Truyện Ngắn & Phóng Sự

Một câu chuyện thương tâm

Một câu chuyện thương tâm, chỉ có người dân Miền Nam mới hiểu thấu câu Nước Mất Nhà Tan sau ngày mất Nước.



Một câu chuyện thương tâm, chỉ có người dân Miền Nam mới hiểu thấu câu
Nước Mất Nhà Tan sau ngày mất Nước. Kính mời quý vị và quý bạn đọc bài
viết về Nghĩa Quân Nguyễn Văn Đề.




Tôi Nguyễn Văn Đề, sinh ra là một ngôi sao xấu trong những ngôi sao
xấu nhất của bầu trời đất Việt. Cha mẹ tôi nghèo lại phải sinh sống
trong một miền quê hẻo lánh gần một vùng núi rừng heo hút, xa xôi, đất
cày lên sỏi đá.



Tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường. Do đó, từ lúc mới lên bảy,
tôi được một nhà phú hộ mướn chăn dê.



Với đàn dê 40 con, hằng ngày tôi phải lùa chúng vào các triền núi đá
từ sáng sớm tinh sương đến chạng vạng tối mới về. Cả ngày chăn đàn dê
gặm cỏ. Chiều đến tôi phải gom dẫn chúng về nhà phú hộ. Công việc chỉ
đơn thuần như thế. Còn việc trả công, tôi không hề hay biết. Đó là
việc của người lớn: – Của cha mẹ tôi và nhà phú hộ.



Sáng sớm được mẹ đánh thức, tôi rửa ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh
dẫn đàn dê vào núi cho chúng tự tìm thức ăn.



Sáng nào cũng vậy, mẹ trao cho tôi một nắm cơm vắt, đựng trong mo cau
với một ít muối ớt, gói trong miếng lá chuối khô. Đó là bữa cơm trưa
hàng ngày của tôi.



Tôi chưa bao giờ biết ăn sáng hay lót lòng bao giờ. Ngay cả buổi cơm
cũng chỉ có muối ớt. Họa hoằn lắm mới được thay đổi bữa cơm với một
con cá lép khô muối mặn bằng hai ngón tay. Đó là bữa ăn khá thịnh
soạn, ngon miệng nhất đời chăn dê mà tôi đã hoan hỉ lắm rồi.



Ngồi ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng trên cổ của bầy dê cũng vui tai quá đỗi.



Đời tôi thăng hoa hơn, năm 1973, vừa đúng 18 tuổi, tôi xin đăng vào
Nghĩa Quân, được tuyển mộ và thăng chức ngay là Nghĩa Quân Viên-một
cấp bậc nhỏ nhoi nhất trong hàng ngũ Nghĩa Quân. Tôi hãnh diện được
xúng xính trong quân phục ‘lính áo đen’.



Đời tôi bắt đầu sáng lạn hơn thằng chăn dê rồi đó! Tôi được dạy cho
biết cách sử dụng súng trường Carbin M1 và trong khi đó, “Em Một”
(Carbin M1) là ‘người tình’ đi theo tôi trong suốt quãng đời lính
tráng này.



Tôi được phục vụ ngay tại địa phương nơi tôi chào đời và lớn lên trong
đói nghèo, cơ cực. Tiểu đội của tôi gọi là ‘tiểu đội thám báo’.



Nói ‘thám báo’ cho oai, chứ thực ra, nhiệm vụ chính của tiểu đội là
ban ngày canh gác trụ sở Xã, ban đêm tiểu đội thường xuyên di chuyển
từ địa điểm này đến địa hình khác với mục đích tránh sự dòm ngó, quan
sát theo dõi của địch, để khỏi bị tấn công sát hại.



Tuy tránh giao tranh với địch song anh tiểu đội trưởng gọi nhiệm vụ đó
là ‘phục kích đêm’ để phá vỡ đường dây liên lạc của Việt Cộng.



Vào đầu tháng tư năm 1975, tiểu đội di chuyển đến một bờ ruộng. Tuy
nói là ẩn núp, ngụy trang, che dấu để tránh sự quan sát của địch, song
chúng tôi cũng phải chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi phát hiện
địch, chúng tôi cố ý ẩn nấp để tránh giao tranh và sáng hôm sau sẽ báo
cáo để thỉnh thị quyết định của thượng cấp.



Nào ngờ đêm hôm đó, cái đêm định mệnh của đời tôi và cũng là một đêm
tận cùng của tên du kích Việt Cộng, từ rừng núi rình mò về thôn xóm để
nhận tiếp tế. Đêm hôm đó, chẳng may hắn lơ đễnh thế nào mà đi lọt vào
ổ phục kích của chúng tôi. Lúc đó là phiên gác của anh Cường nhưng anh
ta ngủ gà ngủ gật, mắt nhắm mắt mở, khi tỉnh giấc anh thấy một bóng
đen xuất hiện quá gần chỗ anh đang gác. Giật mình, anh Cường nổ súng
bắn một băng tiểu liên và tên du kích ngã gục sau phát đạn khai hỏa
đầu tiên của anh ta.



Sáng hôm sau, chúng tôi lật xác tử thi địch để nhận dạng và biết rõ
tên du kích là một người dân trong xã vừa thoát ly gia đình theo Việt
Cộng, khoảng vài tháng trước. Hắn ta theo du kích vào rừng và làm liên
lạc viên cho đám du kích.



Sau đó chúng tôi được lệnh mang xác anh du kích về Xã để cho thân nhân
anh ta nhận xác về chôn cất.



Đây là một chiến thắng đầu tiên kể từ ngày thành lập tiểu đội mang tên
‘thám báo’ của chúng tôi.



Lẽ dĩ nhiên một tiểu đội ‘áo đen’ làm gì có phương tiện tải thương để
chuyên chở tử thi địch như các đơn vị Chủ Lực Quân hay Địa Phương
Quân.Vì thế, hôm ấy chúng tôi phải dùng 2 cây sào tre, rồi lấy áo đi
mưa cá nhân, kết hợp làm băng ca, khiêng tử thi tên du kích về xã.



Chúng tôi thay phiên nhau, hai người một, kẻ trước người sau, ì ạch
khiêng cái xác từ bờ ruộng này đến bờ đê khác. Gần đến trụ sở Xã,
chúng tôi được lệnh của anh trung đội trưởng cho đặt tử thi trước trụ
sở Xã.



