Tham Khảo
Nhắc lại 'Món nợ Thành Đô'
Hồi ký 'Hồi ức và Suy nghĩ' của cựu Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông Trần Quang Cơ đã đề cấp đến những gì xảy ra sau Hội nghị Thành Đô 3-4 tháng 9/1990 giữa lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc
Các ông Lý Bằng và Giang Trạch Dân đóng vai trò quan trọng tại Hội nghị Thành Đô
Hồi ký 'Hồi ức và Suy nghĩ' của cựu Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông
Trần Quang Cơ đã đề cấp đến những gì xảy ra sau Hội nghị Thành Đô 3-4
tháng 9/1990 giữa lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc năm 1990, chủ đề
hiện được dư luận ở Việt Nam quan tâm trở lại:
Sau đây là hai chương BBC Tiếng Việt xin trích dẫn từ các nguồn mở đã
đăng trên mạng Internet ở nước ngoài ở dạng tư liệu, mở đầu là chương
16 dưới tiêu đề 'Món nợ Thành Đô':
“Từ tháng 9/90, Trung Quốc luôn coi ta mắc nợ họ về thoả thuận Thành Đô,
đòi ta thực hiện thoả thuận đó, cụ thể là tác động với Phnom Penh nhận
SNC có 13 thành viên và do Sihanouk làm Chủ tịch. Với cách làm đó, họ
khơi sâu thêm bất đồng trong nội bộ ta… Trung Quốc thấy rằng việc thực
hiện thoả thuận Thành Đô gặp trở ngại chính từ Bộ Ngoại giao nên chủ
trương chia rẽ nội bộ ta càng trắng trợn hơn. Đại sứ mới của Malaysia
ngày 3.10.90 đến chào xã giao, nói với tôi là ở Bắc Kinh người ta đưa
tin là có sự khác nhau giữa Bộ Ngoại giao và lãnh đạo Đảng về chủ trương
đối ngoại cho nên trong chuyến đi Thành Đô gặp cấp cao Trung Quốc không
có ông Nguyễn Cơ Thạch.
Sau Thành Đô, trong khi ta nới rộng hoạt động của sứ quán Trung Quốc ở
Việt Nam thì phía Trung Quốc lại tỏ ra lạnh nhạt với Bộ Ngoại giao công
kích lãnh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam; hạn chế hoạt động của Đại sứ ta ở
Bắc Kinh, không sắp xếp Đại sứ ta tham dự vào cuộc Lý Bằng tiếp anh Võ
Nguyên Giáp, anh Vũ Oanh; cử cán bộ cấp thấp tiếp và làm việc với Đại sứ
ta.
Trung Quốc một mặt khẳng định là vấn đề Campuchia chưa giải quyết thì
quan hệ Trung – Việt “chỉ có bước đi nhỏ”, mặt khác thăm dò và tích cực
tác động đến vấn đề nhân sự và phương án chuẩn bị Đại hội VII của Đảng
Cộng sản Việt Nam sẽ họp vào giữa năm 1991. Từ tháng 3/91, tại kỳ họp
Quốc hội Trung Quốc khoá 7, Lý Bằng tuyên bố “quan hệ Trung – Việt đã
tan băng” và có một số điều chỉnh mềm dẻo hơn trong vấn đề Campuchia. Về
vấn đề SNC của Campuchia. Trung Quốc không cố bám giữ con số 13, tạm
gác vấn đề chủ tịch, phó chủ tịch, đưa ra công thức “Sihanouk chủ trì
các cuộc họp SNC”. Từ chỗ chỉ có quan hệ với 3 phái, sau cuộc gặp SNC ở
Pattaya (Thái Lan), Trung Quốc chuyển sang quan hệ trực tiếp với Nhà
nước Campuchia, mời Hun Sen thăm Bắc Kinh trong 3 ngày (22-24/7/91).
Chiều Chủ nhật 18/11/90 họp Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia. Từ sau khi
P5 thoả thuận về văn kiện khung (28/890) cuộc đấu tranh về vấn đề
Campuchia đi vào giai đoạn cuối, gay gắt và quyết liệt. Thay mặt Bộ
Ngoại giao, tôi trình bày đề án về nguyên tắc đấu tranh về văn kiện
khung của P5 và về vấn đề SNC để Bộ Chính trị cho ý kiến. Khi tôi trình
bày xong, anh Thạch đề nghị Bộ Chính trị khẳng định 2 điểm:
1. Vấn đề SNC là vấn đề nội bộ của Campuchia, ta không ép bạn được, phải tôn trọng chủ quyền của bạn;
2. Về văn kiện khung, ta phải bác những điểm vi phạm Hiến chương LHQ.
Nếu không sau này có ảnh hưởng đến vấn đề xử lý Trường Sa… Ta thấy rõ
Trung Quốc và Mỹ đều nhất trí xoá Nhà nước Campuchia bằng cách khác
nhau.
Cuối cuộc họp, Tổng bí thư Linh kết luận: “Về SNC ta không thể góp ý với
bạn được… Nếu nói Trung Quốc và Mỹ như nhau thì tôi không đồng ý. Sau
hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị sẽ đánh giá lại một số vấn đề liên
quan đến ngoại giao như nhận định về Trung Quốc thế nào, tuyên bố hoặc
nói về Trung Quốc như thế nào?”
Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là nhân vật lớn của ngành ngoại giao Việt Nam
Nguyễn Cơ Thạch nói luôn: “Đồng ý đánh giá lại cả cuộc hội đàm ở Thành Đô”.
Dự thảo Hiệp định toàn bộ về Campuchia ngày 26/11/90 do P5 thảo ra đã
được các thành viên SNC Campuchia chấp nhận về cơ bản tại cuộc họp ở
Paris ngày 23/12/90. Chủ trương của ta là giải pháp chính trị về
Campuchia, nhất là những vấn đề nội bộ Campuchia, phải do bạn tự quyết
định và chịu trách nhiệm với dân tộc Campuchia. Ta hết sức giúp đỡ họ,
gợi ý để họ tránh được những thất bại không đáng có, nhưng ta không thể
làm thay. Như vậy ta vừa hết lòng giúp bạn vừa không để Việt Nam một lần
nữa bị sa lầy vào cuộc đấu tranh nội bộ của Campuchia. Không để vấn đề
giải pháp chính trị về Campuchia lại một lần nữa trở thành vấn đề lịch
sử trong quan hệ Việt Nam – Campuchia.
