Kinh Đời
Nỗi oan của Thị Kính và chuyện "ngoại tình" ngày nay
BLA) - Xưa, Thị Mầu là nỗi nhục của gia đình phú ông khi không chồng mà chửa. Còn thời nay, có không ít những người phụ nữ cũng
( BLA) - Xưa, Thị Mầu là nỗi nhục của gia đình phú ông khi không chồng mà chửa. Còn thời
nay, có không ít những người phụ nữ cũng có hoàn cảnh như Mầu nhưng chẳng có ai
bị phạt vạ, hay bị gọt đầu, bôi vôi như Thị Mầu ngày xưa. Phải chăng, luật pháp
ngày nay "thoáng" hơn luật lệ xưa?
NỘI DUNG CÂU CHUYỆN:
Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ có một gia đình họ Mãng. Họ Mãng sinh được một người con gái, đặt tên là Thị Kính. Lớn lên, Thị Kính tài sắc nết na lại hiếu thảo hết lòng. Khi đến tuổi lấy chồng, nàng được bố mẹ gả cho thư sinh Sùng Thiện Sĩ. Sùng Thiện Sĩ rất đẹp trai, chăm học. Hai vợ chồng thật là trai tài gái sắc ăn ở với nhau rất mực kính ái và hòa thuận. Một đêm, Thiện Sĩ ngồi đọc sách, Thị Kính ngồi may bên cạnh. Thiện Sĩ bỗng thấy mệt mỏi, bèn ngả lưng xuống giường, kê đầu lên gối vợ chuyện trò rồi thiếp ngủ. Thị Kính thương chồng học mệt nên lặng yên cho chồng ngủ. Nàng ngắm nhìn khuôn mặt tuấn tú của chồng, bỗng nhận ra ở cằm chồng có một sợi râu mọc ngược. Sẵn con dao nhíp trong thúng khảo đựng đồ may, Thị Kính liền cầm lên kề vào cằm chồng định tỉa sợi râu. Bỗng Thiện Sĩ chợt tỉnh, nhìn thấy vợ cầm dao kề vào cổ mình, nghi vợ chủ trương làm hại, liền vùng dậy nắm lấy cổ tay Thị Kính la lên:
- Nàng định cầm dao giết tôi lúc tôi đang ngủ ư?
- Thị Kính đáp: Không phải đâu. Thấy chàng có sợi râu mọc ngược, thiếp định tỉa nó đi, kẻo trông xấu xí lắm!
Nhưng trong cơn nghi ngờ và hoảng hốt, Thiện Sĩ nhất định không tin. Giữa lúc đó, ông bà họ Sùng nghe tiếng cãi nhau, vội lại hỏi nguyên do. Nghe con trai kể, ông bà tin ngay, khăng khăng đổ tội cho Thị Kính toan giết chồng rồi lập tức cho mời ông bà họ Mãng sang trách móc và trả lại con.
Thị Kính không biết giải tỏa sao được nỗi lòng oan khổ của mình, nàng cắn răng chịu tủi nhục từ giã nhà họ Sùng để về nhà cha mẹ.
Về ở với cha mẹ, Thị Kính lúc nào cũng sầu phiền. Nỗi oan khổ chẳng còn biết cùng ai thổ lộ. Nàng bèn
quyết tâm đi tu để trước là báo đáp ân sâu của cha mẹ, sau là tẩy rửa nỗi oan khiên. Nghĩ rằng, nếu trình thưa với cha mẹ ý định của mình thì cha mẹ không cho đi nên đang đêm, nàng cải trang thành nam tử và trốn khỏi nhà với tấm lòng chân thành của người tìm chân lý. Lại một lần nữa, Thị Kính bị mang tiếng đồn là bỏ nhà theo trai trong khi thật sự nàng tìm đến chùa Vân Tự tu hành.
Sư cụ chùa Vân Tự không biết là gái bèn nhận cho làm tiểu, đặt tên là Kính Tâm. Từ đó Kính Tâm nương náu cửa thiền, lòng vui với đạo nên khuây khỏa được sầu phiền. Tu hành chưa được bao lâu thì một tai vạ lại đến với Kính Tâm.
Trong làng có Thị Mầu, con gái của một phú ông, đi lễ chùa, thấy Kính Tâm thì đem lòng yêu trộm. Đã có lần Thị Mầu nói rõ lòng mình với Kính Tâm nhưng thị vô cùng thất vọng vì Kính Tâm vẫn cứ thản nhiên.
Càng ngày, Thị Mầu càng say mê. Quen thói trăng hoa, Thị Mầu bèn tư thông với một người đầy tớ trong nhà, không ngờ thị mang thai, bị làng gọi ra tra hỏi. Lúc đầu, thị chối quanh nhưng về sau lại đổ cho Kính Tâm. Làng mời Sư Cụ và Tiểu Kính đối chất. Tiểu một mực kêu oan, nhưng Mầu cứ đổ riệt, Kính Tâm bị làng đem ra tra tấn, đòn bộng, máu đổ thịt rơi, mấy lần bất tỉnh, nhưng vẫn một mực kêu oan. Nàng không biết biện bạch ra sao để gỡ mối oan này nên đành cam chịu sự đánh đập tàn nhẫn.
Sư cụ thấy tiểu bị đánh đòn đau, thương tình, kêu xin với làng nộp khoán. Vì sợ ô danh chốn thiền môn nên dù thương xót Kính Tâm, sư cụ cũng phải để Kính Tâm ra ở mái Tam Quan chứ không được ở trong chùa nữa. Đủ ngày tháng, Thị Mầu sanh một đứa con trai. Phú ông bắt thị đem đứa bé trả cho cha là Kính Tâm. Kính Tâm đang tụng kinh, thấy tiếng trẻ khóc, nhìn ra thì thấy Thị Mầu đem con bỏ đó rồi đi. Động lòng từ bi, nàng ra ẵm lấy đứa bé và chăm lo nuôi nấng hết lòng.