Rủi ro cho tôi khi khiêng tử thi về gần đến nơi, người bạn khiêng phía
sau vừa bảo tôi vừa thả buông băng ca xuống:



– Đặt xác nó tại đây đi!



Anh bạn vừa thả băng ca thì trời bất chợt đổ cơn mưa rào. Tôi đem lòng
thương hại kẻ xấu số nên cố nắm chặt hai cáng băng ca, lôi xác tử thi
vào thẳng trong chợ để xác khỏi bị…mưa ướt.



Đó là lòng nhân từ của bất cứ ai cũng phải cư xử với người chết như
thế. Tôi vừa đặt tử thi xuống, bất ngờ một người đàn bà đập thình
thịch vào lưng tôi, nhục mạ, chửi rủa om sòm:



– “Cái quân trời đánh! Chồng tao đi thăm ruộng về khuya. Bọn mày giết
chồng tao!!” rồi lôi xác xềnh xệch như lôi kéo một con chó. “Trời ơi
là trời!”



Tôi định giải thích nhưng nghĩ lại bà ta cũng có cái đau khổ của người
vợ bị mất chồng, nên tôi đành cắn răng chịu đựng, bỏ đi mà không cần
giải thích cặn kẽ cho bà ấy.



Một tháng sau, tháng tư đen năm 1975, đổ sụp về, tất cả các sĩ quan từ
thiếu úy trở lên phải trình diện học tập cải tạo tại các trại tập
trung lao động khổ sai.



Các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ và Nghĩa Quân được học tập tại địa
phương 20 ngày thì được cho về sinh hoạt với gia đình. Riêng tôi lại
bị vợ của tên du kích, nay là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản kiêm Ủy Viên
Chính Trị Xã, ra lệnh chuyển tôi từ địa phương ra trại cải tạo Lam Sơn
với tội danh: Thành phần ác ôn, nguy hiểm, có nợ máu với nhân dân…



Những ngày đầu ở Lam Sơn, tôi cố tìm các anh em nghĩa quân khác mà tôi
quen biết. Tôi đã không tìm thấy bất cứ ai, kể cả anh Cường, người
Nghĩa Quân đã bắn chết anh du kích. Các ông trung đội trưởng, tiểu đội
trưởng, tôi cũng chẳng thấy ông nào. Thậm chí ngay cả các anh ‘linh áo
đen’ đã đi phục kích đêm hôm đó, cũng chẳng có ai!



Tôi bị phân bổ vào nhà H.22 gồm 50 thiếu úy, chỉ có một mình tôi là
Nghĩa Quân Viên.



Những ngày đầu, các ông thiếu úy cũng quá đỗi ngạc nhiên và hỏi tôi:



– Mày là thằng nghĩa quân quèn, sao lại trình diện vào đây để ngồi
tù?! Ủa, mày muốn tình nguyện học tập hả?



Có người thì nói ôn tồn, thương hại. Có ông thì nhìn tôi sòng sọc, gặng hỏi:



– Chứ bộ mày muốn mấy ổng trả lại cấp bậc nghĩa quân quèn cho mày hay sao?



Tuy bị hạch hỏi nhưng lúc nào tôi cũng ôn tồn, nhã nhặn trả lời:



– Dạ em đâu dám mơ ước như thế đâu thiếu úy!



Dù sao đi nữa, đời tôi cũng đã thăng hoa lắm rồi.



Ngày xưa, có bao giờ tôi được ăn chung, ngủ chung với các vị sĩ quan
trẻ này đâu. Thiếu úy, ít ra các ông ấy cũng là trưởng ban, trưởng
phòng, cuộc trưởng … gì đó trong chi khu, nên lúc nào tôi cũng kính
nể, tôn trọng các vị sĩ quan ấy.



Lao động trong trại tù chừng gần hai năm, các ông thiếu úy lần lượt ra về.



Tôi lại bị dồn vào ở tù chung với trung úy và đại úy. Đời tôi sao được
thăng cấp nhanh quá. Không bao lâu, chúng tôi bị chuyển ra trại Củng
Sơn, Phú Yên. Khoảng 3 năm có rất nhiều trung úy và đại úy lần lượt ra
về. Trại lại nhốt chung tôi với các ông thiếu tá mà ngày xưa tôi chưa
bao giờ dám xuất hiện gần các vị ấy vì các ông này ít ra cũng là các
cấp chỉ huy của đại úy Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng của tôi. Đời
tôi lại thăng hoa, thăng cấp nhanh như chớp. Càng được sống gần các vị
thiếu tá, tôi càng kính phục họ nhiều hơn. Các ông ấy hiền, đạo đức,
xem tôi như em út trong trại tù.



Sau đó, chúng tôi lại bị dời về A.30.  Ở tù hơn 5 năm, hầu hết ai ai
cũng được về đoàn tụ với gia đình. Cá nhân tôi lại được thăng cấp ở
chung với một đại tá và 12 người tù chính trị khác mà trại gọi là ác
ôn, có nhiều nợ máu với nhân dân.  Đời tôi tuy thăng hoa, thăng cấp
nhanh, nhưng càng thăng bao nhiêu thì ngày về lại càng xa tít mù khơi
bấy nhiêu. Tôi hết trông mong có ngày trở về gặp lại vợ con.



À, mà tôi quên kể cho quý vị nghe về gia đình, sự nghiệp, thân thế của tôi…



Năm 18 tuổi tôi cũng đã lập gia đình với con Nại. Cô gái này nhà cũng
nghèo, cũng được phú hộ mướn chăn dê như tôi. Cả hai chúng tôi thường
xuyên gặp nhau ở chỗ thả dê gặm cỏ. Không biết trời xuôi đất khiến thế
nào khi tôi gia nhập ‘quân áo đen’ dưới ‘cờ vàng ba sọc đỏ’ thì Nại
cũng vừa lớn, nó mắc cỡ không chịu chăn dê nữa. Mẹ tôi thấy nó siêng
năng, hiền lành như búp măng bụ bẫm nên mẹ tôi đem Nại về và nó trở
thành vợ tôi hồi nào tôi cũng chẳng hay biết gì!



Vợ chồng quê rất đơn giản, khỏi cần học những câu văn chương lãng mạn
để trao cho nhau làm gì cho mất thì giờ.



