Văn Học & Nghệ Thuật
Phòng trà Sài Gòn xưa: Từ em tiếng hát lên trời
Trong Tình đời , một ca khúc của nhạc sĩ Minh Kỳ vẫn còn phổ biến đến bây giờ, có nhắc đến phòng trà và nỗi niềm cô ca sĩ:
Trong Tình đời , một ca khúc của nhạc sĩ Minh Kỳ vẫn còn phổ biến đến bây giờ, có nhắc đến phòng trà và nỗi niềm cô ca sĩ: “Khi
biết em mang kiếp cầm ca/Đêm đêm phòng trà/Dâng tiếng hát cho người
người/Bỏ tiền mua vui/Hỏi rằng anh ơi/Còn yêu em nữa không”...
Khoảng năm 1954 - 1956 là thời kỳ vàng son của khiêu vũ trường ở
Sài Gòn. Tuy nhiên sau khi nắm quyền, chính quyền Ngô Đình Diệm ra lệnh
đóng cửa các khiêu vũ trường. Thế là các ông chủ quay sang mở phòng trà
ca nhạc. Dù có nhiều khó khăn nhưng đầu tư vào phòng trà ca nhạc có lẽ
vẫn kiếm được tiền nên không ít nghệ sĩ đã đầu tư làm bầu phòng trà như
Khánh Ly, Jo Marcel.
Năm 1954, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ miền Bắc di cư vào Sài Gòn, góp phần
làm cho nền tân nhạc ở miền Nam thời kỳ này đa dạng với nhiều dòng nhạc
dành cho nhiều tầng lớp khán giả. Thị trường âm nhạc sôi động cùng
những ca sĩ nổi tiếng giúp các phòng trà bước vào thời kỳ hoàng kim. Tới
phòng trà nghe nhạc là một nét văn hóa của Sài Gòn khi đó. Một nhà báo
đã viết: “Ngày là thời gian thành phố làm việc, đêm mới là thành phố
sống. Một trong các mảnh sống của đêm Sài Gòn là những tiếng ca hằng đêm
réo rắt trên khắp các hí trường phòng trà ca nhạc”.
Trong thời gian này khó xác định là phòng trà nào có trước. Có
người cho là phòng trà Anh Vũ của kiến trúc sư Võ Đức Diên. Phòng trà
này xuất thân từ một quán ăn do Võ Đức Diên thành lập (theo nhà văn Thế
Phong, đây là nơi Võ Đức Diên thu thập tin tức cho Ngô Đình Nhu bằng
cách có gắn máy thu băng trong các bức tường gỗ?). Tuy là phòng trà
nhưng có thiết kế một sân khấu nhỏ vừa cho một ban nhạc bỏ túi đệm đàn
cho những ca sĩ nổi tiếng được mời đến trình diễn như Bạch Yến, Mai
Hương, Duy Trác, Cao Thái.
Một “capheteria” khác theo phong cách của Anh Vũ cũng đã mọc lên
bên cạnh rạp chiếu bóng Việt Long, đường Cao Thắng với tên phòng trà Đức
Quỳnh do Đức Quỳnh đệm piano với những ca sĩ Minh Hiếu - Thanh Thúy,
Phương Dung... Vào tháng 5.1959, phòng trà ca nhạc Văn Cảnh đường
Calmete có quảng cáo “Ban hợp ca Thăng Long cùng với 8 nữ ca sĩ thanh
sắc song toàn, giá tiền thật bình dân 15 đồng trà, cà phê”... Một thời
gian sau phòng trà Sài Gòn nở rộ.
Giọng ca liêu trai
Bài hát Tình đời của Minh Kỳ đã được nữ ca sĩ Thanh Thúy thể hiện
bằng giọng hát hết sức “liêu trai”. Thời ấy, rất có nhiều giọng ca nữ
nổi tiếng nhưng giọng ca Thanh Thúy đã khiến nhiều văn nghệ sĩ ái mộ.
Trịnh Công Sơn với tác phầm đầu tay Ướt mi, Tôn Thất Lập với Tiếng hát
về khuya, Nguyễn Long với bộ phim Thúy đã đi rồi đều dành cho nữ ca sĩ
này.
