Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
"Năm năm vàng son 1955-60" thời kỳ rực rỡ nhất của Việt Nam Cộng Hòa
Từ cao nguyên Tây Tạng, con sông Cửu Long cuồn cuộn chảy như thác lũ xuống phía nam qua tỉnh Vân Nam, tới Lào, Thái Lan, Kampuchia
Giáo dục và đào tạo
Nguyễn Tiến Hưng
Cựu Tổng trưởng VNCH, gửi cho BBC từ Virginia, Hoa Kỳ
Từ cao nguyên Tây Tạng, con sông Cửu Long cuồn cuộn chảy như thác lũ
xuống phía nam qua tỉnh Vân Nam, tới Lào, Thái Lan, Kampuchia, rồi Việt
Nam trước khi ra Biển Đông.
May cho Miền Nam là có hồ lớn Tonle Sap ở Campuchia hút đi một phần lớn
lượng nước từ thượng nguồn cho nên từ đây dòng sông lại uốn khúc hiền
hòa chảy vào Miền Nam.
Tới gần biên giới thì con sông chia ra làm 8 nhánh. Nhưng con số 9 được
coi là may mắn cho nên phải tìm ra cho được một nhánh nữa, tuy là rất
nhỏ (dài khoảng 10 dậm) để cộng lại thành ra 9 nhánh, gọi là Cửu Long
Giang.
Dòng sông Chín Con Rồng uốn mình tưới nước cho vùng đồng bằng Nam Bộ mầu
mỡ, phì nhiêu trở thành vựa lúa của cả nước. Người nông dân nơi đây chỉ
cần trồng mỗi năm một vụ là cũng đủ ăn, lại còn dư thừa để tiếp tế ra
Miền Bắc và xuất cảng.
Khởi đầu gian khó
Nhưng trong mười năm chiến tranh loạn lạc, trên một phần ba đất trồng
trọt đã bị bỏ hoang, nhường chỗ cho những bụi rậm và cỏ dại lan tràn.
Một phần lớn hệ thống kênh rạch cũng bị khô cạn hay sình lầy. Hệ thống
bơm nước, thoát nước cũng bị hư hại. Bởi vậy, sản xuất thóc gạo của Miền
Nam trong mười năm trước 1955 đã bị giảm đi đáng kể.
Ngoài ra, các phương tiện giao thông như đường bộ, đường sắt, cầu cống
và các cơ sở công kỹ nghệ như đường trắng, rượu bia, sợi bông cũng đều
bị hư hại.
Cho nên vào năm 1955, khi "Một Quốc Gia Vừa Ra Đời" như báo chí Mỹ tuyên
dương thì quốc gia ấy đã phải đối diện với bao nhiêu khó khăn khôn
lường.
Ngân sách của Pháp để lại thì thật eo hẹp, kỹ sư, chuyên viên trong mọi
lãnh vực đều hết sức hiếm hoi vì Pháp đã rút đi hầu hết, để lại một lỗ
hổng lớn cho cả nển kinh tế lẫn hành chánh, giáo dục, y tế.
May mắn là trong năm năm đầu, từ mùa Thu 1955 tới mùa Thu 1960, Miền Nam
có được năm năm vàng son, vừa có hòa bình lại được đồng minh Hoa kỳ hết
lòng yểm trợ vật chất và kỹ thuật cho nên đã thu lượm được nhiều kết
quả có thể nói là vượt bực.
Hồi tưởng lại thời gian ấy, nhiều độc giả chắc còn nhớ lại cái cảnh
thanh bình khi các em học sinh mặc áo chemise trắng, quần xanh, các nữ
sinh với những chiếc áo dài trắng tha thướt ngày ngày cắp sách đến
trường.
Cha mẹ, anh em thì lo công việc làm ăn. Giầu có thì chưa thấy nhưng hầu
hết đã đủ ăn đủ mặc, xã hội trật tự, kỷ cương. Tuy dù có nhiều bất mãn
khó tránh về chính trị, tôn giáo và xã hội, nhưng tương đối thì ta phải
công nhận rằng đây là thời gian hào quang nhất của Cộng Hòa Việt Nam.
Định cư gần một triệu người di cư từ Miền Bắc
Công việc đầu tiên và khẩn cấp nhất là phải định cư tới gần một triệu người, tương đương bằng 7% dân số Miền Bắc di cư vào Nam.
Đoàn người này hoàn toàn 'tay trắng' - chúng tôi gọi là đoàn người 'bốn
không': không nhà cửa, đất đai, tiền bạc, ngành nghề chuyên môn ngoài
nghề nông.
Làm sao tìm được nơi ăn, chỗ ở, tạo dựng lại được công ăn việc làm, đào
giếng nước, xây nhà thương, bệnh xá, trường học cho con em để đáp ứng
nhu cầu? Ngoài việc hành chính, lại còn tìm đâu ra bác sĩ, y tá, thầy
dạy cho con em?