Tôi cũng không nhớ rõ, cái đêm động phòng hoa chúc ấy … ra làm
sao..Tôi đã nói với Nại những gì… âu yếm Nại như thế nào..nhưng sáng
ra, tôi thấy Nại nằm trọn trong vòng tay tôi. Tôi biết ngay, bây giờ
tôi đã có vợ. Gần một năm sau, Nại cho tôi hai đứa con trai sinh đôi
rất khoẻ mạnh. Một năm sau, Nại lại sinh đôi nữa. Đứa con gái chăn dê,
nay là người mẹ 4 con. Hồi đó, ‘quân áo đen’ không được hưởng phụ cấp
gia đình như anh em Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân. Bản thân tôi, chỉ
được lãnh lương 1.200 đồng mà phải nuôi sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù,
Nại một mình nuôi cha mẹ già tôi và bốn đứa con thật vất vả.



Suốt thời gian tôi bị tù, Nại thăm nuôi tôi được 3 lần: lần đầu khi
tôi mới bước chân vào trại Lam Sơn, lần thứ nhì tại trại A.30. Hồi đó,
trại cho tôi được ngủ đêm với Nại trong nhà ‘thăm nuôi” và Nại sinh
thêm đứa thứ năm. Lần thứ ba, khi được báo có người nhà thăm nuôi, tôi
vội vàng ra cổng trại thì được biết một thảm kịch đã xảy ra lôi thôi
cho gia đình tôi. Chiếc xe chở vợ của các tù nhân đi thăm nuôi chồng

bị lật và có hai người chết, trong đó có Nại. Xác Nại vì không có thân
nhân nhận nên địa phương nơi xảy ra tai nạn đã chôn xác Nại ven rừng.



Và năm đứa con tôi đưọc một người quen biết sinh sống cùng địa phương
của Nại cũng đi thăm nuôi chồng, mang giùm mấy đứa nhỏ vào trại giao
cho tôi.



Nại chết để lại 5 đứa con với một ràng bánh tráng, một ít mắm ruốc kho…



Năm đứa con, ngồi khóc vì không có mẹ, nên trại cho tôi dẫn chúng vào
trại để ở tù chung với tôi. Đời tôi bắt đầu rẽ một khúc quanh.



Nại chết, để lại hai đứa 7 tuổi, hai đứa 6 tuổi và một đứa chưa đầy
hai tuổi. Lúc đầu sáu cha con tôi được anh em cùng tù giúp đỡ. Anh em
bớt phần ăn ít ỏi của chính mình, chia sớt cho tôi để nuôi năm đứa
nhỏ. Sau đó trại thấy bất tiện nên cho tôi một cái lều tranh cũng
trong khuôn viên của trại tù và cấp ba tháng thực phẩm đầu tiên để tôi
tự túc nuôi con sau này.



Cảnh gà trống nuôi con. Tình cảnh hụt hẫng. Thức ăn thiếu thốn. Cuộc
đời dở khóc dở cười.



Một thời gian sau, nỗi sầu cũng đã lắng xuống nhiều, song hình ảnh của
Nại vẫn còn lắng đọng trong tâm trí tôi. Ngày ngày tôi cuốc đất trồng
khoai, trồng mì. Ba đứa con đầu cũng lẳng lặng theo sau tôi để phụ
giúp công việc lắt nhắt. Còn lại một đứa sáu tuổi ở nhà trông em hai

tuổi. Tối đến tôi bắt các con đi ngủ sớm. Tôi đã mất hẳn sự trầm tĩnh
và muốn bỏ cuộc. Ban đêm, năm đứa co rúm lại trong một cái mềm rách
trùm kín đầu ở một xó lều như muốn tránh những âm thanh dị kỳ, thét
gào của gió mưa bên ngoài. Tuy làm lụng rất vất vả nhưng hoa màu thu

hoạch cũng không đủ ăn. Thỉnh thoảng vào ban đêm, tôi dẫn con Thanh đi

đào mì và hái bắp trộm của trại về cho bầy con ăn thêm để tránh cái
đói đang hành hạ chúng.



Nào ngờ một đêm, tôi giật mình thức giấc thì thấy vắng mặt con Thanh -
đứa con gái đầu lòng mà thỉnh thoảng tôi dắt nó đi hái trộm bắp.



Tôi nhìn ra ngoài, bầu trời đen nnư mực. Mưa gió đang gào thét…



Tôi nghi ngờ là con Thanh đang đi bẻ bắp trộm. Tôi vội vã lách mưa đi tìm Thanh.



Sau một hồi tìm kiếm khắp các ruộng bắp, tôi cũng chẳng thấy nó ở đâu.



Trời tối thui như mực. Mưa rơi xào xạc, át hẳn tiếng kêu của tôi:

“Thanh! Thanh! Con ở đâu?” Nhưng tiếng kêu của tôi bị mưa gào, gió
cuốn mất hút trong không gian vô tận. Một chặp lâu sau, tôi nghĩ chắc
giờ này con Thanh cũng đã về nhà rồi nên tôi trở về. Quần áo xài xạc,
nhưng con Thanh vẫn chưa về nhà.



Đánh thức bốn đứa con, tôi gặng hỏi, mắng chửi cho một mẻ nhưng các
con chỉ ngơ ngác không biết chuyện gì đang xảy ra.



Tôi bảo các con đi ngủ tiếp và một mình ngồi chờ con Thanh về.



Một chặp lâu sau, tôi nghe tiếng súng bắn inh tai… Không biết chuyện
gì đã xảy ra thì khoảng nửa giờ sau, có tiếng la hét, hối hả của các
ông cán bộ đang đứng giữa nhà.



– Đêm hôm khuya khoắt mà mày sai con đi bẻ trộm bắp… Anh em công an đi
tuần tra, tưởng nhầm con mày là tù trốn trại nên đã bắn chết nó rồi…
Khẩn trương theo tụi tao nhận xác nó về.



Điếng cả người, ruột gan tôi rối bời. Rụng rời tay chân, tôi vội chạy
theo họ. Đến nơi, tôi thấy con Thanh nằm chết thê thảm bên vũng máu.



Quanh bụng nó cột một sợi giây và nhét quanh mình chừng mười trái bắp
và hai củ khoai mì mà nó vừa mới nhổ. Trong môi miệng nó còn đang nhai
mấy hột bắp non. Do đó, tôi biết ban đêm vì đói, con Thanh ngủ không
được nên lén tôi đi bẻ bắp về cho các em nhai, không ngờ bị bắn chết
thê thảm như vậy.



