Di Sản Hồ Chí Minh
NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA
NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp
NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là
một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann,
Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn
nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc
phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ
do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại
California.
THOMAS POLGAR(Chỉ huy Trung ương Tình báo Mỹ tại Việt Nam)“Chúng tôi là một đoàn quân chiến bại.”
Hiểu
ý định địch quân không khó vì Bắc Việt không giữ bí mật phương hướng,
đường lối. Họ thường cho cán bộ học tập kỹ lưỡng cả đến những chi tiết
đáng ngạc nhiên về những gì họ làm, hơi giống kiểu Hitler và cuốn Mein
Kampf. Họ thường nói trước những gì họ sẽ làm, chúng ta thường không tin
những gì họ đã nói. Còn chính sách Hoa Kỳ thì đơn giản là không đáp ứng
những tin tình báo mà chúng tôi thu lượm.
Xin đưa thí dụ: Mùa thu 1974, chúng tôi tìm ra được những báo cáo của Hà
Nội nói Nixon đã đổ, chúng ta sẽ chơi một trận cầu mới, chúng ta sẽ có
nhiều thử nghiệm trong phạm vi quân sự. Tôi xem các tài liệu này rất hệ
trọng. Bắt đầu vào tháng 10, 1974, khi tìm được phương án hoạt động 75,
tôi lái xe xuống Biên Hoà nói chuyện với viên Trưởng Nhiệm sở Tình báo
vùng, nơi họ bắt được phương án này, chúng tôi đã bàn thảo và đi đến kết
luận: Cái giọng trong văn kiện này tương đồng khủng khiếp với cái giọng
của tập tài liệu 90 nguyên tắc chỉ đạo do Trung ương cục miền Nam đưa
ra vài tháng trước cuộc tổng công kích 1972.
Một hôm, tôi có dịp hỏi ý kiến Kissinger về hoạt động tình báo của chúng
ta, không phải chỉ riêng ở Việt Nam, mà nói chung. Lúc ấy, ông đang
tiếp nhận một lưu lượng khổng lồ các tin tức do Trung ương Tình báo từ
khắp nơi trên thế giới gửi về. Tôi hỏi ông nghĩ thế nào về giá trị ngành
tình báo chúng ta? Ông suy nghĩ một lúc, rồi trả lời: “Khi nó hỗ trợ
cho chính sách của tôi, nó rất hữu ích!” Tôi nghĩ: Đấy, chính đấy là tâm
điểm vấn đề. Vấn đề là chính sách Mỹ không được thiết lập để đáp ứng
với tin tức do tình báo thâu nhập được nhưng chúng ta thiết lập chính
sách trước, rồi cố tìm kiếm các tin tức tình báo để hỗ trợ chính sách ấy
mà thôi.
Ở Việt Nam lúc đó có ba nguồn tình báo chính: Quân báo, sở An ninh Quốc
gia và Trung ương Tình báo. Chúng tôi không bao giờ gặp những trường hợp
tin tức nghịch chiều. Chưa bao giờ Văn phòng Tình báo- Văn phòng Tùy
viên Quân sự đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác biệt với quan điểm
những cơ quan tình báo bạn. Chúng tôi phối hợp chặt chẽ với Bill Legro,
người chỉ huy tình báo thuộc Văn phòng Tùy viên Quân sự suốt phần lớn
thời gian kể từ sau Hiệp định Ba-Lê. Nhưng trở ngại là chính sách Hoa Kỳ
đã được đặt trên căn bản của một tiền đề: Tiền đề đó là Chiến tranh
Việt Nam đã chấm dứt. Quân đội Hoa Kỳ đã rút. Và chắc chắn, Tổng thống
Ford sẽ không để cho hy vọng tái bầu cử của ông bị đe dọa vì việc có thể
đưa quân Mỹ trở lại Việt Nam.
Vào năm 1974, chúng ta đã không gửi tiếp vận cho Nam Việt Nam đúng kỳ
hạn. Chúng ta đã chậm trễ trong việc thi hành các nghĩa vụ đồng minh.
Lúc ấy, tôi báo cáo: Nếu người miền Nam Việt Nam mất tin tưởng vào sự hỗ
trợ của Hoa Kỳ, họ sẽ sụp đổ. Tôi nhấn mạnh vào sự tin tưởng-vào tinh
thần của họ, hơn là vào cả cái mức độ thực sự của việc yểm trợ quân sự.
Có năm sự kiện xảy ra trong năm 1973 dù không liên quan gì đến Việt Nam,
nhưng đã ảnh hưởng trầm trọng đến họ. Trước hết, cuộc chiến Ả Rập/Do
Thái đã làm đổi hướng Bộ Quốc phòng Mỹ và đổi hướng nguồn quân vận sống
chết của Nam Việt Nam. Tiếp đến việc phong tỏa dầu lửa, giá dầu thô tăng
vọt làm kinh tế Nam Việt Nam bị va chạm, thiệt hại nặng. Rồi các nhược
điểm trong chính sách ngoại giao Mỹ đã tạo nên những phản ứng tâm lý
mạnh mẽ chống lại việc tiếp tục các cam kết ngoại giao đắt giá. Rồi việc
quân nhân đảo chánh, hạ bệ Salvador Allende ở Chí Lợi làm công luận
thuộc Khuynh hướng Tự do và Khuynh hướng Tả phái tức giận, họ trút sang
đầu Nam Việt Nam. Sau nữa, quốc hội vì ghê tởm vụ bưng bít Watergate, đã
tìm cách trừng phạt Nixon, nên cũng gộp luôn cả Việt Nam vào vụ này.
Tôi nghĩ ông Thiệu hiểu rất rõ: Không có Mỹ, ông không thể tồn tại được.
Tôi cũng biết Hoàng Đức Nhã, cháu ông Thiệu rất nhiều. Nhã đã học bốn
năm đại học ở Mỹ, còn hiểu rõ hơn cái bản chất bất định của nền chính
trị Hoa Kỳ, những sự lên xuống thuần túy chỉ do áp lực nội bộ gây ra,
thường chẳng liên quan đến đề mục ngoại giao, mà lại ảnh hưởng lớn đến
liên hệ ngoại giao. Nhưng làm thế nào một người như Thiệu có thể nhận
thức thấu đáo sinh hoạt quốc hội Mỹ, trong khi cách làm việc của ông là
chỉ coi quốc hội của ông như một công cụ khúm núm quỵ lụy mà thôi?
Vụ thất thủ Phước Long xảy ra đầu năm 1975 không quan trọng về phương
diện quân sự, nhưng cực kỳ quan trọng ở phương diện tiêu biểu: Nước Mỹ
đã từ chối không thực hiện lời Nixon hứa với Thiệu rằng sẽ “trả đũa mạnh
mẽ và toàn bộ.” Quân Bắc Việt thử nghiệm xong, tất nhiên được đàng
chân, lân đàng đầu, họ sẽ tiến sâu hơn nữa.
Khi phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ đến Việt Nam, tôi nghĩ cách hành xử của
Fraser và Abzug không tha thứ được. Ngay khi bước vào phòng, Abzug lên
tiếng hỏi: “Trong mấy người ở đây, ai là Polgar?” Tôi tự giới thiệu. Bà
ta nói: “Tốt! Tôi đã được người ta cảnh giác về ông.”
Bấy giờ có một lãnh tụ sinh viên bị nhốt tù, anh này có đôi chút tiếng
tăm ở Mỹ. Bà Abzug đầu tiên bảo anh ta chắc chết rồi, Nam Việt Nam giết
hắn rồi. Tôi bảo “Không. Nam Việt Nam không làm như vậy. Họ có thể xác
định được bất cứ người nào ở đâu trong tù.” Bà ta bảo: “Xác định người
này xem.” Chúng tôi xác định ra được địa điểm giam anh ta là ở vùng 3,
Tuy Hoà.(Ghi chú của người dịch: Có lẽ là Biên Hòa) Bà bèn bảo bà ấy
muốn phỏng vấn. Nhưng đi xe hơi xa quá, phải có trực thăng, bà ấy lại
chỉ có thể đi sáng chủ nhật, thực bất tiện cho tất cả mọi người. Nhưng
cũng đành, chúng tôi thu xếp trực thăng, thu xếp thủ tục thăm tù. Sau
khi tất cả lo liệu xong, bà ấy nói: “À, tôi không lưu ý vụ này nữa” và
không bao giờ đi gặp người sinh viên này nữa.
Cùng đi trong phái đoàn có Millicent Fenwick. Bà này tuy không có cảm
tình với Nam Việt Nam nhưng vẫn còn cư xử đàng hoàng, đã theo dõi lắng
nghe các buổi thuyết trình. Nhưng Abzug và Fraser hết sức quá quắt. Tổng
thống Thiệu mời cả phái đoàn dự tiệc, hai người này thản nhiên không
dự. Họ chẳng đếm xỉa nghi lễ, không buồn từ chối. Họ lẳng lặng không
đến. Trước buổi tiệc ấy là tiếp tân của thủ tướng, họ đến, nhưng họ
không thò mặt vào buổi tiệc của tổng thống. Rồi đại sứ cũng mời phái
đoàn dùng cơm chiều. Tất cả mọi người đến, trừ Abzug. Tôi rất thất vọng,
vì chính tôi đã được xếp ngồi ngay cạnh bà ta.
Về vụ tấn công Ban Mê Thuột ngày 5 tháng 3, tôi không tin có ai đã đoán
trước được, nhưng hầu hết mọi người đều biết một cuộc tấn công lớn sẽ
xảy ra ở cao nguyên trung phần. Chúng tôi biết họ sẽ cắt đường, sẽ đưa
vào nhiều sư đoàn. Tất cả đều đã xảy ra đúng như vậy, nhưng Hoa Thịnh
Đốn không bao giờ chấp nhận tin tức tình báo của chúng tôi. Họ không
chấp nhận vì-(Chúng ta đang bước vào chuyện xuất xứ các nguồn tin và
những phương pháp thâu nhập tin tức tình báo, chẳng rõ tôi có nên nói ra
ở đây không)-Nhưng sự kiện xảy ra là giới tình báo Hoa Thịnh Đốn đã
không sử dụng tin tức tình báo từ Việt Nam do Văn phòng Tùy viên Quân sự
và sở Trung ương Tình báo chuyển đến, nói rằng sẽ có một cuộc tấn công
lớn tại cao nguyên vào năm 1975. Họ từ chối không chịu tin điều ấy. Còn
miền Nam Việt Nam thì chẳng có được một quan niệm chiến thuật riêng tư
nào, ngoài việc đặt một trung đoàn chỗ này, đưa một trung đoàn ra chỗ
kia để phòng vệ. Trung đoàn tăng cường Ban Mê Thuột không đủ đương đầu
tình hình, họ cũng không được may mắn. Những lực lượng này dùng để giữ
các địa phương thì tốt, họ tỏ ra đắc lực để đối đầu vài trận tấn công.
Tuy nhiên họ không phải là loại binh đội được huấn luyện và trang bị để
chiến đấu với các đơn vị chính quy chủ lực có chiến xa tăng cường.
Sau khi mất Ban Mê Thuột, ông Thiệu họp với tướng Phạm Văn Phú tại Cam
Ranh, ban lệnh triệt thoái cao nguyên. Tôi nhớ buổi họp ấy nhằm thứ sáu.
Phú cho thực hiện kế hoạch vào thứ bảy. Nhận tin sáng thứ bảy ấy, tôi
chạy theo tướng Charles Timmes ra Tổng Tham mưu, và nói rằng “Tôi chẳng
biết chuyện trời đất gì đang xảy ra đây nữa!” Tôi cho một phụ tá cao cấp
đi gặp tướng Đặng Văn Quang, Cố vấn An ninh của Thiệu, hỏi chuyện gì
đang xảy ra ở vùng II. Quang bảo: “Ông thấy, tình hình không được tốt.
Chúng tôi không mở đường lại được, chúng tôi đang lo ngại về tình hình
và sẽ phải thay đổi vị trí một vài đơn vị- chớ chẳng có chuyện gì xảy ra
ở vùng II cả.”
Hiển nhiên, ông Quang không hay biết ông Phú đang di tản. Tướng Timmes
vào Tổng Tham Mưu Việt Nam, nhưng không gặp tướng Cao Văn Viên, Tổng
Tham mưu Trưởng. Mọi sự ở đấy có không khí của một buổi sáng thứ bảy.
Nhưng ông đã gặp tướng Trần Đình Thọ, là Trưởng phòng hành quân để hỏi
thăm tin tức vùng II. Ông Thọ nói: “Còn có cái gì xảy ra mà quý ông
không hay biết cả đâu?” Rõ rệt, Bộ Tổng Tham Mưu cũng không biết gì việc
ông Phú đang triệt thoái. Sau đó tôi nhận tin trực tiếp từ Pleiku gửi
về. Phó Đại sứ Wolf Lehman bấy giờ đang bận một số chuyện lặt vặt. Joe
Bennett, sĩ quan chính trị đang bận đi chữa răng. Tôi điện thoại cho
Moncrieff Spear, Tổng Lãnh sự ở vùng II, bảo ông ta: “Tốt hơn hết ông
nên chuyển người của ông ra khỏi Pleiku, theo chỗ tôi hiểu: người ta
đang di tản.” Ông ta nói: “Anh khùng à?” Bấy giờ ông ta đang ở Nha
Trang, vùng duyên hải, tôi bảo: “Không, tôi có lý do để tin những việc
đang xảy ra.” Ông ta nói: “Có phải anh ra lệnh cho tôi di tản Pleiku đấy
chăng?” Tôi bảo: “Ông biết thừa tôi không thể làm thế. Nhưng tôi có thể
kết luận nếu khôn ngoan thì hãy di tản ngay đi.”
Có một điểm tôi muốn nêu ra đây về tướng Phú trong buổi sáng hôm ấy. Bất
kỳ công trạng trước đây của ông thế nào, không kể, nhưng bây giờ ông ta
đã hoàn toàn không phối hợp với chúng tôi. Ông ta không thông báo cả
cho Tổng Lãnh sự là người mà ông bắt buộc phải thông báo, vì đây là đại
diện chính thức của Hoa Kỳ tại vùng II. Ông Quang cũng không biết chuyện
gì đang xảy ra, ông ta có vẻ của một người bận rộn, nhưng thực tình chỉ
lăng xăng giết thì giờ. Còn ông Thọ Trưởng phòng hành quân, cũng thế,
chẳng hay biết gì cả. Trong sự suy đoán của tôi: Những việc xảy ra đó là
do tướng Phú hiểu lầm những gì Tổng thống Thiệu nghĩ trong đầu, rồi tự
khởi xướng một kế hoạch hành động, không biết việc ấy trong thực tế sẽ
khó khăn đến đâu. Thực tế cuộc di tản ấy không thành công. Mọi cuộc
triệt thoái sớm hay muộn đều là một sự thất bại khủng khiếp.
Quân đội Bắc Việt bắt kịp cuộc di tản của tướng Phú. Chiến xa của họ đâm
ra từ các đường nhánh, gặp đoàn quân tại Phú Bổn. Cuộc tàn sát đã diễn
ra ở đấy.