Sau này khi nói về thành công của Tổng thống Diệm về việc này, TT Kennedy viết cho ông nhân ngày Quốc Khánh 26/10/1961:
"Thưa Tổng thống,
Thành tích mà Ngài đã đạt được để đem lại niềm hy vọng mới, nơi cư trú
và sự an ninh cho gần một triệu người lánh nạn cộng sản từ Miền Bắc đã
nổi bật như một trong những nỗ lực đáng được tán dương nhất, và được
điều hành tốt đẹp nhất trong thời hiện đại."
Tái thiết và phát triển nông nghiệp
Ưu tiên của công việc tái thiết và phát triển phải là nông nghiệp vì đại
đa số nhân dân làm nghề nông. Đồng bằng Cửu Long là vựa lúa của cả
nước, nhưng sản xuất đã giảm đi đáng kể trong mười năm ly loạn.
Thời tiền chiến sản xuất lên tới 4,2 triệu tấn (1939). Tới 1954 chỉ còn
2,5 triệu tấn. Cũng năm 1939 xuất cảng gạo là gần 2 triệu tấn, năm 1954
chỉ còn 520.000 tấn.
Tại vùng đồng bằng, trong tổng số là 7 triệu hecta đất trồng trọt có tới
2,5 triệu hecta (trên một phần ba) bị bỏ hoang. Lúa gạo là mạch máu của
người dân cho nên công việc đầu tiên là phải đưa diện tích này vào canh
tác.
Đây là một cố gắng vượt mức vì không những nó đòi hỏi phải tốn phí nhiều
tiền bạc, công sức, để sửa chữa lại hệ thống thủy lợi, vét nạo kênh
rạch, lại còn làm sao xây dựng được quyền sở hữu đất đai và phương tiện
sản xuất cho người nông dân.
Cải cách điền địa: Khó khăn và giải pháp thành công
Người khôn của khó. Lo lắng chính của người dân là làm sao có được một
mảnh đất để sinh sống. Nếu như mảnh đất ấy lại nằm gần sông nước thì là
vàng.
'Đất Nước tôi': đất và nước. Chỉ có Việt Nam ta là dùng hai chữ đất và
nước để chỉ quê hương, tổ quốc mình vì tấc đất là tấc vàng.
Các biện pháp cải cách ruộng đất bắt đầu vào năm 1955 với lệnh giới hạn
địa tô (tiền thuê đất) và những biện pháp giúp cho tá điền (người nông
dân thuê đất) có được sự yên tâm về quyền sử dụng đất.
Cải cách điền địa là công việc rất khó khăn của các chính phủ Á Châu, nhưng ở Miền Nam là khó khăn nhất.
Làm sao mà lấy ruộng của người này chuyển cho người khác, nhất là khi
đất canh tác lại tập trung vào một số rất nhỏ đại điền chủ? Họ là những
người nắm thực quyền tại địa phương và gián tiếp, tại đô thị. Ở đồng
bằng sông Cửu Long, sự tập trung quyền sở hữu đất vào một số điền chủ là
cao nhất ở vùng Đông Nam Á: chỉ có 2,5% điền chủ mà đã sở hữu tới một
nửa diện tích canh tác, trung bình mỗi điền chủ có hơn 50 mẫu đất.
Trước tình huống ấy, TT Diệm đã phải đối mặt với một khủng hoảng xã hội
rất có thể xẩy ra nếu như phát động mạnh chương trình cải cách điền địa.
Nhưng TT Diệm vẫn đặt vấn đề này là ưu tiên số một của chính sách kinh
tế, bắt đầu ngay từ 1955 bằng việc cải tổ quy chế tá điền.
Để hỗ trợ cho nông dân được yên tâm khi đi làm thuê, điền chủ phải ký
hợp đồng với tá điền về điều kiện thuê đất: tiền thuê đất, thời hạn
thuê, triển hạn khế ước, giảm tô trong trường hợp mất mùa.
Kết quả về nông nghiệp trong 5 năm rất khả quan: sản xuất cây lương thực
tăng 32%, vượt qua tất cả mức sản xuất thời tiền chiến. Năm 1959, sản
xuất gạo lên 5,3 triệu tấn, cao nhất trong lịch sử kinh tế Miền Nam cho
tới thời điểm đó. Về xuất cảng: với tổng số là 340.000 tấn, năm 1960
cũng đánh dấu mức xuất cảng cao nhất.
Phát triển công kỹ nghệ và quy chế 'Quốc tịch Việt'
Dưới thời Pháp thuộc, kỹ nghệ và tài nguyên hầu như không được phát
triển vì người Pháp chia ra hai vùng rõ rệt: Miền Bắc tập trung vào kỹ
nghệ và khai thác hầm mỏ, Miền Nam thì căn bản là tập trung vào nông
nghiệp, chỉ có một số sản phẩm tiêu thụ như nhà máy bia, diêm quẹt,
thuốc lá, độc quyền thuốc phiện.
Bởi vậy từ 1955, Miền Nam bị cắt đứt tiếp liệu về than và khoáng sản.
Chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư lại thật ít ỏi vì Pháp đã rút đi hầu hết.