Ngày ngày, nàng phải bế nó đi xin sữa ở đầu làng cuối xóm chịu bao nhiêu tiếng cười chê. Sau ba năm, đứa bé đã khôn lớn, vẻ mặt rất khôi ngô, tính nết ngoan ngoãn giống hệt "cha" nuôi thì cũng là lúc Kính Tâm đạt cái chí của mình sau những ngày đầy oan khổ. Bà chỉ bị yếu qua loa rồi chết. Trước khi nhắm mắt, Kính Tâm dặn đò đứa bé, bà lại viết một phong thư giao cho nó cầm để lại cho cha mẹ.
Đứa bé đang than khóc bên xác “cha” nuôi thật là bi thảm, chợt nhớ lời cha dặn, vội lên chùa trên báo cho sư cụ biết. Sư vãi được cụ sai ra khâm liệm thi hài mới hay Kính Tâm là đàn bà. Tin này tung ra, cả làng đổ đến chùa đông như hội. Nỗi oan tình của bà được tỏ và khi lá thư của bà về đến quê thì ai nấy lại đều biết bà không phải là gái giết chồng. Thiện Sĩ vội theo ông bà họ Mãng tới chùa Vân Tự làm lễ ma chay. Ai nấy đều nhận thấy rằng sự chịu đựng và nhẫn nhục của nàng từ bấy đến nay quả là cùng cực. Sư cụ làm lễ giải oan. Giữa lúc cử hành đàn chay, một đám mây ngũ sắc, giữa trời từ từ hạ xuống trước đàn lễ. Đức Thích Ca Mâu Ni hiện ra, Ngài nhận thấy Kính Tâm là người tu hành đắc đạo nên cho bà làm Phật Quan âm.
---------------------------------
Bình luận của bạn DƯƠNG ÁNH DƯƠNG
Câu nói "oan Thị Kính" xuất phát từ câu chuyện cổ tích này.
Trở lại chuyện của Thị Mầu không chồng mà chửa. Thời đó, hành vi của Thị Mầu bị xem là trọng tội. Những hình phạt được lưu truyền trong dân gian cho trọng tội này tàn khốc đến nỗi những ai nghe được đều phải rùng mình: Mái tóc đen dài óng ả, thứ nữ trang vô giá của thiếu nữ nay bị cắt gọt giằng xé nham nhở bằng dao bầu. Những mảng da đầu lộ ra bị bôi vôi trắng khiến người đàn bà khốn khổ trông vừa xấu xí vừa đáng tởm, khiến chút xót thương cuối cùng của đám đông bay biến. Những cô gái như Mầu bị rong đi trong làng để bêu riếu trong thứ trang phục tơi tả, cùng cái bụng đã lùm lùm hoặc cùng đứa con mới đẻ đỏ hỏn. Chưa hết, những kẻ đã làm ô nhục gia đình, dòng họ, làng xóm cùng cái hoang thai trong bụng còn phải trả giá bằng mạng sống của mình khi bị đưa vào một cái rọ và bị quẳng xuống sông trong con mắt kinh khiếp của những cô gái trẻ đồng lứa. Tất cả những hình phạt này là để ngăn ngừa không cho sự ô nhục này lặp lại. Không những thế, gia đình của những người con gái phạm tội "chửa hoang" còn phải nộp một khoản tiền phạt vạ cho làng.
Câu chuyện của Thị Mầu cho thấy, trong xã hội xưa, chỉ đàn bà có chồng mới được quyền có con. Đảo ngược thứ tự này là một tội không thể dung thứ. Hình phạt dành cho nó không chỉ là sự ghẻ lạnh, chê cười, mà là cái chết nhục nhã. Một khi đã rơi vào, người đàn bà không chồng và đứa trẻ không cha mặc nhiên bị kết một cái án câm lặng và vô hình, nhưng mãi mãi đè nặng lên đời sống tinh thần của hai mẹ con: sự khinh rẻ. Vì vậy, buộc phải câm nín nhịn nhục là một hình phạt suốt đời đối với họ. Họ không còn có quyền tuyên ngôn hay phát biểu, càng không có quyền biện hộ cho hành động, hoàn cảnh của mình. Họ mặc nhiên bị cộng đồng xét xử: dù có thể may mắn hơn những trường hợp kể trên, không đến mức bị loại trừ khỏi cộng đồng bằng những hình phạt tàn khốc, nhưng bị coi là hiện thân cho nỗi xấu xa, nhục nhã - họ bị rơi xuống một địa vị thấp kém đến dưới mức một phụ nữ hay một đứa trẻ bình thường được hưởng.
Luật Nay: Lén lút bỏ qua – Công khai: Bị xử lý
Khoảng hơn 10 năm trước, việc những cô gái có con mà chưa có chồng hay có con rồi mới có chồng giống như Thị Mầu thời xưa thường bị coi là "bi kịch", xảy ra ngoài ý muốn. Tuy nhiên, hiện nay trên thực tế, có nhiều cô gái trẻ đã lựa chọn sinh con mà không có chồng. Theo nhận định của các nhà xã hội học thì đây là một hiện tượng của xã hội hiện đại.
Vấn đề đặt ra là, ngày trước Thị Mầu có thai ngoài ý muốn (bị động) còn phải chịu nhiều hình phạt hà khắc đến vậy, còn ngày nay nhiều cô gái trẻ hoàn toàn chủ động sinh con một mình có bị xử lý không?
