Văn Học & Nghệ Thuật
Nguyên Khôi - Giải ảo lịch sử về Huyền Trân công chúa
Huyền Trần công chúa là một trong những người phụ nữ nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam, được đời sau nhắc đến cùng với những yếu tố đậm chất trữ tình của một cuộc hôn nhân ngoại giao và mối quan hệ ly kỳ,
Lễ hội đền Huyền Trân công chúa được tổ chức hằng năm vào ngày mồng chín tháng Giêng,
tại Trung tâm Văn hóa Huyền Trân, phường An Tây, thành phố Huế.
Huyền Trần công chúa là một trong những người phụ nữ nổi tiếng nhất
trong lịch sử Việt Nam, được đời sau nhắc đến cùng với những yếu tố đậm
chất trữ tình của một cuộc hôn nhân ngoại giao và mối quan hệ ly kỳ,
trái khoáy với Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung. Bài viết của chúng
tôi, xuất phát từ việc phân tích các nguồn sử liệu và kế thừa các ý kiến
của người đi trước, sẽ thảo luận về những điểm không logic trong những
sự kiện được ghi lại về nhân vật lịch sử này.
Bài viết vì vậy khởi đầu bằng việc trích dẫn nguyên văn những gì mà Đại
Việt sử ký toàn thư (từ dưới đây gọi tắt là Toàn thư) đã chép1.
(...) [1305], tháng 2, Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm
người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn. Các quan
trong triều đều cho là không nên, duy có Văn Túc Vương Đạo Tái chủ
trương bàn việc đó, Trần Khắc Chung tán thành, việc bàn mới quyết.
(...) [1306], (...). Mùa hạ, tháng 6, gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân.
(...) [1307], (...). Mùa hạ, tháng 5, chúa Chiêm Thành Chế Mân chết.
(Tháng 9) Thế tử Chiêm Thành Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng
voi trắng.
Mùa đông, tháng 10, sai Nhập nội Hành khiển Thượng thư Tả bộc xạ Trần
Khắc Chung, An phủ Đặng Văn sang Chiêm Thành đón công chúa Huyền Trân và
thế tử Đa Da về. Theo tục lệ Chiêm Thành, chúa chết thì bà hậu của chúa
phải vào giàn thiêu để chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại,
sai bọn Khắc Chung, mượn cớ là sang viếng tang và nói với [người Chiêm]:
“Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương,
chi bằng ra bờ biển chiêu hồn ở ven trời, đón linh [23a] hồn cùng về,
rồi sẽ vào giàn thiêu”. Người Chiêm nghe theo. Khắc Chung dùng thuyền
nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công chúa, đi đường biển
loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô. Hưng Nhượng Đại
Vương ghét lắm, mỗi khi thấy Khắc Chung thì mắng phủ đầu: “Thằng này là
điềm chẳng lành đối với nhà nước. Họ tên nó là Trần Khắc Chung thì nhà
Trần rồi mất về nó chăng?”. Khắc Chung thường sợ hãi né tránh2.
Dựa trên những ghi chép trong Toàn thư, hàng loạt các sử thần trung đại
cho đến các sử gia hiện đại đã mặc nhiên coi những ghi chép trên là
không còn điều gì phải bàn cãi. Các nhà văn, nhà thơ nhiều đời cũng dựa
vào đó để sáng tác thơ ca, và viết nên những pho tiểu thuyết lịch sử về
mối tình oan trái mang tính tay ba của Huyền Trân - Chế Mân - Trần Khắc
Chung. Cho đến năm 2013, giáo sư Keith W. Taylor vẫn nhắc lại câu chuyện
trên mà không có chút nghi vấn gì về tính chất sử liệu và những điểm
khúc khuất đằng sau chuyện này3.
Những sử liệu về cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân và Chế Mân ở trên có thể
thấy là đã được nhìn qua lăng kính của người đời sau, cụ thể là qua lăng
kính của Ngô Sĩ Liên với lối sử bình đậm đà tinh thần Nho giáo. Nếu
tính từ thời điểm năm 1306 đến năm Ngô Sĩ Liên soạn Toàn thư (nửa cuối
thế kỷ XV), quãng cách thời gian khoảng 150 năm, chúng ta không biết Ngô
Sĩ Liên đã biên soạn đoạn này trên cơ sở những nguồn sử liệu nào. Nhưng
như những gì chúng tôi đã từng chứng minh, có một nguồn tiếp thu khá
quan trọng của Toàn thư, đó là truyền thuyết dân gian, như trường hợp
“chú bé mồ côi- cờ lau dựng nước” của Đinh Bộ Lĩnh chẳng hạn4.
Có hay không chuyện Huyền Trân bị hỏa táng?
Như sử liệu trong Toàn thư thì lúc Chế Mân chết có khả năng Huyền Trân
đang mang thai. Vì sao chúng tôi suy luận như vậy? Bởi theo Toàn thư,
đến tháng chín, Thế tử Chiêm Thành Chế Đa Da sai sứ thần mang voi trắng
đến tiến cống. Nhiều người nghĩ rằng, lúc này Chế Đa Da “sai sứ” thật,
hoặc như Ngô Thì Sĩ lại đồng nhất Chế Đa Da là Chế Chí (sic, con của Chế
Mân, anh của Chế Đà A Bà Niêm, Chế Chí là vua nối ngôi sau Chế Mân).
Nhưng thực ra, đây là một nghi lễ ngoại giao với hàm nghĩa báo tin cháu
ngoại của Trần Nhân Tông (tức Chế Đa Da) chào đời. Bởi ngay đoạn sau
đó,Toàn thư ghi rằng đoàn Trần Khắc Chung sang đón Huyền Trân và thế tử
Chế Đa Da về. Như vậy, Chế Đa Da có khả năng sinh vào tháng Tám năm đó.