Từng bước, chính phủ bắt đầu khai thác tài nguyên với ba dự án chính: mỏ
than Nông Sơn, thủy điện Đa Nhim, và phốt phát tại Hoàng Sa - Trường
Sa. Lúc ấy thì chưa biết là có dự trữ dầu lửa lớn ở những quần đảo này.
Lý do sâu xa [của quy định Quốc tịch Việt] là vì khi ấy cơ sở kỹ nghệ ở
Miền Nam căn bản là thuộc quyền sở hữu của người Pháp; TT Diệm quyết
tâm đẩy Pháp ra khỏi Miền Nam, và ông tiên liệu trước, mở đường để người
Tầu nhập quốc tịch Việt Nam, với mục đích là để họ sẽ có thể mua lại
những cơ sở kỹ nghệ của người Pháp
Một chuyện ít người biết là việc đổi quốc tịch.
Nhiều người lên án hành động của TT Diệm là độc tài khi ông đưa ra quy
định vào hè 1955 căn bản là nhắm vào các thương gia người Tầu (đa số
sinh sống ở Chợ Lớn): nếu muốn làm ăn ở Việt Nam thì phải đổi ra quốc
tịch Việt Nam.
Chúng tôi nghiên cứu thì mới hiểu lý do sâu xa là vì thời gian ấy, cơ sở
kỹ nghệ ở Miền Nam căn bản là thuộc quyền sở hữu của người Pháp, cho
nên khi TT Diệm quyết tâm đẩy Pháp ra khỏi Miền Nam thì ông tiên liệu
trước và mở đường để người Tầu nhập quốc tịch Việt Nam với mục đích là
để cho họ (vì có nhiều vốn liếng) sẽ có thể mua lại những cơ sở kỹ nghệ
của người Pháp.
Một kích thích nổi bật khác về kinh tế là chính sách cởi mở, ưu đãi đối
với các nhà đầu tư ngoại quốc: bảo đảm về chiến tranh, cam kết không
tịch thu hay quốc hữu hóa tài sản của người ngoại quốc, ưu đãi về thuế
má và cho phép chuyển tiền lời ra ngoại quốc.
Hạ tầng cơ sở
Tái thiết mạng lưới giao thông đã bị hư hại trong thời chiến và xây dựng
thêm nữa là đòi hỏi tiên quyết cho việc phát triển kinh tế và xã hội.
Tới năm 1960, hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy và các tuyến hàng
không đã được cải thiện canh tân và mở rộng đáng kể. Hệ thống vận
chuyển hiện đại bao gồm đường sắt, một mạng lưới các đường quốc lộ, liên
tỉnh lộ, hương lộ, đường thủy và đường hàng không.
Đường bộ: trong khoảng 9.000 dặm đường, có hơn 2.000 dặm là bê tông
nhựa; 3.000 dặm đường có cán đá, và khoảng 4.000 dặm là đường hương lộ.
Đường sắt: năm 1955 giao thông đường sắt cũng được sửa chữa và canh tân.
Tới 1959 toàn hệ thống bao gồm 870 dặm, gồm một tuyến đường chính chạy
từ Sàigòn đến Đông Hà, nối kết toàn bộ các tỉnh dọc miền duyên hải
(nhiều khúc bị cắt đứt trong 12 năm chiến tranh).
Một chi nhánh đường sắt (có móc để leo đồi) đi từ Phan Rang lên Đà Lạt,
và một chặng nối với mỏ than Nông Sơn. Một khúc ngắn về phía đông bắc,
đi từ Sàigòn tới Lộc Ninh.
Hàng không: hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam - Air Vietnam - được thành
lập lúc đầu để bay trong nước. Ngoài phi trường Tân Sơn Nhất, các phi
trường được sửa chữa lại và xây dựng thêm gồm Huế, Đà Nẵng, Nha trang,
Qui Nhơn, Biên Hòa, Đà Lạt, Ban mê Thuột, Pleiku, Hải Ninh, Cần Thơ, Phú
quốc.
Từ nội địa, Air Vietnam bắt đầu bay tới Phnom Penh, Siem Reap, Bangkok,
Vientianne và Savannakhet. Đường quốc tế phần lớn được đảm nhiệm bởi các
hãng Air France, Pan American, World Airways, British Airways, Royal
Dutch, Cathay Pacific và Thai Airways.
Ngân hàng và tiền tệ
Thiết lập được một ngân hàng trung ương và một hệ thống ngân hàng thương
mại để thay thế cho Banque de L'Indochine và các ngân hàng thương mại
Pháp ở Sài Gòn là một thành quả lớn của thời đệ Nhất Cộng Hòa.
Ngay từ tháng 1/1955, Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam được thành lập để phát
hành đồng tiền Việt Nam và thực hiện các nghiệp vụ của một ngân hàng
trung ương tân tiến.
Giáo dục và đào tạo
Xét đến cùng, con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất trong việc phát
triển kinh tế lâu dài. Trong thời kỳ 1955-1960, Miền Nam đã phát triển
giáo dục rất nhanh.
Tiểu học: 1960, đã có tới 4.266 trường tiểu học công và 325 trường tiểu học tư thục. Tổng số học trò lên tới gần 1.200.000.