Sáng hôm sau, tôi chôn Thanh mà lòng buồn rũ rượi. Tôi không còn một
chỗ nào trong tâm trí để căm thù. Ngôi mộ của Thanh nằm ngay trong
mảnh đất do cha con tôi khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng mở cửa mả cho
Thanh bằng hai trái bắp và hai củ khoai mì đã đổi sinh mạng của nó.



Suốt đời Thanh là một chuỗi ngày dài bất hạnh vì thiếu tình thương của
cha, trong đói nghèo cơ cực của mẹ, và chết trong đói khát của cảnh tù
đày mà trẻ thơ mới có bảy tuổi đã phải nằm tù, gỡ lịch từng ngày với
cha. Thanh chỉ mong được ăn no, mặc cho đủ ấm, nhưng hoàn cảnh xã hội
đã hất hủi, không thương yêu nó.



Ngay cả trước 1975, vợ con của anh em lính Chủ Lực Quân và Địa Phương
Quân được lãnh phụ cấp gia đình, nên vợ con lính ai ai cũng đủ cơm ăn,
áo mặc. Còn vợ con của ‘quân áo đen’ thì đi chân đất, đầu trần, quần
áo tả tơi không một cấp lãnh đạo nào thèm quan tâm đến.



Hồi đó, anh em Nghĩa Quân chúng tôi cũng thuộc Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại
phân biệt đối xử với anh em chúng tôi như thế?!



Sau 1975, tôi cũng bị ghép vào ‘ngụy quân’, cũng bị tù, bị hành hạ như
các anh em khác. Sao các ông ‘đỉnh cao của nhân loại’ không biết phân
biệt hành xử để ‘quân áo đen’ như tôi không bị dẫn con vào trại tù và
bị chết thảm như vậy?!



Bảy ngày sau, đúng vào ‘thất thứ nhất’, vào khoảng một giờ khuya, khi
tôi đang ngồi buồn và nghĩ đến hoàn cảnh của gia đình và cái chết thê
thảm của con Thanh …



Mưa đang rơi từng giọt như tiếng ai đang rên rỉ và sau đó tôi nghe
tiếng khóc của con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn, não nuột. Tôi mở cánh
cửa sổ bằng liếp tre nhìn ra ngoài. Mưa càng lúc càng to. Gió thổi ào
ạt. Dưới gốc một thân cây chồi, ngay chỗ chôn con Thanh, một vệt trắng

hiện lên…Tôi toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt. Tôi cố nhìn kỹ thì ra đó
là hình dáng của con Thanh.. Nó đang đứng trước mộ, khóc sướt mướt.
Quanh lưng cũng đang buột một sợi dây và treo tòn ten vài trái bắp như
lúc tôi nhận xác nó về. Tôi mất bình tĩnh và khóc nấc lên từng cơn. Có

bàn tay ai đó đang bám vào vai tôi. Con Nhàn, đứa con gái sanh đôi với
con Thanh, hai chị em giống như hai giọt nước. Con Nhàn đã đứng sau
lưng tôi tự hồi nào. Nó khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất cả các con
tôi đều thức dậy đang ở chung quanh tôi. Ngoài trời đang mưa. Con
Thanh vẫn còn đứng đó, nó khóc ngậm ngùi. Tôi hoảng hốt vừa nói với
các con tôi :”Để cha ra bồng con Thanh vào nhà” tôi vừa đẩy tấm liếp;

con Nhàn cũng chạy theo.



Nhưng khi ra đến mả thì hình dáng con Thanh không còn nữa. Tôi ngơ
ngác không biết chuyện gì đã xảy ra nhưng tôi vẫn còn bình tĩnh và
biết ngay rằng con Thanh đang bị chết oan, chết lạnh và chết đói trong
nỗi oan ức mà linh hồn của nó cũng chẳng có nơi nương tựa. Không biết
nghĩ sao tôi vừa khóc ừa vái trước mộ nó: “Ba đưa con vào nhà. Ba sẽ

luộc bắp cho con ăn.”



Sau đó tôi bồng con Nhàn vào nhà như thể tôi đã bồng con Thanh.



Vào nhà, tôi lấy một miếng gỗ nhỏ, tựa vào vách, rồi dùng bốn thanh
tre, chôn dưới đất làm bốn chân bàn để làm tạm bàn thờ cho con Thanh.



Trong khi đó, con Nhàn nổi lửa luộc hai trái bắp đẹt làm thức ăn cúng
cho con Thanh.



Tôi thấy trên bàn không có nước, tôi bảo con Nhàn lấy ly rót nước cúng
con Thanh.



Nhàn đi qua đi lại trong cái nhà tranh như đang tìm kiếm vật gì? Sau
đó nó lấy một cái gáo dừa đưa lên hỏi tôi: “Ba ơi! Nhà không có ly,
mình dùng cái chén này rót nước cúng chị Thanh được không ba?”



Nước mắt lưng tròng, tôi khẽ gật đầu.



Thế cũng xong, cũng qua một tuần cúng vái. Các em của Thanh vừa lạy
vừa khóc nức nở với tất cả lòng yêu thương người chị.



Tôi nhớ ra. Từ ngày vợ tôi đi thăm nuôi, xe bị lật chết. Nại chết tức
tưởi để lại năm đứa con cho tôi.. Kể từ ngày ấy đến giờ tôi cũng chưa
có cơ hội lập một cái bàn thờ cho Nại. Tôi vội tìm trong mớ giấy tờ có
cái chứng minh nhân dân của Nại. Tôi trang trọng vuốt hình vợ mình
trong Chứng Minh Nhân Dân; rồi nhẹ nhàng đặt hình của Nại lên miếng gỗ
mỏng làm bàn thờ. Tôi thờ chung hai mẹ con Nại và Thanh trên một manh
gỗ mỏng của thời phồn vinh giả tạo còn sót lại.



Từ hôm đó, Thanh cũng không về khóc nữa. Nó cũng biết an phận trong
cảnh lưu đày của một chế độ mà người bóc lột người… Thỉnh thoảng tôi
vẫn có những đêm ác mộng: “Nại bị chết kẹt dưới những đống hàng chồng
chất, máu me lênh láng còn Thanh thì đang nằm sóng soài trên một vũng
máu mà miệng vẫn còn nhai ngấu nghiến chưa nuốt xong mấy hạt bắp sống.



