* Tổng lược tình hình chiến sự tại phía Nam Bến Hải trong hai năm 1966-1967
Trong các số trước, chúng tôi đã tường trình về trận chiến Hè-Thu 1966
và trận chiến Mùa Hè 1967 giữa Liên quân Việt-Mỹ và hai sư đoàn chủ lực
CSBV tại phía Nam Bến Hải, từ khu Phi Quân Sự (DMZ) đến quận Gio Linh
tỉnh Quảng Trị. Nỗ lực chính của Liên quân Việt-Mỹ tại chiến trường này
là các đơn vị thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH, một số tiểu đoàn Nhảy Dù
VNCH, và lực lượng Thủy quân Lục chiến thuộc Lực lượng 3 Thủy bộ Hoa Kỳ.
Cao điểm của CSBV tại khu giới tuyến trong 2 năm 1966 và 1967 là trận
hỏa tập dữ dội bằng súng cối và phi đạn vào cụm phòng thủ của liên quân
Việt-Mỹ trong đêm 20/3/1967, mở màn cho cuộc tổng tấn công của các trung
đoàn chủ lực CSBV vuợt vĩ tuyến 17 xâm nhập vào khu Phi Quân Sự.
Trước khi CSBV mở các trận tấn công quy mô, ngay từ giữa năm 1966, khi
biết rõ địch quân liên tục xâm nhập miền Nam, đại tướng Westmoreland đã
có ý nghĩ muốn sử dụng lực lượng quốc tế đang tham chiến tại Việt Nam để
chận ngang khu Phi Quân Sự, ngoài ra ông cũng đã thiết kế một hệ thống
căn cứ án ngữ do liên quân Việt-Mỹ đảm trách để ngăn chận sự xâm nhập
của CQ. Sau đây bài lược trình về các kế hoạch nói trên của đại tướng
Westmoreland.
* Kế hoạch sử dụng lực lượng quốc tế tại khu Phi Quân Sự:
Trước diễn biến xảy ra tại khu Giới tuyến, đại tướng Westmoreland lập
ngay kế hoạch KANZUS, tên kế hoạch ghép từ chữ cái đầu tên của các nước
viết bằng tiếng Anh (K= Korea (Đại Hàn, A: Australia (Úc), NZ= New
Zealand (Tân Tây Lan), US: United States (Hoa Kỳ). Tại Sài Gòn, đại sứ
các nước đều đồng thanh ưng thuận, nhưng Hoa Thịnh Đốn không đồng ý. Sau
này khi được cử giữ chức Tham mưu trưởng Lục quân (từ giữa năm 1968),
đại tướng Westmoreland vẫn hối thúc chính phủ Hoa Kỳ thực hiện kế hoạch
này, vì theo nhận định của đại tướng Westmoreland thì chỉ có lực lượng
này mới đánh mạnh vào yếu tố tâm lý của thế giới, ngăn chận hữu hiệu sự
xâm nhập của CSBV mà Hà Nội lúc nào cũng chối rằng không có quân đội Bắc
Việt hiện diện tại miền Nam. Trong hồi ký của tướng Westmoreland, ông
đã nêu lên câu hỏi về vấn đề này như sau: giá như mà có được một lực
lượng quốc tế trấn giữ khu Phi Quân Sự vào năm 1972 hay 1975 thì thử hỏi
CSBV có dám xem thường thế giới mà xâm lăng miền Nam như vậy không”
* Hệ thống căn cứ án ngữ dọc phía Nam vĩ tuyến 17:
Tỉnh Quảng Trị về phía Tây có núi cao chót vót, phía Đông là biển và
triền cát, con sông Hiếu Giang phát nguyên từ Tây Cam Lộ cắt ngang 1/3
diện tích cực Bắc của tỉnh và chạy xuyên qua thị xã Đông Hà ra đến Cửa
Việt. Đông Hà cách Quảng Trị khoảng 10 km đường chim bay (đường bộ: 14
km), cách cầu Hiền Lương bắc ngang sông Bến Hải khoảng 15 km đường chim
bay (đường bộ: khoảng 20 km). Từ Đông Hà có con đường chạy lên biên giới
Việt-Lào ở phía Tây, đó là Quốc lộ 9. Khi đến gần biên giới, có một con
đường rẽ bằng đất đá, chiều ngang hẹp, chạy ngoằn ngoèo ngang qua trại
Lực lượng Đặc biệt Làng Vei đến khu vực người Thượng ở gần căn cứ Khe
Sanh.