Trung học: các trường trung học công lập tăng từ 29 lên 101 trường.
Nguyên trường Gia Long: số học sinh đã tăng từ 1.200 lên tới 5.000.
Đại học: trước năm 1954, Miền Nam không có đại học. Muốn học cử nhân
phải ra Hà Nội. Năm 1955, chính thức thành lập đại học Sài Gòn, rồi tới
Đại học Huế, Đà Lạt. Tới năm 1962 tổng số sinh viên lên tới 12.000.
Xem như vậy, thành quả của "Năm Năm Vàng Son 1955-1960" là thời gian quý hóa nhất của lịch sử Cộng Hòa Việt Nam.
Ngày Quốc Khánh 26/10/1960 Tổng thống Eisenhower viết cho TT Diệm:
"Kính thưa Tổng Thống,
Trong năm năm ngắn ngủi kể từ khi thành lập nước Cộng hòa, nhân dân Miền
Nam đã phát triển đất nước của mình trong hầu hết các lĩnh vực. Tôi đặc
biệt ấn tượng bởi một thí dụ. Tôi được thông báo rằng năm ngoái hơn
1.200.000 trẻ em Việt Nam đã có thể đi học trường tiểu học, như vậy là
nhiều hơn gấp ba lần so với năm năm trước đó. Điều này chắc chắn là một
yếu tố hết sức thuận lợi cho tương lai của Việt Nam. Đồng thời khả năng
của Việt Nam để tự bảo vệ chống lại cộng sản đã lớn mạnh một cách không
thể đo lường được kể từ khi họ tranh đấu hữu hiệu để trở thành một nước
Cộng Hòa độc lập."
Hòa bình là một điều kiện tiên quyết cho xây dựng và phát triển.
Nhân dân Miền Nam đã có được năm năm vàng son để làm ăn, sinh sống trong
hoàn cảnh tương đối là thanh bình. Tuy còn nghèo nhưng mỗi ngày lại
thêm một bước tiến.
Image copyright Forum Trung Tam Asia
Bao nhiêu độc giả cao niên còn nhớ lại những kỷ niệm êm đềm về thời gian
ấy. Thí dụ bạn có thể đi bất cứ nơi nào một cách tự do từ Cà Mau ra tới
tận Đông Hà. Mờ sáng lên xe buýt ra Vũng Tầu tắm biển hay buổi chiều
đến ga xe lửa gần chợ Bến Thành mua vé đi Đà Lạt.
Chỉ trong chốc lát, con tầu bắt đầu phun khói, còi tầu rít lên trước khi
khởi hành. Khi mặt trời hé rạng thì tầu chạy ngang bờ biển cát trắng
Phan Rang, rẽ trái rồi ỳ ạch leo tuyến đường sắt có móc để trèo dốc lên
Đà Lạt. Cái thú vui khi rời ga Đà Lạt (đẹp nhất Đông Nam Á) để mau tới
"Café Tùng" hay "Phở Bằng" thưởng thức một ly cà phê sữa nóng thì khó có
thể diễn tả được.
Với sự thông minh, cần cù của người dân Việt thì chỉ cần có hòa bình là
tiến bộ trông thấy. Người dân lam lũ vất vả nhưng luôn vui với cuộc
sống. Người nông phu không quản ngại thức khuya, dậy sớm để cầy sâu cuốc
bẫm, chờ đợi cho tới ngày lúa vàng.
Tâm tư ấy luôn được phản ảnh trong thơ văn, âm nhạc Miền Nam trong thời
gian này. Và khi thanh bình, con người lại đối xử với nhau cho hài hòa
thì mọi việc - dù là tát cạn cả Biển Đông - cũng đều có thể ước mơ.
Tuy các kết quả phát triển kinh tế xã hội thời đó thật là nhỏ nhoi theo
tiêu chuẩn ngày nay, nhưng là rất đáng kể so với các nước láng giềng lúc
ấy như ngay cả Nam Hàn dưới thời Tổng thống Lý Thừa Vãn.
Miền Nam thực sự đã đặt được những viên gạch đầu tiên trong các năm
1955-1960 cho mô hình phát triển sau này của Nam Hàn dưới thời Tổng
thống Phác Chính Hy. Xây dựng và phát triển trong hòa bình đã đưa Miền
Nam tới chỗ vươn lên - kinh tế học gọi là điểm cất cánh (take-offĐ để
trở thành một cường quốc tại Đông Nam Á.
Buổi bình minh của Nền Cộng Hòa ("The First Day") thật là huy hoàng rực
rỡ. Nhiều quan sát viên ngoại quốc cho rằng đây chính là "một cuộc cách
mạng đã bị mất đi" (the lost revolution) của Miền Nam Việt Nam.
Cựu Tổng trưởng VNCH, gửi cho BBC từ Virginia, Hoa Kỳ
* Bài viết của Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, trích dẫn từ cuốn
sách 'Khi Đồng Minh Nhảy Vào' mới xuất bản tại Hoa Kỳ. Sinh năm 1935 ở
Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt
Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở
Sài Gòn. Hiện ông định cư tại Hoa Kỳ. Ông là tác giả cuốnKhi Đồng minh
Tháo chạy và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập,
viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh.