Vào khoảng cuối năm 1958, Thanh Thúy vừa tập tễnh bước vào nghề ca
hát dưới sự dẫn dắt của ca sĩ Kim Chi. Một tài năng mới với nhan sắc
sương khói lảng vảng, giọng ca trầm buồn, vừa hát vừa đưa tay vuốt làn
tóc buông rơi. Nhà thơ Hoàng Trúc Ly đã tán tụng “Từ em tiếng hát lên
trời. Tay xoa dòng tóc, tay vời âm thanh...”.
Trong hồi ký, diễn viên Nguyễn Long đã viết: “Tháng 11/59, vào một
buổi tối thật buồn, sau khi coi xi nê trên rạp Việt Long, thấy còn sớm,
tôi lên phòng trà Việt Long ngay trên lầu của rạp hát do anh Đức Quỳnh
tổ chức, uống nước trà nghe các bạn ca sĩ hát cho qua giờ, chợt tôi nghe
thấy một giọng hát lạ, hơi lạ, tôi nhìn lên sân khấu, còn lạ hơn, một
cô gái thật nhỏ, ca sĩ không ra ca sĩ, học sinh không ra học sinh, dáng
dấp e ấp, ngại ngùng, giọng cô vang lên tưởng chừng như từ xa vọng lại”.
Nguyễn Long quen Thanh Thúy từ đêm đó. Đầu tháng 1.1960, Thanh Thúy
được mời hát trong chương trình Sầm Giang đại nhạc hội do Trần Văn
Trạch tổ chức tại rạp Đại Nam. Nguyễn Long kể: “Đại nhạc hội rất thành
công, nhưng màn được nhắc nhở nhất vẫn là màn trình diễn của Thanh Thúy.
Ngay trong tuần lễ đó, phần lớn các trang báo kịch trường của Sài
Gòn đều nhắc tới Thanh Thúy, khuôn mặt mới nhưng sáng chói của tân nhạc,
giọng ca liêu trai thu hút, lôi cuốn người thưởng thức, giọng ca đặc
biệt nhất của tân nhạc VN từ trước tới nay. Mỗi tờ báo viết một kiểu
khác nhau, nhưng cùng một lúc rất nhiều tờ, cho nên chỉ trong vòng có
một tuần lễ, hiện tượng Thanh Thúy đã trở thành một cơn bão nhỏ trong
thành phố, và chỉ một tháng sau đã lan tràn gần hết miền Nam. Một số
phòng trà tại Sài Gòn tới mời cô, rất nhiều đại nhạc hội tới mời cô...”.
Rất nhiều lời tán tụng giọng ca này, trong đó có một vị giáo sư
triết học. Hãy đọc một đoạn văn ngắn của Giáo sư Nguyễn Văn Trung viết
trong bài Ảo ảnh Thanh Thúy (Nhận định 4, Nam Sơn 1966): “Thanh Thúy mặc
quần áo VN, kín đáo, đứng đắn, không đeo những đồ giả, hiền lành, dè
dặt, khi hát chuyên môn ca bài Việt, hơn nữa chỉ ca một loại nhạc
buồn... Đứng trước Thanh Thúy, nghe Thanh Thúy hát những bài buồn buồn
bằng một giọng trầm, với những nét mặt xa vắng, khán giả cảm thấy như bị
lôi kéo về một dĩ vãng xa xôi nhưng cũng rất gần gũi quen thuộc, một dĩ
vãng dệt những hình ảnh rung động, cảm nghĩ gắn liền với lịch sử đất
nước, với thôn quê đồng ruộng, với sông Hương, núi Ngự, tiêu biểu cho
những gì là dân tộc, cá tính địa phương về mặt tiêu cực: một nỗi buồn
man mác, cô tịch, trầm lặng, vô định...”.
Thanh Thúy là một nữ ca sĩ sống lặng lẽ, không ồn ào dính tới những
điều tiếng về chuyện se sua hay tình ái. Sau này, người nữ ca sĩ có
giọng hát liêu trai của mình lặng đi một thời gian dài khi lập gia đình
cùng ông Ôn Văn Tài. Khi bà định cư ở Mỹ thì không còn nghe bà tham dự
vào giới ca nhạc nữa.