Tức là khi Chế Mân mất, Huyền Trân mới mang thai Đa Da khoảng bốn tháng.
Không có lý gì lại đưa một sản phụ cùng đứa con trong bụng lên giàn hỏa
thiêu?
Mặt khác, theo Po Dharma, những ghi chép về tục lệ hỏa thiêu của Chiêm
Thành (trong Toàn thư) là không chính xác. Thứ nhất, nếu theo truyền
thống Champa, chỉ có bà hoàng hậu chính thức mới được phép huỷ thân trên
giàn hỏa với đức vua quá cố. Chữ “chính thức” ở đây nghĩa là “một người
có dòng máu hoàng gia Champa” - một hoàng gia với chế độ mẫu hệ (chứ
không phải là mẫu quyền).5 Trong khi đó, Huyền Trân (được phong làm
hoàng hậu Paramecvari) chỉ là vợ thứ ba của Chế Mân, hoàng hậu cả là
người Chăm, bà hai là người gốc Jawa. Thứ hai, theo Dominique Nguyen
(tức Nguyễn Ðố), tục lên giàn hỏa là một vinh dự lớn lao chỉ dành riêng
cho bà hoàng hậu nhằm bày tỏ lòng thủy chung của mình đối với chồng, với
điều kiện phải được hội đồng hoàng gia chấp thuận. Ông cũng cho biết,
trong suốt 18 thế kỷ của tiến trình lịch sử ở Champa, người ta đã ghi
nhận chỉ có vài bà hoàng hậu được nhận ân huệ của hội đồng hoàng gia để
lên hỏa đàn chết theo chồng. Thứ ba, theo luật Champa, lễ hỏa táng vua
mới mất được thực hiện trong ngày đẹp nhất trong vòng một tháng sau khi
vua băng hà. Như vậy, lễ hỏa thiêu đó có lẽ phải được thực hiện trong
tháng Năm hoặc đầu tháng Sáu năm 1307, trong khi đó, sứ đoàn Trần Khắc
Chung khởi hành vào tháng 106.
Từ những lý do như trên, chúng tôi cho rằng, không có chuyện Huyền Trân
bị hỏa thiêu, vì thế cũng không có chuyện giải cứu Huyền Trân như Toàn
thư đã viết.
Có hay không chuyện Huyền Trân ám sát Chế Mân?
Với những lý lẽ đưa ra về nghi thức và thể chế tùy táng trong Hoàng gia
Champa, Dominique Nguyen có đưa ra giả thuyết khá thú vị rằng Huyền Trân
đã thực hiện âm mưu ám sát Chế Mân. Ông viết như sau: “Chúng tôi không
nói là Huyền Trân ám hại Chế Mân, nhưng chỉ đặt vấn đề ở đây có chăng
Huyền Trân đã làm một việc phạm pháp nào đó có liên hệ đến cái chết của
Chế Mân thành ra mới tìm cách chạy trốn. Chính đây mới là chìa khóa quan
trọng trong vụ tình sử vô cùng bí ẩn của Chế Mân và Huyền Trân.”7
Dominique Nguyen cũng dùng các chữ “dùng mưu gian trá” cướp công chúa về
Thăng Long để liệt Ngô Sĩ Liên vào người cùng quan điểm. Nhưng dường
như nhà nghiên cứu này đã đi quá xa với giả thuyết của mình, khi ông đưa
ra kết luận rằng: “Một khi giải pháp quân sự không còn hiệu nghiệm để
chinh phạt Champa nữa, vua chúa Ðại Việt lại nghĩ đến mưu đồ đê tiện
hơn, đó là dùng mỹ nhân kế để phục vụ cho ý đồ chính trị. Vì quyền lợi
chung của dân tộc, vua chúa Ðại Việt không cần nghĩ đến thế nào là danh
dự của một quốc gia, dù là quốc gia hùng mạnh gấp bội so với lực lượng
quân sự Champa thời đó. Năm 1306, vua Trần Nhân Tông tìm cách dâng hiến
con gái của mình là Huyền Trân cho vua Chế Mân, một quốc vương nước
ngoài mà tuổi đã già, để đổi lấy hai châu Ô và Lý. Ngô Sĩ Liên, tác giả
của ÐVSKTT là người đầu tiên đã lên án nhà Trần. Vì lòng tham lam một
mảnh đất ở châu Ô và Lý, vua Trần Nhân Tôn không còn biết đâu là thể
diện của vương quốc Ðại Việt để rồi bán đứng trinh tiết con gái của mình
cho một người không cùng giống nòi.”8
Cứ cho rằng Huyền Trân ám sát Chế Mân, thì chúng ta buộc phải trả lời
hàng loạt câu hỏi. Vì sao Huyền Trân phải giết chồng mình và cha đứa trẻ
mà mình mang trong bụng? Nếu đã giết Chế Mân, thì làm sao có thể thoát
được tội chết? Chế Mân chết thì Đại Việt được gì, Huyền Trân được gì?
Hay là sau khi Chế Mân chết, cuộc đời Huyền Trân cũng sụp đổ để cuối
cùng năm 1308, bà cắt tóc đi tu, còn Đại Việt và Champa lại rơi vào hai
chiến tuyến với những cuộc chiến tranh liên tiếp kể từ năm 1311.