Theo yêu cầu của bạn, ngày 14/1/91, tôi cùng các anh Huỳnh Anh Dũng, Lê
Công Phụng, Vũ Tiến Phúc, chuyên viên về giải pháp Campuchia, sang Phnom
Penh làm việc với bạn với mục đích:
a. Tìm hiểu suy nghĩ và ý định của bạn về giải pháp Campuchia sau khi
bạn đã chấp nhận văn kiện khung của P5 tại cuộc họp Jakarta 10/9/90 và
chấp nhận về cơ bản dự thảo Hiệp định 26/11 của P5 tại cuộc họp Paris
23/12/90;
b. Thuyết phục bạn kiên quyết tách riêng các vấn đề nội bộ thuộc chủ quyền Campuchia để chỉ thảo luận và giải quyết trong SNC;
c. Thoả thuận kế hoạch chuẩn bị cho việc họp lại Hội nghị quốc tế Paris.
Khi tiếp tôi, anh Hun Sen nói: “Trong nội bộ Campuchia, xu hướng mạnh
nhất là muốn có một giải pháp chính trị giữ được thành quả cách mạng,
không để cho Pol Pot quay trở lại… Tình hình hiện nay rất tế nhị. Tình
hình phức tạp sẽ xảy ra nếu ta chấp nhận một giải pháp vô nguyên tắc.
Chỉ cần chấp nhau một giải pháp như vậy thì nội bộ Campuchia đã hỗn loạn
rồi chứ chưa nói là ký kết. Ta giữ lập trường cứng như vừa qua là tốt.
Đề nghị Việt Nam không để đẩy quá nhanh tiến trình giải pháp.
Như vậy, qua các cuộc gặp Bộ trưởng Hor Nam Hong, Thứ trưởng Dith Munty
và Thứ trưởng Sok An, nhất là qua phát biểu của Chủ tịch Hun Sen chiều
16/11, có thể thấy được chủ trương của bạn cố kéo dài trạng thái đánh
đàm hiện tại vì nhiều yếu tố chủ quan khách quan khác nhau, song chủ yếu
vì trong nội bộ lãnh đạo bạn xu hướng chưa muốn đi vào giải pháp còn
rất mạnh. Hun Sen cho biết theo quyết định của Bộ Chinh trị Campuchia,
trong cuộc họp Trung ương ngày 17/1/91, ông ta sẽ thông báo cho Trung
ương là “năm 1991 sẽ chưa có giải pháp”.
Tuy nhiên, tôi lại có cảm thấy trong suy nghĩ cũng như trong hành động
lãnh đạo Campuchia đang có nhiều mâu thuẫn lúng túng, chưa xác định được
cho mình một đường lối rõ ràng mạch lạc, mà chỉ lo đối phó từng bước
với những vấn đề trong nội bộ cũng như với đối phương.
Các lãnh đạo Việt Nam, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười
Trong lần gặp Heng Somrin ở Hà Nội ngày 24/2/91, anh Nguyễn Văn Linh vẫn
cố ép bạn “cần thực hiện tốt chính sách hoà hợp dân tộc, không nên nhấn
mạnh vấn đề diệt chủng, nên SNC gồm 13 thành viên và Sihanouk làm Chủ
tịch”. Heng Somrin về nói lại với Bộ Chính trị Đảng Campuchia thì tất cả
đều băn khoăn và ngại rằng Heng Somrin không thạo tiếng Việt nên nghe
có thể sai sót. Thực ra, như Hun Sen nói với anh Ngô Điền, khi nghe Heng
Somrin nói lại những ý kiến của anh Linh, Bộ Chính trị Campuchia rất lo
vì thấy Việt Nam khác Campuchia nhiều quá. Ngày 13/3/91 Hun Sen nói với
anh Thạch: “Có thể có sách lược phân hoá Khmer đỏ, nhưng dứt khoát
không thể bỏ vấn đề diệt chủng. Nếu bỏ sẽ có 3 mối nguy hiểm: sẽ mất con
bài mặc cả trong đàm phán ngay từ đầu; mất lợi thế trong tổng tuyển cử;
kẻ thù sẽ có lợi trong việc vu cáo Việt Nam là mọi chuyện xảy ra 12 năm
qua đều do Việt Nam gây ra cả. Số lượng thành viên SNC có thể là 12
hoặc 14, không thể chấp nhận con số 13, sẵn sàng cho Sihanouk làm chủ
tịch, Hun Sen làm phó, không đòi chức chủ tịch luân phiên hay đồng chủ
tịch nữa”.
Trong cách làm này của ta cho thấy ta chỉ quan tâm đến điều mà ta cho là
có lợi ích đối với ta mà thiếu cân nhắc xem điều đó có phù hợp với lợi
ích của bạn không. Cách làm đó tất yếu ảnh hưởng xấu đến quan hệ gắn bó
lâu nay giữa ta với Phnom Penh.
Đầu năm 1991, Bộ Chính trị đã có cuộc họp tại T78 thành phố Hồ Chí Minh
(24-25/1/91) để bàn về vấn đề Campuchia. Tôi trình bày chủ trương tách
mặt quốc tế với mặt nội bộ của giải pháp Campuchia, đồng thời báo cáo ý
kiến của Hun Sen cho biết là Bộ Chính trị Campuchia quyết định không đi
vào giải pháp trong năm 1991. Bộ Chính trị quyết định cần thăm dò khả
năng họp Bộ Chính trị 3 nước để hướng Campuchia đi vào giải pháp, họp có
tính chất trao đổi, gợi ý chứ không quyết định, ta không thể ép bạn,
đồng thời phải tỏ được thiện chí, tránh mọi việc làm ta bị cô lập.