Duy Xuyên

Bàn ra tán vào (0)

Comment




  • Input symbols

Một câu chuyện thương tâm

Một câu chuyện thương tâm, chỉ có người dân Miền Nam mới hiểu thấu câu Nước Mất Nhà Tan sau ngày mất Nước.



Một câu chuyện thương tâm, chỉ có người dân Miền Nam mới hiểu thấu câu
Nước Mất Nhà Tan sau ngày mất Nước. Kính mời quý vị và quý bạn đọc bài
viết về Nghĩa Quân Nguyễn Văn Đề.




Tôi Nguyễn Văn Đề, sinh ra là một ngôi sao xấu trong những ngôi sao
xấu nhất của bầu trời đất Việt. Cha mẹ tôi nghèo lại phải sinh sống
trong một miền quê hẻo lánh gần một vùng núi rừng heo hút, xa xôi, đất
cày lên sỏi đá.



Tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường. Do đó, từ lúc mới lên bảy,
tôi được một nhà phú hộ mướn chăn dê.



Với đàn dê 40 con, hằng ngày tôi phải lùa chúng vào các triền núi đá
từ sáng sớm tinh sương đến chạng vạng tối mới về. Cả ngày chăn đàn dê
gặm cỏ. Chiều đến tôi phải gom dẫn chúng về nhà phú hộ. Công việc chỉ
đơn thuần như thế. Còn việc trả công, tôi không hề hay biết. Đó là
việc của người lớn: – Của cha mẹ tôi và nhà phú hộ.



Sáng sớm được mẹ đánh thức, tôi rửa ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh
dẫn đàn dê vào núi cho chúng tự tìm thức ăn.



Sáng nào cũng vậy, mẹ trao cho tôi một nắm cơm vắt, đựng trong mo cau
với một ít muối ớt, gói trong miếng lá chuối khô. Đó là bữa cơm trưa
hàng ngày của tôi.



Tôi chưa bao giờ biết ăn sáng hay lót lòng bao giờ. Ngay cả buổi cơm
cũng chỉ có muối ớt. Họa hoằn lắm mới được thay đổi bữa cơm với một
con cá lép khô muối mặn bằng hai ngón tay. Đó là bữa ăn khá thịnh
soạn, ngon miệng nhất đời chăn dê mà tôi đã hoan hỉ lắm rồi.



Ngồi ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng trên cổ của bầy dê cũng vui tai quá đỗi.



Đời tôi thăng hoa hơn, năm 1973, vừa đúng 18 tuổi, tôi xin đăng vào
Nghĩa Quân, được tuyển mộ và thăng chức ngay là Nghĩa Quân Viên-một
cấp bậc nhỏ nhoi nhất trong hàng ngũ Nghĩa Quân. Tôi hãnh diện được
xúng xính trong quân phục ‘lính áo đen’.



Đời tôi bắt đầu sáng lạn hơn thằng chăn dê rồi đó! Tôi được dạy cho
biết cách sử dụng súng trường Carbin M1 và trong khi đó, “Em Một”
(Carbin M1) là ‘người tình’ đi theo tôi trong suốt quãng đời lính
tráng này.



Tôi được phục vụ ngay tại địa phương nơi tôi chào đời và lớn lên trong
đói nghèo, cơ cực. Tiểu đội của tôi gọi là ‘tiểu đội thám báo’.



Nói ‘thám báo’ cho oai, chứ thực ra, nhiệm vụ chính của tiểu đội là
ban ngày canh gác trụ sở Xã, ban đêm tiểu đội thường xuyên di chuyển
từ địa điểm này đến địa hình khác với mục đích tránh sự dòm ngó, quan
sát theo dõi của địch, để khỏi bị tấn công sát hại.



Tuy tránh giao tranh với địch song anh tiểu đội trưởng gọi nhiệm vụ đó
là ‘phục kích đêm’ để phá vỡ đường dây liên lạc của Việt Cộng.



Vào đầu tháng tư năm 1975, tiểu đội di chuyển đến một bờ ruộng. Tuy
nói là ẩn núp, ngụy trang, che dấu để tránh sự quan sát của địch, song
chúng tôi cũng phải chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi phát hiện
địch, chúng tôi cố ý ẩn nấp để tránh giao tranh và sáng hôm sau sẽ báo
cáo để thỉnh thị quyết định của thượng cấp.



Nào ngờ đêm hôm đó, cái đêm định mệnh của đời tôi và cũng là một đêm
tận cùng của tên du kích Việt Cộng, từ rừng núi rình mò về thôn xóm để
nhận tiếp tế. Đêm hôm đó, chẳng may hắn lơ đễnh thế nào mà đi lọt vào
ổ phục kích của chúng tôi. Lúc đó là phiên gác của anh Cường nhưng anh
ta ngủ gà ngủ gật, mắt nhắm mắt mở, khi tỉnh giấc anh thấy một bóng
đen xuất hiện quá gần chỗ anh đang gác. Giật mình, anh Cường nổ súng
bắn một băng tiểu liên và tên du kích ngã gục sau phát đạn khai hỏa
đầu tiên của anh ta.



Sáng hôm sau, chúng tôi lật xác tử thi địch để nhận dạng và biết rõ
tên du kích là một người dân trong xã vừa thoát ly gia đình theo Việt
Cộng, khoảng vài tháng trước. Hắn ta theo du kích vào rừng và làm liên
lạc viên cho đám du kích.



Sau đó chúng tôi được lệnh mang xác anh du kích về Xã để cho thân nhân
anh ta nhận xác về chôn cất.



Đây là một chiến thắng đầu tiên kể từ ngày thành lập tiểu đội mang tên
‘thám báo’ của chúng tôi.



Lẽ dĩ nhiên một tiểu đội ‘áo đen’ làm gì có phương tiện tải thương để
chuyên chở tử thi địch như các đơn vị Chủ Lực Quân hay Địa Phương
Quân.Vì thế, hôm ấy chúng tôi phải dùng 2 cây sào tre, rồi lấy áo đi
mưa cá nhân, kết hợp làm băng ca, khiêng tử thi tên du kích về xã.



Chúng tôi thay phiên nhau, hai người một, kẻ trước người sau, ì ạch
khiêng cái xác từ bờ ruộng này đến bờ đê khác. Gần đến trụ sở Xã,
chúng tôi được lệnh của anh trung đội trưởng cho đặt tử thi trước trụ
sở Xã.