Trước buổi họp Cam Ranh, tôi liên lạc với Hoa Thịnh Đốn để ghi nhận cuộc
chơi đã xong. Tôi nhớ tôi nói chuyện với một viên chức có liên hệ khá
chặt chẽ với tôi (xin miễn đưa tên), ông ta bảo: Nam Việt Nam không thể
nào tiêu hoá nổi việc mất Ban Mê Thuột cùng với cái hậu quả tất yếu của
nó là mất toàn thể cao nguyên. Ống là một sĩ quan cấp tướng.
Lúc ấy vẫn chưa có gì xảy ra ở vùng I. Rồi tai họa bắt đầu. Thiệu quyết
định rút cả Thủy quân Lục chiến lẫn Nhảy dù khỏi vùng I. Quyết định này
giống như chợt rút đi cái chiếu trong lúc tướng Trưởng còn đang đứng
trên ấy, nó làm ông ta hổng cẳng. Tiếp đến, mất cả sư đoàn Thủy quân Lục
chiến. Họ trở nên vô dụng, vì đầu tiên người ta ra lệnh triệt thoái,
sau lại ra lệnh “quay đàng sau, quay,” để quay trở lại! Đó là chuyện bất
khả thi về phương diện quân sự. Sư đoàn Thủy quân Lục chiến mất rất
nhiều chiến cụ vì không thể nào lấy ra được trong cái dòng người tỵ nạn
tràn lan. Lúc này ông Thiệu đang ngoi ngóp trong biển nước, ông cố bám
lấy vài cọng cỏ. Nhưng lúc này ông có làm bất cứ cái gì cũng không còn
có thể thay đổi tình thế lại được nữa. Cuộc chơi đã xong.
Tôi tin tưởng chắc chắn rằng khi người Việt Nam có cảm tưởng chúng ta
sắp chạy, tất cả sẽ sụp đổ. Điều này, tôi hoàn toàn đồng ý với đại sứ
Martin. Ông đại sứ lúc ấy đã rời Việt Nam sang Mỹ cùng với phái đoàn
quốc hội. Ông nghĩ ông có thể vận động được một vài dân biểu, ông sẽ cố
ra điều trần trước quốc hội. Đến Hoa Thịnh Đốn, người ta phát hiện tình
trạng sức khoẻ của ông cần giải phẫu, việc này đã làm chuyến về của ông
chậm trễ. Không muốn mọi người phải quan tâm nhiều, ông đi xuống North
Carolina mổ, ngay Bộ Ngoại giao cũng không biết liên lạc với ông ở đâu.
Ông là một người kín đáo. Ông trở lại Việt Nam cuối tháng Ba, trước khi
Đà Nẵng mất và chuyến C-5A bị rơi.
Về vụ chiếc C-5A thì thoạt đầu đề nghị chuyển vận các cô nhi đi bằng máy
bay hoàn toàn chỉ có mục đích vận động nhân tâm. Phó Thủ tướng kiêm
Tổng trưởng Y tế, cũng là bác sĩ y khoa-Bác sĩ Đán cảm thấy cần phải làm
một cái gì về các cô nhi. Đại sứ Martin và vài cố vấn cũng cảm thấy nếu
đưa được các cô nhi sang Mỹ hàng loạt thì việc này có thể vận động tình
cảm công chúng Mỹ, nó sẽ là một câu chuyện khích động lòng xót xa con
người. Cùng lúc ấy, Văn phòng Tùy viên Quân sự lại có nhiều nhân viên
phụ nữ sẵn sàng di tản, nhưng người ta không thể cấp thông hành cho họ
vì Hoa Kỳ chưa chính thức di tản. Như thế ai sẽ trả phí tổn di chuyển
bằng đường hàng không từ Việt Nam, Hoa Kỳ chăng? Nên tôi nghĩ có thể xếp
đặt cho họ vào những chuyến máy bay quân đội còn trống, xem họ như
những người đi kèm các cô nhi, như thế khỏi lo liệu vấn đề lộ phí, tiền
bạc. Chính vợ tôi cũng đi với tư cách người kèm cô nhi, nhưng rồi vợ tôi
tình cờ đã lên một chiếc máy bay dân sự thuộc hãng Cathay Pacific, đúng
một ngày với chuyến C-5A bị rớt.
Tôi có hai bác sĩ thuộc Trung ương Tinh báo, nhân viên của tôi, khi máy
bay rớt đã đi khiêng xác chết, xác của những đứa trẻ nhỏ bé này, vào
bệnh viện Cơ Đốc ở Sàigòn. Một trong hai bác sĩ ấy mang theo máy ảnh,
chụp rất nhiều hình. Khi tôi đưa những tấm ảnh này cho đại sứ coi, ông
suy nghĩ khá lâu xem có nên công bố hay không. Nhưng ông kết luận những
bức ảnh này quá rõ ràng, quá đẹp, màu sắc sống động, với hình ảnh các
thân thể nát vụn của đàn bà trẻ con, thay vì khích động lòng thương xót,
lại tạo ảnh hưởng xấu, nên người ta quyết định không công bố nữa.
Vài ngày trước hôm Thiệu từ chức, một nhân viên cao cấp người Hung Gia
Lợi thuộc ủy ban quốc tế kiểm soát đình chiến đến gặp tôi, anh ta nói:
“Này ông bạn, phải thực tế chút chứ? Ông phải biết các ông đã thua trận
chiến này.” Tôi bảo: “Ô kê, tôi nhìn nhận: Trận chiến đã bại rồi.” Anh
ta nói: “Mỗi cuộc thất trận đều tạo nên nhiều hậu quả chính trị.” Tôi
bảo: “Đồng ý.” Anh ta nói: “Hiển nhiên những hậu quả chính trị này sẽ
gây nhiều cay đắng. Nhưng bên phía mà tôi đại diện…” Anh ta bỏ lửng,
không nói đại diện cho ai “…Không có ý định hạ nhục Hoa Kỳ một cách quá
mức. Có lẽ, có thể tìm ra được một giải pháp nào-Không phải để thay đổi
cuộc diện trận chiến, vì nó đã xong, nhưng để thu xếp cho một cái chung
cuộc mà..” Một lần nữa, anh ta sử dụng những chữ này: “Không hạ nhục Hoa
Kỳ một cách quá mức.”
Tôi hỏi: “Ông có ý nghĩ gì trong đầu vậy?” “À vâng.” Anh ta nói: “Ông
biết chúng tôi đã ra Tân Sơn Nhứt thảo luận với các đồng nghiệp Bắc Việt
của chúng tôi. Chúng tôi có người ở Hà Nội. Tôi có cảm tưởng có lẽ
chúng ta có thể tìm được một cách giải quyết trong lúc tình hình đang
diễn tiến thế này-Thiệu bắt buộc phải từ chức. Hoa Kỳ cần phải tuyên bố
bất can thiệp vào nội tình Nam Việt Nam, ngoại trừ việc duy trì ở đây
một cơ cấu sứ quán bình thường. Và chính phủ Nam Việt Nam cần bao gồm
một số người Bắc Việt có thể chấp nhận. Đấy là những vấn đề chủ yếu.”
Tôi đáp: “Vâng, tốt lắm, cảm ơn ông bạn nhiều. Đương nhiên, tôi sẽ báo
cáo cuộc nói chuyện của chúng ta hôm nay. Tôi sẽ thảo luận với đại sứ
chúng tôi để chuyển về Hoa Thịnh Đốn, rồi tôi sẽ gặp lại ông. Trong lúc
chờ Hoa Thịnh Đốn trả lời, xin ông vui lòng đi gặp các bạn của ông một
lần nữa để tìm hiểu xem ai sẽ là những người mà họ có thể chấp nhận được
trong chính phủ ấy?”
Vài ngày sau, Thiệu từ chức. Tôi trở lại gặp người bạn Hung Gia Lợi của
tôi mà nói: “Đấy, tôi đã chuyển đạt và thực hiện xong điều thứ nhất của
ông. Chúng tôi vẫn chưa nhận được hết câu trả lời dứt khoát. Còn ông đã
có đề nghị nào về những tên người mà tôi hỏi hay chưa?” Anh ta đáp:
“Vâng, thực ra tôi đã có. Nhưng tên người Việt, tôi dở lắm. Để tôi viết
ra.” Anh ta lấy một quyển sổ tay con, bắt đầu viết một số tên. Tôi đáp:
“Thú vị nhỉ. Tất nhiên tôi sẽ tiếp tục xúc tiến câu chuyện lần trước
giữa chúng ta, tôi sẽ trở lại gặp ông.” Nhưng anh ta nói: “Tôi có thêm
vài lời nữa từ các đồng nghiệp của tôi ở đây. Họ nói khi họ bảo mọi
chuyện cần phải thu xếp cho sớm, điều ấy có nghĩa là trong vòng vài
ngày, chứ không phải vài tuần đâu.” Ông đại sứ tỏ ra có thiện cảm với
chuyện này. Ông nghĩ có thể chúng tôi thực hiện được một cái gì chăng.
Nhưng chúng tôi đã gặp phản ứng tiêu cực của Kissinger, là người không
muốn có chuyện thương thảo gì hết.
Đến ngày 26 hoặc 27 tháng Tư, chúng tôi gặp nhau lại, lần này anh chàng
Hung Gia Lợi nói: “Tôi nghĩ muộn quá rồi.” Đấy, tôi kể cho các bạn nghe
mấy chuyện này bởi vì tôi muốn nhấn mạnh thật ra không bao giờ chúng tôi
thương thảo với đối phương, cũng không bao giờ làm điều gì đối phương
đòi hỏi. Việc ông Thiệu từ chức là vì những lý do hoàn toàn khác, không
liên hệ đến mấy chuyện này, nhưng tôi đã vờ vịt với họ, làm như chuyện
ông Thiệu từ chức có liên hệ đến mấy chuyện ấy mà thôi.
Thiệu từ chức ngày thứ hai 21 tháng Tư. Ông đại sứ không yêu cầu Thiệu
từ chức, nhưng vào ngày 19 tháng Tư sau khi ông đại sứ nói chuyện với
Thiệu, thì hiển nhiên Thiệu đã mất hết tin tưởng vào mọi người, vì mọi
người xem Thiệu như chướng ngại vật trong cuộc dàn xếp, trong các thủ
tục ngưng chiến, mọi người không có thể cục cựa gì nếu Thiệu cứ luẩn
quẩn bên cạnh.
Một bữa đại sứ gọi tôi vào văn phòng nói ông mới gặp Tổng thống Hương,
Tổng thống không được thoải mái vì sự tiếp tục có mặt của Thiệu ở trong
xứ. Ông cụ Hương nghĩ sự hiện diện của Thiệu làm giảm uy quyền của ông,
chừng nào Thiệu còn ở đây thì ông cụ tê liệt không làm gì được cả. Ông
cụ khẩn thiết yêu cầu đại sứ Martin lo liệu hộ vì lẽ chỉ Hoa Kỳ mới ở vị
thế giúp được chuyện này. Việc đưa Tổng thống Thiệu ra khỏi xứ cần thực
hiện tuyệt đối trong vòng “Tối mật!” Vâng, đại sứ Martin là người đầy
lý trí, khi nghe cái gì “Tối mật” tất ông nghĩ đến “CIA Trung ương Tình
báo,” thế là ông hỏi: “Anh làm được không?” Tôi bảo “Thưa đại sứ, tôi
làm được. Với một điều kiện. Ấy là: để yên cho tôi lo. Cứ giao việc để
tôi xoay sở, nhưng đừng đem cả một ủy ban dính vào đây.” Việc này xảy ra
ngày 24 tháng Tư thì phải.
Mọi sự được xúc tiến nhanh chóng ngay sau đó. Tôi biết tôi có thể thu
xếp máy bay ở đâu. Tôi lấy tướng Timmes là điểm liên lạc chính. Vào lúc
này Thiệu đã rời căn nhà trong Tổng Tham mưu. Các tướng lãnh cao cấp
Việt Nam đều có nhà trong căn cứ Tân Sơn Nhất. Chúng tôi đồng ý là với
một kế hoạch hành động, cũng có đôi điều cần phải quan tâm: Phải quan
tâm công luận. Phải lo ngại chuyện một số quân nhân vô kỷ luật của Nam
Việt Nam có thể can thiệp, vài sĩ quan cao cấp có thể manh nha trong đầu
cái ý nghĩ làm lịch sử. Cũng phải lo ngại cả chuyện cảnh sát chặn trên
đường ra Tân Sơn Nhất, việc này tuy không liên quan gì đến chuyện Thiệu
đi, nhưng cảnh sát thường có những điểm chặn trên đường, nên chúng tôi
phải bày việc đi dự tiệc trong căn cứ Tham mưu Liên quân. Chúng tôi lấy
vài chiếc xe Mỹ kiểu tiêu chuẩn, màu đen, gồm cả xe đại sứ, xe tôi, xe
phụ tá của tôi, đủ để chở từ mười đến mười hai người, kể cả các tài xế,
tướng Timmes, tôi, và các hành lý- Chúng tôi dặn rõ mỗi người chỉ được
mang một vali. Chúng tôi dàn xếp tất cả sẽ gặp nhau tại nhà thủ tướng
Khiêm, bởi vì đây là căn nhà lớn nhất, ít bị chú ý hơn là nhà ông Thiệu.
Chúng tôi đồng ý sẽ cho máy bay đi Đài Loan, nơi người anh của Thiệu
làm đại sứ, như thế ông ta sẽ thu xếp được với nhà cầm quyền Đài Loan để
mọi người được nhập nội. Thủ tướng Khiêm cũng từng là đại sứ ở Đài
Loan, như thế ông ta cũng có nhiều liên hệ. Khi chọn Đài Loan làm điểm
đến, tôi cũng cân nhắc rằng chuyến máy bay DC-6 chỉ có thể bay xa nhất
bấy nhiêu, mà khỏi cần đổ thêm xăng.
Tôi chọn vài người làm tài xế mà tôi xem như những tay bảnh nhất, đáng
tin cậy và vững chãi nhất. Tôi không lựa tài xế người Việt-Frank Snepp
là một trong các tài xế ấy. Tướng Timmes, vì cấp bực của ông, không thể
lái xe, tôi cũng thế, cấp bực của tôi không cho phép tôi lái xe. Tôi
kiếm một đại tá cảnh sát, cũng là đại tá quân đội, tôi nói: “Cần phải có
một người với cái vẻ chỉ huy lẫm liệt.” Tôi dự phòng trường hợp lính
gác hạch hỏi gì chăng. Phòng xa thế, chứ tôi biết khi lính gác nhìn thấy
bốn cái xe Mỹ do Mỹ lái thì họ sẽ bảo “Các tay tổ đây,” khi nhận ra xe
Đại sứ, họ sẽ bảo “Ông đại sứ đi họp” chắc chắn thế, chả trở ngại gì,
nhưng phải có một đại tá quân đội cảnh sát để dự phòng cho vững. Chúng
tôi không biết Thiệu sẽ mang theo những ai. Chỉ biết một mình ông Thiệu
sẽ đi, Khiêm sẽ đi, không biết còn ai khác. Cho nên cứ mang theo một số
giấy tờ để trống, rồi tướng Charlie Timmes sẽ điền tên họ vào bằng tay.