Về mặt luật pháp, hiện nay chúng ta đã công nhận quyền mang thai sinh nở người phụ nữ mà không cần phải được bảo chứng, bảo hộ bởi một cuộc hôn nhân hợp pháp. Điều đó có nghĩa là có con không còn là độc quyền của những người phụ nữ có chồng mà đã là quyền của mọi phụ nữ nói chung!
Nhiều phụ nữ quan niệm, họ chỉ muốn là có con với người đàn ông họ yêu, người đàn ông được họ lựa chọn. Những người đàn ông này đôi khi lại đang ở trong một hoàn cảnh nào đó mà chưa thể (hay không thể) cưới họ được.
Tuy nhiên, có một tình huống đặt ra là có những người phụ nữ có con với người đàn ông đã có gia đình. Vì chuyện xưa chỉ nói đến việc Thị Mầu hủ hóa với người đày tớ trong nhà mà không đề cập đến chuyện người này đã có gia đình hay chưa?
Giả sử như người giúp việc này đã có vợ, thì theo luật thời nay, Thị Mầu sẽ bị xử lý như thế nào? Và những cô gái đã lén lút quan hệ với một người đã có gia đình dẫn đến việc có con chung thì pháp luật có can thiệp được không, nếu có sẽ xử lý như thế nào?
Trước hết, phải xem xét xem những Thị Mầu thời nay đó có chung sống như vợ chồng với người đàn ông đã có gia đình hay không? Thông tư liên tịch của Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Tòa án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ngày 25/9/2001 quy định: "Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...”.
Việc chung sống này có thể công khai hoặc không công khai, nhưng phải thể hiện ở các dấu hiệu như: Thời gian chung sống với nhau tương đối dài; có tài sản chung; đã có con chung với nhau; được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng...
Tại Điều 8 Nghị định của Chính phủ số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, người vi phạm chế độ một vợ một chồng có thể bị xử lý vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng nếu họ có một trong các hành vi như: Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng;
Ngoài việc bị phạt tiền, người vi phạm còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung buộc chấm dứt quan hệ hôn nhân trái pháp luật.
Như vậy, chỉ trong trường hợp hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì mới xử lý vi phạm hành chính. Còn nếu hành vi đó gây hậu quả nghiêm trọng như làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v... thì người vi phạm mới có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự ngay về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng quy định tại Điều 147 BLHS mà không đòi hỏi phải có điều kiện là đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn tái phạm.
Như vậy, theo các quy định vừa viện dẫn thì việc một người có gia đình lén lút quan hệ với một người khác dẫn đến việc có con chung có dấu hiệu của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, nếu hành vi này chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người vi phạm chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này thì chưa đủ căn cứ pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ về tội phạm này. Điều đó có nghĩa là trong trường hợp chồng có con riêng với người phụ nữ khác, vợ muốn kiện thì phải có chứng cứ như giấy khai sinh cho đứa con có ghi tên cha mà người đàn ông này đang có vợ chẳng hạn...
Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Hình sự thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 147 Bộ luật Hình sự, nếu người phạm tội chưa gây hậu quả nghiêm trọng có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng thì tòa án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo, chỉ áp dụng hình phạt tù, nếu vừa bị xử phạt vi phạm hành chính, vừa gây hậu quả nghiêm trọng, có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc ít có tình tiết giảm nhẹ.
Trong trường hợp người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính, chưa gây hậu quả nghiêm trọng nhưng đã bị tòa án tiêu hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 147.
Người phạm tội thuộc trường hợp khoản 2 Điều 147 Bộ luật Hình sự thì phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng thì tòa án có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự phạt dưới 6 tháng tù hoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng không có tình tiết giảm nhẹ thì hình phạt đến 3 năm tù (mức cao nhất của khung hình phạt)
Do đó những trường hợp chỉ quan hệ lén lút để thỏa mãn nhu cầu tình cảm thì không coi là dấu hiệu của tội phạm này
http://dandensg.blogspot.com/2013/03/noi-oan-cua-thi-kinh.html
NỘI DUNG CÂU CHUYỆN:
Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ có một gia đình họ Mãng. Họ Mãng sinh được một người con gái, đặt tên là Thị Kính. Lớn lên, Thị Kính tài sắc nết na lại hiếu thảo hết lòng. Khi đến tuổi lấy chồng, nàng được bố mẹ gả cho thư sinh Sùng Thiện Sĩ. Sùng Thiện Sĩ rất đẹp trai, chăm học. Hai vợ chồng thật là trai tài gái sắc ăn ở với nhau rất mực kính ái và hòa thuận. Một đêm, Thiện Sĩ ngồi đọc sách, Thị Kính ngồi may bên cạnh. Thiện Sĩ bỗng thấy mệt mỏi, bèn ngả lưng xuống giường, kê đầu lên gối vợ chuyện trò rồi thiếp ngủ. Thị Kính thương chồng học mệt nên lặng yên cho chồng ngủ. Nàng ngắm nhìn khuôn mặt tuấn tú của chồng, bỗng nhận ra ở cằm chồng có một sợi râu mọc ngược. Sẵn con dao nhíp trong thúng khảo đựng đồ may, Thị Kính liền cầm lên kề vào cằm chồng định tỉa sợi râu. Bỗng Thiện Sĩ chợt tỉnh, nhìn thấy vợ cầm dao kề vào cổ mình, nghi vợ chủ trương làm hại, liền vùng dậy nắm lấy cổ tay Thị Kính la lên:
- Nàng định cầm dao giết tôi lúc tôi đang ngủ ư?