Nhân dịp này, tôi đã ngỏ ý với anh Thạch là tôi muốn rút khỏi Trung ương
khoá tới. Anh Thạch tỏ ý không tán thành. Đến tháng 2/91, khi có cuộc
bầu đại biểu ở các tỉnh để đi dự Đại hội VII, tôi đã gửi thư cho anh
Nguyễn Đức Tâm, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, xin rút khỏi danh sách dự
Đại hội VII. Lúc này tinh thần tôi đã có phần mệt mỏi vì những sự việc
trong thời gian qua. Nhưng yêu cầu của tôi không được đáp ứng. Tôi nhận
được giấy đi dự Đại hội tỉnh Đảng bộ Sơn la và được bầu vào Đoàn đại
biểu tỉnh Sơn la đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.Tháng 6/91,
tôi có giấy đi dự Đại hội Đảng với tư cách đại biểu tỉnh Sơn La rồi tiếp
tục tham gia Trung ương khoá VII.
Tình hình bất đồng ý kiến trong Bộ Chính tri càng đến gần Đại hội càng
bộc lộ gay gắt. Ngày 13/4/91, trong cuộc họp Bộ Chinh trị bàn về tình
hình thế giới và đường lối đối ngoại để chuẩn bị báo cáo chính trị tại
Đại hội, sau khi anh Thạch bản báo cáo về “Tình hình thế giới và chiến
lược đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”, Lê Đức Anh giới thiệu đại tá
Lân, cán bộ Cục II Bộ Quốc phòng, trình bày về tình hình thế giới và mưu
đồ đế quốc”. Nghe xong, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh phát biểu: “Chủ
quan tôi nghĩ giữa bản trình bày sáng nay (của Bộ Ngoại giao) và bản
trình bày tình hình quân sự chiều nay của Bộ Quốc phòng có nhiều chỗ
khác nhau. Muốn thảo luận chủ trương thì phải thảo luận tình hình trước,
nhưng cách đánh gia tình hình còn khác nhau.”
Cố vấn Phạm Văn Đồng: “Nói khôi hài lúc này thật không phải lẽ. Chúng
ta cần cố gắng làm việc đúng lương tâm, nghiêm chỉnh, đúng trách nhiệm
của mình. Bộ Chính trị đã giao cho 3 đồng chí phụ trách 3 ngành làm
nhưng lại chưa làm”.
Lê Đức Anh: “Bộ Chính trị nên nghe tình hình nhiều mặt, ngay trong
nước chúng ta cũng đánh giá khác nhau. Căn cứ vào đánh giá chung, mỗi
ngành có đề án riêng, không làm chung được.”
Nguyễn Cơ Thạch đồng ý 3 ngành thảo luận để đi tới nhất trí về tình hình, còn công tác thì mỗi ngành làm.
Trên tinh thần đó, ngày 2/591, đã có cuộc họp giữa Ngoại giao, An ninh
và Quốc phòng để thống nhất nhận định tình hình thế giới. Dự họp về phía
Bộ Quốc phòng có: Lê Đức Anh, Trần Văn Quang, Đại tá Lân, Bộ Nội vụ có:
Mai Chí Thọ; Bộ Ngoại giao có Nguyễn Cơ Thạch và 4 thứ trưởng. Còn 3
phó ban Đối ngoại: Nguyễn Thị Bình, Trịnh Ngọc Thái, Nguyễn Quang Tạo.
Thu hoạch của cuộc họp khá nghèo nàn, không đem lại được sự nhất trí
trong nhận định tình hình, chỉ nhất trí được mấy điểm lý luận chung
chung.
Quan hệ Việt Nam - Campuchia vốn phức tạp từ mấy chục năm qua
Chỉ còn một tháng đến ngày họp Đại hội VII, Chính trị B họp liền gần 3
ngày (15,16 và 17/5/91) để thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về tình hình
thế giới và việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương
hướng tới”. Bộ Chính trị có mặt đông đủ. Theo dõi cuộc họp ở ghế dự
thính. Số dự thính lúc đầu có 10 người, từ chiều 16/5 khi đi vào kiểm
điểm việc thực hiện các Nghị quyết về đối ngoại của Đại hội VI thì dự
thính thu hẹp lại chỉ còn có Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Đinh Nho Liêm và
tôi. Từ đầu đến cuối, tôi đã nhận rõ sự đấu tranh giữa hai quan điểm về
mặt quốc tế, nhất là khi đi vào phần kiểm điểm thực hiện đường lối đối
ngoại, nói đến vấn đề Campuchia và quan hệ với Trung Quốc.
Bản dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại giao có nêu “đã có một số việc làm
không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị”, “thái độ đối với Trung
Quốc có sự thay đổi qua 2 giai đoạn (trước và sau năm 1989) trái với
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (20/5/88)”, “giữa ta và bạn Campuchia đã
bộc lộ sự khác nhau khá rõ rệt”, về đối ngoại, ta “lúng túng, thiếu bình
tĩnh” trước cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và Liên Xô…; đã bỏ lỡ
cơ hội cải thiện với ASEAN (khi Thái Lan mời Thủ tướng Đỗ Mười sang
thăm, nhưng anh Mười nói phải đi Liên Xô, đi Ấn Độ rồi mới đi Thái), đã
làm nảy sinh tranh cãi khá căng, đặc biệt khi bàn đến đúng sai trong
chuyện gặp cấp cao Trung Quốc ở Thành Đô tháng 9.90 và vấn đề chống diệt
chủng và “giải pháp Đỏ”.
Anh Võ Chí Công: “Về Trung Quốc rất phức tạp… Bộ Chính trị đã đánh giá
Trung Quốc có hai mặt xã hội chủ nghĩa và bá quyền. Về xã hội chủ nghĩa
cũng cần thấy là trong “nháy nháy”… Khó khăn là chưa bình thường hoá
quan hệ… Họ đưa ra 5 trở ngại, có cái hàng trăm năm không giải quyết
nổi. Ví dụ như chuyện “Liên bang Đông Dương”, họ biết ta không có ý đồ
đó song cứ nêu lên cốt để chia rẽ và giành lấy Lào và Campuchia, gạtta
ra… Chuyện “giải pháp Đỏ” là không được, vì như vậy thì có nghĩa là
Trung Quốc sẽ đi với ta chống Mỹ trong lúc chủ trương của họ là tranh
thủ khoa học – kỹ thuật của phương Tây để hiện đại hoá, còn gì là Trung
Quốc nữa?
