cũ? Nhớ quá
khứ? Cái kiểu mấy anh cứ vừa đi tới mà vừa ngoáy lại phía sau, dễ
vấp té lắm đó! Có giấy chứng nhận đã tham gia lao động do nông
trường cấp, cũng chưa chắc ở nội thành người ta tiếp nhận các anh!
Mà Củ Chi dù xa xôi nhưng cũng thuộc thành phố, sao mấy anh không ở
lại phục vụ, góp phần xây dựng vành đai xanh, sản xuất nông nghiệp cho
thành phố ?". Tôi
thì ít khoái kiểu ví von "vừa đi, vừa ngoáy thì té" của ông giám đốc
nhưng phải công nhận ông không nói xí gạt về tiền đồ của chúng tôi.
Sau nhiều khó khăn, chạy vạy, nhất là chuyện cắt hộ khẩu từ Củ Chi
chuyển về nội thành, rồi kẻ trước người sau, chúng tôi trở về
Sài Gòn. Riêng tôi đến đầu năm 79 mới về được hẳn, khi được ‘Ban quản
lý người học cải tạo về’ chấp nhận cho tạm trú ở chỗ ở cũ. Tôi và một số
anh chị quá nhớ nghề dạy học, vác đơn lên Sở giáo dục. Tuy đã đi lao
động tình nguyện nhưng vì trước đây “đã bỏ nhiệm sở vì lý do khó
khăn, xa gia đình…", có cán bộ ở Sở đã đánh giá đám thầy, cô giáo mất dạy này
là "vô tổ chức" và bác đơn. Có gốc giáo sư biệt phái và đã hoàn
thành nghĩa vụ lao động XHCN như tôi, thì "Chưa có chủ trương cho thầy
giáo gốc sĩ quan ngụy được đứng lớp". Lại
thất nghiệp. Lại ăn bám cha mẹ, vợ con. Lại ngày ngày ghé
Hội trí thức yêu nước - số 43 Nguyễn Thông, quận 3, tức câu lạc bộ
Phấn Thông Vàng cũ - xem có được giới thiệu chỗ làm chưa. Lại cả ngày ở
ngoài đường. Bọn tôi hùn vốn còm cõi mở cà phê vỉa hè, vừa bán vừa coi
chừng bị ‘hốt’ nên tôi đặt tên quán là quán Fất Fơ. Hay ngồi sửa
giày dép, túi xách, đi bỏ mối các loại bánh trái, cà phê trộn bắp,
hàng tạp phẩm… Lại có vài bạn đi bán… nước bọt, tức chạy mánh. Nghe
tuy-dô ở đâu còn vài tấn hóa chất, mấy cái máy phát điện cũ, đồng
hồ ODO còn gõ chuông.v.v.. là lập tức chạy kiếm đầu mua, thỏa thuận
được là ăn hoa hồng môi giới. Một bạn, dân triết Đông, cũng đi bán
nước bọt, nhưng cao trọng và kín đáo. Đó là chấm tử vi, chỉ lấy thù
lao "tượng
trưng". Tôi bái phục vì dần hồi anh trở thành nhân vật quan trọng,
chính danh "thầy". Nhiều người phải lặn lội tìm đến anh vì họ cần
xem tử vi, coi số mình có điđược không, tức là họ đi kiếm ở "thầy" một niềm hy vọng - hy vọng đơn xin đi của mình được… số mạng siêu hình duyệt xét, giải quyết! Đâu
khoảng vào năm 1980, để phục vụ những người còn phải lui tới, chờ được
giới thiệu, bố trí cho chỗ làm, Hội trí thức yêu nước đã tổ chức
lập hợp tác xã (giống kiểu hợp tác xã tiêu thụ ở các phường nhưng qui mô
nhỏ hơn) để cung cấp một số mặt hàng lương thực, thực phẩm, tạp phẩm…
cho
hội viên (có đóng cổ phần, lập sổ mua hàng) với giá có rẻ hơn ít, nhiều
so với thị trường. Khi đến đây “đi chợ”, mọi người còn có thể bước sang
căn-tin là nơi bán cà phê, đồ giải khát, thức ăn nhẹ - đặc biệt là bia
hơi - với giá chính thức khá rẻ… Tất
nhiên, vẫn đám kỷ sư, kỹ thuật viên là dễ được có chỗ làm sớm, còn
dân có gốc học Văn khoa cũ thì vẫn thường chờ dài cổ, nhất đối với những
người như tôi, vì không có chút vốn liếng, của cải nào nên trước mắt,