- Thị Kính đáp: Không phải đâu. Thấy chàng có sợi râu mọc ngược, thiếp định tỉa nó đi, kẻo trông xấu xí lắm!
Nhưng trong cơn nghi ngờ và hoảng hốt, Thiện Sĩ nhất định không tin. Giữa lúc đó, ông bà họ Sùng nghe tiếng cãi nhau, vội lại hỏi nguyên do. Nghe con trai kể, ông bà tin ngay, khăng khăng đổ tội cho Thị Kính toan giết chồng rồi lập tức cho mời ông bà họ Mãng sang trách móc và trả lại con.
Thị Kính không biết giải tỏa sao được nỗi lòng oan khổ của mình, nàng cắn răng chịu tủi nhục từ giã nhà họ Sùng để về nhà cha mẹ.
Về ở với cha mẹ, Thị Kính lúc nào cũng sầu phiền. Nỗi oan khổ chẳng còn biết cùng ai thổ lộ. Nàng bèn
quyết tâm đi tu để trước là báo đáp ân sâu của cha mẹ, sau là tẩy rửa nỗi oan khiên. Nghĩ rằng, nếu trình thưa với cha mẹ ý định của mình thì cha mẹ không cho đi nên đang đêm, nàng cải trang thành nam tử và trốn khỏi nhà với tấm lòng chân thành của người tìm chân lý. Lại một lần nữa, Thị Kính bị mang tiếng đồn là bỏ nhà theo trai trong khi thật sự nàng tìm đến chùa Vân Tự tu hành.
Sư cụ chùa Vân Tự không biết là gái bèn nhận cho làm tiểu, đặt tên là Kính Tâm. Từ đó Kính Tâm nương náu cửa thiền, lòng vui với đạo nên khuây khỏa được sầu phiền. Tu hành chưa được bao lâu thì một tai vạ lại đến với Kính Tâm.
Trong làng có Thị Mầu, con gái của một phú ông, đi lễ chùa, thấy Kính Tâm thì đem lòng yêu trộm. Đã có lần Thị Mầu nói rõ lòng mình với Kính Tâm nhưng thị vô cùng thất vọng vì Kính Tâm vẫn cứ thản nhiên.
Càng ngày, Thị Mầu càng say mê. Quen thói trăng hoa, Thị Mầu bèn tư thông với một người đầy tớ trong nhà, không ngờ thị mang thai, bị làng gọi ra tra hỏi. Lúc đầu, thị chối quanh nhưng về sau lại đổ cho Kính Tâm. Làng mời Sư Cụ và Tiểu Kính đối chất. Tiểu một mực kêu oan, nhưng Mầu cứ đổ riệt, Kính Tâm bị làng đem ra tra tấn, đòn bộng, máu đổ thịt rơi, mấy lần bất tỉnh, nhưng vẫn một mực kêu oan. Nàng không biết biện bạch ra sao để gỡ mối oan này nên đành cam chịu sự đánh đập tàn nhẫn.
Sư cụ thấy tiểu bị đánh đòn đau, thương tình, kêu xin với làng nộp khoán. Vì sợ ô danh chốn thiền môn nên dù thương xót Kính Tâm, sư cụ cũng phải để Kính Tâm ra ở mái Tam Quan chứ không được ở trong chùa nữa. Đủ ngày tháng, Thị Mầu sanh một đứa con trai. Phú ông bắt thị đem đứa bé trả cho cha là Kính Tâm. Kính Tâm đang tụng kinh, thấy tiếng trẻ khóc, nhìn ra thì thấy Thị Mầu đem con bỏ đó rồi đi. Động lòng từ bi, nàng ra ẵm lấy đứa bé và chăm lo nuôi nấng hết lòng.
Ngày ngày, nàng phải bế nó đi xin sữa ở đầu làng cuối xóm chịu bao nhiêu tiếng cười chê. Sau ba năm, đứa bé đã khôn lớn, vẻ mặt rất khôi ngô, tính nết ngoan ngoãn giống hệt "cha" nuôi thì cũng là lúc Kính Tâm đạt cái chí của mình sau những ngày đầy oan khổ. Bà chỉ bị yếu qua loa rồi chết. Trước khi nhắm mắt, Kính Tâm dặn đò đứa bé, bà lại viết một phong thư giao cho nó cầm để lại cho cha mẹ.
Đứa bé đang than khóc bên xác “cha” nuôi thật là bi thảm, chợt nhớ lời cha dặn, vội lên chùa trên báo cho sư cụ biết. Sư vãi được cụ sai ra khâm liệm thi hài mới hay Kính Tâm là đàn bà. Tin này tung ra, cả làng đổ đến chùa đông như hội. Nỗi oan tình của bà được tỏ và khi lá thư của bà về đến quê thì ai nấy lại đều biết bà không phải là gái giết chồng. Thiện Sĩ vội theo ông bà họ Mãng tới chùa Vân Tự làm lễ ma chay. Ai nấy đều nhận thấy rằng sự chịu đựng và nhẫn nhục của nàng từ bấy đến nay quả là cùng cực. Sư cụ làm lễ giải oan. Giữa lúc cử hành đàn chay, một đám mây ngũ sắc, giữa trời từ từ hạ xuống trước đàn lễ. Đức Thích Ca Mâu Ni hiện ra, Ngài nhận thấy Kính Tâm là người tu hành đắc đạo nên cho bà làm Phật Quan âm.
---------------------------------
Bình luận của bạn DƯƠNG ÁNH DƯƠNG
Câu nói "oan Thị Kính" xuất phát từ câu chuyện cổ tích này.