Rủi ro cho tôi khi khiêng tử thi về gần đến nơi, người bạn khiêng phía
sau vừa bảo tôi vừa thả buông băng ca xuống:



– Đặt xác nó tại đây đi!



Anh bạn vừa thả băng ca thì trời bất chợt đổ cơn mưa rào. Tôi đem lòng
thương hại kẻ xấu số nên cố nắm chặt hai cáng băng ca, lôi xác tử thi
vào thẳng trong chợ để xác khỏi bị…mưa ướt.



Đó là lòng nhân từ của bất cứ ai cũng phải cư xử với người chết như
thế. Tôi vừa đặt tử thi xuống, bất ngờ một người đàn bà đập thình
thịch vào lưng tôi, nhục mạ, chửi rủa om sòm:



– “Cái quân trời đánh! Chồng tao đi thăm ruộng về khuya. Bọn mày giết
chồng tao!!” rồi lôi xác xềnh xệch như lôi kéo một con chó. “Trời ơi
là trời!”



Tôi định giải thích nhưng nghĩ lại bà ta cũng có cái đau khổ của người
vợ bị mất chồng, nên tôi đành cắn răng chịu đựng, bỏ đi mà không cần
giải thích cặn kẽ cho bà ấy.



Một tháng sau, tháng tư đen năm 1975, đổ sụp về, tất cả các sĩ quan từ
thiếu úy trở lên phải trình diện học tập cải tạo tại các trại tập
trung lao động khổ sai.



Các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ và Nghĩa Quân được học tập tại địa
phương 20 ngày thì được cho về sinh hoạt với gia đình. Riêng tôi lại
bị vợ của tên du kích, nay là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản kiêm Ủy Viên
Chính Trị Xã, ra lệnh chuyển tôi từ địa phương ra trại cải tạo Lam Sơn
với tội danh: Thành phần ác ôn, nguy hiểm, có nợ máu với nhân dân…



Những ngày đầu ở Lam Sơn, tôi cố tìm các anh em nghĩa quân khác mà tôi
quen biết. Tôi đã không tìm thấy bất cứ ai, kể cả anh Cường, người
Nghĩa Quân đã bắn chết anh du kích. Các ông trung đội trưởng, tiểu đội
trưởng, tôi cũng chẳng thấy ông nào. Thậm chí ngay cả các anh ‘linh áo
đen’ đã đi phục kích đêm hôm đó, cũng chẳng có ai!



Tôi bị phân bổ vào nhà H.22 gồm 50 thiếu úy, chỉ có một mình tôi là
Nghĩa Quân Viên.



Những ngày đầu, các ông thiếu úy cũng quá đỗi ngạc nhiên và hỏi tôi:



– Mày là thằng nghĩa quân quèn, sao lại trình diện vào đây để ngồi
tù?! Ủa, mày muốn tình nguyện học tập hả?



Có người thì nói ôn tồn, thương hại. Có ông thì nhìn tôi sòng sọc, gặng hỏi:



– Chứ bộ mày muốn mấy ổng trả lại cấp bậc nghĩa quân quèn cho mày hay sao?



Tuy bị hạch hỏi nhưng lúc nào tôi cũng ôn tồn, nhã nhặn trả lời:



– Dạ em đâu dám mơ ước như thế đâu thiếu úy!



Dù sao đi nữa, đời tôi cũng đã thăng hoa lắm rồi.



Ngày xưa, có bao giờ tôi được ăn chung, ngủ chung với các vị sĩ quan
trẻ này đâu. Thiếu úy, ít ra các ông ấy cũng là trưởng ban, trưởng
phòng, cuộc trưởng … gì đó trong chi khu, nên lúc nào tôi cũng kính
nể, tôn trọng các vị sĩ quan ấy.



Lao động trong trại tù chừng gần hai năm, các ông thiếu úy lần lượt ra về.



Tôi lại bị dồn vào ở tù chung với trung úy và đại úy. Đời tôi sao được
thăng cấp nhanh quá. Không bao lâu, chúng tôi bị chuyển ra trại Củng
Sơn, Phú Yên. Khoảng 3 năm có rất nhiều trung úy và đại úy lần lượt ra
về. Trại lại nhốt chung tôi với các ông thiếu tá mà ngày xưa tôi chưa
bao giờ dám xuất hiện gần các vị ấy vì các ông này ít ra cũng là các
cấp chỉ huy của đại úy Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng của tôi. Đời
tôi lại thăng hoa, thăng cấp nhanh như chớp. Càng được sống gần các vị
thiếu tá, tôi càng kính phục họ nhiều hơn. Các ông ấy hiền, đạo đức,
xem tôi như em út trong trại tù.



Sau đó, chúng tôi lại bị dời về A.30.  Ở tù hơn 5 năm, hầu hết ai ai
cũng được về đoàn tụ với gia đình. Cá nhân tôi lại được thăng cấp ở
chung với một đại tá và 12 người tù chính trị khác mà trại gọi là ác
ôn, có nhiều nợ máu với nhân dân.  Đời tôi tuy thăng hoa, thăng cấp
nhanh, nhưng càng thăng bao nhiêu thì ngày về lại càng xa tít mù khơi
bấy nhiêu. Tôi hết trông mong có ngày trở về gặp lại vợ con.



À, mà tôi quên kể cho quý vị nghe về gia đình, sự nghiệp, thân thế của tôi…



Năm 18 tuổi tôi cũng đã lập gia đình với con Nại. Cô gái này nhà cũng
nghèo, cũng được phú hộ mướn chăn dê như tôi. Cả hai chúng tôi thường
xuyên gặp nhau ở chỗ thả dê gặm cỏ. Không biết trời xuôi đất khiến thế
nào khi tôi gia nhập ‘quân áo đen’ dưới ‘cờ vàng ba sọc đỏ’ thì Nại
cũng vừa lớn, nó mắc cỡ không chịu chăn dê nữa. Mẹ tôi thấy nó siêng
năng, hiền lành như búp măng bụ bẫm nên mẹ tôi đem Nại về và nó trở
thành vợ tôi hồi nào tôi cũng chẳng hay biết gì!



Vợ chồng quê rất đơn giản, khỏi cần học những câu văn chương lãng mạn
để trao cho nhau làm gì cho mất thì giờ.