chỉ có một con đường duy nhất là tìm chỗ làm – quốc doanh, hợp doanh,
hợp tác xã gì cũng được - để bám vào mà kiếm sống. Cũng tất nhiên, vẫn
còn rất
nhiều người ngoài-đường-phố, chỉ tự lo cho mình chứ không nhờ vả hội
hiếc nào tuy bia hơi và mồi nhắm ở căn-tin của Hội trí thức cũng tạm
được, tức rẻ bằng nhưng có phần ngon hơn ở các cửa hàng ăn uống của
thương nghiệp quốc doanh rải rác trên đường phố Sài Gòn. Căn-tin của Hội
lại bán bia hơi khá thoải mái, không bắt mua kèm mồi, kiểu tiêu chuẩn
“1 dĩa đồ xào/2 lít bia” như ở các cửa hàng quốc doanh. Đến ngày tháng ấy, đối với giới trí thức cũ, trong đó có dân Văn khoa, phải nói rằng cái nhìn lạnh lẽo đã có phần thay đổi, thoáng hơn, nhưng uổng và tiếc là một số anh chị trí thức cũng đã xuống
ghe, thay đổi chỗ ở mất rồi. Ở cái quán cà phê cóc lề đường
nằm tại khu Bàn Cờ mà đám bát nháo chúng tôi, do thời đó điện thoại bàn
rất hiếm hoi, hạn chế và điện thoại di động thì chưa có, đã chọn làm
điểm hẹn chung để dễ tìm gặp nhau hằng ngày, để thông tin liên lạc này
nọ, để tán gẫu chuyện thời thế, thì bạn bè cứ dần hồi thưa vắng… Đến đây thì câu chuyện về dân học Văn khoa cũ đành bị đứt quãng. | |
Phạm Nga nguồn: vanchuongviet.org |
Vu That
Bàn ra tán vào (1)
lucy
Tôi lucy, tôi không bao giờ tin tưởng vào người quản gia phép thuật và ma thuật cho đến khi tôi có kinh nghiệm một đôi khi trước đây và nó thực sự làm việc cho tôi. Tôi đang yêu. Với anh chàng này và tôi đã có cảm tình với tôi trong 4 năm và chúng tôi đã sẵn sàng để kết hôn cho đến khi người phụ nữ này tản bộ dọc theo và lấy người đàn ông của tôi ra khỏi tôi. tôi đã thực sự bị tàn phá vì vậy tôi liên lạc với một người bạn của tôi, người bây giờ giới thiệu tôi với drokojie, và tôi đã nói Rằng anh sẽ giúp tôi lấy một câu thần chú đó chúng ta mang lại người đàn ông của tôi Trong thời hạn ba ngày, và tôi đã làm nó tôi có là tốt nhất chính tả đúc trong từ Ngoài ra tôi giải quyết vấn đề như ví dụ,
(1) Nếu bạn muốn cũ của bạn
(2) nếu bạn luôn luôn có những giấc mơ xấu.
(3) Bạn muốn được đề bạt vào văn phòng của bạn.
(4) Bạn muốn phụ nữ / đàn ông chạy sau khi bạn.
(5) Nếu bạn muốn có một đứa trẻ.
(6) Bạn muốn giàu có.
(7) Bạn muốn để buộc chồng / vợ là
của bạn mãi mãi.
(8) Nếu bạn cần hỗ trợ tài chính.
(9) chăm sóc thảo dược
(10) Nếu bạn không thể có khả năng để Đáp ứng vợ của bạn
mong muốn quan hệ tình dục do hoặc
sai lầm hành động thấp.
(11) nếu chu kỳ kinh nguyệt của bạn từ chối đi
ra vào ngày hôm đó
giả sử hoặc trên dòng chảy.
(12) công việc của bạn nếu bạn từ chối thanh toán, người
nợ do bạn? .
(13) để giải quyết vấn đề đất đai và làm cho nó trở lại.
(14) Có phải gia đình của bạn Denny bạn của bạn
phải không?
(15) Hãy cho dân ta tuân theo lời tôi nói và làm
muốn
(16) Bạn có một số lượng tinh trùng thấp?
(17) Trường hợp giải quyết E.T.C. drokojiehealinghome@gmail.com email của mình, bạn bè tôi phải cho bạn biết sự thật egbo dr là một thần chú rất đáng tin cậy.