Chúng tôi đưa cả cho viên đại úy trên máy bay, bảo: “Khi đến Đài Loan
chúng tôi sẽ thông báo cho các giới chức quân sự Mỹ. Anh cứ yêu cầu gặp
các sĩ quan cao cấp, và đưa tận tay chiếc phong bì này. Tất cả giấy tờ ở
trong ấy.” Trong lúc đó một xe khác chở đại sứ chạy thẳng đến chiếc máy
bay vì đại sứ muốn đến chào tạm biệt Thiệu. Tôi nói với đại sứ: “Tôi
không muốn đi cùng một xe với đại sứ trong thành phố vì chỉ tạo thêm
nhiều rủi ro phiền phức.” Cho nên tôi nhớ chúng tôi đã đổi xe. Tất cả
diễn ra chính xác như một cái đồng hồ Thụy Sĩ, cũng như khi chúng tôi
thực hiện các điệp vụ. Chúng tôi đã đưa mọi người đến máy bay an toàn,
vào máy bay an toàn, sau đó sẽ cất cánh an toàn.
Tôi ngồi chung xe với thủ tướng Khiêm, chứ không ngồi với Thiệu. Tôi nhớ
tướng Timmes ngồi với ông Thiệu. Mọi người đều kiềm chế cảm xúc, không
ai khóc. Gia đình họ đều đã đi cả. Thực ra, có một điều làm tôi ngạc
nhiên. Tôi ngạc nhiên vì trong tất cả các cộng sự viên thân tín gần gũi,
ông Thiệu không mang theo ai, trừ thủ tướng Khiêm. Điều này rất lạ vì
chỉ mới vài năm trước tại khắp các quán cà phê ở Sàigòn người ta sì sào
bàn tán chuyện chia tay giữa Thiệu và Khiêm, chuyện ông này sẽ hất ông
kia vân vân…Tất nhiên tôi không đánh giá cao mấy chuyện ấy vì lẽ tôi có
liên hệ rất tốt với thủ tướng, tôi luôn luôn coi ông như một viên chức
tận tụy trung thành với Thiệu. Tổng cộng gồm mười bốn người đi ra chuyến
bay đêm ấy. Tất cả đều là đàn ông.
Tôi luôn dè chừng trường hợp có người nhận ra ông Thiệu ở các trạm kiểm
soát, nhưng tôi cũng tính toán: Người ta đã quen cách di chuyển cố hữu
của ông Thiệu trong thành phố bằng một chiếc xe Mercedes cũ kỹ, khác với
đây là bốn chiếc xe Hoa Kỳ của toà đại sứ có bộ dạng quan trọng. Bấy
giờ trời tối, việc chặn xét bốn chiếc xe Hoa Kỳ là việc ít khi xảy ra.
Dẫn đầu là chiếc Chevrolet Caprice của đại sứ có vỏ chắn đạn, tôi ngồi
trong xe này, có viên đại tá cảnh sát đi kèm. Mối e ngại nhất của tôi là
lỡ ở trạm gác, cảnh sát soát căn cước, bật đèn pha soi vào chúng tôi
thì sao? Như thế họ sẽ nhận ra ông Thiệu và thủ tướng. Nhưng rồi việc
xảy ra là khi thấy bốn chiếc xe với bộ dạng quan trọng như thế chạy đến
trạm, mấy người lính canh nghiêm chỉnh giơ tay chào. Đúng là điều tôi
mong đợi. Có lần tôi đã đưa một nhân vật trọng yếu đào thoát từ Tây Bá
Linh bằng một chiếc xe lớn tựa như vậy, tôi cũng tính rằng lính Liên Sô
sẽ chào kính khi họ thấy chiếc xe, và quả thật họ đã làm y vậy.
Đêm hôm ấy, Thiệu không hề đem theo vàng xuất ngoại. Câu chuyện ấy chỉ
là chuyện cứt khô! Ai điên khùng gì mà lại gói vàng bỏ lỏng lẻo trong va
li, trời đất. Tôi muốn nói, tôi có một người bạn Việt Nam đã mang vàng
đi, tôi biết vàng phải được bọc chặt chẽ cẩn thận, quấn bằng vải, bằng
dây cao su, bằng băng keo, đủ các thứ. Có ai lại để cho vàng kêu lách
cách trong hành lý bao giờ. Thực ra số vàng dự trữ của Việt Nam vẫn ở
trong xứ, khi quân Bắc Việt đến, vàng vẫn ở đấy. Số vàng dự trữ của ngân
hàng quốc gia Việt Nam trị giá từ 18 đến 20 triệu mỹ kim. Trị giá thực
sự của số vàng ấy đúng ra cao hơn nhiều, vì lý do giá vàng chỉ được tính
có 35 mỹ kim một ounce (0.28g). Đó là cái giá tại Việt Nam trước thời
Nixon phá giá đồng mỹ kim. Còn vào năm 1975, giá vàng thực ra ở mức 170
Mỹ kim một ounce. Bấy giờ đã có lúc Nam Việt Nam không còn tín chỉ trên
thế giới nữa, quốc hội Mỹ thì lừng khừng từ chối yêu cầu viện trợ, và
như thường lệ, đại sứ Martin đã đưa ra sáng kiến nóng hổi: Ông nghĩ Nam
Việt Nam nên gửi số vàng ấy sang quỹ dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, dùng sổ
vàng ấy ký quỹ mà mua chịu võ khí. Vâng, Thiệu đã chấp thuận đề nghị.
Tình cờ có chuyến bay chở hàng của Thụy Sĩ thuộc hãng Basel Air đang ở
Sàigòn, Nam Việt Nam thương lượng với Basel Air mang số vàng này đi dưới
hình thức hàng hoá thương mại thông thường. Mấy người Thụy Sĩ suy nghĩ
một hai ngày rồi từ chối không nhận chở, vì lý do bảo hiểm. Họ bảo không
cách gì kiếm ra ai chịu bảo hiểm số 70 triệu Mỹ kim vàng ra khỏi
Sàigòn. Người ta lại phải tính đến không quân Hoa Kỳ. Việc này được đem
thảo luận tại Hội Đồng An ninh Quốc gia. Chở một tấn rưỡi vàng đối với
không quân Hoa Kỳ không khó, nhưng tìm đâu ra mối bảo hiểm thương mại
khi người ta lại sử dụng máy bay quân đội; chấm hết!
Cái củ khoai nóng nuốt không trôi lại được ném lên bắp vế mấy anh trạng
sư ở Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Suốt thời gian này đống vàng vẫn nằm yên tại
Ngân hàng Quốc gia ở Sàigòn. “Làm thế nào kiếm cho ra mối chịu bảo hiểm
chuyến hàng này nếu chúng ta chở đi bằng máy bay quân sự?” Đó vẫn là cái
đề tài làm bù đầu mấy anh trạng sư suốt mấy hôm. Trong lúc ấy Thiệu từ
chức, một tốp người mới vào nắm quyền, cụ Hương hôm đầu thì bảo ừ, chở
đi, hôm sau lại bảo đừng, đừng chở nữa. Cuối cùng cụ kết luận thôi tốt
nhất cứ giữ lấy vàng ở Sàigòn, bởi vì kể từ khi đại sứ Martin bắt đầu
nói chuyện này, cho đến lúc ấy tình hình đã biến đổi, dẫu cho có ký thác
vàng để lấy vũ khí Mỹ, vũ khí không còn đến kịp và cũng chả giúp ích gì
nữa. Ngoài ra họ cũng còn giữ được thể diện khi để lại số vàng ở trong
xứ. Như thế, số vàng đã được để lại.
Đêm hôm ấy, cũng là đêm tôi dự buổi dạ tiệc quốc tế cuối cùng ở Sàigòn.
Buổi dạ tiệc được tổ chức tại tư thất đại sứ Ba Lan nhân dịp giới thiệu
viên Trưởng ngành chính trị Ba Lan với các ngoại giao đoàn. Mọi người
đều có mặt. Tất cả các đại sứ còn ở tại Sàigòn đều được mời, và ông Ba
Lan mới đến nói ông ta rất mong mỏi gặp tôi. Ông ta bảo rõ rệt chúng tôi
đang ở vị trí lưỡng tương hoán chuyển, ông ta muốn biết quan điểm của
tôi đối với tình hình. Chúng tôi bèn hẹn nhau một buổi ăn trưa vào một
tuần lễ sau ngày hôm ấy. Ngày ấy sẽ là nhằm ngày mùng một tháng năm!
Giữa tất cả những chuyện trông ngóng, tôi đã trông ngóng đến ngày mùng
một tháng Năm ấy để gặp mặt ông bạn đồng nghiệp người Ba Lan của tôi!
Đại sứ Martin không phải là người thích tiệc tùng, nhưng trong trạng
thái bồn chồn của thành phố đêm hôm ấy, ông bảo: “Tôi sẽ đi dự, nhưng đi
riêng xe nhé.” Vì vậy tôi quay trở lại căn phòng gửi một điện văn. Điện
văn này tôi đã viết sẵn, chỉ cần dùng điện đài để đánh mật mã mà phụ tá
của tôi và tôi đã giao ước trước. Suốt một ngày làm việc, đấy là tất cả
những gì tôi cảm thấy sau khi hoàn tất việc đưa ông Thiệu ra đi.
Ngày rời Sàigòn là ngày tôi buồn rầu cùng cực, chỉ thiếu điều muốn sụm.
Đoạn kịch cuối mở màn ngày thứ hai. Chiều thứ hai là một buổi chiều rất
xấu. Dương Văn Minh nhậm chức đêm hôm ấy. Ông vừa đọc xong bản diễn văn
nhậm chức, thì giông bão khủng khiếp ập đến Sàigòn. Mưa rơi xối xả.
Những cơn mưa đến sớm, lúc ấy chưa đến mùa mưa. Rồi xảy ra vụ chiếc phi
cơ phản nghịch, tức là chiếc phi cơ Mỹ với bình xăng phụ 50 ga-lông do
mấy phi công dưới sự điều động của Bắc Việt dội bom lên Tân Sơn Nhất.
Lúc ấy chúng tôi còn ở tại văn phòng. Mặc dầu đã khoảng bảy giờ đêm,
chúng tôi vẫn còn ở đấy vì lúc này Sàigòn ban đêm chẳng có gì khác để
làm, thứ nữa Sàigòn và Hoa Thịnh Đốn cách nhau mười hai tiếng, lúc ấy
buổi sáng ở Hoa Thịnh Đốn, chúng tôi cố chuyển càng nhiều điện văn càng
tốt, để khi bắt đầu làm việc, Hoa Thịnh Đốn đã có đủ thông báo của chúng
tôi.
Khi nghe tiếng nổ, chúng tôi đâm bổ xuống núp dưới gầm bàn. Bấy giờ, tôi
nhớ tôi đang ở trong phòng viên Trưởng ban Truyền tin. Nhân viên truyền
tin là những người lo phụ trách các báo cáo tình báo để gửi đi bằng
điện đài.
Chúng tôi rất thận trọng việc soạn thảo các điện văn này, luôn luôn sử
dụng Anh ngữ một cách văn vẻ, sửa chữa kỹ càng, dù phải vội vã trong các
trường hợp khẩn cấp, y như các phóng viên nhà báo vậy. Lúc ấy chúng tôi
đang lom khom núp dưới gầm bàn, tôi sẽ không bao giờ quên kỷ niệm này:
Một cô nhân viên truyền tin xinh đẹp hấp dẫn nhổm lên, kéo cái máy chữ
xuống, cô ta bắt đầu đánh: “Sàigòn gửi Hoa Thịnh Đốn, bản báo cáo tình
hình lúc 19 giờ địa phương. Một vụ pháo kích không xác định được xuất xứ
đang phát nổ trong thành phố. Vụ pháo kích đang tiếp diễn quanh chúng
tôi, vẫn chưa có ai biết chuyện gì xảy ra!”
Không bao lâu, chúng tôi xác định được chuyện ấy. Chúng tôi chắc chắn
đây là câu trả lời của quân đội Bắc Việt phản ứng lại bài diễn văn nhậm
chức của ông Minh. Trong bài diễn văn này, ông ta nói ông sẽ tiếp tục
chiến đấu, nói đủ thứ lảm nhảm mà một tháng trước đấy ông ta không hề
nói. Tôi nghĩ cái hình ảnh chính xác để mô tả ông là hình ảnh một người
không đủ tài cán được đặt vào một chức vụ quá khả năng, làm mọi người
phải mệt với sự bất lực của ông ta.
Trong tuần lễ cuối cùng, Sàigòn vẫn sinh hoạt tốt đẹp mặc dầu có trận
không kích xảy ra. Điện, điện thoại, thực phẩm vẫn đầy đủ, có lẽ chỉ hơi
thiếu chút rau xà-lách. Tối ấy tôi đi ngủ muộn, bốn giờ rưỡi sáng đã
bừng dậy vì lại có tiếng nổ, lần này nổ lớn dữ dội. Tôi điện thoại cho
nhân viên trực của tôi ở toà đại sứ, một nhân viên tình báo; ở đấy,
ngoài lính Thủy quân Lục chiến, chúng tôi luôn có hai nhân viên trực
suốt ngày đêm. Tôi hỏi anh biết có chuyện gì xảy ra không? Anh ta nói
lúc ấy chưa biết rõ, nhưng có pháo kích vào Tân Sơn Nhất, Thủy quân Lục
chiến đã trèo lên nóc nhà nhìn thấy có lửa cháy, anh ta đã liên lạc văn
phòng Tùy viên Quân sự, họ cũng chưa biết gì đích xác. Nhưng đã có một
số thiệt hại đáng kể, hai lính Thủy quân Lục chiến tử thương. Tôi bảo:
“Được rồi, tình trạng nghe có vẻ tệ, nhưng có anh đang ứng trực ở đấy là
tốt lắm.” Tình cờ, chính nhân viên này cũng là sĩ quan trưởng phòng tài
chánh. Tôi bảo: “Sửa soạn mấy cái phong bì khởi hành.” Phong bì khởi
hành là những phong bì có đựng một số chỉ dẫn, số điện thoại của những
toà đại sứ Mỹ các nơi và tại vùng Đông Á. Mỗi phong bì được bỏ vào số
tiền 1500 đô la bằng mỹ kim và bằng một số ngoại tệ các nước khác. Mỗi
người sẽ được trao tay một phong bì này để phòng vệ an toàn, dự phòng
trường hợp thất lạc. Tôi bèn nói với anh nhân viên trực: Tôi sẽ đến toà
đại sứ ngay.
Tôi là người đến sớm nhất. Lúc ấy Thủy quân Lục chiến đã nhận thêm báo
cáo từ văn phòng Tùy viên Quân sự. Dựa vào đấy tôi cảm thấy toà đại sứ
cần phải được huy động. Tôi điện thoại cho Đại sứ, tôi nói: “Rất tiếc
phải gọi Đại sứ vào giờ này- Ông còn có thể được ngủ đến hơn 3 tiếng
đồng hồ nữa. Nhưng tôi nghĩ Đại sứ cần phải vào gấp.” Ông Đại sứ bảo ông
sẽ vào. Lúc ấy, chúng tôi có một hệ thống tổ chức: cứ một người gọi bốn
người, mỗi người lại phải liên lạc gọi bốn người khác v.v…Nên tôi bắt
đầu huy động mọi người qua hệ thống này. Buổi sáng sớm hôm ấy, tình
trạng sức khoẻ của Đại sứ rất bết bát. Ông đau ốm khặc khừ, và sau này,
lúc lên đến chiến hạm, người ta mới khám ra là ông bị viêm phổi. Giọng
ông khản đặc, khào khào không ra tiếng. Tinh thần bị kích động trăm phần
trăm. Khi Kissinger gọi điện thoại, Martin không nói nổi, ông thì thà
thì thào rồi tôi phải nhắc to lên cho Kissinger nghe rõ.