Tới cuối cuộc họp, Nguyễn Đức Tâm còn nói:
“Chưa làm dự thảo Nghị quyết ngay được vì qua thảo luận thấy ý kiến
Bộ Chính trị còn khác nhau về đánh giá đúng thành tích, đúng bạn thù,
đối sách. Đại hội đến nơi, sau Đại hội không còn Bộ Chính trị này nữa,
tuy một số đồng chí còn ở lại… Mặc dù vậy Nguyễn Thanh Bình chủ trì cuộc
họp vẫn kết luận làm dự thảo Nghị quyết về đối ngoại.”
'Lịch sử chưa sang trang'
Chương 20 là chương kêt thúc hồi ký, dưới tiêu đề “Kết thúc một chặng
đường nhưng lịch sử chưa sang trang”, ông Trần Quang Cơ viết:
“Sau 12 năm ròng rã, đối với chúng ta, vấn đề Campuchia coi như đã kết
thúc và đã trở thành một hồ sơ của bộ phận lưu trữ trong Bộ Ngoại giao
Việt Nam. Nhưng những bài học của 12 năm ấy vẫn còn có nhiều tính chất
thời sự, nhất là bài học về chính sách và thái độ cư xử với các nước
lớn.
Tiếp sau việc vấn đề Campuchia được giải quyết là việc thực hiện bình
thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Theo thoả thuận giữa hai bên, ngày
5/11/91, Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có cuộc đi thăm
chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đánh dấu sự bình thường
hoá quan hệ giữa hai nước.“Quan hệ Việt – Trung tuân thủ các nguyên
tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm
lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau… Quan hệ Việt –
Trung không phải là quan hệ đồng minh, không trở lại quan hệ như những
năm 50-60…”
Ông Trần Quang Cơ đã nhìn thấy trước kế hoạch độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
Tuy nhiên sau khi bình thường hoá quan hệ, lại dồn dập diễn ra những sự
kiện xấu trên nhiều mặt quan hệ giữa hai nước, tập trung gay gắt nhất là
các vấn đề liên quan đến lãnh thổ trên bộ vùng biên giới Hà Giang tháng
2, 3, 4/92; vụ nối lại đường xe lửa Liên vận ở Đồng Đăng, Lạng Sơn
tháng 12/91 rồi 4.5.92; Lục Lầm, Quảng Ninh tháng 5.92) và tranh chấp
biển đảo mà đỉnh cao là vụ Trung Quốc công khai hoá việc ký kết họp đồng
thăm dò khai thác dầu khí với Công ty Năng lượng Mỹ Crestone tại một
vùng rộng lớn trên thềm lục địa của Việt Nam (bãi Tư Chính).
Vì sao Trung Quốc tăng cường lấn ép ta vào thời điểm này? Vì Trung Quốc
cho rằng tình hình đó đang thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực hiện
yêu cầu tăng thế và lực (xây dựng hải quân nhanh, nổ thử bom 1000
kilôton, thi hành chiến lược “biên giới mềm”) nhằm tạo cho mình một vị
thế đỡ bất lợi so với Mỹ và các nước lớn khác, trong đó có ý đồ gấp rút
biến biển Nam Trung Hoa – mà ta gọi là Biển Đông – thành vùng biển độc
chiếm của Trung Quốc, từ đó khống chế toàn bộ vùng Đông Nam Á.
1. Trật tự thế giới cũ không còn, trật tự thế giới mới chưa hình thành.
Các đối thủ chính của Trung Quốc ở châu Á – Thái Bình Dương đều đang gặp
khó khăn, Liên Xô vừa tan rã. Liên bang Nga trước mắt chưa phải là
thách thức đáng kể, Mỹ đang giảm bớt sự có mặt về quân sự ở châu Á –
Thái Bình Dương, tránh can thiệp nếu lợi ích của Mỹ và đồng minh không
bị đụng đến.
Trung Quốc nhẩn nha trong các bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam,
vừa tạo bề mặt thân mật gắn bó Trung – Việt, vừa siết chặt bên trong,
nhằm đạt mục tiêu khẳng định Việt Nam – Đông Dương là thuộc khu vực ảnh
hưởng của Trung Quốc
2. Đông Nam Á mới bắt đầu quá trình nối lại các quan hệ giao lưu giữa
hai nhóm nước đối đầu cũ. Triển vọng liên kết hay nhất thể hoá Đông Nam
Á, bất lợi đối với ý đồ bá quyền của Trung Quốc, đang còn có những trở
ngại (nghi ngờ nhau do khác ý thức hệ, va chạm lợi ích, ý đồ của Thái
Lan đối với Lào, Campuchia) đòi hỏi thời gian khắc phục Trung Quốc muốn
tranh thủ thời gian này để cản phá xu thế hợp tác khu vực giữa Đông
Dương, chủ yếu là Việt Nam và ASEAN tạo ra một tập hợp lực lượng thân
Trung Quốc ở Đông Nam Á (quân phiệt Thái, quân phiệt Myanmar, Khmer đỏ ở
Campuchia và Lào nếu có thể) để khuất phục Việt Nam.
3. Bản thân Việt Nam còn đang lúng túng về những vấn đề chiến lược (vấn
đề đồng minh, vấn đề tập hợp lực lượng, vấn đề bạn thù) trong tình hình
mới sau khi Liên Xô tan rã, quan hệ với Mỹ chưa bình thường hoá, Trung
Quốc muốn đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên thế mạnh.
Vì vậy Trung Quốc nhẩn nha trong các bước bình thường hoá quan hệ với
Việt Nam, vừa tạo bề mặt thân mật gắn bó Trung – Việt, vừa siết chặt bên
trong, giành lợi thế cho mình trên mọi lĩnh vực quan hệ.
Cả hai mặt đều nhằm đạt mục tiêu khẳng định Việt Nam – Đông Dương là
thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc, muốn tách Việt Nam khỏi Đông Nam
Á và thế giới bên ngoài.
* Nội dung cuốn hồi ký (2005) thể hiện quan điểm riêng của nhà
ngoại giao Trần Quang Cơ đã được công bố lần đầu năm 2008 trên nhiều
trang mạng ở nước ngoài. BBC Tiếng Việt chưa có điều kiện phỏng vấn chính tác giả về những nội dung này.