Lê Văn Nghĩa
( Thanh Niên )
Bàn ra tán vào (0)
Phòng trà Sài Gòn xưa: Từ em tiếng hát lên trời
Trong Tình đời , một ca khúc của nhạc sĩ Minh Kỳ vẫn còn phổ biến đến bây giờ, có nhắc đến phòng trà và nỗi niềm cô ca sĩ:
Trong Tình đời , một ca khúc của nhạc sĩ Minh Kỳ vẫn còn phổ biến đến bây giờ, có nhắc đến phòng trà và nỗi niềm cô ca sĩ: “Khi
biết em mang kiếp cầm ca/Đêm đêm phòng trà/Dâng tiếng hát cho người
người/Bỏ tiền mua vui/Hỏi rằng anh ơi/Còn yêu em nữa không”...
Khoảng năm 1954 - 1956 là thời kỳ vàng son của khiêu vũ trường ở
Sài Gòn. Tuy nhiên sau khi nắm quyền, chính quyền Ngô Đình Diệm ra lệnh
đóng cửa các khiêu vũ trường. Thế là các ông chủ quay sang mở phòng trà
ca nhạc. Dù có nhiều khó khăn nhưng đầu tư vào phòng trà ca nhạc có lẽ
vẫn kiếm được tiền nên không ít nghệ sĩ đã đầu tư làm bầu phòng trà như
Khánh Ly, Jo Marcel.
Năm 1954, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ miền Bắc di cư vào Sài Gòn, góp phần
làm cho nền tân nhạc ở miền Nam thời kỳ này đa dạng với nhiều dòng nhạc
dành cho nhiều tầng lớp khán giả. Thị trường âm nhạc sôi động cùng
những ca sĩ nổi tiếng giúp các phòng trà bước vào thời kỳ hoàng kim. Tới
phòng trà nghe nhạc là một nét văn hóa của Sài Gòn khi đó. Một nhà báo
đã viết: “Ngày là thời gian thành phố làm việc, đêm mới là thành phố
sống. Một trong các mảnh sống của đêm Sài Gòn là những tiếng ca hằng đêm
réo rắt trên khắp các hí trường phòng trà ca nhạc”.
Trong thời gian này khó xác định là phòng trà nào có trước. Có
người cho là phòng trà Anh Vũ của kiến trúc sư Võ Đức Diên. Phòng trà
này xuất thân từ một quán ăn do Võ Đức Diên thành lập (theo nhà văn Thế
Phong, đây là nơi Võ Đức Diên thu thập tin tức cho Ngô Đình Nhu bằng
cách có gắn máy thu băng trong các bức tường gỗ?). Tuy là phòng trà
nhưng có thiết kế một sân khấu nhỏ vừa cho một ban nhạc bỏ túi đệm đàn
cho những ca sĩ nổi tiếng được mời đến trình diễn như Bạch Yến, Mai
Hương, Duy Trác, Cao Thái.
Một “capheteria” khác theo phong cách của Anh Vũ cũng đã mọc lên
bên cạnh rạp chiếu bóng Việt Long, đường Cao Thắng với tên phòng trà Đức
Quỳnh do Đức Quỳnh đệm piano với những ca sĩ Minh Hiếu - Thanh Thúy,
Phương Dung... Vào tháng 5.1959, phòng trà ca nhạc Văn Cảnh đường
Calmete có quảng cáo “Ban hợp ca Thăng Long cùng với 8 nữ ca sĩ thanh
sắc song toàn, giá tiền thật bình dân 15 đồng trà, cà phê”... Một thời
gian sau phòng trà Sài Gòn nở rộ.
Giọng ca liêu trai
Bài hát Tình đời của Minh Kỳ đã được nữ ca sĩ Thanh Thúy thể hiện
bằng giọng hát hết sức “liêu trai”. Thời ấy, rất có nhiều giọng ca nữ
nổi tiếng nhưng giọng ca Thanh Thúy đã khiến nhiều văn nghệ sĩ ái mộ.
Trịnh Công Sơn với tác phầm đầu tay Ướt mi, Tôn Thất Lập với Tiếng hát
về khuya, Nguyễn Long với bộ phim Thúy đã đi rồi đều dành cho nữ ca sĩ
này.