Đại sứ đã ra tận phi trường Tân Sơn Nhất, bởi vì ông ta là Graham Martin
mà, bạn hiểu không, mặc dù đã có đến mấy ông tướng Không quân phụ trách
ngoài phi trường, ông vẫn không chịu tin các lượng giá của họ về việc
phi cơ không còn đáp xuống được nữa. Ông đòi phải đích thân đến phi
trường xem xét rồi mới chịu!
Ngày hôm ấy khi trời sáng, ngoài Đệ Thất Hạm đội các phi công đã sẵn
sàng, trực thăng xăng nhớt đầy đủ, mọi người chuẩn bị xong. Nhưng chừng
tám giờ rưỡi, chúng tôi lại được bảo không di tản nữa! Họ bảo chúng tôi
sẽ phải thu hẹp số nhân viên, nhưng vẫn giữ toà Đại sứ ở Sàigòn. Họ bảo
nhân số toà đại sứ sẽ còn lại 180 người, trong số ấy 50 người sẽ là nhân
viên tình báo, nhóm nhân viên tình báo này có nhiệm vụ phụ trách toàn
bộ các đường truyền thông của toà đại sứ. Họ bảo các trưởng ban, trưởng
phòng khác sẽ nhận lệnh sắp xếp: kinh tế 8 người, chính trị 16 người, y
tế, tài chánh, hành chánh…do nơi Hoa Thịnh Đốn xếp đặt. Người ta đoán
chừng lệnh này do Kissinger chuyển đến ông đại sứ. Tôi không bao giờ
nhìn thấy lệnh ấy trên văn tự, nhưng lệnh ấy được chuyển đến tôi sáng
hôm ấy do đại sứ nói. Do đó tôi về văn phòng, tập họp các nhân viên cao
cấp của tôi, lúc ấy tôi còn chừng 250 nhân viên tình báo tại chỗ. Tôi
nói: “Quý bạn, chúng ta sẽ rút nhân số xuống 50 người, và sẽ phải đương
đầu với một số lượng truyền thông nhiều hơn thường. Nào, bây giờ tính
thử 50 người nào sẽ ở lại, bắt đầu là tôi!” Chuyện này không dễ dàng như
thay lính Thủy quân Lục chiến bởi lẽ nhiều khi nhân viên tình báo không
thể hoán chuyển. Mỗi người có những khả năng chuyên biệt. Người là nhân
viên truyền tin. Người là nhân viên điều hành. Người là phân tích viên.
Tôi lại cần người với các khả năng ngoại ngữ khác nhau. Tôi cần phải giữ
vài người nói được tiếng Việt. Phải có vài người nói được tiếng Ba Lan,
để giao dịch với nhân viên Ba Lan tại ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình
chiến. Về tiếng Hung Gia Lợi thì khỏi lo, chẳng ai khác ngoài tôi nói
được thứ tiếng này. Cứ như thế, suốt mấy tiếng đồng hồ loay hoay xếp
đặt. Lại còn phải cân nhắc trường hợp những người đã mãn hạn, có người
sắp được hồi hương vào tháng năm, cho dù anh ta mãi đến tháng Bẩy mới
mãn hạn, cũng không nên giữ anh ta lại. Có người gặp tình trạng gia
đình. Nhiều thứ phải cân nhắc, không để giống như hồi năm 1954 ở Hà Nội,
toà lãnh sự Mỹ và các nhân viên ở đấy dù không bị giữ làm con tin,
nhưng họ đã tự phong tỏa, tự khoá cửa và phải ở trong khuôn viên hàng
mấy tháng, không liên lạc đuợc với ai.
Cái khẩu lệnh ấy cũng đã được chuyển ra ngoài hạm đội: Toà Đại sứ sẽ ở
lại. Tư lệnh hạm đội, đề đốc Noel Gayler, tất nhiên không phải là chuyên
viên phân tích chính trị. Nghe thế, ông ta bèn nói “Vậy à, toà
Đại sứ ở lại. Phi công! Trở về giường mà phè một giấc!” Thế là xăng lại
được hút khỏi trực thăng, vì người ta không được phép chứa trực thăng có
xăng ở trên tàu. Người ta lại phải chuyển trực thăng khỏi sàn máy, đưa
xuống tầng dưới.
Bấy giờ là 9 giờ sáng, hoặc giả trễ hơn một chút. Rồi đến 11 giờ 30,
cuối cùng lại có lệnh ban ra: Tất cả mọi người phải di tản. Tôi không rõ
lệnh này chuyển đến đề đốc hạm đội lúc nào. Đại sứ Martin nhận lệnh lúc
11 giờ 30. Xem như cố vấn an ninh Brent Scrowcroft phải thông báo Ngũ
Giác đài, nhưng bấy giờ là đang đêm ở Hoa Thịnh Đốn, có lẽ người làm
việc không có mặt. Tôi không rõ đề đốc nhận lệnh ấy lúc mấy giờ. Sau này
tôi hỏi ông ta trên chiến hạm: “Chuyện gì xảy ra vậy?” Ông ta đáp:
“Chẳng có chuyện gì. Khi nhận tin di tản, tôi cho trực thăng đổ xăng,
tôi gọi phi công, rồi lại được yêu cầu phải gửi một lực lượng an ninh
Thủy quân Lục chiến vào Sàigòn trợ giúp di tản, nhưng lính không có mặt
trên những tàu chở trực thăng. Vì thế lại phải lo đưa lính từ khắp các
tàu khác đến mấy chiếc tàu chở trực thăng. Mấy công tác ấy phải tốn thì
giờ.”
Nếu bạn hỏi, tôi sẽ nói: Tôi chả ngạc nhiên gì việc này. Tôi rất hoài
nghi khả năng quân đội Hoa Kỳ khi cần đương đầu tình trạng khẩn cấp. Họ
làm việc kiểu con rùa hành chánh: chậm chạp, lè phè. Lấy đấy mà xem, họ
đã được thông báo tình hình Sàigòn như vậy từ hai giờ trước, mà lính
không đặt gần những tàu chở trực thăng, lại đưa tản mác trên những con
tàu rải rác khắp mặt biển, thế là làm sao!
Còn một việc nữa cũng không được dự liệu trước. Đó là việc một khi tin
tức người Mỹ rời Việt Nam truyền ra, là đông đảo người ta sẽ tụ khắp
chung quanh toà đại sứ, việc di chuyển sẽ trở nên vô phương. Do đó làm
sao còn có thể sử dụng xe hơi, xe buýt chở người qua lại giữa toà đại sứ
và văn phòng Tùy viên Quân sự được, vì hễ mở cổng đủ rộng cho xe đi thì
dân chúng sẽ như cuồng phong tràn vào.
Buổi sáng hôm ấy, chúng tôi bắt đầu thiêu hủy tài liệu. Trung ương Tình
báo có một thể lệ rất tốt, đó là tất cả hồ sơ đều phải có một phó bản
giữ ở Hoa Kỳ, cho nên nếu có một trạm tình báo nào mất hồ sơ thì chẳng
hề gì, chỉ mất công chút đỉnh. Vì vậy chúng tôi tiêu hủy tất cả, chúng
tôi đi khắp các văn phòng một cách có phương pháp để phá bỏ bất cứ tài
liệu nào về những người Việt có liên hệ chặt chẽ với chúng tôi.
Về cái cây me nổi tiếng thì trong tất cả những buổi họp ở toà Đại sứ,
qua mọi cuộc thảo luận, tôi chưa hề nghe ai nói, bàn gì về chuyện cưa
cái cây này xuống. Tôi có nhiều tình cảm với cái cây me này chỉ vì đấy
là một biểu hiệu đẳng cấp trong toà đại sứ: Dưới cái cây là một bãi đậu
xe, đậu dưới bóng cây thì mát mẻ, đậu ngoài nắng nhiệt độ như lò lửa.
Cho nên được đậu xe dưới bóng cây me ấy tức là biểu hiệu đẳng cấp cao
của toà đại sứ! Nhưng trang nghiêm mà nói, chưa bao giờ tôi nghe cái cây
này có liên hệ gì đến chuyện di tản. Còn hiển nhiên, chúng tôi sẽ phải
mang trực thăng lớn vào bãi đậu xe, cái cây này mọc chính giữa bãi đậu,
tất là sẽ phải hạ cái cây thế thôi.
Sáng hôm sau, khi đại sứ đã ra đi, không có chuyện gì để tôi ở lại nữa.
Còn các nhân viên truyền tin của tôi không thể đi nếu tôi hãy còn nấn ná
ở lại. Viên phụ tá của tôi và mấy người khác cũng bảo nếu tôi còn ở
đấy, họ cũng chưa chịu đi. Tôi xếp đặt cho mọi người ra đi theo các thứ
tự cần thiết, nói thế không phải là giảm giá người này người nọ, nhưng
có người công việc đã xong thì đi trước, ví dụ nhân viên truyền tin
không còn gì để làm nữa, những người phụ trách công tác vùng I, II, III
cũng thế, các nhân viên hành chánh và quản trị nhân viên cũng có thể đi
trước. Nhưng nhân viên lo việc vùng châu thổ vẫn còn cần, vì tôi chưa rõ
hết tình hình vùng IV ra sao.
Theo phương pháp ấy tôi quyết định ai đi, đi lúc nào, mọi sự trôi chảy,
không gặp phiền phức, không bị tràn ngập. Tuyệt đối tốt. Tuyệt đối không
trở ngại gì. Có lẽ những chuyện cuối cùng đáng kể là chuyện chúng tôi
kéo người Việt ở bên ngoài vào toà đại sứ qua bức tường. Lúc ấy quanh
toà đại sứ có cả vạn người, đúng số là như vậy, với đám đông vây quanh,
thật khó cho người ta đến gần toà đại sứ . Nhưng bên ngoài còn có những
người mà chúng tôi bắt buộc phải đưa họ di tản, ví dụ người trưởng ngành
tình báo, ông phụ tá Cảnh sát Đặc biệt mà thực tế là Cảnh sát Chính
trị. Vợ và con của Trung tướng Tổng cục Trưởng Chiến tranh Chính trị.
Ông Tổng Trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn. Ông Trưởng ban Nghi lễ và Gia
đình. Tất cả đều ở ngoài toà đại sứ. Làm sao chúng tôi có thể mang họ di
tản đây? Tôi không còn thể nào liên lạc được với họ. Nhưng phần ông Đôn
cũng thu xếp vào được một chiếc trực thăng đậu đại trên một nóc cao ốc
(nóc nhà này không được xây cất để trực thăng đáp, riêng đây tự nó cũng
là một câu chuyện).
Còn một số người khác khoẻ mạnh, quả quyết hơn, lấn được đến rào, chúng
tôi nhấc bổng được họ, đưa vào toà đại sứ. Bấy giờ trong đám đông bên
ngoài có một số sĩ quan quân đội mà chúng tôi đã thỏa thuận: Nếu họ đưa
vào được một số người mà chúng tôi muốn, thì sau cùng chúng tôi sẽ kéo
họ vào cho họ đi. Chúng tôi cũng tìm được cách chuyển người đi qua đường
phố Sàigòn bằng cách giao dịch, thỏa thuận với cảnh sát, chúng tôi bảo
họ: “Cho gia đình các ông vào cùng với mấy người này, chừng nào các ông
đưa được họ vào máy bay hay xe buýt an toàn, chúng tôi sẽ bốc các ông đi
luôn.”
Những cuộc sắp đặt với cảnh sát có vẻ thần hữu hơn vì chúng tôi biết họ,
tin họ, họ cũng tin cậy chúng tôi. Buồn cười nhất là vào ngày cuối
cùng, người ta đã đưa một nhóm người di tản như thế bằng cả một đoàn xe
mô tô màu trắng oai vệ của liên đoàn an ninh phủ tổng thống, nối đuôi
nhau đi.
Tại sân toà Đại sứ, chúng tôi dùng xe hơi cho châu đầu vào phía giữa để
khi trời tối thì chạy máy, rọi đèn pha lên, rồi cứ để như thế, hễ còn
xăng, còn bình điện thì còn ánh sáng.
Rồi có lệnh chúng tôi phải đi và ông Đại sứ cũng được bảo: “Ngài phải
vào chiếc máy bay này.” Còn chúng tôi, lúc đầu họ bảo trực thăng đậu
dưới sân, tất cả chúng tôi xuống thang nhưng không thấy trực thăng đâu
vì họ đã đổi chương trình, rồi họ lại bảo: “Trực thăng sẽ bốc từ nóc sân
thượng.”
Tôi không có một gắn bó tình cảm nào quá lớn đối với Việt Nam như vài
bạn đồng nghiệp của tôi đã quả tình yêu mến đất nước này. Nhưng đến giây
phút cuối, nhìn thấy chung cuộc xảy ra thế ấy, tôi nghĩ chúng ta đã làm
một việc tồi tàn đối với dân tộc này, đáng lẽ họ được khá hơn nếu đừng
bao giờ chúng ta đến đây. Ngay từ lúc đầu.
Khi chúng tôi ra đi, trời đã rất tối. Phía Tân Sơn Nhất thấy vài đám
cháy, nhưng nói chung ban đêm thành phố vẫn có vẻ bình thường. Đường vẫn
sáng đèn, xe cộ vẫn sáng đèn. Thực kỳ dị, đó là một điều lạ lùng trong
những ngày cuối cùng. Không phải chỉ những ngày cuối cùng mà suốt cả mấy
tuần lễ cuối cùng, mọi sự đều có vẻ không thực, bởi vì tất cả vẫn cứ
hiện ra một vẻ rất bình thường. Nó không giống như cuộc vây hãm ở
Warsaw, bạn hiểu không. Một ngày trước hôm sụp đổ, bạn vẫn còn có thể ra
nhà hàng kéo ghế, còn thưởng thức được một bữa thịnh soạn, vẫn có thể
ngồi nhấm nháp một cốc rượu vang ngon lành.
Không có ai nã đạn khi chúng tôi ra đi. Đó là một chuyện khác nữa. Người
Bắc Việt là những người có lý trí. Họ không giống những người Hồi giáo
cực đoan cuồng tín. Họ không dại gì tạo ra một biến cố nào nữa để có cớ
cho người Mỹ can thiệp trở lại; và nếu họ sát hại ông Đại sứ, việc này
sẽ trở thành đại sự, ngay cả đối với quốc hội.
Việc tiếp nhận chúng tôi trên tàu Blue Ridge chứng tỏ quân đội Mỹ là
hạng bét. Họ bắt đầu lục soát hết thảy mọi người. Tôi nghĩ có lẽ Đại sứ
là người duy nhất họ không lục soát. Vào lúc bình thời, cấp bực của tôi
còn trên xa cả đề đốc chỉ huy chiến hạm.
Nhưng không một ai phản đối gì. Chúng tôi đều mệt mỏi. Chúng tôi đều trầm lại. Và chúng tôi quả là một đoàn quân chiến bại.