(BBC)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
"Năm năm vàng son 1955-60" thời kỳ rực rỡ nhất của Việt Nam Cộng Hòa
Từ cao nguyên Tây Tạng, con sông Cửu Long cuồn cuộn chảy như thác lũ xuống phía nam qua tỉnh Vân Nam, tới Lào, Thái Lan, Kampuchia
Từ cao nguyên Tây Tạng, con sông Cửu Long cuồn cuộn chảy như thác lũ
xuống phía nam qua tỉnh Vân Nam, tới Lào, Thái Lan, Kampuchia, rồi Việt
Nam trước khi ra Biển Đông.
May cho Miền Nam là có hồ lớn Tonle Sap ở Campuchia hút đi một phần lớn
lượng nước từ thượng nguồn cho nên từ đây dòng sông lại uốn khúc hiền
hòa chảy vào Miền Nam.
Tới gần biên giới thì con sông chia ra làm 8 nhánh. Nhưng con số 9 được
coi là may mắn cho nên phải tìm ra cho được một nhánh nữa, tuy là rất
nhỏ (dài khoảng 10 dậm) để cộng lại thành ra 9 nhánh, gọi là Cửu Long
Giang.
Dòng sông Chín Con Rồng uốn mình tưới nước cho vùng đồng bằng Nam Bộ mầu
mỡ, phì nhiêu trở thành vựa lúa của cả nước. Người nông dân nơi đây chỉ
cần trồng mỗi năm một vụ là cũng đủ ăn, lại còn dư thừa để tiếp tế ra
Miền Bắc và xuất cảng.
Khởi đầu gian khó
Nhưng trong mười năm chiến tranh loạn lạc, trên một phần ba đất trồng
trọt đã bị bỏ hoang, nhường chỗ cho những bụi rậm và cỏ dại lan tràn.
Một phần lớn hệ thống kênh rạch cũng bị khô cạn hay sình lầy. Hệ thống
bơm nước, thoát nước cũng bị hư hại. Bởi vậy, sản xuất thóc gạo của Miền
Nam trong mười năm trước 1955 đã bị giảm đi đáng kể.
Ngoài ra, các phương tiện giao thông như đường bộ, đường sắt, cầu cống
và các cơ sở công kỹ nghệ như đường trắng, rượu bia, sợi bông cũng đều
bị hư hại.
Cho nên vào năm 1955, khi "Một Quốc Gia Vừa Ra Đời" như báo chí Mỹ tuyên
dương thì quốc gia ấy đã phải đối diện với bao nhiêu khó khăn khôn
lường.
Ngân sách của Pháp để lại thì thật eo hẹp, kỹ sư, chuyên viên trong mọi
lãnh vực đều hết sức hiếm hoi vì Pháp đã rút đi hầu hết, để lại một lỗ
hổng lớn cho cả nển kinh tế lẫn hành chánh, giáo dục, y tế.
May mắn là trong năm năm đầu, từ mùa Thu 1955 tới mùa Thu 1960, Miền Nam
có được năm năm vàng son, vừa có hòa bình lại được đồng minh Hoa kỳ hết
lòng yểm trợ vật chất và kỹ thuật cho nên đã thu lượm được nhiều kết
quả có thể nói là vượt bực.
Hồi tưởng lại thời gian ấy, nhiều độc giả chắc còn nhớ lại cái cảnh
thanh bình khi các em học sinh mặc áo chemise trắng, quần xanh, các nữ
sinh với những chiếc áo dài trắng tha thướt ngày ngày cắp sách đến
trường.
Cha mẹ, anh em thì lo công việc làm ăn. Giầu có thì chưa thấy nhưng hầu
hết đã đủ ăn đủ mặc, xã hội trật tự, kỷ cương. Tuy dù có nhiều bất mãn
khó tránh về chính trị, tôn giáo và xã hội, nhưng tương đối thì ta phải
công nhận rằng đây là thời gian hào quang nhất của Cộng Hòa Việt Nam.
Định cư gần một triệu người di cư từ Miền Bắc
Công việc đầu tiên và khẩn cấp nhất là phải định cư tới gần một triệu người, tương đương bằng 7% dân số Miền Bắc di cư vào Nam.
Đoàn người này hoàn toàn 'tay trắng' - chúng tôi gọi là đoàn người 'bốn
không': không nhà cửa, đất đai, tiền bạc, ngành nghề chuyên môn ngoài
nghề nông.
Làm sao tìm được nơi ăn, chỗ ở, tạo dựng lại được công ăn việc làm, đào
giếng nước, xây nhà thương, bệnh xá, trường học cho con em để đáp ứng
nhu cầu? Ngoài việc hành chính, lại còn tìm đâu ra bác sĩ, y tá, thầy
dạy cho con em?
Sau này khi nói về thành công của Tổng thống Diệm về việc này, TT Kennedy viết cho ông nhân ngày Quốc Khánh 26/10/1961:
"Thưa Tổng thống,
Thành tích mà Ngài đã đạt được để đem lại niềm hy vọng mới, nơi cư trú
và sự an ninh cho gần một triệu người lánh nạn cộng sản từ Miền Bắc đã
nổi bật như một trong những nỗ lực đáng được tán dương nhất, và được
điều hành tốt đẹp nhất trong thời hiện đại."