Trở lại chuyện của Thị Mầu không chồng mà chửa. Thời đó, hành vi của Thị Mầu bị xem là trọng tội. Những hình phạt được lưu truyền trong dân gian cho trọng tội này tàn khốc đến nỗi những ai nghe được đều phải rùng mình: Mái tóc đen dài óng ả, thứ nữ trang vô giá của thiếu nữ nay bị cắt gọt giằng xé nham nhở bằng dao bầu. Những mảng da đầu lộ ra bị bôi vôi trắng khiến người đàn bà khốn khổ trông vừa xấu xí vừa đáng tởm, khiến chút xót thương cuối cùng của đám đông bay biến. Những cô gái như Mầu bị rong đi trong làng để bêu riếu trong thứ trang phục tơi tả, cùng cái bụng đã lùm lùm hoặc cùng đứa con mới đẻ đỏ hỏn. Chưa hết, những kẻ đã làm ô nhục gia đình, dòng họ, làng xóm cùng cái hoang thai trong bụng còn phải trả giá bằng mạng sống của mình khi bị đưa vào một cái rọ và bị quẳng xuống sông trong con mắt kinh khiếp của những cô gái trẻ đồng lứa. Tất cả những hình phạt này là để ngăn ngừa không cho sự ô nhục này lặp lại. Không những thế, gia đình của những người con gái phạm tội "chửa hoang" còn phải nộp một khoản tiền phạt vạ cho làng.
Câu chuyện của Thị Mầu cho thấy, trong xã hội xưa, chỉ đàn bà có chồng mới được quyền có con. Đảo ngược thứ tự này là một tội không thể dung thứ. Hình phạt dành cho nó không chỉ là sự ghẻ lạnh, chê cười, mà là cái chết nhục nhã. Một khi đã rơi vào, người đàn bà không chồng và đứa trẻ không cha mặc nhiên bị kết một cái án câm lặng và vô hình, nhưng mãi mãi đè nặng lên đời sống tinh thần của hai mẹ con: sự khinh rẻ. Vì vậy, buộc phải câm nín nhịn nhục là một hình phạt suốt đời đối với họ. Họ không còn có quyền tuyên ngôn hay phát biểu, càng không có quyền biện hộ cho hành động, hoàn cảnh của mình. Họ mặc nhiên bị cộng đồng xét xử: dù có thể may mắn hơn những trường hợp kể trên, không đến mức bị loại trừ khỏi cộng đồng bằng những hình phạt tàn khốc, nhưng bị coi là hiện thân cho nỗi xấu xa, nhục nhã - họ bị rơi xuống một địa vị thấp kém đến dưới mức một phụ nữ hay một đứa trẻ bình thường được hưởng.
Luật Nay: Lén lút bỏ qua – Công khai: Bị xử lý
Khoảng hơn 10 năm trước, việc những cô gái có con mà chưa có chồng hay có con rồi mới có chồng giống như Thị Mầu thời xưa thường bị coi là "bi kịch", xảy ra ngoài ý muốn. Tuy nhiên, hiện nay trên thực tế, có nhiều cô gái trẻ đã lựa chọn sinh con mà không có chồng. Theo nhận định của các nhà xã hội học thì đây là một hiện tượng của xã hội hiện đại.
Vấn đề đặt ra là, ngày trước Thị Mầu có thai ngoài ý muốn (bị động) còn phải chịu nhiều hình phạt hà khắc đến vậy, còn ngày nay nhiều cô gái trẻ hoàn toàn chủ động sinh con một mình có bị xử lý không?
Về mặt luật pháp, hiện nay chúng ta đã công nhận quyền mang thai sinh nở người phụ nữ mà không cần phải được bảo chứng, bảo hộ bởi một cuộc hôn nhân hợp pháp. Điều đó có nghĩa là có con không còn là độc quyền của những người phụ nữ có chồng mà đã là quyền của mọi phụ nữ nói chung!
Nhiều phụ nữ quan niệm, họ chỉ muốn là có con với người đàn ông họ yêu, người đàn ông được họ lựa chọn. Những người đàn ông này đôi khi lại đang ở trong một hoàn cảnh nào đó mà chưa thể (hay không thể) cưới họ được.
Tuy nhiên, có một tình huống đặt ra là có những người phụ nữ có con với người đàn ông đã có gia đình. Vì chuyện xưa chỉ nói đến việc Thị Mầu hủ hóa với người đày tớ trong nhà mà không đề cập đến chuyện người này đã có gia đình hay chưa?
Giả sử như người giúp việc này đã có vợ, thì theo luật thời nay, Thị Mầu sẽ bị xử lý như thế nào? Và những cô gái đã lén lút quan hệ với một người đã có gia đình dẫn đến việc có con chung thì pháp luật có can thiệp được không, nếu có sẽ xử lý như thế nào?
Trước hết, phải xem xét xem những Thị Mầu thời nay đó có chung sống như vợ chồng với người đàn ông đã có gia đình hay không? Thông tư liên tịch của Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Tòa án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ngày 25/9/2001 quy định: "Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...”.
Việc chung sống này có thể công khai hoặc không công khai, nhưng phải thể hiện ở các dấu hiệu như: Thời gian chung sống với nhau tương đối dài; có tài sản chung; đã có con chung với nhau; được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng...
Tại Điều 8 Nghị định của Chính phủ số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, người vi phạm chế độ một vợ một chồng có thể bị xử lý vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng nếu họ có một trong các hành vi như: Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng;
Ngoài việc bị phạt tiền, người vi phạm còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung buộc chấm dứt quan hệ hôn nhân trái pháp luật.
Như vậy, chỉ trong trường hợp hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì mới xử lý vi phạm hành chính. Còn nếu hành vi đó gây hậu quả nghiêm trọng như làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v... thì người vi phạm mới có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự ngay về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng quy định tại Điều 147 BLHS mà không đòi hỏi phải có điều kiện là đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn tái phạm.