Larry Engelmann
(Blog Tương Tri)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Hiệu ứng nói phét!" - by Văn Quang / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Phiếm luận, chuyện Nhà Nước ta!!! _ Di Tĩnh Đắc ( Nguyễn Bá Chổi chuyển )
- Đánh trống, đánh chiêng học lại lịch sử Sài Gòn - by FB Nguyễn Gia Việt & Trần Văn Giang (ghi lại)
- Việt Cộng: Kế hoạch gửi tiền Quỹ vắc-xin COVID-19 để lấy lãi gây ra tranh cãi
- Ân xá Quốc tế gửi bằng chứng, đòi Việt Cộng điều tra về tin tặc tấn công giới bất đồng
NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA
NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp
NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là
một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann,
Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn
nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc
phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ
do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại
California.
THOMAS POLGAR(Chỉ huy Trung ương Tình báo Mỹ tại Việt Nam)“Chúng tôi là một đoàn quân chiến bại.”
Hiểu
ý định địch quân không khó vì Bắc Việt không giữ bí mật phương hướng,
đường lối. Họ thường cho cán bộ học tập kỹ lưỡng cả đến những chi tiết
đáng ngạc nhiên về những gì họ làm, hơi giống kiểu Hitler và cuốn Mein
Kampf. Họ thường nói trước những gì họ sẽ làm, chúng ta thường không tin
những gì họ đã nói. Còn chính sách Hoa Kỳ thì đơn giản là không đáp ứng
những tin tình báo mà chúng tôi thu lượm.
Xin đưa thí dụ: Mùa thu 1974, chúng tôi tìm ra được những báo cáo của Hà
Nội nói Nixon đã đổ, chúng ta sẽ chơi một trận cầu mới, chúng ta sẽ có
nhiều thử nghiệm trong phạm vi quân sự. Tôi xem các tài liệu này rất hệ
trọng. Bắt đầu vào tháng 10, 1974, khi tìm được phương án hoạt động 75,
tôi lái xe xuống Biên Hoà nói chuyện với viên Trưởng Nhiệm sở Tình báo
vùng, nơi họ bắt được phương án này, chúng tôi đã bàn thảo và đi đến kết
luận: Cái giọng trong văn kiện này tương đồng khủng khiếp với cái giọng
của tập tài liệu 90 nguyên tắc chỉ đạo do Trung ương cục miền Nam đưa
ra vài tháng trước cuộc tổng công kích 1972.
Một hôm, tôi có dịp hỏi ý kiến Kissinger về hoạt động tình báo của chúng
ta, không phải chỉ riêng ở Việt Nam, mà nói chung. Lúc ấy, ông đang
tiếp nhận một lưu lượng khổng lồ các tin tức do Trung ương Tình báo từ
khắp nơi trên thế giới gửi về. Tôi hỏi ông nghĩ thế nào về giá trị ngành
tình báo chúng ta? Ông suy nghĩ một lúc, rồi trả lời: “Khi nó hỗ trợ
cho chính sách của tôi, nó rất hữu ích!” Tôi nghĩ: Đấy, chính đấy là tâm
điểm vấn đề. Vấn đề là chính sách Mỹ không được thiết lập để đáp ứng
với tin tức do tình báo thâu nhập được nhưng chúng ta thiết lập chính
sách trước, rồi cố tìm kiếm các tin tức tình báo để hỗ trợ chính sách ấy
mà thôi.
Ở Việt Nam lúc đó có ba nguồn tình báo chính: Quân báo, sở An ninh Quốc
gia và Trung ương Tình báo. Chúng tôi không bao giờ gặp những trường hợp
tin tức nghịch chiều. Chưa bao giờ Văn phòng Tình báo- Văn phòng Tùy
viên Quân sự đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác biệt với quan điểm
những cơ quan tình báo bạn. Chúng tôi phối hợp chặt chẽ với Bill Legro,
người chỉ huy tình báo thuộc Văn phòng Tùy viên Quân sự suốt phần lớn
thời gian kể từ sau Hiệp định Ba-Lê. Nhưng trở ngại là chính sách Hoa Kỳ
đã được đặt trên căn bản của một tiền đề: Tiền đề đó là Chiến tranh
Việt Nam đã chấm dứt. Quân đội Hoa Kỳ đã rút. Và chắc chắn, Tổng thống
Ford sẽ không để cho hy vọng tái bầu cử của ông bị đe dọa vì việc có thể
đưa quân Mỹ trở lại Việt Nam.
Vào năm 1974, chúng ta đã không gửi tiếp vận cho Nam Việt Nam đúng kỳ
hạn. Chúng ta đã chậm trễ trong việc thi hành các nghĩa vụ đồng minh.
Lúc ấy, tôi báo cáo: Nếu người miền Nam Việt Nam mất tin tưởng vào sự hỗ
trợ của Hoa Kỳ, họ sẽ sụp đổ. Tôi nhấn mạnh vào sự tin tưởng-vào tinh
thần của họ, hơn là vào cả cái mức độ thực sự của việc yểm trợ quân sự.
Có năm sự kiện xảy ra trong năm 1973 dù không liên quan gì đến Việt Nam,
nhưng đã ảnh hưởng trầm trọng đến họ. Trước hết, cuộc chiến Ả Rập/Do
Thái đã làm đổi hướng Bộ Quốc phòng Mỹ và đổi hướng nguồn quân vận sống
chết của Nam Việt Nam. Tiếp đến việc phong tỏa dầu lửa, giá dầu thô tăng
vọt làm kinh tế Nam Việt Nam bị va chạm, thiệt hại nặng. Rồi các nhược
điểm trong chính sách ngoại giao Mỹ đã tạo nên những phản ứng tâm lý
mạnh mẽ chống lại việc tiếp tục các cam kết ngoại giao đắt giá. Rồi việc
quân nhân đảo chánh, hạ bệ Salvador Allende ở Chí Lợi làm công luận
thuộc Khuynh hướng Tự do và Khuynh hướng Tả phái tức giận, họ trút sang
đầu Nam Việt Nam. Sau nữa, quốc hội vì ghê tởm vụ bưng bít Watergate, đã
tìm cách trừng phạt Nixon, nên cũng gộp luôn cả Việt Nam vào vụ này.
Tôi nghĩ ông Thiệu hiểu rất rõ: Không có Mỹ, ông không thể tồn tại được.
Tôi cũng biết Hoàng Đức Nhã, cháu ông Thiệu rất nhiều. Nhã đã học bốn
năm đại học ở Mỹ, còn hiểu rõ hơn cái bản chất bất định của nền chính
trị Hoa Kỳ, những sự lên xuống thuần túy chỉ do áp lực nội bộ gây ra,
thường chẳng liên quan đến đề mục ngoại giao, mà lại ảnh hưởng lớn đến
liên hệ ngoại giao. Nhưng làm thế nào một người như Thiệu có thể nhận
thức thấu đáo sinh hoạt quốc hội Mỹ, trong khi cách làm việc của ông là
chỉ coi quốc hội của ông như một công cụ khúm núm quỵ lụy mà thôi?
Vụ thất thủ Phước Long xảy ra đầu năm 1975 không quan trọng về phương
diện quân sự, nhưng cực kỳ quan trọng ở phương diện tiêu biểu: Nước Mỹ
đã từ chối không thực hiện lời Nixon hứa với Thiệu rằng sẽ “trả đũa mạnh
mẽ và toàn bộ.” Quân Bắc Việt thử nghiệm xong, tất nhiên được đàng
chân, lân đàng đầu, họ sẽ tiến sâu hơn nữa.
Khi phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ đến Việt Nam, tôi nghĩ cách hành xử của
Fraser và Abzug không tha thứ được. Ngay khi bước vào phòng, Abzug lên
tiếng hỏi: “Trong mấy người ở đây, ai là Polgar?” Tôi tự giới thiệu. Bà
ta nói: “Tốt! Tôi đã được người ta cảnh giác về ông.”
Bấy giờ có một lãnh tụ sinh viên bị nhốt tù, anh này có đôi chút tiếng
tăm ở Mỹ. Bà Abzug đầu tiên bảo anh ta chắc chết rồi, Nam Việt Nam giết
hắn rồi. Tôi bảo “Không. Nam Việt Nam không làm như vậy. Họ có thể xác
định được bất cứ người nào ở đâu trong tù.” Bà ta bảo: “Xác định người
này xem.” Chúng tôi xác định ra được địa điểm giam anh ta là ở vùng 3,
Tuy Hoà.(Ghi chú của người dịch: Có lẽ là Biên Hòa) Bà bèn bảo bà ấy
muốn phỏng vấn. Nhưng đi xe hơi xa quá, phải có trực thăng, bà ấy lại
chỉ có thể đi sáng chủ nhật, thực bất tiện cho tất cả mọi người. Nhưng
cũng đành, chúng tôi thu xếp trực thăng, thu xếp thủ tục thăm tù. Sau
khi tất cả lo liệu xong, bà ấy nói: “À, tôi không lưu ý vụ này nữa” và
không bao giờ đi gặp người sinh viên này nữa.
Cùng đi trong phái đoàn có Millicent Fenwick. Bà này tuy không có cảm
tình với Nam Việt Nam nhưng vẫn còn cư xử đàng hoàng, đã theo dõi lắng
nghe các buổi thuyết trình. Nhưng Abzug và Fraser hết sức quá quắt. Tổng
thống Thiệu mời cả phái đoàn dự tiệc, hai người này thản nhiên không
dự. Họ chẳng đếm xỉa nghi lễ, không buồn từ chối. Họ lẳng lặng không
đến. Trước buổi tiệc ấy là tiếp tân của thủ tướng, họ đến, nhưng họ
không thò mặt vào buổi tiệc của tổng thống. Rồi đại sứ cũng mời phái
đoàn dùng cơm chiều. Tất cả mọi người đến, trừ Abzug. Tôi rất thất vọng,
vì chính tôi đã được xếp ngồi ngay cạnh bà ta.
Về vụ tấn công Ban Mê Thuột ngày 5 tháng 3, tôi không tin có ai đã đoán
trước được, nhưng hầu hết mọi người đều biết một cuộc tấn công lớn sẽ
xảy ra ở cao nguyên trung phần. Chúng tôi biết họ sẽ cắt đường, sẽ đưa
vào nhiều sư đoàn. Tất cả đều đã xảy ra đúng như vậy, nhưng Hoa Thịnh
Đốn không bao giờ chấp nhận tin tức tình báo của chúng tôi. Họ không
chấp nhận vì-(Chúng ta đang bước vào chuyện xuất xứ các nguồn tin và
những phương pháp thâu nhập tin tức tình báo, chẳng rõ tôi có nên nói ra
ở đây không)-Nhưng sự kiện xảy ra là giới tình báo Hoa Thịnh Đốn đã
không sử dụng tin tức tình báo từ Việt Nam do Văn phòng Tùy viên Quân sự
và sở Trung ương Tình báo chuyển đến, nói rằng sẽ có một cuộc tấn công
lớn tại cao nguyên vào năm 1975. Họ từ chối không chịu tin điều ấy. Còn
miền Nam Việt Nam thì chẳng có được một quan niệm chiến thuật riêng tư
nào, ngoài việc đặt một trung đoàn chỗ này, đưa một trung đoàn ra chỗ
kia để phòng vệ. Trung đoàn tăng cường Ban Mê Thuột không đủ đương đầu
tình hình, họ cũng không được may mắn. Những lực lượng này dùng để giữ
các địa phương thì tốt, họ tỏ ra đắc lực để đối đầu vài trận tấn công.
Tuy nhiên họ không phải là loại binh đội được huấn luyện và trang bị để
chiến đấu với các đơn vị chính quy chủ lực có chiến xa tăng cường.
Sau khi mất Ban Mê Thuột, ông Thiệu họp với tướng Phạm Văn Phú tại Cam
Ranh, ban lệnh triệt thoái cao nguyên. Tôi nhớ buổi họp ấy nhằm thứ sáu.
Phú cho thực hiện kế hoạch vào thứ bảy. Nhận tin sáng thứ bảy ấy, tôi
chạy theo tướng Charles Timmes ra Tổng Tham mưu, và nói rằng “Tôi chẳng
biết chuyện trời đất gì đang xảy ra đây nữa!” Tôi cho một phụ tá cao cấp
đi gặp tướng Đặng Văn Quang, Cố vấn An ninh của Thiệu, hỏi chuyện gì
đang xảy ra ở vùng II. Quang bảo: “Ông thấy, tình hình không được tốt.
Chúng tôi không mở đường lại được, chúng tôi đang lo ngại về tình hình
và sẽ phải thay đổi vị trí một vài đơn vị- chớ chẳng có chuyện gì xảy ra
ở vùng II cả.”
Hiển nhiên, ông Quang không hay biết ông Phú đang di tản. Tướng Timmes
vào Tổng Tham Mưu Việt Nam, nhưng không gặp tướng Cao Văn Viên, Tổng
Tham mưu Trưởng. Mọi sự ở đấy có không khí của một buổi sáng thứ bảy.
Nhưng ông đã gặp tướng Trần Đình Thọ, là Trưởng phòng hành quân để hỏi
thăm tin tức vùng II. Ông Thọ nói: “Còn có cái gì xảy ra mà quý ông
không hay biết cả đâu?” Rõ rệt, Bộ Tổng Tham Mưu cũng không biết gì việc
ông Phú đang triệt thoái. Sau đó tôi nhận tin trực tiếp từ Pleiku gửi
về. Phó Đại sứ Wolf Lehman bấy giờ đang bận một số chuyện lặt vặt. Joe
Bennett, sĩ quan chính trị đang bận đi chữa răng. Tôi điện thoại cho
Moncrieff Spear, Tổng Lãnh sự ở vùng II, bảo ông ta: “Tốt hơn hết ông
nên chuyển người của ông ra khỏi Pleiku, theo chỗ tôi hiểu: người ta
đang di tản.” Ông ta nói: “Anh khùng à?” Bấy giờ ông ta đang ở Nha
Trang, vùng duyên hải, tôi bảo: “Không, tôi có lý do để tin những việc
đang xảy ra.” Ông ta nói: “Có phải anh ra lệnh cho tôi di tản Pleiku đấy
chăng?” Tôi bảo: “Ông biết thừa tôi không thể làm thế. Nhưng tôi có thể
kết luận nếu khôn ngoan thì hãy di tản ngay đi.”
Có một điểm tôi muốn nêu ra đây về tướng Phú trong buổi sáng hôm ấy. Bất
kỳ công trạng trước đây của ông thế nào, không kể, nhưng bây giờ ông ta
đã hoàn toàn không phối hợp với chúng tôi. Ông ta không thông báo cả
cho Tổng Lãnh sự là người mà ông bắt buộc phải thông báo, vì đây là đại
diện chính thức của Hoa Kỳ tại vùng II. Ông Quang cũng không biết chuyện
gì đang xảy ra, ông ta có vẻ của một người bận rộn, nhưng thực tình chỉ
lăng xăng giết thì giờ. Còn ông Thọ Trưởng phòng hành quân, cũng thế,
chẳng hay biết gì cả. Trong sự suy đoán của tôi: Những việc xảy ra đó là
do tướng Phú hiểu lầm những gì Tổng thống Thiệu nghĩ trong đầu, rồi tự
khởi xướng một kế hoạch hành động, không biết việc ấy trong thực tế sẽ
khó khăn đến đâu. Thực tế cuộc di tản ấy không thành công. Mọi cuộc
triệt thoái sớm hay muộn đều là một sự thất bại khủng khiếp.
Quân đội Bắc Việt bắt kịp cuộc di tản của tướng Phú. Chiến xa của họ đâm
ra từ các đường nhánh, gặp đoàn quân tại Phú Bổn. Cuộc tàn sát đã diễn
ra ở đấy.