Tái thiết và phát triển nông nghiệp
Ưu tiên của công việc tái thiết và phát triển phải là nông nghiệp vì đại
đa số nhân dân làm nghề nông. Đồng bằng Cửu Long là vựa lúa của cả
nước, nhưng sản xuất đã giảm đi đáng kể trong mười năm ly loạn.
Thời tiền chiến sản xuất lên tới 4,2 triệu tấn (1939). Tới 1954 chỉ còn
2,5 triệu tấn. Cũng năm 1939 xuất cảng gạo là gần 2 triệu tấn, năm 1954
chỉ còn 520.000 tấn.
Tại vùng đồng bằng, trong tổng số là 7 triệu hecta đất trồng trọt có tới
2,5 triệu hecta (trên một phần ba) bị bỏ hoang. Lúa gạo là mạch máu của
người dân cho nên công việc đầu tiên là phải đưa diện tích này vào canh
tác.
Đây là một cố gắng vượt mức vì không những nó đòi hỏi phải tốn phí nhiều
tiền bạc, công sức, để sửa chữa lại hệ thống thủy lợi, vét nạo kênh
rạch, lại còn làm sao xây dựng được quyền sở hữu đất đai và phương tiện
sản xuất cho người nông dân.
Cải cách điền địa: Khó khăn và giải pháp thành công
Người khôn của khó. Lo lắng chính của người dân là làm sao có được một
mảnh đất để sinh sống. Nếu như mảnh đất ấy lại nằm gần sông nước thì là
vàng.
'Đất Nước tôi': đất và nước. Chỉ có Việt Nam ta là dùng hai chữ đất và
nước để chỉ quê hương, tổ quốc mình vì tấc đất là tấc vàng.
Các biện pháp cải cách ruộng đất bắt đầu vào năm 1955 với lệnh giới hạn
địa tô (tiền thuê đất) và những biện pháp giúp cho tá điền (người nông
dân thuê đất) có được sự yên tâm về quyền sử dụng đất.
Cải cách điền địa là công việc rất khó khăn của các chính phủ Á Châu, nhưng ở Miền Nam là khó khăn nhất.
Làm sao mà lấy ruộng của người này chuyển cho người khác, nhất là khi
đất canh tác lại tập trung vào một số rất nhỏ đại điền chủ? Họ là những
người nắm thực quyền tại địa phương và gián tiếp, tại đô thị. Ở đồng
bằng sông Cửu Long, sự tập trung quyền sở hữu đất vào một số điền chủ là
cao nhất ở vùng Đông Nam Á: chỉ có 2,5% điền chủ mà đã sở hữu tới một
nửa diện tích canh tác, trung bình mỗi điền chủ có hơn 50 mẫu đất.
Trước tình huống ấy, TT Diệm đã phải đối mặt với một khủng hoảng xã hội
rất có thể xẩy ra nếu như phát động mạnh chương trình cải cách điền địa.
Nhưng TT Diệm vẫn đặt vấn đề này là ưu tiên số một của chính sách kinh
tế, bắt đầu ngay từ 1955 bằng việc cải tổ quy chế tá điền.
Để hỗ trợ cho nông dân được yên tâm khi đi làm thuê, điền chủ phải ký
hợp đồng với tá điền về điều kiện thuê đất: tiền thuê đất, thời hạn
thuê, triển hạn khế ước, giảm tô trong trường hợp mất mùa.
Kết quả về nông nghiệp trong 5 năm rất khả quan: sản xuất cây lương thực
tăng 32%, vượt qua tất cả mức sản xuất thời tiền chiến. Năm 1959, sản
xuất gạo lên 5,3 triệu tấn, cao nhất trong lịch sử kinh tế Miền Nam cho
tới thời điểm đó. Về xuất cảng: với tổng số là 340.000 tấn, năm 1960
cũng đánh dấu mức xuất cảng cao nhất.
Phát triển công kỹ nghệ và quy chế 'Quốc tịch Việt'
Dưới thời Pháp thuộc, kỹ nghệ và tài nguyên hầu như không được phát
triển vì người Pháp chia ra hai vùng rõ rệt: Miền Bắc tập trung vào kỹ
nghệ và khai thác hầm mỏ, Miền Nam thì căn bản là tập trung vào nông
nghiệp, chỉ có một số sản phẩm tiêu thụ như nhà máy bia, diêm quẹt,
thuốc lá, độc quyền thuốc phiện.
Bởi vậy từ 1955, Miền Nam bị cắt đứt tiếp liệu về than và khoáng sản.
Chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư lại thật ít ỏi vì Pháp đã rút đi hầu hết.
Từng bước, chính phủ bắt đầu khai thác tài nguyên với ba dự án chính: mỏ
than Nông Sơn, thủy điện Đa Nhim, và phốt phát tại Hoàng Sa - Trường
Sa. Lúc ấy thì chưa biết là có dự trữ dầu lửa lớn ở những quần đảo này.