Thế nhưng, cũng chính theo Dominique Nguyen, “bà Tapasi, hoàng hậu gốc
người Jawa cũng trở về nước sau ngày Chế Mân từ trần.”9 Như vậy thì việc
các bà hoàng hậu người ngoại quốc trở về nước mình là một nghi thức
mang tính chế định của triều đình Champa. Việc Huyền Trân cùng con trai
Chế Đa Da trở về Đại Việt là theo thông lệ ngoại giao, có sự ủng hộ và
thỏa thuận giữa hai nước. Theo sự kiện mà Toàn thư đã ghi về việc cống
voi trắng của Chế Đa Da, thì rõ ràng đoàn cống sứ này ngoài việc báo tin
“đản sự” (sinh hạ thế tử), còn mang thêm thông tin “gợi ý” cho triều
đình Đại Việt sang Champa đón công chúa và thế tử trở về. Đó chính là lý
do khiến đúng một tháng sau, đoàn Trần Khắc Chung đến Champa. Mặt khác,
theo quan niệm của Hoàng gia Champa (một hoàng gia theo chế độ mẫu hệ),
thì Chế Đa Da (dù là con trai, dù là thế tử) thì cũng chỉ là một kẻ
“khác máu” - không có giá trị huyết thống và cũng không có tư cách để
thừa kế bất kỳ thứ gì từ triều đình đó10. Việc trả Chế Đa Da về Đại Việt
cùng với Huyền Trân là một việc không có gì đáng phải bàn cãi.
Như vậy, giả thuyết Huyền Trân ám sát Chế Mân của Dominique Nguyen chưa
có cơ sở. Và vì thế cũng không có chuyện nhóm Trần Khắc Chung phải lập
mưu cướp công chúa về Đại Việt. Toàn thưđã chép đoạn này trên một truyền
bản tin đồn hoặc huyền thoại thất thiệt (fakelore) vào đời sau. Câu
chuyện đó chỉ có ý nghĩa đối với những sáng tác văn học mà hầu như lại
rất có hại đối với lịch sử và sử học.
Và mối tình huyền thoại
Dựa trên những ghi chép trong Toàn thư, các nhà văn, nhà thơ thời hiện
đại đã sáng tác rất nhiều câu chuyện văn học xung quanh cuộc tình giữa
Huyền Trân và Trần Khắc Chung. Nhiều người đã dựng nên câu chuyện tình
ngang trái giữa cặp trai tài gái sắc: hai người có tình cảm từ trước đó,
nhưng do lệnh của hoàng đế Nhân Tông, nên đành “gác lại tình riêng vì
việc nước”11.
Trước nhất là chuyện “trai tài gái sắc”. Các nhà biên soạn có thể viện
dẫn rằng có thể hư cấu một số tình tiết trong các tác phẩm nghệ thuật
lịch sử (tiểu thuyết lịch sử, kịch lịch sử). Nhưng theo chúng tôi, những
hư cấu nghệ thuật bao giờ cũng nên căn cứ trên logic lịch sử. Còn ở
đây, chuyện “trai tài gái sắc” là cố gắng “gọt chân cho vừa giày” để
biện minh cho “tính chính đáng” của mối quan hệ giữa hai người. Xét về
tuổi thì Huyền Trân sinh năm 1287, trong khi vào thời điểm này, Trần
Khắc Chung đã là một trụ cột của triều đình Đại Việt trong hai cuộc
kháng chiến chống Nguyên Mông (lần hai và ba), năm 1288 vì có tài ngoại
giao, Khắc Chung đã sang sứ nhà Nguyên. Như vậy, về tuổi tác, Khắc Chung
hơn Huyền Trân quãng 20- 30 tuổi.
Mặt khác, như sử liệu đã dẫn trong Toàn thư, Trần Khắc Chung chính là
người thuộc phe ủng hộ Trần Nhân Tông gả Huyền Chân sang Chiêm Thành.
Cho nên, nhiệm vụ đi đón Huyền Trân được giao cho ông là điều dễ hiểu.
Vì thế không có chuyện “mượn cớ viếng tang để cướp công chúa về nước”.
Chúng tôi cũng nhắc lại một lần nữa rằng, đoạn chép trong Toàn thư từ
“theo tục lệ Chiêm Thành,..” đến “Khắc Chung thường sợ hãi né tránh” là
đoạn có thể được biên soạn thông qua một nguồn tin phi chính thống. Bởi
đoạn này mâu thuẫn với những chi tiết ở đoạn trên như đã phân tích. Với
lời bình luận của Ngô Sĩ Liên, đoạn này có khả năng đã xuất hiện muộn
nhất từ giữa thế kỷ XV (cách thời điểm xảy ra sự kiện 150 năm).
Thêm nữa, như trên đã phân tích, khi lên thuyền về Đại Việt, Huyền Trân
lúc ấy mới sinh con được vài tháng, tức là lúc đó có khả năng còn đang ở
cữ12. Thuyền đưa Huyền Trân về nước cũng không phải là kiểu “thuyền
nhẹ“ (như Toàn thư ghi) chỉ chở được một vài người để rồi mối tình nảy
sinh trong quá trình lênh đênh sóng nước, mà thuyền ấy phải chở cả một
đoàn gồm: Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung (trưởng đoàn), An phủ
Đặng Văn (phó đoàn), cùng các tùy tòng, thủy thủ đoàn, thị nữ (để hầu hạ
hoàng hậu),... tổng cộng cũng phải vài chục người.
Rồi như ta biết, Huyền Trân xuất gia năm 1308, sau khi về nước một năm.
Còn Trần Khắc Chung có khả năng cao cũng là một người theo Phật, hiểu
Phật, cho nên ông mới được vua Trần Anh Tông (1276 – 1320) sai viết lời
bạt cho sách Thượng Sĩ ngữ lục của Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230- 1291)13,
thầy của đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Đến cuối đời, Trần Khắc
Chung và vợ - Công chúa Bảo Hoàn - đã cúng ruộng trang Ma Liêu (Đông
Triều) của mình làm của Tam Bảo để nghĩa đệ của mình là sư Hương Lâm
trông coi14.