Trước buổi họp Cam Ranh, tôi liên lạc với Hoa Thịnh Đốn để ghi nhận cuộc
chơi đã xong. Tôi nhớ tôi nói chuyện với một viên chức có liên hệ khá
chặt chẽ với tôi (xin miễn đưa tên), ông ta bảo: Nam Việt Nam không thể
nào tiêu hoá nổi việc mất Ban Mê Thuột cùng với cái hậu quả tất yếu của
nó là mất toàn thể cao nguyên. Ống là một sĩ quan cấp tướng.
Lúc ấy vẫn chưa có gì xảy ra ở vùng I. Rồi tai họa bắt đầu. Thiệu quyết
định rút cả Thủy quân Lục chiến lẫn Nhảy dù khỏi vùng I. Quyết định này
giống như chợt rút đi cái chiếu trong lúc tướng Trưởng còn đang đứng
trên ấy, nó làm ông ta hổng cẳng. Tiếp đến, mất cả sư đoàn Thủy quân Lục
chiến. Họ trở nên vô dụng, vì đầu tiên người ta ra lệnh triệt thoái,
sau lại ra lệnh “quay đàng sau, quay,” để quay trở lại! Đó là chuyện bất
khả thi về phương diện quân sự. Sư đoàn Thủy quân Lục chiến mất rất
nhiều chiến cụ vì không thể nào lấy ra được trong cái dòng người tỵ nạn
tràn lan. Lúc này ông Thiệu đang ngoi ngóp trong biển nước, ông cố bám
lấy vài cọng cỏ. Nhưng lúc này ông có làm bất cứ cái gì cũng không còn
có thể thay đổi tình thế lại được nữa. Cuộc chơi đã xong.
Tôi tin tưởng chắc chắn rằng khi người Việt Nam có cảm tưởng chúng ta
sắp chạy, tất cả sẽ sụp đổ. Điều này, tôi hoàn toàn đồng ý với đại sứ
Martin. Ông đại sứ lúc ấy đã rời Việt Nam sang Mỹ cùng với phái đoàn
quốc hội. Ông nghĩ ông có thể vận động được một vài dân biểu, ông sẽ cố
ra điều trần trước quốc hội. Đến Hoa Thịnh Đốn, người ta phát hiện tình
trạng sức khoẻ của ông cần giải phẫu, việc này đã làm chuyến về của ông
chậm trễ. Không muốn mọi người phải quan tâm nhiều, ông đi xuống North
Carolina mổ, ngay Bộ Ngoại giao cũng không biết liên lạc với ông ở đâu.
Ông là một người kín đáo. Ông trở lại Việt Nam cuối tháng Ba, trước khi
Đà Nẵng mất và chuyến C-5A bị rơi.
Về vụ chiếc C-5A thì thoạt đầu đề nghị chuyển vận các cô nhi đi bằng máy
bay hoàn toàn chỉ có mục đích vận động nhân tâm. Phó Thủ tướng kiêm
Tổng trưởng Y tế, cũng là bác sĩ y khoa-Bác sĩ Đán cảm thấy cần phải làm
một cái gì về các cô nhi. Đại sứ Martin và vài cố vấn cũng cảm thấy nếu
đưa được các cô nhi sang Mỹ hàng loạt thì việc này có thể vận động tình
cảm công chúng Mỹ, nó sẽ là một câu chuyện khích động lòng xót xa con
người. Cùng lúc ấy, Văn phòng Tùy viên Quân sự lại có nhiều nhân viên
phụ nữ sẵn sàng di tản, nhưng người ta không thể cấp thông hành cho họ
vì Hoa Kỳ chưa chính thức di tản. Như thế ai sẽ trả phí tổn di chuyển
bằng đường hàng không từ Việt Nam, Hoa Kỳ chăng? Nên tôi nghĩ có thể xếp
đặt cho họ vào những chuyến máy bay quân đội còn trống, xem họ như
những người đi kèm các cô nhi, như thế khỏi lo liệu vấn đề lộ phí, tiền
bạc. Chính vợ tôi cũng đi với tư cách người kèm cô nhi, nhưng rồi vợ tôi
tình cờ đã lên một chiếc máy bay dân sự thuộc hãng Cathay Pacific, đúng
một ngày với chuyến C-5A bị rớt.
Tôi có hai bác sĩ thuộc Trung ương Tinh báo, nhân viên của tôi, khi máy
bay rớt đã đi khiêng xác chết, xác của những đứa trẻ nhỏ bé này, vào
bệnh viện Cơ Đốc ở Sàigòn. Một trong hai bác sĩ ấy mang theo máy ảnh,
chụp rất nhiều hình. Khi tôi đưa những tấm ảnh này cho đại sứ coi, ông
suy nghĩ khá lâu xem có nên công bố hay không. Nhưng ông kết luận những
bức ảnh này quá rõ ràng, quá đẹp, màu sắc sống động, với hình ảnh các
thân thể nát vụn của đàn bà trẻ con, thay vì khích động lòng thương xót,
lại tạo ảnh hưởng xấu, nên người ta quyết định không công bố nữa.
Vài ngày trước hôm Thiệu từ chức, một nhân viên cao cấp người Hung Gia
Lợi thuộc ủy ban quốc tế kiểm soát đình chiến đến gặp tôi, anh ta nói:
“Này ông bạn, phải thực tế chút chứ? Ông phải biết các ông đã thua trận
chiến này.” Tôi bảo: “Ô kê, tôi nhìn nhận: Trận chiến đã bại rồi.” Anh
ta nói: “Mỗi cuộc thất trận đều tạo nên nhiều hậu quả chính trị.” Tôi
bảo: “Đồng ý.” Anh ta nói: “Hiển nhiên những hậu quả chính trị này sẽ
gây nhiều cay đắng. Nhưng bên phía mà tôi đại diện…” Anh ta bỏ lửng,
không nói đại diện cho ai “…Không có ý định hạ nhục Hoa Kỳ một cách quá
mức. Có lẽ, có thể tìm ra được một giải pháp nào-Không phải để thay đổi
cuộc diện trận chiến, vì nó đã xong, nhưng để thu xếp cho một cái chung
cuộc mà..” Một lần nữa, anh ta sử dụng những chữ này: “Không hạ nhục Hoa
Kỳ một cách quá mức.”
Tôi hỏi: “Ông có ý nghĩ gì trong đầu vậy?” “À vâng.” Anh ta nói: “Ông
biết chúng tôi đã ra Tân Sơn Nhứt thảo luận với các đồng nghiệp Bắc Việt
của chúng tôi. Chúng tôi có người ở Hà Nội. Tôi có cảm tưởng có lẽ
chúng ta có thể tìm được một cách giải quyết trong lúc tình hình đang
diễn tiến thế này-Thiệu bắt buộc phải từ chức. Hoa Kỳ cần phải tuyên bố
bất can thiệp vào nội tình Nam Việt Nam, ngoại trừ việc duy trì ở đây
một cơ cấu sứ quán bình thường. Và chính phủ Nam Việt Nam cần bao gồm
một số người Bắc Việt có thể chấp nhận. Đấy là những vấn đề chủ yếu.”
Tôi đáp: “Vâng, tốt lắm, cảm ơn ông bạn nhiều. Đương nhiên, tôi sẽ báo
cáo cuộc nói chuyện của chúng ta hôm nay. Tôi sẽ thảo luận với đại sứ
chúng tôi để chuyển về Hoa Thịnh Đốn, rồi tôi sẽ gặp lại ông. Trong lúc
chờ Hoa Thịnh Đốn trả lời, xin ông vui lòng đi gặp các bạn của ông một
lần nữa để tìm hiểu xem ai sẽ là những người mà họ có thể chấp nhận được
trong chính phủ ấy?”
Vài ngày sau, Thiệu từ chức. Tôi trở lại gặp người bạn Hung Gia Lợi của
tôi mà nói: “Đấy, tôi đã chuyển đạt và thực hiện xong điều thứ nhất của
ông. Chúng tôi vẫn chưa nhận được hết câu trả lời dứt khoát. Còn ông đã
có đề nghị nào về những tên người mà tôi hỏi hay chưa?” Anh ta đáp:
“Vâng, thực ra tôi đã có. Nhưng tên người Việt, tôi dở lắm. Để tôi viết
ra.” Anh ta lấy một quyển sổ tay con, bắt đầu viết một số tên. Tôi đáp:
“Thú vị nhỉ. Tất nhiên tôi sẽ tiếp tục xúc tiến câu chuyện lần trước
giữa chúng ta, tôi sẽ trở lại gặp ông.” Nhưng anh ta nói: “Tôi có thêm
vài lời nữa từ các đồng nghiệp của tôi ở đây. Họ nói khi họ bảo mọi
chuyện cần phải thu xếp cho sớm, điều ấy có nghĩa là trong vòng vài
ngày, chứ không phải vài tuần đâu.” Ông đại sứ tỏ ra có thiện cảm với
chuyện này. Ông nghĩ có thể chúng tôi thực hiện được một cái gì chăng.
Nhưng chúng tôi đã gặp phản ứng tiêu cực của Kissinger, là người không
muốn có chuyện thương thảo gì hết.
Đến ngày 26 hoặc 27 tháng Tư, chúng tôi gặp nhau lại, lần này anh chàng
Hung Gia Lợi nói: “Tôi nghĩ muộn quá rồi.” Đấy, tôi kể cho các bạn nghe
mấy chuyện này bởi vì tôi muốn nhấn mạnh thật ra không bao giờ chúng tôi
thương thảo với đối phương, cũng không bao giờ làm điều gì đối phương
đòi hỏi. Việc ông Thiệu từ chức là vì những lý do hoàn toàn khác, không
liên hệ đến mấy chuyện này, nhưng tôi đã vờ vịt với họ, làm như chuyện
ông Thiệu từ chức có liên hệ đến mấy chuyện ấy mà thôi.
Thiệu từ chức ngày thứ hai 21 tháng Tư. Ông đại sứ không yêu cầu Thiệu
từ chức, nhưng vào ngày 19 tháng Tư sau khi ông đại sứ nói chuyện với
Thiệu, thì hiển nhiên Thiệu đã mất hết tin tưởng vào mọi người, vì mọi
người xem Thiệu như chướng ngại vật trong cuộc dàn xếp, trong các thủ
tục ngưng chiến, mọi người không có thể cục cựa gì nếu Thiệu cứ luẩn
quẩn bên cạnh.
Một bữa đại sứ gọi tôi vào văn phòng nói ông mới gặp Tổng thống Hương,
Tổng thống không được thoải mái vì sự tiếp tục có mặt của Thiệu ở trong
xứ. Ông cụ Hương nghĩ sự hiện diện của Thiệu làm giảm uy quyền của ông,
chừng nào Thiệu còn ở đây thì ông cụ tê liệt không làm gì được cả. Ông
cụ khẩn thiết yêu cầu đại sứ Martin lo liệu hộ vì lẽ chỉ Hoa Kỳ mới ở vị
thế giúp được chuyện này. Việc đưa Tổng thống Thiệu ra khỏi xứ cần thực
hiện tuyệt đối trong vòng “Tối mật!” Vâng, đại sứ Martin là người đầy
lý trí, khi nghe cái gì “Tối mật” tất ông nghĩ đến “CIA Trung ương Tình
báo,” thế là ông hỏi: “Anh làm được không?” Tôi bảo “Thưa đại sứ, tôi
làm được. Với một điều kiện. Ấy là: để yên cho tôi lo. Cứ giao việc để
tôi xoay sở, nhưng đừng đem cả một ủy ban dính vào đây.” Việc này xảy ra
ngày 24 tháng Tư thì phải.
Mọi sự được xúc tiến nhanh chóng ngay sau đó. Tôi biết tôi có thể thu
xếp máy bay ở đâu. Tôi lấy tướng Timmes là điểm liên lạc chính. Vào lúc
này Thiệu đã rời căn nhà trong Tổng Tham mưu. Các tướng lãnh cao cấp
Việt Nam đều có nhà trong căn cứ Tân Sơn Nhất. Chúng tôi đồng ý là với
một kế hoạch hành động, cũng có đôi điều cần phải quan tâm: Phải quan
tâm công luận. Phải lo ngại chuyện một số quân nhân vô kỷ luật của Nam
Việt Nam có thể can thiệp, vài sĩ quan cao cấp có thể manh nha trong đầu
cái ý nghĩ làm lịch sử. Cũng phải lo ngại cả chuyện cảnh sát chặn trên
đường ra Tân Sơn Nhất, việc này tuy không liên quan gì đến chuyện Thiệu
đi, nhưng cảnh sát thường có những điểm chặn trên đường, nên chúng tôi
phải bày việc đi dự tiệc trong căn cứ Tham mưu Liên quân. Chúng tôi lấy
vài chiếc xe Mỹ kiểu tiêu chuẩn, màu đen, gồm cả xe đại sứ, xe tôi, xe
phụ tá của tôi, đủ để chở từ mười đến mười hai người, kể cả các tài xế,
tướng Timmes, tôi, và các hành lý- Chúng tôi dặn rõ mỗi người chỉ được
mang một vali. Chúng tôi dàn xếp tất cả sẽ gặp nhau tại nhà thủ tướng
Khiêm, bởi vì đây là căn nhà lớn nhất, ít bị chú ý hơn là nhà ông Thiệu.
Chúng tôi đồng ý sẽ cho máy bay đi Đài Loan, nơi người anh của Thiệu
làm đại sứ, như thế ông ta sẽ thu xếp được với nhà cầm quyền Đài Loan để
mọi người được nhập nội. Thủ tướng Khiêm cũng từng là đại sứ ở Đài
Loan, như thế ông ta cũng có nhiều liên hệ. Khi chọn Đài Loan làm điểm
đến, tôi cũng cân nhắc rằng chuyến máy bay DC-6 chỉ có thể bay xa nhất
bấy nhiêu, mà khỏi cần đổ thêm xăng.
Tôi chọn vài người làm tài xế mà tôi xem như những tay bảnh nhất, đáng
tin cậy và vững chãi nhất. Tôi không lựa tài xế người Việt-Frank Snepp
là một trong các tài xế ấy. Tướng Timmes, vì cấp bực của ông, không thể
lái xe, tôi cũng thế, cấp bực của tôi không cho phép tôi lái xe. Tôi
kiếm một đại tá cảnh sát, cũng là đại tá quân đội, tôi nói: “Cần phải có
một người với cái vẻ chỉ huy lẫm liệt.” Tôi dự phòng trường hợp lính
gác hạch hỏi gì chăng. Phòng xa thế, chứ tôi biết khi lính gác nhìn thấy
bốn cái xe Mỹ do Mỹ lái thì họ sẽ bảo “Các tay tổ đây,” khi nhận ra xe
Đại sứ, họ sẽ bảo “Ông đại sứ đi họp” chắc chắn thế, chả trở ngại gì,
nhưng phải có một đại tá quân đội cảnh sát để dự phòng cho vững. Chúng
tôi không biết Thiệu sẽ mang theo những ai. Chỉ biết một mình ông Thiệu
sẽ đi, Khiêm sẽ đi, không biết còn ai khác. Cho nên cứ mang theo một số
giấy tờ để trống, rồi tướng Charlie Timmes sẽ điền tên họ vào bằng tay.