(BBC)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Nhắc lại 'Món nợ Thành Đô'
Hồi ký 'Hồi ức và Suy nghĩ' của cựu Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông Trần Quang Cơ đã đề cấp đến những gì xảy ra sau Hội nghị Thành Đô 3-4 tháng 9/1990 giữa lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc
Các ông Lý Bằng và Giang Trạch Dân đóng vai trò quan trọng tại Hội nghị Thành Đô
Hồi ký 'Hồi ức và Suy nghĩ' của cựu Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông
Trần Quang Cơ đã đề cấp đến những gì xảy ra sau Hội nghị Thành Đô 3-4
tháng 9/1990 giữa lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc năm 1990, chủ đề
hiện được dư luận ở Việt Nam quan tâm trở lại:
Sau đây là hai chương BBC Tiếng Việt xin trích dẫn từ các nguồn mở đã
đăng trên mạng Internet ở nước ngoài ở dạng tư liệu, mở đầu là chương
16 dưới tiêu đề 'Món nợ Thành Đô':
“Từ tháng 9/90, Trung Quốc luôn coi ta mắc nợ họ về thoả thuận Thành Đô,
đòi ta thực hiện thoả thuận đó, cụ thể là tác động với Phnom Penh nhận
SNC có 13 thành viên và do Sihanouk làm Chủ tịch. Với cách làm đó, họ
khơi sâu thêm bất đồng trong nội bộ ta… Trung Quốc thấy rằng việc thực
hiện thoả thuận Thành Đô gặp trở ngại chính từ Bộ Ngoại giao nên chủ
trương chia rẽ nội bộ ta càng trắng trợn hơn. Đại sứ mới của Malaysia
ngày 3.10.90 đến chào xã giao, nói với tôi là ở Bắc Kinh người ta đưa
tin là có sự khác nhau giữa Bộ Ngoại giao và lãnh đạo Đảng về chủ trương
đối ngoại cho nên trong chuyến đi Thành Đô gặp cấp cao Trung Quốc không
có ông Nguyễn Cơ Thạch.
Sau Thành Đô, trong khi ta nới rộng hoạt động của sứ quán Trung Quốc ở
Việt Nam thì phía Trung Quốc lại tỏ ra lạnh nhạt với Bộ Ngoại giao công
kích lãnh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam; hạn chế hoạt động của Đại sứ ta ở
Bắc Kinh, không sắp xếp Đại sứ ta tham dự vào cuộc Lý Bằng tiếp anh Võ
Nguyên Giáp, anh Vũ Oanh; cử cán bộ cấp thấp tiếp và làm việc với Đại sứ
ta.
Trung Quốc một mặt khẳng định là vấn đề Campuchia chưa giải quyết thì
quan hệ Trung – Việt “chỉ có bước đi nhỏ”, mặt khác thăm dò và tích cực
tác động đến vấn đề nhân sự và phương án chuẩn bị Đại hội VII của Đảng
Cộng sản Việt Nam sẽ họp vào giữa năm 1991. Từ tháng 3/91, tại kỳ họp
Quốc hội Trung Quốc khoá 7, Lý Bằng tuyên bố “quan hệ Trung – Việt đã
tan băng” và có một số điều chỉnh mềm dẻo hơn trong vấn đề Campuchia. Về
vấn đề SNC của Campuchia. Trung Quốc không cố bám giữ con số 13, tạm
gác vấn đề chủ tịch, phó chủ tịch, đưa ra công thức “Sihanouk chủ trì
các cuộc họp SNC”. Từ chỗ chỉ có quan hệ với 3 phái, sau cuộc gặp SNC ở
Pattaya (Thái Lan), Trung Quốc chuyển sang quan hệ trực tiếp với Nhà
nước Campuchia, mời Hun Sen thăm Bắc Kinh trong 3 ngày (22-24/7/91).
Chiều Chủ nhật 18/11/90 họp Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia. Từ sau khi
P5 thoả thuận về văn kiện khung (28/890) cuộc đấu tranh về vấn đề
Campuchia đi vào giai đoạn cuối, gay gắt và quyết liệt. Thay mặt Bộ
Ngoại giao, tôi trình bày đề án về nguyên tắc đấu tranh về văn kiện
khung của P5 và về vấn đề SNC để Bộ Chính trị cho ý kiến. Khi tôi trình
bày xong, anh Thạch đề nghị Bộ Chính trị khẳng định 2 điểm:
1. Vấn đề SNC là vấn đề nội bộ của Campuchia, ta không ép bạn được, phải tôn trọng chủ quyền của bạn;
2. Về văn kiện khung, ta phải bác những điểm vi phạm Hiến chương LHQ.
Nếu không sau này có ảnh hưởng đến vấn đề xử lý Trường Sa… Ta thấy rõ
Trung Quốc và Mỹ đều nhất trí xoá Nhà nước Campuchia bằng cách khác
nhau.
Cuối cuộc họp, Tổng bí thư Linh kết luận: “Về SNC ta không thể góp ý với
bạn được… Nếu nói Trung Quốc và Mỹ như nhau thì tôi không đồng ý. Sau
hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị sẽ đánh giá lại một số vấn đề liên
quan đến ngoại giao như nhận định về Trung Quốc thế nào, tuyên bố hoặc
nói về Trung Quốc như thế nào?”
Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là nhân vật lớn của ngành ngoại giao Việt Nam
Nguyễn Cơ Thạch nói luôn: “Đồng ý đánh giá lại cả cuộc hội đàm ở Thành Đô”.
Dự thảo Hiệp định toàn bộ về Campuchia ngày 26/11/90 do P5 thảo ra đã
được các thành viên SNC Campuchia chấp nhận về cơ bản tại cuộc họp ở
Paris ngày 23/12/90. Chủ trương của ta là giải pháp chính trị về
Campuchia, nhất là những vấn đề nội bộ Campuchia, phải do bạn tự quyết
định và chịu trách nhiệm với dân tộc Campuchia. Ta hết sức giúp đỡ họ,
gợi ý để họ tránh được những thất bại không đáng có, nhưng ta không thể
làm thay. Như vậy ta vừa hết lòng giúp bạn vừa không để Việt Nam một lần
nữa bị sa lầy vào cuộc đấu tranh nội bộ của Campuchia. Không để vấn đề
giải pháp chính trị về Campuchia lại một lần nữa trở thành vấn đề lịch
sử trong quan hệ Việt Nam – Campuchia.