Lý do sâu xa [của quy định Quốc tịch Việt] là vì khi ấy cơ sở kỹ nghệ ở
Miền Nam căn bản là thuộc quyền sở hữu của người Pháp; TT Diệm quyết
tâm đẩy Pháp ra khỏi Miền Nam, và ông tiên liệu trước, mở đường để người
Tầu nhập quốc tịch Việt Nam, với mục đích là để họ sẽ có thể mua lại
những cơ sở kỹ nghệ của người Pháp
Một chuyện ít người biết là việc đổi quốc tịch.
Nhiều người lên án hành động của TT Diệm là độc tài khi ông đưa ra quy
định vào hè 1955 căn bản là nhắm vào các thương gia người Tầu (đa số
sinh sống ở Chợ Lớn): nếu muốn làm ăn ở Việt Nam thì phải đổi ra quốc
tịch Việt Nam.
Chúng tôi nghiên cứu thì mới hiểu lý do sâu xa là vì thời gian ấy, cơ sở
kỹ nghệ ở Miền Nam căn bản là thuộc quyền sở hữu của người Pháp, cho
nên khi TT Diệm quyết tâm đẩy Pháp ra khỏi Miền Nam thì ông tiên liệu
trước và mở đường để người Tầu nhập quốc tịch Việt Nam với mục đích là
để cho họ (vì có nhiều vốn liếng) sẽ có thể mua lại những cơ sở kỹ nghệ
của người Pháp.
Một kích thích nổi bật khác về kinh tế là chính sách cởi mở, ưu đãi đối
với các nhà đầu tư ngoại quốc: bảo đảm về chiến tranh, cam kết không
tịch thu hay quốc hữu hóa tài sản của người ngoại quốc, ưu đãi về thuế
má và cho phép chuyển tiền lời ra ngoại quốc.
Hạ tầng cơ sở
Tái thiết mạng lưới giao thông đã bị hư hại trong thời chiến và xây dựng
thêm nữa là đòi hỏi tiên quyết cho việc phát triển kinh tế và xã hội.
Tới năm 1960, hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy và các tuyến hàng
không đã được cải thiện canh tân và mở rộng đáng kể. Hệ thống vận
chuyển hiện đại bao gồm đường sắt, một mạng lưới các đường quốc lộ, liên
tỉnh lộ, hương lộ, đường thủy và đường hàng không.
Đường bộ: trong khoảng 9.000 dặm đường, có hơn 2.000 dặm là bê tông
nhựa; 3.000 dặm đường có cán đá, và khoảng 4.000 dặm là đường hương lộ.
Đường sắt: năm 1955 giao thông đường sắt cũng được sửa chữa và canh tân.
Tới 1959 toàn hệ thống bao gồm 870 dặm, gồm một tuyến đường chính chạy
từ Sàigòn đến Đông Hà, nối kết toàn bộ các tỉnh dọc miền duyên hải
(nhiều khúc bị cắt đứt trong 12 năm chiến tranh).
Một chi nhánh đường sắt (có móc để leo đồi) đi từ Phan Rang lên Đà Lạt,
và một chặng nối với mỏ than Nông Sơn. Một khúc ngắn về phía đông bắc,
đi từ Sàigòn tới Lộc Ninh.
Hàng không: hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam - Air Vietnam - được thành
lập lúc đầu để bay trong nước. Ngoài phi trường Tân Sơn Nhất, các phi
trường được sửa chữa lại và xây dựng thêm gồm Huế, Đà Nẵng, Nha trang,
Qui Nhơn, Biên Hòa, Đà Lạt, Ban mê Thuột, Pleiku, Hải Ninh, Cần Thơ, Phú
quốc.
Từ nội địa, Air Vietnam bắt đầu bay tới Phnom Penh, Siem Reap, Bangkok,
Vientianne và Savannakhet. Đường quốc tế phần lớn được đảm nhiệm bởi các
hãng Air France, Pan American, World Airways, British Airways, Royal
Dutch, Cathay Pacific và Thai Airways.
Ngân hàng và tiền tệ
Thiết lập được một ngân hàng trung ương và một hệ thống ngân hàng thương
mại để thay thế cho Banque de L'Indochine và các ngân hàng thương mại
Pháp ở Sài Gòn là một thành quả lớn của thời đệ Nhất Cộng Hòa.
Ngay từ tháng 1/1955, Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam được thành lập để phát
hành đồng tiền Việt Nam và thực hiện các nghiệp vụ của một ngân hàng
trung ương tân tiến.
Giáo dục và đào tạo
Xét đến cùng, con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất trong việc phát
triển kinh tế lâu dài. Trong thời kỳ 1955-1960, Miền Nam đã phát triển
giáo dục rất nhanh.
Tiểu học: 1960, đã có tới 4.266 trường tiểu học công và 325 trường tiểu học tư thục. Tổng số học trò lên tới gần 1.200.000.
Trung học: các trường trung học công lập tăng từ 29 lên 101 trường.