Chúng tôi đưa cả cho viên đại úy trên máy bay, bảo: “Khi đến Đài Loan
chúng tôi sẽ thông báo cho các giới chức quân sự Mỹ. Anh cứ yêu cầu gặp
các sĩ quan cao cấp, và đưa tận tay chiếc phong bì này. Tất cả giấy tờ ở
trong ấy.” Trong lúc đó một xe khác chở đại sứ chạy thẳng đến chiếc máy
bay vì đại sứ muốn đến chào tạm biệt Thiệu. Tôi nói với đại sứ: “Tôi
không muốn đi cùng một xe với đại sứ trong thành phố vì chỉ tạo thêm
nhiều rủi ro phiền phức.” Cho nên tôi nhớ chúng tôi đã đổi xe. Tất cả
diễn ra chính xác như một cái đồng hồ Thụy Sĩ, cũng như khi chúng tôi
thực hiện các điệp vụ. Chúng tôi đã đưa mọi người đến máy bay an toàn,
vào máy bay an toàn, sau đó sẽ cất cánh an toàn.
Tôi ngồi chung xe với thủ tướng Khiêm, chứ không ngồi với Thiệu. Tôi nhớ
tướng Timmes ngồi với ông Thiệu. Mọi người đều kiềm chế cảm xúc, không
ai khóc. Gia đình họ đều đã đi cả. Thực ra, có một điều làm tôi ngạc
nhiên. Tôi ngạc nhiên vì trong tất cả các cộng sự viên thân tín gần gũi,
ông Thiệu không mang theo ai, trừ thủ tướng Khiêm. Điều này rất lạ vì
chỉ mới vài năm trước tại khắp các quán cà phê ở Sàigòn người ta sì sào
bàn tán chuyện chia tay giữa Thiệu và Khiêm, chuyện ông này sẽ hất ông
kia vân vân…Tất nhiên tôi không đánh giá cao mấy chuyện ấy vì lẽ tôi có
liên hệ rất tốt với thủ tướng, tôi luôn luôn coi ông như một viên chức
tận tụy trung thành với Thiệu. Tổng cộng gồm mười bốn người đi ra chuyến
bay đêm ấy. Tất cả đều là đàn ông.
Tôi luôn dè chừng trường hợp có người nhận ra ông Thiệu ở các trạm kiểm
soát, nhưng tôi cũng tính toán: Người ta đã quen cách di chuyển cố hữu
của ông Thiệu trong thành phố bằng một chiếc xe Mercedes cũ kỹ, khác với
đây là bốn chiếc xe Hoa Kỳ của toà đại sứ có bộ dạng quan trọng. Bấy
giờ trời tối, việc chặn xét bốn chiếc xe Hoa Kỳ là việc ít khi xảy ra.
Dẫn đầu là chiếc Chevrolet Caprice của đại sứ có vỏ chắn đạn, tôi ngồi
trong xe này, có viên đại tá cảnh sát đi kèm. Mối e ngại nhất của tôi là
lỡ ở trạm gác, cảnh sát soát căn cước, bật đèn pha soi vào chúng tôi
thì sao? Như thế họ sẽ nhận ra ông Thiệu và thủ tướng. Nhưng rồi việc
xảy ra là khi thấy bốn chiếc xe với bộ dạng quan trọng như thế chạy đến
trạm, mấy người lính canh nghiêm chỉnh giơ tay chào. Đúng là điều tôi
mong đợi. Có lần tôi đã đưa một nhân vật trọng yếu đào thoát từ Tây Bá
Linh bằng một chiếc xe lớn tựa như vậy, tôi cũng tính rằng lính Liên Sô
sẽ chào kính khi họ thấy chiếc xe, và quả thật họ đã làm y vậy.
Đêm hôm ấy, Thiệu không hề đem theo vàng xuất ngoại. Câu chuyện ấy chỉ
là chuyện cứt khô! Ai điên khùng gì mà lại gói vàng bỏ lỏng lẻo trong va
li, trời đất. Tôi muốn nói, tôi có một người bạn Việt Nam đã mang vàng
đi, tôi biết vàng phải được bọc chặt chẽ cẩn thận, quấn bằng vải, bằng
dây cao su, bằng băng keo, đủ các thứ. Có ai lại để cho vàng kêu lách
cách trong hành lý bao giờ. Thực ra số vàng dự trữ của Việt Nam vẫn ở
trong xứ, khi quân Bắc Việt đến, vàng vẫn ở đấy. Số vàng dự trữ của ngân
hàng quốc gia Việt Nam trị giá từ 18 đến 20 triệu mỹ kim. Trị giá thực
sự của số vàng ấy đúng ra cao hơn nhiều, vì lý do giá vàng chỉ được tính
có 35 mỹ kim một ounce (0.28g). Đó là cái giá tại Việt Nam trước thời
Nixon phá giá đồng mỹ kim. Còn vào năm 1975, giá vàng thực ra ở mức 170
Mỹ kim một ounce. Bấy giờ đã có lúc Nam Việt Nam không còn tín chỉ trên
thế giới nữa, quốc hội Mỹ thì lừng khừng từ chối yêu cầu viện trợ, và
như thường lệ, đại sứ Martin đã đưa ra sáng kiến nóng hổi: Ông nghĩ Nam
Việt Nam nên gửi số vàng ấy sang quỹ dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, dùng sổ
vàng ấy ký quỹ mà mua chịu võ khí. Vâng, Thiệu đã chấp thuận đề nghị.
Tình cờ có chuyến bay chở hàng của Thụy Sĩ thuộc hãng Basel Air đang ở
Sàigòn, Nam Việt Nam thương lượng với Basel Air mang số vàng này đi dưới
hình thức hàng hoá thương mại thông thường. Mấy người Thụy Sĩ suy nghĩ
một hai ngày rồi từ chối không nhận chở, vì lý do bảo hiểm. Họ bảo không
cách gì kiếm ra ai chịu bảo hiểm số 70 triệu Mỹ kim vàng ra khỏi
Sàigòn. Người ta lại phải tính đến không quân Hoa Kỳ. Việc này được đem
thảo luận tại Hội Đồng An ninh Quốc gia. Chở một tấn rưỡi vàng đối với
không quân Hoa Kỳ không khó, nhưng tìm đâu ra mối bảo hiểm thương mại
khi người ta lại sử dụng máy bay quân đội; chấm hết!
Cái củ khoai nóng nuốt không trôi lại được ném lên bắp vế mấy anh trạng
sư ở Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Suốt thời gian này đống vàng vẫn nằm yên tại
Ngân hàng Quốc gia ở Sàigòn. “Làm thế nào kiếm cho ra mối chịu bảo hiểm
chuyến hàng này nếu chúng ta chở đi bằng máy bay quân sự?” Đó vẫn là cái
đề tài làm bù đầu mấy anh trạng sư suốt mấy hôm. Trong lúc ấy Thiệu từ
chức, một tốp người mới vào nắm quyền, cụ Hương hôm đầu thì bảo ừ, chở
đi, hôm sau lại bảo đừng, đừng chở nữa. Cuối cùng cụ kết luận thôi tốt
nhất cứ giữ lấy vàng ở Sàigòn, bởi vì kể từ khi đại sứ Martin bắt đầu
nói chuyện này, cho đến lúc ấy tình hình đã biến đổi, dẫu cho có ký thác
vàng để lấy vũ khí Mỹ, vũ khí không còn đến kịp và cũng chả giúp ích gì
nữa. Ngoài ra họ cũng còn giữ được thể diện khi để lại số vàng ở trong
xứ. Như thế, số vàng đã được để lại.
Đêm hôm ấy, cũng là đêm tôi dự buổi dạ tiệc quốc tế cuối cùng ở Sàigòn.
Buổi dạ tiệc được tổ chức tại tư thất đại sứ Ba Lan nhân dịp giới thiệu
viên Trưởng ngành chính trị Ba Lan với các ngoại giao đoàn. Mọi người
đều có mặt. Tất cả các đại sứ còn ở tại Sàigòn đều được mời, và ông Ba
Lan mới đến nói ông ta rất mong mỏi gặp tôi. Ông ta bảo rõ rệt chúng tôi
đang ở vị trí lưỡng tương hoán chuyển, ông ta muốn biết quan điểm của
tôi đối với tình hình. Chúng tôi bèn hẹn nhau một buổi ăn trưa vào một
tuần lễ sau ngày hôm ấy. Ngày ấy sẽ là nhằm ngày mùng một tháng năm!
Giữa tất cả những chuyện trông ngóng, tôi đã trông ngóng đến ngày mùng
một tháng Năm ấy để gặp mặt ông bạn đồng nghiệp người Ba Lan của tôi!
Đại sứ Martin không phải là người thích tiệc tùng, nhưng trong trạng
thái bồn chồn của thành phố đêm hôm ấy, ông bảo: “Tôi sẽ đi dự, nhưng đi
riêng xe nhé.” Vì vậy tôi quay trở lại căn phòng gửi một điện văn. Điện
văn này tôi đã viết sẵn, chỉ cần dùng điện đài để đánh mật mã mà phụ tá
của tôi và tôi đã giao ước trước. Suốt một ngày làm việc, đấy là tất cả
những gì tôi cảm thấy sau khi hoàn tất việc đưa ông Thiệu ra đi.
Ngày rời Sàigòn là ngày tôi buồn rầu cùng cực, chỉ thiếu điều muốn sụm.
Đoạn kịch cuối mở màn ngày thứ hai. Chiều thứ hai là một buổi chiều rất
xấu. Dương Văn Minh nhậm chức đêm hôm ấy. Ông vừa đọc xong bản diễn văn
nhậm chức, thì giông bão khủng khiếp ập đến Sàigòn. Mưa rơi xối xả.
Những cơn mưa đến sớm, lúc ấy chưa đến mùa mưa. Rồi xảy ra vụ chiếc phi
cơ phản nghịch, tức là chiếc phi cơ Mỹ với bình xăng phụ 50 ga-lông do
mấy phi công dưới sự điều động của Bắc Việt dội bom lên Tân Sơn Nhất.
Lúc ấy chúng tôi còn ở tại văn phòng. Mặc dầu đã khoảng bảy giờ đêm,
chúng tôi vẫn còn ở đấy vì lúc này Sàigòn ban đêm chẳng có gì khác để
làm, thứ nữa Sàigòn và Hoa Thịnh Đốn cách nhau mười hai tiếng, lúc ấy
buổi sáng ở Hoa Thịnh Đốn, chúng tôi cố chuyển càng nhiều điện văn càng
tốt, để khi bắt đầu làm việc, Hoa Thịnh Đốn đã có đủ thông báo của chúng
tôi.
Khi nghe tiếng nổ, chúng tôi đâm bổ xuống núp dưới gầm bàn. Bấy giờ, tôi
nhớ tôi đang ở trong phòng viên Trưởng ban Truyền tin. Nhân viên truyền
tin là những người lo phụ trách các báo cáo tình báo để gửi đi bằng
điện đài.
Chúng tôi rất thận trọng việc soạn thảo các điện văn này, luôn luôn sử
dụng Anh ngữ một cách văn vẻ, sửa chữa kỹ càng, dù phải vội vã trong các
trường hợp khẩn cấp, y như các phóng viên nhà báo vậy. Lúc ấy chúng tôi
đang lom khom núp dưới gầm bàn, tôi sẽ không bao giờ quên kỷ niệm này:
Một cô nhân viên truyền tin xinh đẹp hấp dẫn nhổm lên, kéo cái máy chữ
xuống, cô ta bắt đầu đánh: “Sàigòn gửi Hoa Thịnh Đốn, bản báo cáo tình
hình lúc 19 giờ địa phương. Một vụ pháo kích không xác định được xuất xứ
đang phát nổ trong thành phố. Vụ pháo kích đang tiếp diễn quanh chúng
tôi, vẫn chưa có ai biết chuyện gì xảy ra!”
Không bao lâu, chúng tôi xác định được chuyện ấy. Chúng tôi chắc chắn
đây là câu trả lời của quân đội Bắc Việt phản ứng lại bài diễn văn nhậm
chức của ông Minh. Trong bài diễn văn này, ông ta nói ông sẽ tiếp tục
chiến đấu, nói đủ thứ lảm nhảm mà một tháng trước đấy ông ta không hề
nói. Tôi nghĩ cái hình ảnh chính xác để mô tả ông là hình ảnh một người
không đủ tài cán được đặt vào một chức vụ quá khả năng, làm mọi người
phải mệt với sự bất lực của ông ta.
Trong tuần lễ cuối cùng, Sàigòn vẫn sinh hoạt tốt đẹp mặc dầu có trận
không kích xảy ra. Điện, điện thoại, thực phẩm vẫn đầy đủ, có lẽ chỉ hơi
thiếu chút rau xà-lách. Tối ấy tôi đi ngủ muộn, bốn giờ rưỡi sáng đã
bừng dậy vì lại có tiếng nổ, lần này nổ lớn dữ dội. Tôi điện thoại cho
nhân viên trực của tôi ở toà đại sứ, một nhân viên tình báo; ở đấy,
ngoài lính Thủy quân Lục chiến, chúng tôi luôn có hai nhân viên trực
suốt ngày đêm. Tôi hỏi anh biết có chuyện gì xảy ra không? Anh ta nói
lúc ấy chưa biết rõ, nhưng có pháo kích vào Tân Sơn Nhất, Thủy quân Lục
chiến đã trèo lên nóc nhà nhìn thấy có lửa cháy, anh ta đã liên lạc văn
phòng Tùy viên Quân sự, họ cũng chưa biết gì đích xác. Nhưng đã có một
số thiệt hại đáng kể, hai lính Thủy quân Lục chiến tử thương. Tôi bảo:
“Được rồi, tình trạng nghe có vẻ tệ, nhưng có anh đang ứng trực ở đấy là
tốt lắm.” Tình cờ, chính nhân viên này cũng là sĩ quan trưởng phòng tài
chánh. Tôi bảo: “Sửa soạn mấy cái phong bì khởi hành.” Phong bì khởi
hành là những phong bì có đựng một số chỉ dẫn, số điện thoại của những
toà đại sứ Mỹ các nơi và tại vùng Đông Á. Mỗi phong bì được bỏ vào số
tiền 1500 đô la bằng mỹ kim và bằng một số ngoại tệ các nước khác. Mỗi
người sẽ được trao tay một phong bì này để phòng vệ an toàn, dự phòng
trường hợp thất lạc. Tôi bèn nói với anh nhân viên trực: Tôi sẽ đến toà
đại sứ ngay.
Tôi là người đến sớm nhất. Lúc ấy Thủy quân Lục chiến đã nhận thêm báo
cáo từ văn phòng Tùy viên Quân sự. Dựa vào đấy tôi cảm thấy toà đại sứ
cần phải được huy động. Tôi điện thoại cho Đại sứ, tôi nói: “Rất tiếc
phải gọi Đại sứ vào giờ này- Ông còn có thể được ngủ đến hơn 3 tiếng
đồng hồ nữa. Nhưng tôi nghĩ Đại sứ cần phải vào gấp.” Ông Đại sứ bảo ông
sẽ vào. Lúc ấy, chúng tôi có một hệ thống tổ chức: cứ một người gọi bốn
người, mỗi người lại phải liên lạc gọi bốn người khác v.v…Nên tôi bắt
đầu huy động mọi người qua hệ thống này. Buổi sáng sớm hôm ấy, tình
trạng sức khoẻ của Đại sứ rất bết bát. Ông đau ốm khặc khừ, và sau này,
lúc lên đến chiến hạm, người ta mới khám ra là ông bị viêm phổi. Giọng
ông khản đặc, khào khào không ra tiếng. Tinh thần bị kích động trăm phần
trăm. Khi Kissinger gọi điện thoại, Martin không nói nổi, ông thì thà
thì thào rồi tôi phải nhắc to lên cho Kissinger nghe rõ.