Theo yêu cầu của bạn, ngày 14/1/91, tôi cùng các anh Huỳnh Anh Dũng, Lê
Công Phụng, Vũ Tiến Phúc, chuyên viên về giải pháp Campuchia, sang Phnom
Penh làm việc với bạn với mục đích:
a. Tìm hiểu suy nghĩ và ý định của bạn về giải pháp Campuchia sau khi
bạn đã chấp nhận văn kiện khung của P5 tại cuộc họp Jakarta 10/9/90 và
chấp nhận về cơ bản dự thảo Hiệp định 26/11 của P5 tại cuộc họp Paris
23/12/90;
b. Thuyết phục bạn kiên quyết tách riêng các vấn đề nội bộ thuộc chủ quyền Campuchia để chỉ thảo luận và giải quyết trong SNC;
c. Thoả thuận kế hoạch chuẩn bị cho việc họp lại Hội nghị quốc tế Paris.
Khi tiếp tôi, anh Hun Sen nói: “Trong nội bộ Campuchia, xu hướng mạnh
nhất là muốn có một giải pháp chính trị giữ được thành quả cách mạng,
không để cho Pol Pot quay trở lại… Tình hình hiện nay rất tế nhị. Tình
hình phức tạp sẽ xảy ra nếu ta chấp nhận một giải pháp vô nguyên tắc.
Chỉ cần chấp nhau một giải pháp như vậy thì nội bộ Campuchia đã hỗn loạn
rồi chứ chưa nói là ký kết. Ta giữ lập trường cứng như vừa qua là tốt.
Đề nghị Việt Nam không để đẩy quá nhanh tiến trình giải pháp.
Như vậy, qua các cuộc gặp Bộ trưởng Hor Nam Hong, Thứ trưởng Dith Munty
và Thứ trưởng Sok An, nhất là qua phát biểu của Chủ tịch Hun Sen chiều
16/11, có thể thấy được chủ trương của bạn cố kéo dài trạng thái đánh
đàm hiện tại vì nhiều yếu tố chủ quan khách quan khác nhau, song chủ yếu
vì trong nội bộ lãnh đạo bạn xu hướng chưa muốn đi vào giải pháp còn
rất mạnh. Hun Sen cho biết theo quyết định của Bộ Chinh trị Campuchia,
trong cuộc họp Trung ương ngày 17/1/91, ông ta sẽ thông báo cho Trung
ương là “năm 1991 sẽ chưa có giải pháp”.
Tuy nhiên, tôi lại có cảm thấy trong suy nghĩ cũng như trong hành động
lãnh đạo Campuchia đang có nhiều mâu thuẫn lúng túng, chưa xác định được
cho mình một đường lối rõ ràng mạch lạc, mà chỉ lo đối phó từng bước
với những vấn đề trong nội bộ cũng như với đối phương.
Các lãnh đạo Việt Nam, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười
Trong lần gặp Heng Somrin ở Hà Nội ngày 24/2/91, anh Nguyễn Văn Linh vẫn
cố ép bạn “cần thực hiện tốt chính sách hoà hợp dân tộc, không nên nhấn
mạnh vấn đề diệt chủng, nên SNC gồm 13 thành viên và Sihanouk làm Chủ
tịch”. Heng Somrin về nói lại với Bộ Chính trị Đảng Campuchia thì tất cả
đều băn khoăn và ngại rằng Heng Somrin không thạo tiếng Việt nên nghe
có thể sai sót. Thực ra, như Hun Sen nói với anh Ngô Điền, khi nghe Heng
Somrin nói lại những ý kiến của anh Linh, Bộ Chính trị Campuchia rất lo
vì thấy Việt Nam khác Campuchia nhiều quá. Ngày 13/3/91 Hun Sen nói với
anh Thạch: “Có thể có sách lược phân hoá Khmer đỏ, nhưng dứt khoát
không thể bỏ vấn đề diệt chủng. Nếu bỏ sẽ có 3 mối nguy hiểm: sẽ mất con
bài mặc cả trong đàm phán ngay từ đầu; mất lợi thế trong tổng tuyển cử;
kẻ thù sẽ có lợi trong việc vu cáo Việt Nam là mọi chuyện xảy ra 12 năm
qua đều do Việt Nam gây ra cả. Số lượng thành viên SNC có thể là 12
hoặc 14, không thể chấp nhận con số 13, sẵn sàng cho Sihanouk làm chủ
tịch, Hun Sen làm phó, không đòi chức chủ tịch luân phiên hay đồng chủ
tịch nữa”.
Trong cách làm này của ta cho thấy ta chỉ quan tâm đến điều mà ta cho là
có lợi ích đối với ta mà thiếu cân nhắc xem điều đó có phù hợp với lợi
ích của bạn không. Cách làm đó tất yếu ảnh hưởng xấu đến quan hệ gắn bó
lâu nay giữa ta với Phnom Penh.
Đầu năm 1991, Bộ Chính trị đã có cuộc họp tại T78 thành phố Hồ Chí Minh
(24-25/1/91) để bàn về vấn đề Campuchia. Tôi trình bày chủ trương tách
mặt quốc tế với mặt nội bộ của giải pháp Campuchia, đồng thời báo cáo ý
kiến của Hun Sen cho biết là Bộ Chính trị Campuchia quyết định không đi
vào giải pháp trong năm 1991. Bộ Chính trị quyết định cần thăm dò khả
năng họp Bộ Chính trị 3 nước để hướng Campuchia đi vào giải pháp, họp có
tính chất trao đổi, gợi ý chứ không quyết định, ta không thể ép bạn,
đồng thời phải tỏ được thiện chí, tránh mọi việc làm ta bị cô lập.