Dẫu biết rằng thời nhà Trần, quan hệ tình ái khá phóng khoáng. Nhiều
người cũng có thể giữ quan điểm cho rằng trên đời có chuyện gì mà không
xảy ra. Mối quan hệ Huyền Trân- Khắc Chung có thể có mà cũng có thể
không. Thực tế lịch sử thế nào, không ai dám nói chắc chắn. Người nghiên
cứu chỉ dựa trên sử liệu, còn sử liệu thì lại được tạo tác bởi nhiều
động cơ và mục đích khác nhau. Trần Nhân Tông từng bị người đương thời
đàm tiếu vì tội gả con gái cho loài man di mọi rợ, hay Trần Khắc Chung
bị chửi rủa như loài “chó lợn” (chữ của Ngô Sĩ Liên) vì đã động đến công
chúa. Nhưng đến thế kỷ XX, người thì được tung hô vì đem lại hai mảnh
đất cho Việt Nam, người thì được ngợi ca bởi việc phá bỏ gông cùm phong
kiến, mở đường cho luyến ái cá nhân. Sau nhiều thế kỷ, Huyền Trân công
chúa đã đi vào thần điện Việt Nam, trở thành một vị nữ thần được thờ
phụng. Để kết thúc bài viết này, xin trích lại lời của bà Trương Mỹ Hoa,
nguyên Phó Chủ tịch nước, khi viếng thăm đền thờ Huyền Trân công chúa:
“Có những vấn đề của phụ nữ phải được giải quyết từ quốc gia, có những
vấn đề của quốc gia phải giải quyết từ người phụ nữ”. Lịch sử không chỉ
sống động bởi sự biến động của các nguồn sử liệu mà còn bởi những mục
đích mà người đời sau sử dụng nó, một cách hữu thức và vô thức.
Nguyên Khôi
-----------------------------
1 Do độ dài hạn chế, chúng tôi chỉ lược dẫn. Các đoạn lược bỏ để trong (...). Một số thông tin đáng chú ý sẽ được in đậm.
2 Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan
bản. Bản khắc in. Bản dịch. 1998. Tập 2. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội.
tr.90-92.
3 Keith Weller Taylor. 2013. A History of the Vietnamese. Cambridge University Press. New York. pp.141.
4 Trần Trọng Dương. 2013. Đinh Bộ Lĩnh: huyền thoại và lịch sử. Tạp chí Tia Sáng. Số tháng 7/2013.
5 Po Dharma. 2007. Góp phần tìm hiểu lịch sử Champa. http://www.champaka.info
6 Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan
bản. Bản khắc in. Bản dịch. 1998. Tập 2. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội.
tr.91.
7 Dominique Nguyen. 2008. 700 năm cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa. Champaka số 09/ 2008. tr.40-56. www.champaka.info
8 Dominique Nguyen. 2008. bđd.
9 Dominique Nguyen. 2008. bđd.
10 “Như thế không hẳn Chế Đa Da ở lại sẽ làm chúa Chiêm Thành mà sự kiện
cậu bé về quê ngoại sẽ chỉ là đánh dấu chấm dứt một giai đoạn hòa hoãn
của hai nước vì tình thế bên ngoài trong khi các vấn đề bên trong giữa
hai nước vẫn chưa giải quyết được. Xung đột trở lại là điều tất yếu”.
[Tạ Chí Đại Trường. 2009. Bài sử khác cho Việt Nam. Văn Mới. USA.
Tr.257].
11 Viết Linh. 2005. Chuyện tình Huyền Trân công chúa (Tiểu thuyết lịch sử). NxbThanh niên. Hà Nội.
Trần Kim Bằng (s.t). 2008. Chèo cổ Trần Huyền Trân. - Nxb Hà Nội. Hoàng
Giác. 1949. Huyền Trân (nhạc): - In lần thứ 1. – Nxb Thế giới. Hà Nội.
Hoàng Quốc Hải. 1993.Huyền Trân công chúa (Tiểu thuyết lịch sử) - In lần 2 có bổ sung. Nxb Phụ nữ. Hà Nội.
Phạm Minh Thảo. 2007. Huyền Trân công chúa. Nxb Văn hoá Thông tin. Hà Nội.
Phạm Huy Thông. 1936. Huyền Trân công chúa. Impr. de Lê Cường. Hà Nội.
Sĩ Tiến. 1942. Huyền Trân công chúa. (Ca kịch lịch sử). Hương sơn. Hà Nội.
Bình An. 1988. Huyền Trân công chúa (Truyện tranh); Minh hoạ: Văn Hiếu. Nxb Tổng hợp Sông Bé. Sông Bé.
Ngọc Đức, Văn Án. 2008. Huyền Trân công chúa Trần triều. Nxb Văn hoá dân tộc. Hà Nội.
12 Xem thêm một số biện luận thú vị khác: “theo phong tục tập quán của
người Việt Nam thời gian “Phong Long” là ba tháng mười ngày, người ta
thường thường có thói quen treo trước phòng sản phụ một nắm lá cây có
cây xương rồng, đó là một dấu hiệu, nhắc nhở cho người đàn ông biết chỉ
được phép vào phòng vợ và tư thông sau khi cây xương rồng này khô đi!“
Lê Vy. Sự thật Huyền Trân công chúa “tư thông” với Trần Khắc Chung.
(http://www.tinmoi.vn/su-that-huyen-tran-cong-chua-tu-thong-voi-tran-khac-chung-011275185.html)
13 Nguyễn Huệ Chi (chủ biên). 1988. Thơ văn Lý Trần (Tập II, Quyển Thượng). Nxb KHXH. H. tr. 593-596.
14 Trần Quốc Cương (viết). 1348. Thiên Liêu sơn Tam Bảo địa. Đặt tại núi
Thiên Liêu (núi Thung) xã Yên Đức, huyện Đông Triều. Quảng Ninh.