----------------------------------------------------------------------------------
Mẩu Chuyện Đứt Quãng Sau 30/4 Về Dân Học Văn Khoa_Phạm Nga
Nhớ mấy ngày đầu sau 30/4, có một ông "nón cối" thường xuất hiện ở nhà tôi. Tội nghiệp ba mẹ tôi đã tốn nhiều quà cáp, trọng vọng quá sức người bà con mới nhận lại này, chỉ mong dựa hơi cán bộ để kiếm việc làm cho con cái.
1. Nhớ
mấy ngày đầu sau 30/4, có một ông "nón cối" thường xuất hiện ở
nhà tôi. Tội nghiệp ba mẹ tôi đã tốn nhiều quà cáp, trọng vọng quá sức
người bà con mới nhận lại này, chỉ mong dựa hơi cán bộ để kiếm
việc làm cho con cái. Do đó, không ai được phép nhắc tới cái thời ông
này đi tập kết năm 54, làm việc mấy năm trên lưng mấy con bò ở nông
trường Sơn La hay Mộc Châu gì đó rồi được đề bạt đi học, rồi cũng
thành y sĩ ngành răng-hàm-mặt, tức rành rành thuộc giới trí thức miền
Bắc. Nghe nói thằng cháu dạy học ở chế độ cũ đang thất nghiệp ở chế
độ mới, ông bảo gọi tôi tới. Ngắm tôi vài giây - chắc ông xem tôi có
"trí thức miền Nam" chút nào không - rồi ông lấy ngón trõ vỗ vỗ vào
màng tang mà phán rằng: " Cháu học Văn khoa? Chà, trí thức tiểu tư sản,
lại học triết nữa thì tư tưởng khó chuyển biến đấy! Phải phấn đấu
nhiều lắm mới
được. Phải chi cháu tốt nghiệp kỷ sư kinh tế chẳng hạn thì bác có
thể giới thiệu cháu tham gia công tác ngay ở…". Lúc
ấy, tôi hiểu ngay tương lai mình hiển nhiên chẳng sáng sủa gì nhưng
lại không hiểu "kỷ sư kinh tế" là gì. Theo phân ngành đại học cũ, "kỷ
sư" thuộc khoa học ứng dụng, làm sao gắn với "kinh tế", thuộc phía
nhân văn - xã hội, trong đó có ngành kinh tế học. Trước kia chỉ có hoặc
" kỷ sư công chánh" của ĐH Bách khoa Phú Thọ, hoặc "cử nhân luật kinh
tế" của ĐH Luật chẳng hạn, nay lại nghe pha tạp thành "kỷ sư kinh
tế"? Sau này, tôi mới hiểu rằng, bị tâm lý chung là không xem trọng
các ngành học từ chương, nghèo tính thực
dụng (chỉ có thực dụng mới sản xuất ra được của cải vật chất?) nên
hình như khoa kinh tế học miền Bắc muốn che dấu tính chất nặng về
nghiên cứu, nặng lý thuyết của mình, đã cho sinh viên ra trường cũng
được cái tên "kỷ sư", thay vì "cử nhân". Tuy cùng là lao động trí óc,
nhưng phải nhập nhằng nhào vô ngồi chung với các anh kỷ sư thủy lợi,
kỷ sư giao thông vận tải, kỷ sư nông nghiệp.v.v…, thì anh "kinh tế"
mới khỏi bị đánh giá là kém ích dụng, ít thực tiễn hơn mấy anh họ
"kỷ". Vào
thập niên 60, bọn chúng tôi đã chọn ghi danh ở một ngôi trường cũ kỹ,
nhưng được cái là nằm trong một khu rất yên tĩnh ở đất Sài Gòn.
Trường Văn khoa bao gồm nhiều ban như Việt Hán, Sử địa, Triết,
Ngoại ngữ, Nhân văn… nhưng linh mục Thanh Lãng, dạy môn văn học sử, cứ
thích gọi là “trường Văn” thôi. Hẳn là cha Thanh Lãng đã mơ màng nhìn
những giảng đường lâu năm bụi bám, thấy giống như cửa Khổng sân Trình của đám nho sinh Hán tộc cổ xưa ? Riêng bọn tôi thì có vẻ…cổ xưa, hũ nho thật. Có lần tôi trồng cây si một cô nàng rất hấp dẫn, học cái ban à la mode nhất trong trường là Anh văn. Lân la đến làm quen thì nàng nhìn tôi với con mắt đầy…tội nghiệp: "Toahọc bên Triết đông hả? Sao cái ban gì tên nghe… cải lương dữ vậy!?".