Nhân dịp này, tôi đã ngỏ ý với anh Thạch là tôi muốn rút khỏi Trung ương
khoá tới. Anh Thạch tỏ ý không tán thành. Đến tháng 2/91, khi có cuộc
bầu đại biểu ở các tỉnh để đi dự Đại hội VII, tôi đã gửi thư cho anh
Nguyễn Đức Tâm, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, xin rút khỏi danh sách dự
Đại hội VII. Lúc này tinh thần tôi đã có phần mệt mỏi vì những sự việc
trong thời gian qua. Nhưng yêu cầu của tôi không được đáp ứng. Tôi nhận
được giấy đi dự Đại hội tỉnh Đảng bộ Sơn la và được bầu vào Đoàn đại
biểu tỉnh Sơn la đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.Tháng 6/91,
tôi có giấy đi dự Đại hội Đảng với tư cách đại biểu tỉnh Sơn La rồi tiếp
tục tham gia Trung ương khoá VII.
Tình hình bất đồng ý kiến trong Bộ Chính tri càng đến gần Đại hội càng
bộc lộ gay gắt. Ngày 13/4/91, trong cuộc họp Bộ Chinh trị bàn về tình
hình thế giới và đường lối đối ngoại để chuẩn bị báo cáo chính trị tại
Đại hội, sau khi anh Thạch bản báo cáo về “Tình hình thế giới và chiến
lược đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”, Lê Đức Anh giới thiệu đại tá
Lân, cán bộ Cục II Bộ Quốc phòng, trình bày về tình hình thế giới và mưu
đồ đế quốc”. Nghe xong, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh phát biểu: “Chủ
quan tôi nghĩ giữa bản trình bày sáng nay (của Bộ Ngoại giao) và bản
trình bày tình hình quân sự chiều nay của Bộ Quốc phòng có nhiều chỗ
khác nhau. Muốn thảo luận chủ trương thì phải thảo luận tình hình trước,
nhưng cách đánh gia tình hình còn khác nhau.”
Cố vấn Phạm Văn Đồng: “Nói khôi hài lúc này thật không phải lẽ. Chúng
ta cần cố gắng làm việc đúng lương tâm, nghiêm chỉnh, đúng trách nhiệm
của mình. Bộ Chính trị đã giao cho 3 đồng chí phụ trách 3 ngành làm
nhưng lại chưa làm”.
Lê Đức Anh: “Bộ Chính trị nên nghe tình hình nhiều mặt, ngay trong
nước chúng ta cũng đánh giá khác nhau. Căn cứ vào đánh giá chung, mỗi
ngành có đề án riêng, không làm chung được.”
Nguyễn Cơ Thạch đồng ý 3 ngành thảo luận để đi tới nhất trí về tình hình, còn công tác thì mỗi ngành làm.
Trên tinh thần đó, ngày 2/591, đã có cuộc họp giữa Ngoại giao, An ninh
và Quốc phòng để thống nhất nhận định tình hình thế giới. Dự họp về phía
Bộ Quốc phòng có: Lê Đức Anh, Trần Văn Quang, Đại tá Lân, Bộ Nội vụ có:
Mai Chí Thọ; Bộ Ngoại giao có Nguyễn Cơ Thạch và 4 thứ trưởng. Còn 3
phó ban Đối ngoại: Nguyễn Thị Bình, Trịnh Ngọc Thái, Nguyễn Quang Tạo.
Thu hoạch của cuộc họp khá nghèo nàn, không đem lại được sự nhất trí
trong nhận định tình hình, chỉ nhất trí được mấy điểm lý luận chung
chung.
Quan hệ Việt Nam - Campuchia vốn phức tạp từ mấy chục năm qua
Chỉ còn một tháng đến ngày họp Đại hội VII, Chính trị B họp liền gần 3
ngày (15,16 và 17/5/91) để thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về tình hình
thế giới và việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương
hướng tới”. Bộ Chính trị có mặt đông đủ. Theo dõi cuộc họp ở ghế dự
thính. Số dự thính lúc đầu có 10 người, từ chiều 16/5 khi đi vào kiểm
điểm việc thực hiện các Nghị quyết về đối ngoại của Đại hội VI thì dự
thính thu hẹp lại chỉ còn có Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Đinh Nho Liêm và
tôi. Từ đầu đến cuối, tôi đã nhận rõ sự đấu tranh giữa hai quan điểm về
mặt quốc tế, nhất là khi đi vào phần kiểm điểm thực hiện đường lối đối
ngoại, nói đến vấn đề Campuchia và quan hệ với Trung Quốc.
Bản dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại giao có nêu “đã có một số việc làm
không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị”, “thái độ đối với Trung
Quốc có sự thay đổi qua 2 giai đoạn (trước và sau năm 1989) trái với
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (20/5/88)”, “giữa ta và bạn Campuchia đã
bộc lộ sự khác nhau khá rõ rệt”, về đối ngoại, ta “lúng túng, thiếu bình
tĩnh” trước cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và Liên Xô…; đã bỏ lỡ
cơ hội cải thiện với ASEAN (khi Thái Lan mời Thủ tướng Đỗ Mười sang
thăm, nhưng anh Mười nói phải đi Liên Xô, đi Ấn Độ rồi mới đi Thái), đã
làm nảy sinh tranh cãi khá căng, đặc biệt khi bàn đến đúng sai trong
chuyện gặp cấp cao Trung Quốc ở Thành Đô tháng 9.90 và vấn đề chống diệt
chủng và “giải pháp Đỏ”.
Anh Võ Chí Công: “Về Trung Quốc rất phức tạp… Bộ Chính trị đã đánh giá
Trung Quốc có hai mặt xã hội chủ nghĩa và bá quyền. Về xã hội chủ nghĩa
cũng cần thấy là trong “nháy nháy”… Khó khăn là chưa bình thường hoá
quan hệ… Họ đưa ra 5 trở ngại, có cái hàng trăm năm không giải quyết
nổi. Ví dụ như chuyện “Liên bang Đông Dương”, họ biết ta không có ý đồ
đó song cứ nêu lên cốt để chia rẽ và giành lấy Lào và Campuchia, gạtta
ra… Chuyện “giải pháp Đỏ” là không được, vì như vậy thì có nghĩa là
Trung Quốc sẽ đi với ta chống Mỹ trong lúc chủ trương của họ là tranh
thủ khoa học – kỹ thuật của phương Tây để hiện đại hoá, còn gì là Trung
Quốc nữa?