Như vậy, theo các quy định vừa viện dẫn thì việc một người có gia đình lén lút quan hệ với một người khác dẫn đến việc có con chung có dấu hiệu của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, nếu hành vi này chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người vi phạm chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này thì chưa đủ căn cứ pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ về tội phạm này. Điều đó có nghĩa là trong trường hợp chồng có con riêng với người phụ nữ khác, vợ muốn kiện thì phải có chứng cứ như giấy khai sinh cho đứa con có ghi tên cha mà người đàn ông này đang có vợ chẳng hạn...
Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Hình sự thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 147 Bộ luật Hình sự, nếu người phạm tội chưa gây hậu quả nghiêm trọng có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng thì tòa án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo, chỉ áp dụng hình phạt tù, nếu vừa bị xử phạt vi phạm hành chính, vừa gây hậu quả nghiêm trọng, có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc ít có tình tiết giảm nhẹ.
Trong trường hợp người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính, chưa gây hậu quả nghiêm trọng nhưng đã bị tòa án tiêu hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 147.
Người phạm tội thuộc trường hợp khoản 2 Điều 147 Bộ luật Hình sự thì phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng thì tòa án có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự phạt dưới 6 tháng tù hoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng không có tình tiết giảm nhẹ thì hình phạt đến 3 năm tù (mức cao nhất của khung hình phạt)
Do đó những trường hợp chỉ quan hệ lén lút để thỏa mãn nhu cầu tình cảm thì không coi là dấu hiệu của tội phạm này
http://dandensg.blogspot.com/2013/03/noi-oan-cua-thi-kinh.html
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Có miệng như không" - by / Trần Văn Giang (ghi lại).
- 100 năm sau vẫn bồi hồi "Tôi đi học" - by Minh Tự / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Nỗi Khổ Của Người Hà Nội" - by Nguyễn Thị Thương / Trần Văn Giang (ghi lại)
Nỗi oan của Thị Kính và chuyện "ngoại tình" ngày nay
BLA) - Xưa, Thị Mầu là nỗi nhục của gia đình phú ông khi không chồng mà chửa. Còn thời nay, có không ít những người phụ nữ cũng
NỘI DUNG CÂU CHUYỆN:
Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ có một gia đình họ Mãng. Họ Mãng sinh được một người con gái, đặt tên là Thị Kính. Lớn lên, Thị Kính tài sắc nết na lại hiếu thảo hết lòng. Khi đến tuổi lấy chồng, nàng được bố mẹ gả cho thư sinh Sùng Thiện Sĩ. Sùng Thiện Sĩ rất đẹp trai, chăm học. Hai vợ chồng thật là trai tài gái sắc ăn ở với nhau rất mực kính ái và hòa thuận. Một đêm, Thiện Sĩ ngồi đọc sách, Thị Kính ngồi may bên cạnh. Thiện Sĩ bỗng thấy mệt mỏi, bèn ngả lưng xuống giường, kê đầu lên gối vợ chuyện trò rồi thiếp ngủ. Thị Kính thương chồng học mệt nên lặng yên cho chồng ngủ. Nàng ngắm nhìn khuôn mặt tuấn tú của chồng, bỗng nhận ra ở cằm chồng có một sợi râu mọc ngược. Sẵn con dao nhíp trong thúng khảo đựng đồ may, Thị Kính liền cầm lên kề vào cằm chồng định tỉa sợi râu. Bỗng Thiện Sĩ chợt tỉnh, nhìn thấy vợ cầm dao kề vào cổ mình, nghi vợ chủ trương làm hại, liền vùng dậy nắm lấy cổ tay Thị Kính la lên:
- Nàng định cầm dao giết tôi lúc tôi đang ngủ ư?
- Thị Kính đáp: Không phải đâu. Thấy chàng có sợi râu mọc ngược, thiếp định tỉa nó đi, kẻo trông xấu xí lắm!
Nhưng trong cơn nghi ngờ và hoảng hốt, Thiện Sĩ nhất định không tin. Giữa lúc đó, ông bà họ Sùng nghe tiếng cãi nhau, vội lại hỏi nguyên do. Nghe con trai kể, ông bà tin ngay, khăng khăng đổ tội cho Thị Kính toan giết chồng rồi lập tức cho mời ông bà họ Mãng sang trách móc và trả lại con.
Thị Kính không biết giải tỏa sao được nỗi lòng oan khổ của mình, nàng cắn răng chịu tủi nhục từ giã nhà họ Sùng để về nhà cha mẹ.
Về ở với cha mẹ, Thị Kính lúc nào cũng sầu phiền. Nỗi oan khổ chẳng còn biết cùng ai thổ lộ. Nàng bèn
quyết tâm đi tu để trước là báo đáp ân sâu của cha mẹ, sau là tẩy rửa nỗi oan khiên. Nghĩ rằng, nếu trình thưa với cha mẹ ý định của mình thì cha mẹ không cho đi nên đang đêm, nàng cải trang thành nam tử và trốn khỏi nhà với tấm lòng chân thành của người tìm chân lý. Lại một lần nữa, Thị Kính bị mang tiếng đồn là bỏ nhà theo trai trong khi thật sự nàng tìm đến chùa Vân Tự tu hành.
Sư cụ chùa Vân Tự không biết là gái bèn nhận cho làm tiểu, đặt tên là Kính Tâm. Từ đó Kính Tâm nương náu cửa thiền, lòng vui với đạo nên khuây khỏa được sầu phiền. Tu hành chưa được bao lâu thì một tai vạ lại đến với Kính Tâm.