Đáng đời cho tên nghịch đồ của ban phái Đông phương! Người trong mộng của hắn, như lời tình ca quen thuộc Hởi người tình Văn khoa…của
PD., phải là một tiểu thư yểu điệu thục nữ, áo dài tha thướt, trang
trọng, rất Á Đông, chứ sao lại là một nàng vốn học trường đầm, mặc
jupe bó đùi rất gợi cảm? Kẻ thất tình lầm lạc đã được các bạn đồng
môn an ủi bằng cách dẫn đi ngồi café ghế-cao là quán Hân ở Đakao, có
nhạc Paul Mauriat tuyệt vời. Nhưng chỗ ‘đóng đô’ thường nhật của bọn
tôi - trong những ngày… cạn túi - còn là quán cóc ghế-thấp ở lề đường
Nguyễn Du, ở đây có phiêu lãng những mẩu lá me bay lạc vào tách café
bình dân rẻ tiền. Nhưng có gì cấm được đám sinh viên bọn tôi – đa số
là con
nhà nghèo - ngồi đó mà nghĩ suy, dệt mộng lớn cho tương lai, dự
phóng giúp ích cho đời bằng kiến thức, chữ nghĩa mà mình đang dùi mài,
tích lũy từ ngôi trường cổ kính của mình qua mấy mùa mưa nắng ? Rồi
ra trường, thời sinh viên lãng mạn, đầy hoa mộng khép lại tuy vẫn ghi
danh tiếp, làm luận án cao học và không thường xuyên đến trường nữa.
Đa số đi dạy học; có người làm thơ (bệnh làm thơ của đa
số bọn sinh viên trường Văn), có người viết văn, làm báo, nghiên cứu
hay công tác xã hội… - nói chung là làm việc, chọn kế sinh nhai trong
các lãnh vực giáo dục, văn hoá, xã hội. Rồi
ngày 30/4 đã chợt dựng lên cái thời
đại mà hầu như người ta chỉ tôn vinh những ai có bàn tay dính dầu máy,
phân bón, thuốc trừ sâu, bùn đen, đất đỏ… thì dân xuất thân Văn khoa
làm sao khá nỗi? Ai
dính nguỵ quân, nguỵ quyền thì đi học cải tạo. Một số rất ít anh
chị em được cho tiếp tục dạy học với môn dạy khác và lương bậc thấp
hơn. Hãy quên đi danh xưng "giáo sư", "giáo viên" thôi! Cũng nên quên đi
cái bằng cử nhân khi xin vào làm công nhân viên ở cơ quan, xí nghiệp.
Nếu bạn không được hân hạnh là ‘lao động trực tiếp’ đầy vinh quang ở
công trường, xưởng sản xuất thì khi được bố trí làm ở văn phòng, bạn
chỉ là loại ‘lao động gián tiếp’. Nghĩa là tiêu
chuẩn gạo, vải… cùng hàng nhu yếu phẩm, như đường, xà bông, thuốc
lá, dầu hôi… đều thấp, thấp hơn cả tiêu chuẩn của người lao động phổ
thông, tức làm việc chân tay không cần học nghề, như quét dọn, bưng
nước, đào đất, bốc vác… Còn
lại thì chúng tôi làm đủ thứ nghề ngỗng lặt vặt để kiếm tiền mà sống.