Tới cuối cuộc họp, Nguyễn Đức Tâm còn nói:
“Chưa làm dự thảo Nghị quyết ngay được vì qua thảo luận thấy ý kiến
Bộ Chính trị còn khác nhau về đánh giá đúng thành tích, đúng bạn thù,
đối sách. Đại hội đến nơi, sau Đại hội không còn Bộ Chính trị này nữa,
tuy một số đồng chí còn ở lại… Mặc dù vậy Nguyễn Thanh Bình chủ trì cuộc
họp vẫn kết luận làm dự thảo Nghị quyết về đối ngoại.”
'Lịch sử chưa sang trang'
Chương 20 là chương kêt thúc hồi ký, dưới tiêu đề “Kết thúc một chặng
đường nhưng lịch sử chưa sang trang”, ông Trần Quang Cơ viết:
“Sau 12 năm ròng rã, đối với chúng ta, vấn đề Campuchia coi như đã kết
thúc và đã trở thành một hồ sơ của bộ phận lưu trữ trong Bộ Ngoại giao
Việt Nam. Nhưng những bài học của 12 năm ấy vẫn còn có nhiều tính chất
thời sự, nhất là bài học về chính sách và thái độ cư xử với các nước
lớn.
Tiếp sau việc vấn đề Campuchia được giải quyết là việc thực hiện bình
thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Theo thoả thuận giữa hai bên, ngày
5/11/91, Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có cuộc đi thăm
chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đánh dấu sự bình thường
hoá quan hệ giữa hai nước.“Quan hệ Việt – Trung tuân thủ các nguyên
tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm
lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau… Quan hệ Việt –
Trung không phải là quan hệ đồng minh, không trở lại quan hệ như những
năm 50-60…”
Ông Trần Quang Cơ đã nhìn thấy trước kế hoạch độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
Tuy nhiên sau khi bình thường hoá quan hệ, lại dồn dập diễn ra những sự
kiện xấu trên nhiều mặt quan hệ giữa hai nước, tập trung gay gắt nhất là
các vấn đề liên quan đến lãnh thổ trên bộ vùng biên giới Hà Giang tháng
2, 3, 4/92; vụ nối lại đường xe lửa Liên vận ở Đồng Đăng, Lạng Sơn
tháng 12/91 rồi 4.5.92; Lục Lầm, Quảng Ninh tháng 5.92) và tranh chấp
biển đảo mà đỉnh cao là vụ Trung Quốc công khai hoá việc ký kết họp đồng
thăm dò khai thác dầu khí với Công ty Năng lượng Mỹ Crestone tại một
vùng rộng lớn trên thềm lục địa của Việt Nam (bãi Tư Chính).
Vì sao Trung Quốc tăng cường lấn ép ta vào thời điểm này? Vì Trung Quốc
cho rằng tình hình đó đang thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực hiện
yêu cầu tăng thế và lực (xây dựng hải quân nhanh, nổ thử bom 1000
kilôton, thi hành chiến lược “biên giới mềm”) nhằm tạo cho mình một vị
thế đỡ bất lợi so với Mỹ và các nước lớn khác, trong đó có ý đồ gấp rút
biến biển Nam Trung Hoa – mà ta gọi là Biển Đông – thành vùng biển độc
chiếm của Trung Quốc, từ đó khống chế toàn bộ vùng Đông Nam Á.
1. Trật tự thế giới cũ không còn, trật tự thế giới mới chưa hình thành.
Các đối thủ chính của Trung Quốc ở châu Á – Thái Bình Dương đều đang gặp
khó khăn, Liên Xô vừa tan rã. Liên bang Nga trước mắt chưa phải là
thách thức đáng kể, Mỹ đang giảm bớt sự có mặt về quân sự ở châu Á –
Thái Bình Dương, tránh can thiệp nếu lợi ích của Mỹ và đồng minh không
bị đụng đến.
Trung Quốc nhẩn nha trong các bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam,
vừa tạo bề mặt thân mật gắn bó Trung – Việt, vừa siết chặt bên trong,
nhằm đạt mục tiêu khẳng định Việt Nam – Đông Dương là thuộc khu vực ảnh
hưởng của Trung Quốc
2. Đông Nam Á mới bắt đầu quá trình nối lại các quan hệ giao lưu giữa
hai nhóm nước đối đầu cũ. Triển vọng liên kết hay nhất thể hoá Đông Nam
Á, bất lợi đối với ý đồ bá quyền của Trung Quốc, đang còn có những trở
ngại (nghi ngờ nhau do khác ý thức hệ, va chạm lợi ích, ý đồ của Thái
Lan đối với Lào, Campuchia) đòi hỏi thời gian khắc phục Trung Quốc muốn
tranh thủ thời gian này để cản phá xu thế hợp tác khu vực giữa Đông
Dương, chủ yếu là Việt Nam và ASEAN tạo ra một tập hợp lực lượng thân
Trung Quốc ở Đông Nam Á (quân phiệt Thái, quân phiệt Myanmar, Khmer đỏ ở
Campuchia và Lào nếu có thể) để khuất phục Việt Nam.
3. Bản thân Việt Nam còn đang lúng túng về những vấn đề chiến lược (vấn
đề đồng minh, vấn đề tập hợp lực lượng, vấn đề bạn thù) trong tình hình
mới sau khi Liên Xô tan rã, quan hệ với Mỹ chưa bình thường hoá, Trung
Quốc muốn đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên thế mạnh.
Vì vậy Trung Quốc nhẩn nha trong các bước bình thường hoá quan hệ với
Việt Nam, vừa tạo bề mặt thân mật gắn bó Trung – Việt, vừa siết chặt bên
trong, giành lợi thế cho mình trên mọi lĩnh vực quan hệ.
Cả hai mặt đều nhằm đạt mục tiêu khẳng định Việt Nam – Đông Dương là
thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc, muốn tách Việt Nam khỏi Đông Nam
Á và thế giới bên ngoài.
* Nội dung cuốn hồi ký (2005) thể hiện quan điểm riêng của nhà
ngoại giao Trần Quang Cơ đã được công bố lần đầu năm 2008 trên nhiều
trang mạng ở nước ngoài. BBC Tiếng Việt chưa có điều kiện phỏng vấn chính tác giả về những nội dung này.
(BBC)