(Diễn đàn Thế kỷ)
Bàn ra tán vào (0)
Nguyên Khôi - Giải ảo lịch sử về Huyền Trân công chúa
Huyền Trần công chúa là một trong những người phụ nữ nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam, được đời sau nhắc đến cùng với những yếu tố đậm chất trữ tình của một cuộc hôn nhân ngoại giao và mối quan hệ ly kỳ,
Lễ hội đền Huyền Trân công chúa được tổ chức hằng năm vào ngày mồng chín tháng Giêng,
tại Trung tâm Văn hóa Huyền Trân, phường An Tây, thành phố Huế.
Huyền Trần công chúa là một trong những người phụ nữ nổi tiếng nhất
trong lịch sử Việt Nam, được đời sau nhắc đến cùng với những yếu tố đậm
chất trữ tình của một cuộc hôn nhân ngoại giao và mối quan hệ ly kỳ,
trái khoáy với Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung. Bài viết của chúng
tôi, xuất phát từ việc phân tích các nguồn sử liệu và kế thừa các ý kiến
của người đi trước, sẽ thảo luận về những điểm không logic trong những
sự kiện được ghi lại về nhân vật lịch sử này.
Bài viết vì vậy khởi đầu bằng việc trích dẫn nguyên văn những gì mà Đại
Việt sử ký toàn thư (từ dưới đây gọi tắt là Toàn thư) đã chép1.
(...) [1305], tháng 2, Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm
người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn. Các quan
trong triều đều cho là không nên, duy có Văn Túc Vương Đạo Tái chủ
trương bàn việc đó, Trần Khắc Chung tán thành, việc bàn mới quyết.
(...) [1306], (...). Mùa hạ, tháng 6, gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân.
(...) [1307], (...). Mùa hạ, tháng 5, chúa Chiêm Thành Chế Mân chết.
(Tháng 9) Thế tử Chiêm Thành Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng
voi trắng.
Mùa đông, tháng 10, sai Nhập nội Hành khiển Thượng thư Tả bộc xạ Trần
Khắc Chung, An phủ Đặng Văn sang Chiêm Thành đón công chúa Huyền Trân và
thế tử Đa Da về. Theo tục lệ Chiêm Thành, chúa chết thì bà hậu của chúa
phải vào giàn thiêu để chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại,
sai bọn Khắc Chung, mượn cớ là sang viếng tang và nói với [người Chiêm]:
“Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương,
chi bằng ra bờ biển chiêu hồn ở ven trời, đón linh [23a] hồn cùng về,
rồi sẽ vào giàn thiêu”. Người Chiêm nghe theo. Khắc Chung dùng thuyền
nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công chúa, đi đường biển
loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô. Hưng Nhượng Đại
Vương ghét lắm, mỗi khi thấy Khắc Chung thì mắng phủ đầu: “Thằng này là
điềm chẳng lành đối với nhà nước. Họ tên nó là Trần Khắc Chung thì nhà
Trần rồi mất về nó chăng?”. Khắc Chung thường sợ hãi né tránh2.
Dựa trên những ghi chép trong Toàn thư, hàng loạt các sử thần trung đại
cho đến các sử gia hiện đại đã mặc nhiên coi những ghi chép trên là
không còn điều gì phải bàn cãi. Các nhà văn, nhà thơ nhiều đời cũng dựa
vào đó để sáng tác thơ ca, và viết nên những pho tiểu thuyết lịch sử về
mối tình oan trái mang tính tay ba của Huyền Trân - Chế Mân - Trần Khắc
Chung. Cho đến năm 2013, giáo sư Keith W. Taylor vẫn nhắc lại câu chuyện
trên mà không có chút nghi vấn gì về tính chất sử liệu và những điểm
khúc khuất đằng sau chuyện này3.
Những sử liệu về cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân và Chế Mân ở trên có thể
thấy là đã được nhìn qua lăng kính của người đời sau, cụ thể là qua lăng
kính của Ngô Sĩ Liên với lối sử bình đậm đà tinh thần Nho giáo. Nếu
tính từ thời điểm năm 1306 đến năm Ngô Sĩ Liên soạn Toàn thư (nửa cuối
thế kỷ XV), quãng cách thời gian khoảng 150 năm, chúng ta không biết Ngô
Sĩ Liên đã biên soạn đoạn này trên cơ sở những nguồn sử liệu nào. Nhưng
như những gì chúng tôi đã từng chứng minh, có một nguồn tiếp thu khá
quan trọng của Toàn thư, đó là truyền thuyết dân gian, như trường hợp
“chú bé mồ côi- cờ lau dựng nước” của Đinh Bộ Lĩnh chẳng hạn4.
Có hay không chuyện Huyền Trân bị hỏa táng?
Như sử liệu trong Toàn thư thì lúc Chế Mân chết có khả năng Huyền Trân
đang mang thai. Vì sao chúng tôi suy luận như vậy? Bởi theo Toàn thư,
đến tháng chín, Thế tử Chiêm Thành Chế Đa Da sai sứ thần mang voi trắng
đến tiến cống. Nhiều người nghĩ rằng, lúc này Chế Đa Da “sai sứ” thật,
hoặc như Ngô Thì Sĩ lại đồng nhất Chế Đa Da là Chế Chí (sic, con của Chế
Mân, anh của Chế Đà A Bà Niêm, Chế Chí là vua nối ngôi sau Chế Mân).
Nhưng thực ra, đây là một nghi lễ ngoại giao với hàm nghĩa báo tin cháu
ngoại của Trần Nhân Tông (tức Chế Đa Da) chào đời. Bởi ngay đoạn sau
đó,Toàn thư ghi rằng đoàn Trần Khắc Chung sang đón Huyền Trân và thế tử
Chế Đa Da về. Như vậy, Chế Đa Da có khả năng sinh vào tháng Tám năm đó.