Mấy ngày đầu thì đem sách vở, ly tách, chén dĩa… trong nhà ra lề
đường ngồi bán. Hết đồ đạc để bán thì đi làm rẫy, trồng nấm, nuôi
gà vịt, chạy hàng tạp hóa, đứng chợ trời … Thời
kỳ ấy, cả
ngày đạp xe đạp long nhong ngoài đường phố, tôi mới có dịp nhìn thấy
Sài Gòn khác hẳn xưa. Không biết đi ra đường làm những việc gì, nhưng
từ những góc phố, vỉa hè, đến bến xe bus, bến xe lam, người Sài Gòn
đi đi lại lại, hấp tập, vội vã, đăm chiêu… Trong cái hoạt cảnh ảm đạm
diễn ra từ sáng sớm đến tối mịt ấy, mốt thời trang phổ biến cho
cả nam lẫn nữ là nón vải đội đầu, dép lê dưới chân, và một món không
thể thiếu là một cái túi, một cái giỏ xách kè kè bên người. Lục túi
coi thì bên trong chỉ là những món mua-đi-bán-lại: gói thuốc lá hay
cuộn giấy vệ sinh, cái đồng hồ hư hay cuốn sách cũ, hộp thuốc
tây hay chai hoá chất còn ‘đát’… Sài
Gòn biến thành một cái chợ trời rộng mênh mông. Người ta mua mua, bán
bán tất cả mọi thứ vặt vãnh, nhận chút tiền, hẹn gặp lại, quay đi
ngã khác, chạy tiếp… Riêng tôi thì một cách ngoài ý muốn, được ngừng
chạy rong khi đến hạn trình diện học tập cải tạo ở Trảng Lớn, Tây Ninh. 2. Năm
76, học tập cải tạo về, tôi đang cùng một anh bạn, nguyên là tổng thư
ký một viện đại học tư của giới Công giáo, làm ‘nghề’ phạc-ma-xiên-à-la-mái- Dù
sao, đối với tôi, tập phim "tình nguyện đi lao động" ở cánh đồng
bưng quanh năm ngập nước, cách Sài Gòn 55km ấy cũng có vài cảnh vui
vẻ. Tất nhiên, về phần xác thì khó có gì gọi là phấn khởi – một
từ không mới nhưng hay được dùng thời ấy. Sau khi đăng ký làm việc ở
công trường thủy lợi 6
tháng, 1 năm… tùy ý, bạn được ở láng trại cất bằng tre nứa, xài đèn
dầu và nước giếng, cơm canh theo tiêu chuẩn đạm bạc và lãnh sinh hoạt
phí (không phải lương) là 50 đồng/tháng thời chưa đổi tiền lần 2
(năm1978). Riêng lao động nữ được phụ cấp mấy chục xu cho khoản … vệ
sinh trong tháng. Tôi hơi bất mãn và thầm ganh tị với cánh phụ nữ. Đáng
lẽ lao động nam cũng nên có phụ cấp về khoản… quần xà-lõn, vì cũng
chỉ cỡ sau một tháng là quần vải gì cũng mục rách do ngày ngày phải
ngâm mình dưới nước phèn khi đào kênh ngoài bưng. Có một anh, coi vậy mà
vẫn còn khá lạc quan, yêu đời (?), đã nhăn nhó tâm sự: “Ngâm nước phèn
suốt ngày, suốt tháng kiểu này thì đồ đạc của mình cũng hư tuốt. Về phép chủ
nhật, tối ráng âu yếm bà xả sau cả tuần xa cách thì nócứ xuôi xị!”. Về
phần hồn thì phải nói là tôi cũng có được vài niềm vui nho nhỏ riêng tư
khi tình cờ gặp lại vài bạn bè trí thức cũ vào những lúc cùng ra bưng
đắp đê hay trên đường về phép cuối tuần. Vui nhất là gặp lại C.H.K. Nhà
phê bình văn học nổi tiếng này dạy triết ở Nha Trang, sau 30-4 bị đố kỵ
gì đó mà phải nghỉ dạy, trôi dạt vô Sài Gòn, rồi cũng lên Củ Chi làm
thủy lợi. Ở một đội khác, lại gặp hai cậu "đàn em" Văn khoa cũ, sau
30-4 chỉ được dạy học thêm ít tháng ở Bến Tre, một vùng thời đó có
tiếng là kỳ thị người trí thức chế độ cũ. C.H.K. cũng
nói do ở Nha Trang cũng khó thở như thế nên anh mới bỏ dạy. Lại gặp