Đại sứ đã ra tận phi trường Tân Sơn Nhất, bởi vì ông ta là Graham Martin
mà, bạn hiểu không, mặc dù đã có đến mấy ông tướng Không quân phụ trách
ngoài phi trường, ông vẫn không chịu tin các lượng giá của họ về việc
phi cơ không còn đáp xuống được nữa. Ông đòi phải đích thân đến phi
trường xem xét rồi mới chịu!
Ngày hôm ấy khi trời sáng, ngoài Đệ Thất Hạm đội các phi công đã sẵn
sàng, trực thăng xăng nhớt đầy đủ, mọi người chuẩn bị xong. Nhưng chừng
tám giờ rưỡi, chúng tôi lại được bảo không di tản nữa! Họ bảo chúng tôi
sẽ phải thu hẹp số nhân viên, nhưng vẫn giữ toà Đại sứ ở Sàigòn. Họ bảo
nhân số toà đại sứ sẽ còn lại 180 người, trong số ấy 50 người sẽ là nhân
viên tình báo, nhóm nhân viên tình báo này có nhiệm vụ phụ trách toàn
bộ các đường truyền thông của toà đại sứ. Họ bảo các trưởng ban, trưởng
phòng khác sẽ nhận lệnh sắp xếp: kinh tế 8 người, chính trị 16 người, y
tế, tài chánh, hành chánh…do nơi Hoa Thịnh Đốn xếp đặt. Người ta đoán
chừng lệnh này do Kissinger chuyển đến ông đại sứ. Tôi không bao giờ
nhìn thấy lệnh ấy trên văn tự, nhưng lệnh ấy được chuyển đến tôi sáng
hôm ấy do đại sứ nói. Do đó tôi về văn phòng, tập họp các nhân viên cao
cấp của tôi, lúc ấy tôi còn chừng 250 nhân viên tình báo tại chỗ. Tôi
nói: “Quý bạn, chúng ta sẽ rút nhân số xuống 50 người, và sẽ phải đương
đầu với một số lượng truyền thông nhiều hơn thường. Nào, bây giờ tính
thử 50 người nào sẽ ở lại, bắt đầu là tôi!” Chuyện này không dễ dàng như
thay lính Thủy quân Lục chiến bởi lẽ nhiều khi nhân viên tình báo không
thể hoán chuyển. Mỗi người có những khả năng chuyên biệt. Người là nhân
viên truyền tin. Người là nhân viên điều hành. Người là phân tích viên.
Tôi lại cần người với các khả năng ngoại ngữ khác nhau. Tôi cần phải giữ
vài người nói được tiếng Việt. Phải có vài người nói được tiếng Ba Lan,
để giao dịch với nhân viên Ba Lan tại ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình
chiến. Về tiếng Hung Gia Lợi thì khỏi lo, chẳng ai khác ngoài tôi nói
được thứ tiếng này. Cứ như thế, suốt mấy tiếng đồng hồ loay hoay xếp
đặt. Lại còn phải cân nhắc trường hợp những người đã mãn hạn, có người
sắp được hồi hương vào tháng năm, cho dù anh ta mãi đến tháng Bẩy mới
mãn hạn, cũng không nên giữ anh ta lại. Có người gặp tình trạng gia
đình. Nhiều thứ phải cân nhắc, không để giống như hồi năm 1954 ở Hà Nội,
toà lãnh sự Mỹ và các nhân viên ở đấy dù không bị giữ làm con tin,
nhưng họ đã tự phong tỏa, tự khoá cửa và phải ở trong khuôn viên hàng
mấy tháng, không liên lạc đuợc với ai.
Cái khẩu lệnh ấy cũng đã được chuyển ra ngoài hạm đội: Toà Đại sứ sẽ ở
lại. Tư lệnh hạm đội, đề đốc Noel Gayler, tất nhiên không phải là chuyên
viên phân tích chính trị. Nghe thế, ông ta bèn nói “Vậy à, toà
Đại sứ ở lại. Phi công! Trở về giường mà phè một giấc!” Thế là xăng lại
được hút khỏi trực thăng, vì người ta không được phép chứa trực thăng có
xăng ở trên tàu. Người ta lại phải chuyển trực thăng khỏi sàn máy, đưa
xuống tầng dưới.
Bấy giờ là 9 giờ sáng, hoặc giả trễ hơn một chút. Rồi đến 11 giờ 30,
cuối cùng lại có lệnh ban ra: Tất cả mọi người phải di tản. Tôi không rõ
lệnh này chuyển đến đề đốc hạm đội lúc nào. Đại sứ Martin nhận lệnh lúc
11 giờ 30. Xem như cố vấn an ninh Brent Scrowcroft phải thông báo Ngũ
Giác đài, nhưng bấy giờ là đang đêm ở Hoa Thịnh Đốn, có lẽ người làm
việc không có mặt. Tôi không rõ đề đốc nhận lệnh ấy lúc mấy giờ. Sau này
tôi hỏi ông ta trên chiến hạm: “Chuyện gì xảy ra vậy?” Ông ta đáp:
“Chẳng có chuyện gì. Khi nhận tin di tản, tôi cho trực thăng đổ xăng,
tôi gọi phi công, rồi lại được yêu cầu phải gửi một lực lượng an ninh
Thủy quân Lục chiến vào Sàigòn trợ giúp di tản, nhưng lính không có mặt
trên những tàu chở trực thăng. Vì thế lại phải lo đưa lính từ khắp các
tàu khác đến mấy chiếc tàu chở trực thăng. Mấy công tác ấy phải tốn thì
giờ.”
Nếu bạn hỏi, tôi sẽ nói: Tôi chả ngạc nhiên gì việc này. Tôi rất hoài
nghi khả năng quân đội Hoa Kỳ khi cần đương đầu tình trạng khẩn cấp. Họ
làm việc kiểu con rùa hành chánh: chậm chạp, lè phè. Lấy đấy mà xem, họ
đã được thông báo tình hình Sàigòn như vậy từ hai giờ trước, mà lính
không đặt gần những tàu chở trực thăng, lại đưa tản mác trên những con
tàu rải rác khắp mặt biển, thế là làm sao!
Còn một việc nữa cũng không được dự liệu trước. Đó là việc một khi tin
tức người Mỹ rời Việt Nam truyền ra, là đông đảo người ta sẽ tụ khắp
chung quanh toà đại sứ, việc di chuyển sẽ trở nên vô phương. Do đó làm
sao còn có thể sử dụng xe hơi, xe buýt chở người qua lại giữa toà đại sứ
và văn phòng Tùy viên Quân sự được, vì hễ mở cổng đủ rộng cho xe đi thì
dân chúng sẽ như cuồng phong tràn vào.
Buổi sáng hôm ấy, chúng tôi bắt đầu thiêu hủy tài liệu. Trung ương Tình
báo có một thể lệ rất tốt, đó là tất cả hồ sơ đều phải có một phó bản
giữ ở Hoa Kỳ, cho nên nếu có một trạm tình báo nào mất hồ sơ thì chẳng
hề gì, chỉ mất công chút đỉnh. Vì vậy chúng tôi tiêu hủy tất cả, chúng
tôi đi khắp các văn phòng một cách có phương pháp để phá bỏ bất cứ tài
liệu nào về những người Việt có liên hệ chặt chẽ với chúng tôi.
Về cái cây me nổi tiếng thì trong tất cả những buổi họp ở toà Đại sứ,
qua mọi cuộc thảo luận, tôi chưa hề nghe ai nói, bàn gì về chuyện cưa
cái cây này xuống. Tôi có nhiều tình cảm với cái cây me này chỉ vì đấy
là một biểu hiệu đẳng cấp trong toà đại sứ: Dưới cái cây là một bãi đậu
xe, đậu dưới bóng cây thì mát mẻ, đậu ngoài nắng nhiệt độ như lò lửa.
Cho nên được đậu xe dưới bóng cây me ấy tức là biểu hiệu đẳng cấp cao
của toà đại sứ! Nhưng trang nghiêm mà nói, chưa bao giờ tôi nghe cái cây
này có liên hệ gì đến chuyện di tản. Còn hiển nhiên, chúng tôi sẽ phải
mang trực thăng lớn vào bãi đậu xe, cái cây này mọc chính giữa bãi đậu,
tất là sẽ phải hạ cái cây thế thôi.
Sáng hôm sau, khi đại sứ đã ra đi, không có chuyện gì để tôi ở lại nữa.
Còn các nhân viên truyền tin của tôi không thể đi nếu tôi hãy còn nấn ná
ở lại. Viên phụ tá của tôi và mấy người khác cũng bảo nếu tôi còn ở
đấy, họ cũng chưa chịu đi. Tôi xếp đặt cho mọi người ra đi theo các thứ
tự cần thiết, nói thế không phải là giảm giá người này người nọ, nhưng
có người công việc đã xong thì đi trước, ví dụ nhân viên truyền tin
không còn gì để làm nữa, những người phụ trách công tác vùng I, II, III
cũng thế, các nhân viên hành chánh và quản trị nhân viên cũng có thể đi
trước. Nhưng nhân viên lo việc vùng châu thổ vẫn còn cần, vì tôi chưa rõ
hết tình hình vùng IV ra sao.
Theo phương pháp ấy tôi quyết định ai đi, đi lúc nào, mọi sự trôi chảy,
không gặp phiền phức, không bị tràn ngập. Tuyệt đối tốt. Tuyệt đối không
trở ngại gì. Có lẽ những chuyện cuối cùng đáng kể là chuyện chúng tôi
kéo người Việt ở bên ngoài vào toà đại sứ qua bức tường. Lúc ấy quanh
toà đại sứ có cả vạn người, đúng số là như vậy, với đám đông vây quanh,
thật khó cho người ta đến gần toà đại sứ . Nhưng bên ngoài còn có những
người mà chúng tôi bắt buộc phải đưa họ di tản, ví dụ người trưởng ngành
tình báo, ông phụ tá Cảnh sát Đặc biệt mà thực tế là Cảnh sát Chính
trị. Vợ và con của Trung tướng Tổng cục Trưởng Chiến tranh Chính trị.
Ông Tổng Trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn. Ông Trưởng ban Nghi lễ và Gia
đình. Tất cả đều ở ngoài toà đại sứ. Làm sao chúng tôi có thể mang họ di
tản đây? Tôi không còn thể nào liên lạc được với họ. Nhưng phần ông Đôn
cũng thu xếp vào được một chiếc trực thăng đậu đại trên một nóc cao ốc
(nóc nhà này không được xây cất để trực thăng đáp, riêng đây tự nó cũng
là một câu chuyện).
Còn một số người khác khoẻ mạnh, quả quyết hơn, lấn được đến rào, chúng
tôi nhấc bổng được họ, đưa vào toà đại sứ. Bấy giờ trong đám đông bên
ngoài có một số sĩ quan quân đội mà chúng tôi đã thỏa thuận: Nếu họ đưa
vào được một số người mà chúng tôi muốn, thì sau cùng chúng tôi sẽ kéo
họ vào cho họ đi. Chúng tôi cũng tìm được cách chuyển người đi qua đường
phố Sàigòn bằng cách giao dịch, thỏa thuận với cảnh sát, chúng tôi bảo
họ: “Cho gia đình các ông vào cùng với mấy người này, chừng nào các ông
đưa được họ vào máy bay hay xe buýt an toàn, chúng tôi sẽ bốc các ông đi
luôn.”
Những cuộc sắp đặt với cảnh sát có vẻ thần hữu hơn vì chúng tôi biết họ,
tin họ, họ cũng tin cậy chúng tôi. Buồn cười nhất là vào ngày cuối
cùng, người ta đã đưa một nhóm người di tản như thế bằng cả một đoàn xe
mô tô màu trắng oai vệ của liên đoàn an ninh phủ tổng thống, nối đuôi
nhau đi.
Tại sân toà Đại sứ, chúng tôi dùng xe hơi cho châu đầu vào phía giữa để
khi trời tối thì chạy máy, rọi đèn pha lên, rồi cứ để như thế, hễ còn
xăng, còn bình điện thì còn ánh sáng.
Rồi có lệnh chúng tôi phải đi và ông Đại sứ cũng được bảo: “Ngài phải
vào chiếc máy bay này.” Còn chúng tôi, lúc đầu họ bảo trực thăng đậu
dưới sân, tất cả chúng tôi xuống thang nhưng không thấy trực thăng đâu
vì họ đã đổi chương trình, rồi họ lại bảo: “Trực thăng sẽ bốc từ nóc sân
thượng.”
Tôi không có một gắn bó tình cảm nào quá lớn đối với Việt Nam như vài
bạn đồng nghiệp của tôi đã quả tình yêu mến đất nước này. Nhưng đến giây
phút cuối, nhìn thấy chung cuộc xảy ra thế ấy, tôi nghĩ chúng ta đã làm
một việc tồi tàn đối với dân tộc này, đáng lẽ họ được khá hơn nếu đừng
bao giờ chúng ta đến đây. Ngay từ lúc đầu.
Khi chúng tôi ra đi, trời đã rất tối. Phía Tân Sơn Nhất thấy vài đám
cháy, nhưng nói chung ban đêm thành phố vẫn có vẻ bình thường. Đường vẫn
sáng đèn, xe cộ vẫn sáng đèn. Thực kỳ dị, đó là một điều lạ lùng trong
những ngày cuối cùng. Không phải chỉ những ngày cuối cùng mà suốt cả mấy
tuần lễ cuối cùng, mọi sự đều có vẻ không thực, bởi vì tất cả vẫn cứ
hiện ra một vẻ rất bình thường. Nó không giống như cuộc vây hãm ở
Warsaw, bạn hiểu không. Một ngày trước hôm sụp đổ, bạn vẫn còn có thể ra
nhà hàng kéo ghế, còn thưởng thức được một bữa thịnh soạn, vẫn có thể
ngồi nhấm nháp một cốc rượu vang ngon lành.
Không có ai nã đạn khi chúng tôi ra đi. Đó là một chuyện khác nữa. Người
Bắc Việt là những người có lý trí. Họ không giống những người Hồi giáo
cực đoan cuồng tín. Họ không dại gì tạo ra một biến cố nào nữa để có cớ
cho người Mỹ can thiệp trở lại; và nếu họ sát hại ông Đại sứ, việc này
sẽ trở thành đại sự, ngay cả đối với quốc hội.
Việc tiếp nhận chúng tôi trên tàu Blue Ridge chứng tỏ quân đội Mỹ là
hạng bét. Họ bắt đầu lục soát hết thảy mọi người. Tôi nghĩ có lẽ Đại sứ
là người duy nhất họ không lục soát. Vào lúc bình thời, cấp bực của tôi
còn trên xa cả đề đốc chỉ huy chiến hạm.
Nhưng không một ai phản đối gì. Chúng tôi đều mệt mỏi. Chúng tôi đều trầm lại. Và chúng tôi quả là một đoàn quân chiến bại.
Larry Engelmann
(Blog Tương Tri)