Tức là khi Chế Mân mất, Huyền Trân mới mang thai Đa Da khoảng bốn tháng.
Không có lý gì lại đưa một sản phụ cùng đứa con trong bụng lên giàn hỏa
thiêu?
Mặt khác, theo Po Dharma, những ghi chép về tục lệ hỏa thiêu của Chiêm
Thành (trong Toàn thư) là không chính xác. Thứ nhất, nếu theo truyền
thống Champa, chỉ có bà hoàng hậu chính thức mới được phép huỷ thân trên
giàn hỏa với đức vua quá cố. Chữ “chính thức” ở đây nghĩa là “một người
có dòng máu hoàng gia Champa” - một hoàng gia với chế độ mẫu hệ (chứ
không phải là mẫu quyền).5 Trong khi đó, Huyền Trân (được phong làm
hoàng hậu Paramecvari) chỉ là vợ thứ ba của Chế Mân, hoàng hậu cả là
người Chăm, bà hai là người gốc Jawa. Thứ hai, theo Dominique Nguyen
(tức Nguyễn Ðố), tục lên giàn hỏa là một vinh dự lớn lao chỉ dành riêng
cho bà hoàng hậu nhằm bày tỏ lòng thủy chung của mình đối với chồng, với
điều kiện phải được hội đồng hoàng gia chấp thuận. Ông cũng cho biết,
trong suốt 18 thế kỷ của tiến trình lịch sử ở Champa, người ta đã ghi
nhận chỉ có vài bà hoàng hậu được nhận ân huệ của hội đồng hoàng gia để
lên hỏa đàn chết theo chồng. Thứ ba, theo luật Champa, lễ hỏa táng vua
mới mất được thực hiện trong ngày đẹp nhất trong vòng một tháng sau khi
vua băng hà. Như vậy, lễ hỏa thiêu đó có lẽ phải được thực hiện trong
tháng Năm hoặc đầu tháng Sáu năm 1307, trong khi đó, sứ đoàn Trần Khắc
Chung khởi hành vào tháng 106.
Từ những lý do như trên, chúng tôi cho rằng, không có chuyện Huyền Trân
bị hỏa thiêu, vì thế cũng không có chuyện giải cứu Huyền Trân như Toàn
thư đã viết.
Có hay không chuyện Huyền Trân ám sát Chế Mân?
Với những lý lẽ đưa ra về nghi thức và thể chế tùy táng trong Hoàng gia
Champa, Dominique Nguyen có đưa ra giả thuyết khá thú vị rằng Huyền Trân
đã thực hiện âm mưu ám sát Chế Mân. Ông viết như sau: “Chúng tôi không
nói là Huyền Trân ám hại Chế Mân, nhưng chỉ đặt vấn đề ở đây có chăng
Huyền Trân đã làm một việc phạm pháp nào đó có liên hệ đến cái chết của
Chế Mân thành ra mới tìm cách chạy trốn. Chính đây mới là chìa khóa quan
trọng trong vụ tình sử vô cùng bí ẩn của Chế Mân và Huyền Trân.”7
Dominique Nguyen cũng dùng các chữ “dùng mưu gian trá” cướp công chúa về
Thăng Long để liệt Ngô Sĩ Liên vào người cùng quan điểm. Nhưng dường
như nhà nghiên cứu này đã đi quá xa với giả thuyết của mình, khi ông đưa
ra kết luận rằng: “Một khi giải pháp quân sự không còn hiệu nghiệm để
chinh phạt Champa nữa, vua chúa Ðại Việt lại nghĩ đến mưu đồ đê tiện
hơn, đó là dùng mỹ nhân kế để phục vụ cho ý đồ chính trị. Vì quyền lợi
chung của dân tộc, vua chúa Ðại Việt không cần nghĩ đến thế nào là danh
dự của một quốc gia, dù là quốc gia hùng mạnh gấp bội so với lực lượng
quân sự Champa thời đó. Năm 1306, vua Trần Nhân Tông tìm cách dâng hiến
con gái của mình là Huyền Trân cho vua Chế Mân, một quốc vương nước
ngoài mà tuổi đã già, để đổi lấy hai châu Ô và Lý. Ngô Sĩ Liên, tác giả
của ÐVSKTT là người đầu tiên đã lên án nhà Trần. Vì lòng tham lam một
mảnh đất ở châu Ô và Lý, vua Trần Nhân Tôn không còn biết đâu là thể
diện của vương quốc Ðại Việt để rồi bán đứng trinh tiết con gái của mình
cho một người không cùng giống nòi.”8
Cứ cho rằng Huyền Trân ám sát Chế Mân, thì chúng ta buộc phải trả lời
hàng loạt câu hỏi. Vì sao Huyền Trân phải giết chồng mình và cha đứa trẻ
mà mình mang trong bụng? Nếu đã giết Chế Mân, thì làm sao có thể thoát
được tội chết? Chế Mân chết thì Đại Việt được gì, Huyền Trân được gì?
Hay là sau khi Chế Mân chết, cuộc đời Huyền Trân cũng sụp đổ để cuối
cùng năm 1308, bà cắt tóc đi tu, còn Đại Việt và Champa lại rơi vào hai
chiến tuyến với những cuộc chiến tranh liên tiếp kể từ năm 1311.