Bích D., một phụ nữ Huế duyên dáng, được làm ở tổ bếp và căn-tin sau
hai tháng chuyền đất ngoài đê. C.H.K.(cũng dân Huế) cho biết chị
chính là Diễm trong Diễm xưa của T.C.S. Chị D. thố lộ mình tình nguyện lao động và có mang tiếng là kiếm điểm như nhiều người khác cũng đành, do
chị cần có chút ‘thành tích phấn đấu’ dính-bùn-dính-đất mà kể ra
trong đơn bảo lãnh cho chồng, một phó tỉnh trưởng, được học tập về
sớm… Nhân vật Diễm nay rất khả ái và công tác rất nhiệt tình,
như để kiếm phân súc vật về cho vườn ươm cây tràm bông vàng của công
trường, chị đã từng góp bàn tay nõn nà hốt sạch
từng bãi phân trâu, bò rải rác trên con đường tỉnh lộ 7 dẫn vào công
trường. Tôi còn phục chị D. hơn qua một sáng kiến của chị là rủ chúng
tôi và mấy nữ tu xin phép ban chỉ huy công trường mở một lớp Anh văn và
Pháp văn. Đêm đêm, dưới ánh đèn dầu ở chái nhà ăn, một nhóm người
hiếu học cùng vài bạn bè còn muốn phục vụ bằng chính sở học của mình,
để cùng nhau học tập, ôn luyện ngoại ngữ… Có một chuyện là tuy không còn lạc quan, cứ tìm-cách-yêu-đời như anh bạn bị hư đồ đạc đã kể ở trên, nhưng có lần, khi nhờ ‘có trình độ văn hóa’ mà được đề bạt từ đội viên lên chức tổ trưởng tổ thủy lợi, tôi cũng
thử lay động, thử thách cái con người yếm thế, thân tâm đều trì trệ, xuống dốc…của mình một chút xem sao. Công
trường rùm beng mở một đợt thi đắp đê cấp 3. Ngoài bưng, nước ngập
sâu đến thắt lưng, mô hình đê được thấy qua hai hàng cây cọc tiêu(làm
mốc) được cắm song song, ló lên khỏi mặt nước. Đã suy tính trước nên
vào bữa thi, trong tổ gồm 8 người (6 nam, 2 nữ) thì về 2 cô nữ – thường
lãnh phần chuyền đất ngoài đê – vốn yếu sức sẽ ảnh hưởng đến năng suất
chung, tôi cho kiếm chuyện khai bệnh, nghỉ tại trại. Kế đó, tôi mượn
thêm ở kho vài cái len mới, loại xắn đất thật tốt, đóng thêm đinh cho
thật chắc, để đang làm mà gặp chuyện rất hay xảy ra ngoài đồng là gảy len thì
quăng cái gảy, khỏi sửa mất thì giờ, chụp ngay cái khác làm tiếp
ngay... Ở hiện trường, tôi bố trí đội hình là cạnh mỗi hàng cọc tiêumột cặp 2 người, để cùng lúc lấy đất được cả từ hai bên. Người đứng xắn đất ( tôi lãnh một vai này với cây len kiểu thuận theo chân trái của mình) thì
đi lui để khỏi cản trở người ngồi ngâm mình, nhận và chuyền đất trước
mặt đồng đội. Cũng không xắn cục đất quá lớn, để người kia có thể
bê, chuyền trên tay cho 2 người còn lại đắp từ giữa hình chân đê – bên
trong 2 hàng cọc tiêu - mà đắp ra. Đặc biệt giữa 4 người ngồi
chuyền
đất/đắp đê, tránh tình trạng làm cục đất xắn rơi khỏi những cánh tay
chuyền mà chìm xuống nước, sẽ mất công mò tìm và đất cũng dễ rã nát.
Phần chân đê phải xong theo chiều ngang rồi mới lo chiều dài. Mệt
thì đổi vai. Con đê cấp 3 dần dần xuất hiện vượt lên trên mặt nước và
từ từ dài ra… Khi
ước lượng – ở trại tôi vẽ hình, làm toán trước - thấy cái khối hình
thang con đê vừa dài, qui ra đủ khoảng 36 mét khối thì dừng, chuyển qua
đắp, bồi theo hướng ngược lại. Tại sao lại là 36m3 là vì theo tình hình