Trong làng có Thị Mầu, con gái của một phú ông, đi lễ chùa, thấy Kính Tâm thì đem lòng yêu trộm. Đã có lần Thị Mầu nói rõ lòng mình với Kính Tâm nhưng thị vô cùng thất vọng vì Kính Tâm vẫn cứ thản nhiên.
Càng ngày, Thị Mầu càng say mê. Quen thói trăng hoa, Thị Mầu bèn tư thông với một người đầy tớ trong nhà, không ngờ thị mang thai, bị làng gọi ra tra hỏi. Lúc đầu, thị chối quanh nhưng về sau lại đổ cho Kính Tâm. Làng mời Sư Cụ và Tiểu Kính đối chất. Tiểu một mực kêu oan, nhưng Mầu cứ đổ riệt, Kính Tâm bị làng đem ra tra tấn, đòn bộng, máu đổ thịt rơi, mấy lần bất tỉnh, nhưng vẫn một mực kêu oan. Nàng không biết biện bạch ra sao để gỡ mối oan này nên đành cam chịu sự đánh đập tàn nhẫn.
Sư cụ thấy tiểu bị đánh đòn đau, thương tình, kêu xin với làng nộp khoán. Vì sợ ô danh chốn thiền môn nên dù thương xót Kính Tâm, sư cụ cũng phải để Kính Tâm ra ở mái Tam Quan chứ không được ở trong chùa nữa. Đủ ngày tháng, Thị Mầu sanh một đứa con trai. Phú ông bắt thị đem đứa bé trả cho cha là Kính Tâm. Kính Tâm đang tụng kinh, thấy tiếng trẻ khóc, nhìn ra thì thấy Thị Mầu đem con bỏ đó rồi đi. Động lòng từ bi, nàng ra ẵm lấy đứa bé và chăm lo nuôi nấng hết lòng.
Ngày ngày, nàng phải bế nó đi xin sữa ở đầu làng cuối xóm chịu bao nhiêu tiếng cười chê. Sau ba năm, đứa bé đã khôn lớn, vẻ mặt rất khôi ngô, tính nết ngoan ngoãn giống hệt "cha" nuôi thì cũng là lúc Kính Tâm đạt cái chí của mình sau những ngày đầy oan khổ. Bà chỉ bị yếu qua loa rồi chết. Trước khi nhắm mắt, Kính Tâm dặn đò đứa bé, bà lại viết một phong thư giao cho nó cầm để lại cho cha mẹ.
Đứa bé đang than khóc bên xác “cha” nuôi thật là bi thảm, chợt nhớ lời cha dặn, vội lên chùa trên báo cho sư cụ biết. Sư vãi được cụ sai ra khâm liệm thi hài mới hay Kính Tâm là đàn bà. Tin này tung ra, cả làng đổ đến chùa đông như hội. Nỗi oan tình của bà được tỏ và khi lá thư của bà về đến quê thì ai nấy lại đều biết bà không phải là gái giết chồng. Thiện Sĩ vội theo ông bà họ Mãng tới chùa Vân Tự làm lễ ma chay. Ai nấy đều nhận thấy rằng sự chịu đựng và nhẫn nhục của nàng từ bấy đến nay quả là cùng cực. Sư cụ làm lễ giải oan. Giữa lúc cử hành đàn chay, một đám mây ngũ sắc, giữa trời từ từ hạ xuống trước đàn lễ. Đức Thích Ca Mâu Ni hiện ra, Ngài nhận thấy Kính Tâm là người tu hành đắc đạo nên cho bà làm Phật Quan âm.
---------------------------------
Bình luận của bạn DƯƠNG ÁNH DƯƠNG
Câu nói "oan Thị Kính" xuất phát từ câu chuyện cổ tích này.
Trở lại chuyện của Thị Mầu không chồng mà chửa. Thời đó, hành vi của Thị Mầu bị xem là trọng tội. Những hình phạt được lưu truyền trong dân gian cho trọng tội này tàn khốc đến nỗi những ai nghe được đều phải rùng mình: Mái tóc đen dài óng ả, thứ nữ trang vô giá của thiếu nữ nay bị cắt gọt giằng xé nham nhở bằng dao bầu. Những mảng da đầu lộ ra bị bôi vôi trắng khiến người đàn bà khốn khổ trông vừa xấu xí vừa đáng tởm, khiến chút xót thương cuối cùng của đám đông bay biến. Những cô gái như Mầu bị rong đi trong làng để bêu riếu trong thứ trang phục tơi tả, cùng cái bụng đã lùm lùm hoặc cùng đứa con mới đẻ đỏ hỏn. Chưa hết, những kẻ đã làm ô nhục gia đình, dòng họ, làng xóm cùng cái hoang thai trong bụng còn phải trả giá bằng mạng sống của mình khi bị đưa vào một cái rọ và bị quẳng xuống sông trong con mắt kinh khiếp của những cô gái trẻ đồng lứa. Tất cả những hình phạt này là để ngăn ngừa không cho sự ô nhục này lặp lại. Không những thế, gia đình của những người con gái phạm tội "chửa hoang" còn phải nộp một khoản tiền phạt vạ cho làng.