Thế nhưng, cũng chính theo Dominique Nguyen, “bà Tapasi, hoàng hậu gốc
người Jawa cũng trở về nước sau ngày Chế Mân từ trần.”9 Như vậy thì việc
các bà hoàng hậu người ngoại quốc trở về nước mình là một nghi thức
mang tính chế định của triều đình Champa. Việc Huyền Trân cùng con trai
Chế Đa Da trở về Đại Việt là theo thông lệ ngoại giao, có sự ủng hộ và
thỏa thuận giữa hai nước. Theo sự kiện mà Toàn thư đã ghi về việc cống
voi trắng của Chế Đa Da, thì rõ ràng đoàn cống sứ này ngoài việc báo tin
“đản sự” (sinh hạ thế tử), còn mang thêm thông tin “gợi ý” cho triều
đình Đại Việt sang Champa đón công chúa và thế tử trở về. Đó chính là lý
do khiến đúng một tháng sau, đoàn Trần Khắc Chung đến Champa. Mặt khác,
theo quan niệm của Hoàng gia Champa (một hoàng gia theo chế độ mẫu hệ),
thì Chế Đa Da (dù là con trai, dù là thế tử) thì cũng chỉ là một kẻ
“khác máu” - không có giá trị huyết thống và cũng không có tư cách để
thừa kế bất kỳ thứ gì từ triều đình đó10. Việc trả Chế Đa Da về Đại Việt
cùng với Huyền Trân là một việc không có gì đáng phải bàn cãi.
Như vậy, giả thuyết Huyền Trân ám sát Chế Mân của Dominique Nguyen chưa
có cơ sở. Và vì thế cũng không có chuyện nhóm Trần Khắc Chung phải lập
mưu cướp công chúa về Đại Việt. Toàn thưđã chép đoạn này trên một truyền
bản tin đồn hoặc huyền thoại thất thiệt (fakelore) vào đời sau. Câu
chuyện đó chỉ có ý nghĩa đối với những sáng tác văn học mà hầu như lại
rất có hại đối với lịch sử và sử học.
Và mối tình huyền thoại
Dựa trên những ghi chép trong Toàn thư, các nhà văn, nhà thơ thời hiện
đại đã sáng tác rất nhiều câu chuyện văn học xung quanh cuộc tình giữa
Huyền Trân và Trần Khắc Chung. Nhiều người đã dựng nên câu chuyện tình
ngang trái giữa cặp trai tài gái sắc: hai người có tình cảm từ trước đó,
nhưng do lệnh của hoàng đế Nhân Tông, nên đành “gác lại tình riêng vì
việc nước”11.
Trước nhất là chuyện “trai tài gái sắc”. Các nhà biên soạn có thể viện
dẫn rằng có thể hư cấu một số tình tiết trong các tác phẩm nghệ thuật
lịch sử (tiểu thuyết lịch sử, kịch lịch sử). Nhưng theo chúng tôi, những
hư cấu nghệ thuật bao giờ cũng nên căn cứ trên logic lịch sử. Còn ở
đây, chuyện “trai tài gái sắc” là cố gắng “gọt chân cho vừa giày” để
biện minh cho “tính chính đáng” của mối quan hệ giữa hai người. Xét về
tuổi thì Huyền Trân sinh năm 1287, trong khi vào thời điểm này, Trần
Khắc Chung đã là một trụ cột của triều đình Đại Việt trong hai cuộc
kháng chiến chống Nguyên Mông (lần hai và ba), năm 1288 vì có tài ngoại
giao, Khắc Chung đã sang sứ nhà Nguyên. Như vậy, về tuổi tác, Khắc Chung
hơn Huyền Trân quãng 20- 30 tuổi.
Mặt khác, như sử liệu đã dẫn trong Toàn thư, Trần Khắc Chung chính là
người thuộc phe ủng hộ Trần Nhân Tông gả Huyền Chân sang Chiêm Thành.
Cho nên, nhiệm vụ đi đón Huyền Trân được giao cho ông là điều dễ hiểu.
Vì thế không có chuyện “mượn cớ viếng tang để cướp công chúa về nước”.
Chúng tôi cũng nhắc lại một lần nữa rằng, đoạn chép trong Toàn thư từ
“theo tục lệ Chiêm Thành,..” đến “Khắc Chung thường sợ hãi né tránh” là
đoạn có thể được biên soạn thông qua một nguồn tin phi chính thống. Bởi
đoạn này mâu thuẫn với những chi tiết ở đoạn trên như đã phân tích. Với
lời bình luận của Ngô Sĩ Liên, đoạn này có khả năng đã xuất hiện muộn
nhất từ giữa thế kỷ XV (cách thời điểm xảy ra sự kiện 150 năm).
Thêm nữa, như trên đã phân tích, khi lên thuyền về Đại Việt, Huyền Trân
lúc ấy mới sinh con được vài tháng, tức là lúc đó có khả năng còn đang ở
cữ12. Thuyền đưa Huyền Trân về nước cũng không phải là kiểu “thuyền
nhẹ“ (như Toàn thư ghi) chỉ chở được một vài người để rồi mối tình nảy
sinh trong quá trình lênh đênh sóng nước, mà thuyền ấy phải chở cả một
đoàn gồm: Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung (trưởng đoàn), An phủ
Đặng Văn (phó đoàn), cùng các tùy tòng, thủy thủ đoàn, thị nữ (để hầu hạ
hoàng hậu),... tổng cộng cũng phải vài chục người.
Rồi như ta biết, Huyền Trân xuất gia năm 1308, sau khi về nước một năm.
Còn Trần Khắc Chung có khả năng cao cũng là một người theo Phật, hiểu
Phật, cho nên ông mới được vua Trần Anh Tông (1276 – 1320) sai viết lời
bạt cho sách Thượng Sĩ ngữ lục của Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230- 1291)13,
thầy của đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Đến cuối đời, Trần Khắc
Chung và vợ - Công chúa Bảo Hoàn - đã cúng ruộng trang Ma Liêu (Đông
Triều) của mình làm của Tam Bảo để nghĩa đệ của mình là sư Hương Lâm
trông coi14.