chung các nông trường thủy lợi ở các vùng ngoại thành Sài Gòn thời đó,
dân công đi đắp đê ‘xã hội chủ nghĩa’ – nghĩa
là tự nguyện, hay nghe lời hô hào, tuyên truyền mà chấp hành đi công
trường, không hề là dân ‘thổ đấu’, tức làm đất, đắp đê chuyên nghiệp như
ở miền Bắc, năng suất chung chung của dân ‘tự nguyện’ bình quân là 4 –
5m3/người/ngày công lao động (tức 8 giờ - tổng cộng 2 buổi sáng, chiều),
đồng thời tôi chỉ muốn tổ của mình phấn đấu chừng đó là được, là ‘đạt chỉ tiêu’ rồi. Đắp, bồi đất pô-luya cho
hai mái đê đến lúc trông cũng tạm phẳng phiu thì tôi cho một em đội
viên vừa chạy vừa lội nước đi gọi cán bộ nghiệm thu của ban chấm thi
đến đo liền, vì để lâu đê thấm nước mà lùn xuống, mất
khối lượng… Cứ
thế, cả tổ đắp được khúc đê qui ra là 36m3, chia cho 6 thì mỗi người
đạt 6m3. Sau này, nghe tôi kể lại ‘chiến thuật’ giúp tôi đạt thành tích
trong cuộc thi đắp đê, C.H.K. không thèm khen cho một tiếng, gọi là
‘động viên’ cái danh hiệu ghi đậm trên bằng khen cấp Thành phố "Kiện
tướng thuỷ lợi" của tôi, tức một nhà giáo đồng nghiệp, cũng vốn thư sinh
nho nhã như anh, hiện cũng ốm nhom như anh. Dù sao, anh cũng gật gù
đồng ý với tôi, rằng “Không ai một mình vừa xắn, vừa chuyền, vừa đắp
mà đạt được 6 mét khối/ngày công", và "Cũng không có gì khó nếu mình
biết dùng cái đầu một chút”. Cũng
sau này, khi nghe C.H.K. từ khâu đắp đê được chuyển qua khâu tiếp
phẩm (đi chợ mua hàng cho tổ bếp), rồi nhà cựu nghiên cứu văn học và
cựu giáo sư này được tiếng là tính toán bó rau, hũ mắm, miếng đậu hũ…
rất khéo, tiêu chuẩn thời kỳ ăn độn vẫn thế nhưng bữa cơm trong trại dễ
ăn hơn đôi chút, tôi bèn chọc quê: "Theo lô-gíc thì nhờ cái đầu, ai có
năng lực ở khâu nào thì nên ở luôn khâu ấy để phát huy sáng kiến, cải
tiến kỹ thuật. Có cần tui hót với trên cho ông được làm công tác đi chợ, lo tương-cà-mắm-muối suốt phần đời còn lại không hả?”. 3. Đến
năm 77, chuyển thành nông trường quốc doanh, công trường biên chế
những sĩ quan cải tạo về (về hơi sớm do tình nguyện đi sản xuất) và
đám thanh niên xung phong mới tăng cường sau này thành lực lượng lao
động dài hạn. Những người trí thức, tư sản, tu sĩ… đã đủ (hoặc dư) thời
hạn đăng ký lao động thì được động viên ở lại để tiếp tục phục vụ
cũng… dài hạn. Phải
nói lời giã biệt thôi! Xem đơn xin nghỉ việc vì lý do "… muốn trở
lại nghề dạy học cũ ở thành phố cho đúng khả năng", ông giám đốc nông
trường nói thẳng: " Trở lại nghề cũ? Nhớ quá
khứ? Cái kiểu mấy anh cứ vừa đi tới mà vừa ngoáy lại phía sau, dễ
vấp té lắm đó! Có giấy chứng nhận đã tham gia lao động do nông
trường cấp, cũng chưa chắc ở nội thành người ta tiếp nhận các anh!
Mà Củ Chi dù xa xôi nhưng cũng thuộc thành phố, sao mấy anh không ở
lại phục vụ, góp phần xây dựng vành đai xanh, sản xuất nông nghiệp cho
thành phố ?". Tôi
thì ít khoái kiểu ví von "vừa đi, vừa ngoáy thì té" của ông giám đốc
nhưng phải công nhận ông không nói xí gạt về tiền đồ của chúng tôi.