Nguyên trường Gia Long: số học sinh đã tăng từ 1.200 lên tới 5.000.
Đại học: trước năm 1954, Miền Nam không có đại học. Muốn học cử nhân
phải ra Hà Nội. Năm 1955, chính thức thành lập đại học Sài Gòn, rồi tới
Đại học Huế, Đà Lạt. Tới năm 1962 tổng số sinh viên lên tới 12.000.
Xem như vậy, thành quả của "Năm Năm Vàng Son 1955-1960" là thời gian quý hóa nhất của lịch sử Cộng Hòa Việt Nam.
Ngày Quốc Khánh 26/10/1960 Tổng thống Eisenhower viết cho TT Diệm:
"Kính thưa Tổng Thống,
Trong năm năm ngắn ngủi kể từ khi thành lập nước Cộng hòa, nhân dân Miền
Nam đã phát triển đất nước của mình trong hầu hết các lĩnh vực. Tôi đặc
biệt ấn tượng bởi một thí dụ. Tôi được thông báo rằng năm ngoái hơn
1.200.000 trẻ em Việt Nam đã có thể đi học trường tiểu học, như vậy là
nhiều hơn gấp ba lần so với năm năm trước đó. Điều này chắc chắn là một
yếu tố hết sức thuận lợi cho tương lai của Việt Nam. Đồng thời khả năng
của Việt Nam để tự bảo vệ chống lại cộng sản đã lớn mạnh một cách không
thể đo lường được kể từ khi họ tranh đấu hữu hiệu để trở thành một nước
Cộng Hòa độc lập."
Hòa bình là một điều kiện tiên quyết cho xây dựng và phát triển.
Nhân dân Miền Nam đã có được năm năm vàng son để làm ăn, sinh sống trong
hoàn cảnh tương đối là thanh bình. Tuy còn nghèo nhưng mỗi ngày lại
thêm một bước tiến.
Image copyright Forum Trung Tam Asia
Bao nhiêu độc giả cao niên còn nhớ lại những kỷ niệm êm đềm về thời gian
ấy. Thí dụ bạn có thể đi bất cứ nơi nào một cách tự do từ Cà Mau ra tới
tận Đông Hà. Mờ sáng lên xe buýt ra Vũng Tầu tắm biển hay buổi chiều
đến ga xe lửa gần chợ Bến Thành mua vé đi Đà Lạt.
Chỉ trong chốc lát, con tầu bắt đầu phun khói, còi tầu rít lên trước khi
khởi hành. Khi mặt trời hé rạng thì tầu chạy ngang bờ biển cát trắng
Phan Rang, rẽ trái rồi ỳ ạch leo tuyến đường sắt có móc để trèo dốc lên
Đà Lạt. Cái thú vui khi rời ga Đà Lạt (đẹp nhất Đông Nam Á) để mau tới
"Café Tùng" hay "Phở Bằng" thưởng thức một ly cà phê sữa nóng thì khó có
thể diễn tả được.
Với sự thông minh, cần cù của người dân Việt thì chỉ cần có hòa bình là
tiến bộ trông thấy. Người dân lam lũ vất vả nhưng luôn vui với cuộc
sống. Người nông phu không quản ngại thức khuya, dậy sớm để cầy sâu cuốc
bẫm, chờ đợi cho tới ngày lúa vàng.
Tâm tư ấy luôn được phản ảnh trong thơ văn, âm nhạc Miền Nam trong thời
gian này. Và khi thanh bình, con người lại đối xử với nhau cho hài hòa
thì mọi việc - dù là tát cạn cả Biển Đông - cũng đều có thể ước mơ.
Tuy các kết quả phát triển kinh tế xã hội thời đó thật là nhỏ nhoi theo
tiêu chuẩn ngày nay, nhưng là rất đáng kể so với các nước láng giềng lúc
ấy như ngay cả Nam Hàn dưới thời Tổng thống Lý Thừa Vãn.
Miền Nam thực sự đã đặt được những viên gạch đầu tiên trong các năm
1955-1960 cho mô hình phát triển sau này của Nam Hàn dưới thời Tổng
thống Phác Chính Hy. Xây dựng và phát triển trong hòa bình đã đưa Miền
Nam tới chỗ vươn lên - kinh tế học gọi là điểm cất cánh (take-offĐ để
trở thành một cường quốc tại Đông Nam Á.
Buổi bình minh của Nền Cộng Hòa ("The First Day") thật là huy hoàng rực
rỡ. Nhiều quan sát viên ngoại quốc cho rằng đây chính là "một cuộc cách
mạng đã bị mất đi" (the lost revolution) của Miền Nam Việt Nam.
Cựu Tổng trưởng VNCH, gửi cho BBC từ Virginia, Hoa Kỳ
* Bài viết của Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, trích dẫn từ cuốn
sách 'Khi Đồng Minh Nhảy Vào' mới xuất bản tại Hoa Kỳ. Sinh năm 1935 ở
Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt
Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở
Sài Gòn. Hiện ông định cư tại Hoa Kỳ. Ông là tác giả cuốnKhi Đồng minh
Tháo chạy và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập,
viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh.
(BBC)