Dẫu biết rằng thời nhà Trần, quan hệ tình ái khá phóng khoáng. Nhiều
người cũng có thể giữ quan điểm cho rằng trên đời có chuyện gì mà không
xảy ra. Mối quan hệ Huyền Trân- Khắc Chung có thể có mà cũng có thể
không. Thực tế lịch sử thế nào, không ai dám nói chắc chắn. Người nghiên
cứu chỉ dựa trên sử liệu, còn sử liệu thì lại được tạo tác bởi nhiều
động cơ và mục đích khác nhau. Trần Nhân Tông từng bị người đương thời
đàm tiếu vì tội gả con gái cho loài man di mọi rợ, hay Trần Khắc Chung
bị chửi rủa như loài “chó lợn” (chữ của Ngô Sĩ Liên) vì đã động đến công
chúa. Nhưng đến thế kỷ XX, người thì được tung hô vì đem lại hai mảnh
đất cho Việt Nam, người thì được ngợi ca bởi việc phá bỏ gông cùm phong
kiến, mở đường cho luyến ái cá nhân. Sau nhiều thế kỷ, Huyền Trân công
chúa đã đi vào thần điện Việt Nam, trở thành một vị nữ thần được thờ
phụng. Để kết thúc bài viết này, xin trích lại lời của bà Trương Mỹ Hoa,
nguyên Phó Chủ tịch nước, khi viếng thăm đền thờ Huyền Trân công chúa:
“Có những vấn đề của phụ nữ phải được giải quyết từ quốc gia, có những
vấn đề của quốc gia phải giải quyết từ người phụ nữ”. Lịch sử không chỉ
sống động bởi sự biến động của các nguồn sử liệu mà còn bởi những mục
đích mà người đời sau sử dụng nó, một cách hữu thức và vô thức.
Nguyên Khôi
-----------------------------
1 Do độ dài hạn chế, chúng tôi chỉ lược dẫn. Các đoạn lược bỏ để trong (...). Một số thông tin đáng chú ý sẽ được in đậm.
2 Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan
bản. Bản khắc in. Bản dịch. 1998. Tập 2. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội.
tr.90-92.
3 Keith Weller Taylor. 2013. A History of the Vietnamese. Cambridge University Press. New York. pp.141.
4 Trần Trọng Dương. 2013. Đinh Bộ Lĩnh: huyền thoại và lịch sử. Tạp chí Tia Sáng. Số tháng 7/2013.
5 Po Dharma. 2007. Góp phần tìm hiểu lịch sử Champa. http://www.champaka.info
6 Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan
bản. Bản khắc in. Bản dịch. 1998. Tập 2. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội.
tr.91.
7 Dominique Nguyen. 2008. 700 năm cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa. Champaka số 09/ 2008. tr.40-56. www.champaka.info
8 Dominique Nguyen. 2008. bđd.
9 Dominique Nguyen. 2008. bđd.
10 “Như thế không hẳn Chế Đa Da ở lại sẽ làm chúa Chiêm Thành mà sự kiện
cậu bé về quê ngoại sẽ chỉ là đánh dấu chấm dứt một giai đoạn hòa hoãn
của hai nước vì tình thế bên ngoài trong khi các vấn đề bên trong giữa
hai nước vẫn chưa giải quyết được. Xung đột trở lại là điều tất yếu”.
[Tạ Chí Đại Trường. 2009. Bài sử khác cho Việt Nam. Văn Mới. USA.
Tr.257].
11 Viết Linh. 2005. Chuyện tình Huyền Trân công chúa (Tiểu thuyết lịch sử). NxbThanh niên. Hà Nội.
Trần Kim Bằng (s.t). 2008. Chèo cổ Trần Huyền Trân. - Nxb Hà Nội. Hoàng
Giác. 1949. Huyền Trân (nhạc): - In lần thứ 1. – Nxb Thế giới. Hà Nội.
Hoàng Quốc Hải. 1993.Huyền Trân công chúa (Tiểu thuyết lịch sử) - In lần 2 có bổ sung. Nxb Phụ nữ. Hà Nội.
Phạm Minh Thảo. 2007. Huyền Trân công chúa. Nxb Văn hoá Thông tin. Hà Nội.
Phạm Huy Thông. 1936. Huyền Trân công chúa. Impr. de Lê Cường. Hà Nội.
Sĩ Tiến. 1942. Huyền Trân công chúa. (Ca kịch lịch sử). Hương sơn. Hà Nội.
Bình An. 1988. Huyền Trân công chúa (Truyện tranh); Minh hoạ: Văn Hiếu. Nxb Tổng hợp Sông Bé. Sông Bé.
Ngọc Đức, Văn Án. 2008. Huyền Trân công chúa Trần triều. Nxb Văn hoá dân tộc. Hà Nội.
12 Xem thêm một số biện luận thú vị khác: “theo phong tục tập quán của
người Việt Nam thời gian “Phong Long” là ba tháng mười ngày, người ta
thường thường có thói quen treo trước phòng sản phụ một nắm lá cây có
cây xương rồng, đó là một dấu hiệu, nhắc nhở cho người đàn ông biết chỉ
được phép vào phòng vợ và tư thông sau khi cây xương rồng này khô đi!“
Lê Vy. Sự thật Huyền Trân công chúa “tư thông” với Trần Khắc Chung.
(http://www.tinmoi.vn/su-that-huyen-tran-cong-chua-tu-thong-voi-tran-khac-chung-011275185.html)
13 Nguyễn Huệ Chi (chủ biên). 1988. Thơ văn Lý Trần (Tập II, Quyển Thượng). Nxb KHXH. H. tr. 593-596.
14 Trần Quốc Cương (viết). 1348. Thiên Liêu sơn Tam Bảo địa. Đặt tại núi
Thiên Liêu (núi Thung) xã Yên Đức, huyện Đông Triều. Quảng Ninh.
(Diễn đàn Thế kỷ)