Tôi cũng không nhớ rõ, cái đêm động phòng hoa chúc ấy … ra làm
sao..Tôi đã nói với Nại những gì… âu yếm Nại như thế nào..nhưng sáng
ra, tôi thấy Nại nằm trọn trong vòng tay tôi. Tôi biết ngay, bây giờ
tôi đã có vợ. Gần một năm sau, Nại cho tôi hai đứa con trai sinh đôi
rất khoẻ mạnh. Một năm sau, Nại lại sinh đôi nữa. Đứa con gái chăn dê,
nay là người mẹ 4 con. Hồi đó, ‘quân áo đen’ không được hưởng phụ cấp
gia đình như anh em Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân. Bản thân tôi, chỉ
được lãnh lương 1.200 đồng mà phải nuôi sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù,
Nại một mình nuôi cha mẹ già tôi và bốn đứa con thật vất vả.



Suốt thời gian tôi bị tù, Nại thăm nuôi tôi được 3 lần: lần đầu khi
tôi mới bước chân vào trại Lam Sơn, lần thứ nhì tại trại A.30. Hồi đó,
trại cho tôi được ngủ đêm với Nại trong nhà ‘thăm nuôi” và Nại sinh
thêm đứa thứ năm. Lần thứ ba, khi được báo có người nhà thăm nuôi, tôi
vội vàng ra cổng trại thì được biết một thảm kịch đã xảy ra lôi thôi
cho gia đình tôi. Chiếc xe chở vợ của các tù nhân đi thăm nuôi chồng

bị lật và có hai người chết, trong đó có Nại. Xác Nại vì không có thân
nhân nhận nên địa phương nơi xảy ra tai nạn đã chôn xác Nại ven rừng.



Và năm đứa con tôi đưọc một người quen biết sinh sống cùng địa phương
của Nại cũng đi thăm nuôi chồng, mang giùm mấy đứa nhỏ vào trại giao
cho tôi.



Nại chết để lại 5 đứa con với một ràng bánh tráng, một ít mắm ruốc kho…



Năm đứa con, ngồi khóc vì không có mẹ, nên trại cho tôi dẫn chúng vào
trại để ở tù chung với tôi. Đời tôi bắt đầu rẽ một khúc quanh.



Nại chết, để lại hai đứa 7 tuổi, hai đứa 6 tuổi và một đứa chưa đầy
hai tuổi. Lúc đầu sáu cha con tôi được anh em cùng tù giúp đỡ. Anh em
bớt phần ăn ít ỏi của chính mình, chia sớt cho tôi để nuôi năm đứa
nhỏ. Sau đó trại thấy bất tiện nên cho tôi một cái lều tranh cũng
trong khuôn viên của trại tù và cấp ba tháng thực phẩm đầu tiên để tôi
tự túc nuôi con sau này.



Cảnh gà trống nuôi con. Tình cảnh hụt hẫng. Thức ăn thiếu thốn. Cuộc
đời dở khóc dở cười.



Một thời gian sau, nỗi sầu cũng đã lắng xuống nhiều, song hình ảnh của
Nại vẫn còn lắng đọng trong tâm trí tôi. Ngày ngày tôi cuốc đất trồng
khoai, trồng mì. Ba đứa con đầu cũng lẳng lặng theo sau tôi để phụ
giúp công việc lắt nhắt. Còn lại một đứa sáu tuổi ở nhà trông em hai

tuổi. Tối đến tôi bắt các con đi ngủ sớm. Tôi đã mất hẳn sự trầm tĩnh
và muốn bỏ cuộc. Ban đêm, năm đứa co rúm lại trong một cái mềm rách
trùm kín đầu ở một xó lều như muốn tránh những âm thanh dị kỳ, thét
gào của gió mưa bên ngoài. Tuy làm lụng rất vất vả nhưng hoa màu thu

hoạch cũng không đủ ăn. Thỉnh thoảng vào ban đêm, tôi dẫn con Thanh đi

đào mì và hái bắp trộm của trại về cho bầy con ăn thêm để tránh cái
đói đang hành hạ chúng.



Nào ngờ một đêm, tôi giật mình thức giấc thì thấy vắng mặt con Thanh -
đứa con gái đầu lòng mà thỉnh thoảng tôi dắt nó đi hái trộm bắp.



Tôi nhìn ra ngoài, bầu trời đen nnư mực. Mưa gió đang gào thét…



Tôi nghi ngờ là con Thanh đang đi bẻ bắp trộm. Tôi vội vã lách mưa đi tìm Thanh.



Sau một hồi tìm kiếm khắp các ruộng bắp, tôi cũng chẳng thấy nó ở đâu.



Trời tối thui như mực. Mưa rơi xào xạc, át hẳn tiếng kêu của tôi:

“Thanh! Thanh! Con ở đâu?” Nhưng tiếng kêu của tôi bị mưa gào, gió
cuốn mất hút trong không gian vô tận. Một chặp lâu sau, tôi nghĩ chắc
giờ này con Thanh cũng đã về nhà rồi nên tôi trở về. Quần áo xài xạc,
nhưng con Thanh vẫn chưa về nhà.



Đánh thức bốn đứa con, tôi gặng hỏi, mắng chửi cho một mẻ nhưng các
con chỉ ngơ ngác không biết chuyện gì đang xảy ra.



Tôi bảo các con đi ngủ tiếp và một mình ngồi chờ con Thanh về.



Một chặp lâu sau, tôi nghe tiếng súng bắn inh tai… Không biết chuyện
gì đã xảy ra thì khoảng nửa giờ sau, có tiếng la hét, hối hả của các
ông cán bộ đang đứng giữa nhà.



– Đêm hôm khuya khoắt mà mày sai con đi bẻ trộm bắp… Anh em công an đi
tuần tra, tưởng nhầm con mày là tù trốn trại nên đã bắn chết nó rồi…
Khẩn trương theo tụi tao nhận xác nó về.



Điếng cả người, ruột gan tôi rối bời. Rụng rời tay chân, tôi vội chạy
theo họ. Đến nơi, tôi thấy con Thanh nằm chết thê thảm bên vũng máu.



Quanh bụng nó cột một sợi giây và nhét quanh mình chừng mười trái bắp
và hai củ khoai mì mà nó vừa mới nhổ. Trong môi miệng nó còn đang nhai
mấy hột bắp non. Do đó, tôi biết ban đêm vì đói, con Thanh ngủ không
được nên lén tôi đi bẻ bắp về cho các em nhai, không ngờ bị bắn chết
thê thảm như vậy.