Theo tướng Westmoreland, chỉ có một phương cách hữu hiệu nhất để ngăn
chận sự xâm nhập của CSBV vào Nam qua khu Phi Quân Sự là lập một hàng
rào chắn từ cửa biển đến biên giới Lào, nhưng như thế địch còn có thể
dùng đất Lào để chuyển quân. Vì vậy cần phải chận luôn từ biên giới một
hàng rào mà tướng Westoreland đặt tên là “hệ thống căn cứ án ngữ” chung
quanh các căn cứ hỏa lực và căn cứ hỏa lực để dồn địch vào các hành lang
dễ dàng cho phi cơ và đại bác yểm trợ các đơn vị bộ chiến tấn công để
diệt địch.
Các căn cứ này sẽ chiếm giữ một số cao điểm trong vùng duyên hải Quảng
Trị để quan sát và điều khiển hỏa lực Pháo binh, nhưng đồng thời cũng để
quan sát vị trí đặt súng của địch nhắm vào các cơ sở, doanh trại
Việt-Mỹ như phi trường, bãi chứa hàng để tiếp tế cho những đơn vị đóng
quân dọc theo sông chạy từ Cửa Việt đến phía Tây đi và tại Đông Hà. Bởi
lẽ rằng CSBV xây các cụm điểm đặt súng lớn ngay ở phía Bắc của Khu Phi
Quân Sự (DMZ) mới mưu tính đưa đại bác vào đó để pháo kích vào các vị
trí Việt-Mỹ ở phía Nam DMZ.
Trong số các căn cứ đặt trong địa bàn tỉnh Quảng Trị, căn cứ lớn nhất và
quan trọng nhất là Cồn Tiên, cách Khu Phi Quân Sự về phía Nam khoảng 3
km đường chim bay. Yểm trợ cho căn cứ này là căn cứ hỏa lực Carroll (Tân
Lâm) nằm trên Quốc Lộ 9, cách Cam Lộ khoảng 4 km đường chim bay. Gần
cuối năm 1996, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ còn xây thêm 1 căn cứ nữa lấy
tên là Rock Pile (Đống Đá) xa về hướng Tây, trên đỉnh một ngọn núi cao
hơn 300 mét, án ngữ các đường dọc theo thung lũng từ hướng Tây và Bắc
xuống. Hai căn cứ tiền đồn Làng Vei và Khe Sanh án ngữ mặt cực Tây là
hai cứ điểm quan trọng của hệ thống căn cứ án ngữ.
Ngay từ năm 1966 khi cho lệnh các đơn vị Hoa Kỳ xây dựng hệ thống án ngữ
nói trên, đại tướng Westmoreland đã nghĩ rằng các đơn vị VNCH có thể
đảm nhận một phần trong số các căn cứ này, nên ông luôn luôn theo dõi
không cho các đơn vị TQLC mở rộng căn cứ của họ đến mức các đơn vị VNCH
không đủ phương tiện để đảm nhận.
* Kế hoạch hàng rào điện tử Mc Namara:
Công việc đang tiến hành thì trong chuyến đi sang căn cứ Không quân
Clark tại Phi Luật Tân vào trung tuần tháng 9/1966 để dự họp với đại
diện của bộ Quốc phòng Hoa Kỳ là trung tướng Alfred D. Starbird, đại
tướng Westmoreland được thông báo là các khoa học gia đã chế tạo được
một dụng cụ điện tử có khả năng phát giác các cuộc chuyển quân của đối
phương. Dụng cụ này sẽ làm thành một hàng rào điện tử từ bờ biển chạy
dọc theo phía Nam của khu Phi Quân Sự băng qua Lào và xuyên qua đến biên
giới Thái Lan. Khi được thông báo như vậy, đại tướng Westmoreland nhận
định rằng đây là một ý kiến quá sang: dùng kỹ thuật tân tiến để thay thế
cho các đơn vị tác chiến trong nhiệm vụ phòng thủ thì còn gì bằng. Thế
nhưng vị tướng 4 sao này cũng đặt nghi vấn về tính khả dụng tuyệt hảo
của dụng cụ điện tử này: Lý thuyết thì rất hay, nhưng tôi (đại tướng
Westmoreland) có cảm tưởng là người ta đã nói quá đáng, có thể cả Mc
Namara (bộ trưởng Quốc phòng) cũng vậy, khi cho rằng dụng cụ điện tử này
có thể thay thế cho các cuộc ném bom miền Bắc Việt Nam.
Tên chính thức của công tác này là Dự án JASON, gồm có việc dùng dây kẽm
gai, mìn, dụng cụ phát giác điện tử và căn cứ quân sự. Theo đại tướng
Westmoreland thì dưới bất cứ nhà quân sự nào cũng thấy rằng ý kiến này
thật khôi hài vì không có một hàng rào-điện tử hay là gì đó-nếu không có
hỏa lực ngăn chận thì cũng vô hiệu. Nếu không thì cứ với hàng rào điện
tử này phải bố trí cứ mỗi dặm đặt một tiểu đoàn để canh giữ. Trong khi
chấp thuận ý kiến do trung tướng Starbid chuyển đạt, đại tướng
Westmoreland đã báo cho bộ trưởng Quốc phòng Mc Namara là nên vừa đặt
hàng rào điện tử vừa bố trí quân theo kế hoạch của vị tư lệnh này. Trong
khi đó, các khoa học gia thì nghĩ đến một hàng rào chắn chạy dài suốt
một dãi, còn đại tướng Westmoreland thì muốn đặt các dụng cụ này giữa
hai căn cứ để phát giác mọi di chuyển của địch, bất kể nhỏ hay lớn.
* Cụm tuyến hỏa lực-điện tử của liên quân Việt-Mỹ:
Theo lời kể của đại tướng Westmoreland, bộ trưởng Quốc phòng Mc Namara
đồng ý đề nghị của ông, nhưng trong cuộc họp báo tại Hoa Thịnh Đốn, ông
Mc Namra lại buột miệng nói ra hết kế hoạch lớn lao. Vậy là các phóng
viên loan tin về hàng rào điện tử Mc Namara, các bài báo này nói về kế
hoạch này đã chính thức thông báo cho Hà Nội biết mọi chuyện. Do đó khi
các đơn vị Công binh Hoa Kỳ cho xe ủi đất đến để khai quang, chở kẽm gai
đến chuẩn bị rào thì đại bác của CSBV đã bố trí sẵn. Trước sự việc đó,
đại tướng Westmoreland nghĩ rằng bây giờ nếu muốn hoàn thành mọi việc
xây dựng hàng rào án ngữ này, cho dù có thay đổi như đã dự trù đi nữa
thì tổn thất nhân mạng sẽ lên cao. Vì thế, đại tướng Westmoreland đã
phải âm thầm dẹp bỏ kế hoạch này để “địch khỏi chê cười là chúng tôi đã
bị buộc phải làm vậy”.
Trong khi thấy có sẵn các xe ủi đất dự định dọn sạch một đường dài dọc
theo khu Phi Quân Sự, trung tướng Walt-tư lệnh Lực lượng 3 đặc nhiệm
Thủy bộ/Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tại VN và đại tướng Westmoreland muốn
dùng các xe này dọn dẹp chung quanh căn cứ có sẵn để đặt mìn, đặt hàng
rào kẻm gai và nhiều dụng cụ điện tử phát giác. Dụng cụ phát giác này
dùng để báo động mỗi khi có địch đến gần những khu vực nào mà Liên quân
Việt-Mỹ định trước, thế nhưng đại tướng Westmoreland thấy căn bản của
việc phòng thủ này vẫn phải do phi cơ, pháo binh và các lực lượng trừ bị
đảm trách mới hữu hiệu.
Biết trước thế nào cũng phải tăng cường lực lượng Hoa Kỳ ra mạn Bắc Vùng
1 chiến thuật, đại tướng Westmoreland đã cho lệnh điều động đơn vị Công
binh của Hải quân xây thêm một phi trường ở sườn Bắc thị xã Quảng Trị
và nhiều cầu tàu dọc theo sông Hiếu Giang đoạn từ Cửa Việt đến Đông Hà.
Khi Công binh hoàn tất công việc, những nơi này có khả năng tiếp nhận
quân dụng tiếp tiệu gấp 10 lần trước, giúp các đơn vị bớt vất vả, nhất
là về mùa mưa, đèo Hải Vân rất khó lưu thông.
Với hệ thống quân cảng được phối trí ngay tại phía Bắc thị xã Quảng Trị
và dọc theo sông Hiếu Giang, cùng với cụm phòng tuyến hỏa lực-điện tử
với gần 20 căn cứ gần bờ biển đến tận biên giới Việt-Lào, liên quân
Việt-Mỹ đã nỗ lực triệt tiêu cường lực địch tại chiến trường giới tuyến.
(Biên soạn theo tài liệu của Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, hồi ký
của đại tướng Westmoreland-nhà xuất bản Thế Giới, bản tin chiến sự của
Tổng cục Chiến tranh Chính trị QL.VNCH phổ biến cho báo chí…
https://vietbao.com/a37548/phing-tuyen-hoa-luc-dien-tu-lien-quan-viet-my-doc-ben-hai