Câu chuyện của Thị Mầu cho thấy, trong xã hội xưa, chỉ đàn bà có chồng mới được quyền có con. Đảo ngược thứ tự này là một tội không thể dung thứ. Hình phạt dành cho nó không chỉ là sự ghẻ lạnh, chê cười, mà là cái chết nhục nhã. Một khi đã rơi vào, người đàn bà không chồng và đứa trẻ không cha mặc nhiên bị kết một cái án câm lặng và vô hình, nhưng mãi mãi đè nặng lên đời sống tinh thần của hai mẹ con: sự khinh rẻ. Vì vậy, buộc phải câm nín nhịn nhục là một hình phạt suốt đời đối với họ. Họ không còn có quyền tuyên ngôn hay phát biểu, càng không có quyền biện hộ cho hành động, hoàn cảnh của mình. Họ mặc nhiên bị cộng đồng xét xử: dù có thể may mắn hơn những trường hợp kể trên, không đến mức bị loại trừ khỏi cộng đồng bằng những hình phạt tàn khốc, nhưng bị coi là hiện thân cho nỗi xấu xa, nhục nhã - họ bị rơi xuống một địa vị thấp kém đến dưới mức một phụ nữ hay một đứa trẻ bình thường được hưởng.
Luật Nay: Lén lút bỏ qua – Công khai: Bị xử lý
Khoảng hơn 10 năm trước, việc những cô gái có con mà chưa có chồng hay có con rồi mới có chồng giống như Thị Mầu thời xưa thường bị coi là "bi kịch", xảy ra ngoài ý muốn. Tuy nhiên, hiện nay trên thực tế, có nhiều cô gái trẻ đã lựa chọn sinh con mà không có chồng. Theo nhận định của các nhà xã hội học thì đây là một hiện tượng của xã hội hiện đại.
Vấn đề đặt ra là, ngày trước Thị Mầu có thai ngoài ý muốn (bị động) còn phải chịu nhiều hình phạt hà khắc đến vậy, còn ngày nay nhiều cô gái trẻ hoàn toàn chủ động sinh con một mình có bị xử lý không?
Về mặt luật pháp, hiện nay chúng ta đã công nhận quyền mang thai sinh nở người phụ nữ mà không cần phải được bảo chứng, bảo hộ bởi một cuộc hôn nhân hợp pháp. Điều đó có nghĩa là có con không còn là độc quyền của những người phụ nữ có chồng mà đã là quyền của mọi phụ nữ nói chung!
Nhiều phụ nữ quan niệm, họ chỉ muốn là có con với người đàn ông họ yêu, người đàn ông được họ lựa chọn. Những người đàn ông này đôi khi lại đang ở trong một hoàn cảnh nào đó mà chưa thể (hay không thể) cưới họ được.
Tuy nhiên, có một tình huống đặt ra là có những người phụ nữ có con với người đàn ông đã có gia đình. Vì chuyện xưa chỉ nói đến việc Thị Mầu hủ hóa với người đày tớ trong nhà mà không đề cập đến chuyện người này đã có gia đình hay chưa?
Giả sử như người giúp việc này đã có vợ, thì theo luật thời nay, Thị Mầu sẽ bị xử lý như thế nào? Và những cô gái đã lén lút quan hệ với một người đã có gia đình dẫn đến việc có con chung thì pháp luật có can thiệp được không, nếu có sẽ xử lý như thế nào?
Trước hết, phải xem xét xem những Thị Mầu thời nay đó có chung sống như vợ chồng với người đàn ông đã có gia đình hay không? Thông tư liên tịch của Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Tòa án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ngày 25/9/2001 quy định: "Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...”.
Việc chung sống này có thể công khai hoặc không công khai, nhưng phải thể hiện ở các dấu hiệu như: Thời gian chung sống với nhau tương đối dài; có tài sản chung; đã có con chung với nhau; được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng...
Tại Điều 8 Nghị định của Chính phủ số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, người vi phạm chế độ một vợ một chồng có thể bị xử lý vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng nếu họ có một trong các hành vi như: Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng;
Ngoài việc bị phạt tiền, người vi phạm còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung buộc chấm dứt quan hệ hôn nhân trái pháp luật.
Như vậy, chỉ trong trường hợp hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì mới xử lý vi phạm hành chính. Còn nếu hành vi đó gây hậu quả nghiêm trọng như làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v... thì người vi phạm mới có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự ngay về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng quy định tại Điều 147 BLHS mà không đòi hỏi phải có điều kiện là đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn tái phạm.
Như vậy, theo các quy định vừa viện dẫn thì việc một người có gia đình lén lút quan hệ với một người khác dẫn đến việc có con chung có dấu hiệu của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, nếu hành vi này chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người vi phạm chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này thì chưa đủ căn cứ pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ về tội phạm này. Điều đó có nghĩa là trong trường hợp chồng có con riêng với người phụ nữ khác, vợ muốn kiện thì phải có chứng cứ như giấy khai sinh cho đứa con có ghi tên cha mà người đàn ông này đang có vợ chẳng hạn...
Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Hình sự thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 147 Bộ luật Hình sự, nếu người phạm tội chưa gây hậu quả nghiêm trọng có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng thì tòa án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo, chỉ áp dụng hình phạt tù, nếu vừa bị xử phạt vi phạm hành chính, vừa gây hậu quả nghiêm trọng, có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc ít có tình tiết giảm nhẹ.
Trong trường hợp người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính, chưa gây hậu quả nghiêm trọng nhưng đã bị tòa án tiêu hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 147.
Người phạm tội thuộc trường hợp khoản 2 Điều 147 Bộ luật Hình sự thì phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng thì tòa án có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự phạt dưới 6 tháng tù hoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng không có tình tiết giảm nhẹ thì hình phạt đến 3 năm tù (mức cao nhất của khung hình phạt)
Do đó những trường hợp chỉ quan hệ lén lút để thỏa mãn nhu cầu tình cảm thì không coi là dấu hiệu của tội phạm này
http://dandensg.blogspot.com/2013/03/noi-oan-cua-thi-kinh.html