Vào khoảng cuối năm 1958, Thanh Thúy vừa tập tễnh bước vào nghề ca
hát dưới sự dẫn dắt của ca sĩ Kim Chi. Một tài năng mới với nhan sắc
sương khói lảng vảng, giọng ca trầm buồn, vừa hát vừa đưa tay vuốt làn
tóc buông rơi. Nhà thơ Hoàng Trúc Ly đã tán tụng “Từ em tiếng hát lên
trời. Tay xoa dòng tóc, tay vời âm thanh...”.
Trong hồi ký, diễn viên Nguyễn Long đã viết: “Tháng 11/59, vào một
buổi tối thật buồn, sau khi coi xi nê trên rạp Việt Long, thấy còn sớm,
tôi lên phòng trà Việt Long ngay trên lầu của rạp hát do anh Đức Quỳnh
tổ chức, uống nước trà nghe các bạn ca sĩ hát cho qua giờ, chợt tôi nghe
thấy một giọng hát lạ, hơi lạ, tôi nhìn lên sân khấu, còn lạ hơn, một
cô gái thật nhỏ, ca sĩ không ra ca sĩ, học sinh không ra học sinh, dáng
dấp e ấp, ngại ngùng, giọng cô vang lên tưởng chừng như từ xa vọng lại”.
Nguyễn Long quen Thanh Thúy từ đêm đó. Đầu tháng 1.1960, Thanh Thúy
được mời hát trong chương trình Sầm Giang đại nhạc hội do Trần Văn
Trạch tổ chức tại rạp Đại Nam. Nguyễn Long kể: “Đại nhạc hội rất thành
công, nhưng màn được nhắc nhở nhất vẫn là màn trình diễn của Thanh Thúy.
Ngay trong tuần lễ đó, phần lớn các trang báo kịch trường của Sài
Gòn đều nhắc tới Thanh Thúy, khuôn mặt mới nhưng sáng chói của tân nhạc,
giọng ca liêu trai thu hút, lôi cuốn người thưởng thức, giọng ca đặc
biệt nhất của tân nhạc VN từ trước tới nay. Mỗi tờ báo viết một kiểu
khác nhau, nhưng cùng một lúc rất nhiều tờ, cho nên chỉ trong vòng có
một tuần lễ, hiện tượng Thanh Thúy đã trở thành một cơn bão nhỏ trong
thành phố, và chỉ một tháng sau đã lan tràn gần hết miền Nam. Một số
phòng trà tại Sài Gòn tới mời cô, rất nhiều đại nhạc hội tới mời cô...”.
Rất nhiều lời tán tụng giọng ca này, trong đó có một vị giáo sư
triết học. Hãy đọc một đoạn văn ngắn của Giáo sư Nguyễn Văn Trung viết
trong bài Ảo ảnh Thanh Thúy (Nhận định 4, Nam Sơn 1966): “Thanh Thúy mặc
quần áo VN, kín đáo, đứng đắn, không đeo những đồ giả, hiền lành, dè
dặt, khi hát chuyên môn ca bài Việt, hơn nữa chỉ ca một loại nhạc
buồn... Đứng trước Thanh Thúy, nghe Thanh Thúy hát những bài buồn buồn
bằng một giọng trầm, với những nét mặt xa vắng, khán giả cảm thấy như bị
lôi kéo về một dĩ vãng xa xôi nhưng cũng rất gần gũi quen thuộc, một dĩ
vãng dệt những hình ảnh rung động, cảm nghĩ gắn liền với lịch sử đất
nước, với thôn quê đồng ruộng, với sông Hương, núi Ngự, tiêu biểu cho
những gì là dân tộc, cá tính địa phương về mặt tiêu cực: một nỗi buồn
man mác, cô tịch, trầm lặng, vô định...”.
Thanh Thúy là một nữ ca sĩ sống lặng lẽ, không ồn ào dính tới những
điều tiếng về chuyện se sua hay tình ái. Sau này, người nữ ca sĩ có
giọng hát liêu trai của mình lặng đi một thời gian dài khi lập gia đình
cùng ông Ôn Văn Tài. Khi bà định cư ở Mỹ thì không còn nghe bà tham dự
vào giới ca nhạc nữa.
Lê Văn Nghĩa
( Thanh Niên )