Sau nhiều khó khăn, chạy vạy, nhất là chuyện cắt hộ khẩu từ Củ Chi
chuyển về nội thành, rồi kẻ trước người sau, chúng tôi trở về
Sài Gòn. Riêng tôi đến đầu năm 79 mới về được hẳn, khi được ‘Ban quản
lý người học cải tạo về’ chấp nhận cho tạm trú ở chỗ ở cũ. Tôi và một số
anh chị quá nhớ nghề dạy học, vác đơn lên Sở giáo dục. Tuy đã đi lao
động tình nguyện nhưng vì trước đây “đã bỏ nhiệm sở vì lý do khó
khăn, xa gia đình…", có cán bộ ở Sở đã đánh giá đám thầy, cô giáo mất dạy này
là "vô tổ chức" và bác đơn. Có gốc giáo sư biệt phái và đã hoàn
thành nghĩa vụ lao động XHCN như tôi, thì "Chưa có chủ trương cho thầy
giáo gốc sĩ quan ngụy được đứng lớp". Lại
thất nghiệp. Lại ăn bám cha mẹ, vợ con. Lại ngày ngày ghé
Hội trí thức yêu nước - số 43 Nguyễn Thông, quận 3, tức câu lạc bộ
Phấn Thông Vàng cũ - xem có được giới thiệu chỗ làm chưa. Lại cả ngày ở
ngoài đường. Bọn tôi hùn vốn còm cõi mở cà phê vỉa hè, vừa bán vừa coi
chừng bị ‘hốt’ nên tôi đặt tên quán là quán Fất Fơ. Hay ngồi sửa
giày dép, túi xách, đi bỏ mối các loại bánh trái, cà phê trộn bắp,
hàng tạp phẩm… Lại có vài bạn đi bán… nước bọt, tức chạy mánh. Nghe
tuy-dô ở đâu còn vài tấn hóa chất, mấy cái máy phát điện cũ, đồng
hồ ODO còn gõ chuông.v.v.. là lập tức chạy kiếm đầu mua, thỏa thuận
được là ăn hoa hồng môi giới. Một bạn, dân triết Đông, cũng đi bán
nước bọt, nhưng cao trọng và kín đáo. Đó là chấm tử vi, chỉ lấy thù
lao "tượng
trưng". Tôi bái phục vì dần hồi anh trở thành nhân vật quan trọng,
chính danh "thầy". Nhiều người phải lặn lội tìm đến anh vì họ cần
xem tử vi, coi số mình có điđược không, tức là họ đi kiếm ở "thầy" một niềm hy vọng - hy vọng đơn xin đi của mình được… số mạng siêu hình duyệt xét, giải quyết! Đâu
khoảng vào năm 1980, để phục vụ những người còn phải lui tới, chờ được
giới thiệu, bố trí cho chỗ làm, Hội trí thức yêu nước đã tổ chức
lập hợp tác xã (giống kiểu hợp tác xã tiêu thụ ở các phường nhưng qui mô
nhỏ hơn) để cung cấp một số mặt hàng lương thực, thực phẩm, tạp phẩm…
cho
hội viên (có đóng cổ phần, lập sổ mua hàng) với giá có rẻ hơn ít, nhiều
so với thị trường. Khi đến đây “đi chợ”, mọi người còn có thể bước sang
căn-tin là nơi bán cà phê, đồ giải khát, thức ăn nhẹ - đặc biệt là bia
hơi - với giá chính thức khá rẻ… Tất
nhiên, vẫn đám kỷ sư, kỹ thuật viên là dễ được có chỗ làm sớm, còn
dân có gốc học Văn khoa cũ thì vẫn thường chờ dài cổ, nhất đối với những
người như tôi, vì không có chút vốn liếng, của cải nào nên trước mắt,
chỉ có một con đường duy nhất là tìm chỗ làm – quốc doanh, hợp doanh,
hợp tác xã gì cũng được - để bám vào mà kiếm sống. Cũng tất nhiên, vẫn
còn rất
nhiều người ngoài-đường-phố, chỉ tự lo cho mình chứ không nhờ vả hội
hiếc nào tuy bia hơi và mồi nhắm ở căn-tin của Hội trí thức cũng tạm
được, tức rẻ bằng nhưng có phần ngon hơn ở các cửa hàng ăn uống của
thương nghiệp quốc doanh rải rác trên đường phố Sài Gòn. Căn-tin của Hội
lại bán bia hơi khá thoải mái, không bắt mua kèm mồi, kiểu tiêu chuẩn
“1 dĩa đồ xào/2 lít bia” như ở các cửa hàng quốc doanh. Đến ngày tháng ấy, đối với giới trí thức cũ, trong đó có dân Văn khoa, phải nói rằng cái nhìn lạnh lẽo đã có phần thay đổi, thoáng hơn, nhưng uổng và tiếc là một số anh chị trí thức cũng đã xuống
ghe, thay đổi chỗ ở mất rồi. Ở cái quán cà phê cóc lề đường
nằm tại khu Bàn Cờ mà đám bát nháo chúng tôi, do thời đó điện thoại bàn
rất hiếm hoi, hạn chế và điện thoại di động thì chưa có, đã chọn làm
điểm hẹn chung để dễ tìm gặp nhau hằng ngày, để thông tin liên lạc này
nọ, để tán gẫu chuyện thời thế, thì bạn bè cứ dần hồi thưa vắng… Đến đây thì câu chuyện về dân học Văn khoa cũ đành bị đứt quãng. | |
Phạm Nga nguồn: vanchuongviet.org |
Vu That