Sáng hôm sau, tôi chôn Thanh mà lòng buồn rũ rượi. Tôi không còn một
chỗ nào trong tâm trí để căm thù. Ngôi mộ của Thanh nằm ngay trong
mảnh đất do cha con tôi khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng mở cửa mả cho
Thanh bằng hai trái bắp và hai củ khoai mì đã đổi sinh mạng của nó.



Suốt đời Thanh là một chuỗi ngày dài bất hạnh vì thiếu tình thương của
cha, trong đói nghèo cơ cực của mẹ, và chết trong đói khát của cảnh tù
đày mà trẻ thơ mới có bảy tuổi đã phải nằm tù, gỡ lịch từng ngày với
cha. Thanh chỉ mong được ăn no, mặc cho đủ ấm, nhưng hoàn cảnh xã hội
đã hất hủi, không thương yêu nó.



Ngay cả trước 1975, vợ con của anh em lính Chủ Lực Quân và Địa Phương
Quân được lãnh phụ cấp gia đình, nên vợ con lính ai ai cũng đủ cơm ăn,
áo mặc. Còn vợ con của ‘quân áo đen’ thì đi chân đất, đầu trần, quần
áo tả tơi không một cấp lãnh đạo nào thèm quan tâm đến.



Hồi đó, anh em Nghĩa Quân chúng tôi cũng thuộc Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại
phân biệt đối xử với anh em chúng tôi như thế?!



Sau 1975, tôi cũng bị ghép vào ‘ngụy quân’, cũng bị tù, bị hành hạ như
các anh em khác. Sao các ông ‘đỉnh cao của nhân loại’ không biết phân
biệt hành xử để ‘quân áo đen’ như tôi không bị dẫn con vào trại tù và
bị chết thảm như vậy?!



Bảy ngày sau, đúng vào ‘thất thứ nhất’, vào khoảng một giờ khuya, khi
tôi đang ngồi buồn và nghĩ đến hoàn cảnh của gia đình và cái chết thê
thảm của con Thanh …



Mưa đang rơi từng giọt như tiếng ai đang rên rỉ và sau đó tôi nghe
tiếng khóc của con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn, não nuột. Tôi mở cánh
cửa sổ bằng liếp tre nhìn ra ngoài. Mưa càng lúc càng to. Gió thổi ào
ạt. Dưới gốc một thân cây chồi, ngay chỗ chôn con Thanh, một vệt trắng

hiện lên…Tôi toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt. Tôi cố nhìn kỹ thì ra đó
là hình dáng của con Thanh.. Nó đang đứng trước mộ, khóc sướt mướt.
Quanh lưng cũng đang buột một sợi dây và treo tòn ten vài trái bắp như
lúc tôi nhận xác nó về. Tôi mất bình tĩnh và khóc nấc lên từng cơn. Có

bàn tay ai đó đang bám vào vai tôi. Con Nhàn, đứa con gái sanh đôi với
con Thanh, hai chị em giống như hai giọt nước. Con Nhàn đã đứng sau
lưng tôi tự hồi nào. Nó khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất cả các con
tôi đều thức dậy đang ở chung quanh tôi. Ngoài trời đang mưa. Con
Thanh vẫn còn đứng đó, nó khóc ngậm ngùi. Tôi hoảng hốt vừa nói với
các con tôi :”Để cha ra bồng con Thanh vào nhà” tôi vừa đẩy tấm liếp;

con Nhàn cũng chạy theo.



Nhưng khi ra đến mả thì hình dáng con Thanh không còn nữa. Tôi ngơ
ngác không biết chuyện gì đã xảy ra nhưng tôi vẫn còn bình tĩnh và
biết ngay rằng con Thanh đang bị chết oan, chết lạnh và chết đói trong
nỗi oan ức mà linh hồn của nó cũng chẳng có nơi nương tựa. Không biết
nghĩ sao tôi vừa khóc ừa vái trước mộ nó: “Ba đưa con vào nhà. Ba sẽ

luộc bắp cho con ăn.”



Sau đó tôi bồng con Nhàn vào nhà như thể tôi đã bồng con Thanh.



Vào nhà, tôi lấy một miếng gỗ nhỏ, tựa vào vách, rồi dùng bốn thanh
tre, chôn dưới đất làm bốn chân bàn để làm tạm bàn thờ cho con Thanh.



Trong khi đó, con Nhàn nổi lửa luộc hai trái bắp đẹt làm thức ăn cúng
cho con Thanh.



Tôi thấy trên bàn không có nước, tôi bảo con Nhàn lấy ly rót nước cúng
con Thanh.



Nhàn đi qua đi lại trong cái nhà tranh như đang tìm kiếm vật gì? Sau
đó nó lấy một cái gáo dừa đưa lên hỏi tôi: “Ba ơi! Nhà không có ly,
mình dùng cái chén này rót nước cúng chị Thanh được không ba?”



Nước mắt lưng tròng, tôi khẽ gật đầu.



Thế cũng xong, cũng qua một tuần cúng vái. Các em của Thanh vừa lạy
vừa khóc nức nở với tất cả lòng yêu thương người chị.



Tôi nhớ ra. Từ ngày vợ tôi đi thăm nuôi, xe bị lật chết. Nại chết tức
tưởi để lại năm đứa con cho tôi.. Kể từ ngày ấy đến giờ tôi cũng chưa
có cơ hội lập một cái bàn thờ cho Nại. Tôi vội tìm trong mớ giấy tờ có
cái chứng minh nhân dân của Nại. Tôi trang trọng vuốt hình vợ mình
trong Chứng Minh Nhân Dân; rồi nhẹ nhàng đặt hình của Nại lên miếng gỗ
mỏng làm bàn thờ. Tôi thờ chung hai mẹ con Nại và Thanh trên một manh
gỗ mỏng của thời phồn vinh giả tạo còn sót lại.



Từ hôm đó, Thanh cũng không về khóc nữa. Nó cũng biết an phận trong
cảnh lưu đày của một chế độ mà người bóc lột người… Thỉnh thoảng tôi
vẫn có những đêm ác mộng: “Nại bị chết kẹt dưới những đống hàng chồng
chất, máu me lênh láng còn Thanh thì đang nằm sóng soài trên một vũng
máu mà miệng vẫn còn nhai ngấu nghiến chưa nuốt xong mấy hạt bắp sống.



Duy Xuyên

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm