Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Quá Trình Thành Lập Các Đơn Vị Trực Thăng
Nhìn lại sự thành hình và phát triển của quân chủng Không Quân (KQ) từ ngày chính thức được thành lập (1 tháng 7 năm 1955) với quân số trên dưới 3,000 người cho đến ngày miền Nam sụp đổ, quân số Không Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã tăng lên đến hơn 64,000 chuyên viên thuộc đủ các ngành nghề. Không Quân đã có một bước tiến vượt bực. Ngành trực thăng tuy sinh sau đẻ muộn nhưng trước ngày tàn cuộc lại là một ngành có nhiều đơn vị phi hành nhất trong quân chủng (20 phi đoàn trực thăng UH-1, 4 phi đoàn trực thăng CH-47 và 8 phi đội tản thương xử dụng trực thăng UH-1). Sự phát triển của ngành trực thăng làm 3 thời kỳ sau đây.
THỜI KỲ PHÔI THAI (1955-57)
Khi Không Quân VNCH được chính thức thành lập tại Căn Cứ một Trợ Lực tại NhaTrang vào ngày một tháng 7 năm 1955 thì quân chủng đã có các đơn vị cơ hữu như sau:
Một phi đoàn khu trục xử dụng phi cơ F8F đồn trú tại căn cứ không quân Biên Hòa. Một phi đoàn tác chiến và liên lạc (1er GCL: 1er Groupe de Combat et de Liaison) xử dụng phi cơ MD 315 (Marcel Dassault 315) đồn trú tại căn cứ không quân Nha Trang. Hai phi đoàn quan sát và trợ chiến (GAOAC: Groupe Aérien d’Observation et d’Accompagnement de Combat) xử dụng phi cơ Moranne 500 (MS 500) đồn trú ở Nha Trang và Ðà Nẵng. Một phi đoàn liên lạc (ELA: Escadrille de Liaison Aérienne) xử dụng phi cơ C-47 và C-45 (Beechcraft) đồn trú tại Tân Sơn Nhất Một liên phi-đoàn vận tải gồm 2 phi đoàn C-47 đồn trú tại Tân Sơn Nhất, Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân ở Nha Trang, và một công xưởng Không Quân ở Biên Hòa để bảo trì và sửa chửa các loại phi cơ. Phải đợi đến cuối năm 1957 khi quân đội viễn chinh Pháp hoàn tất việc rút quân khỏi Việt Nam và phái bộ cố vấn và viện trợ quân sự của Hoa Kỳ (Military Assistance & Advisory Group, viết tắt là MAAG) bắt tay vào việc cải tổ Không Quân VNCH theo lề lối tổ chức của họ thì Ðệ Nhất Phi Ðoàn Trực Thăng mới được thành lập ở Tân Sơn nhất với 14 trực thăng H-19 do quân đội Pháp để lại.
Thành phần chỉ huy Đệ Nhất Phi Đoàn Trực Thăng lúc đó gồm có:
Ðại Úy Nguyễn đức Hớn (chỉ huy trưởng) Trung Úy Nguyễn xuân Trường (chỉ huy phó) Trung Úy Nguyễn đình Thập (trưởng phòng hành quân) Thiếu Úy Ngô khắc Thuật (sĩ quan kỹ thuật) Thời gian từ 1952 đến 1955, Không Quân VNCH chưa có hoa tiêu trực thăng và quân đội Pháp ở Ðông Dương. Thời đó chỉ có một phi đoàn trực thăng duy nhất, xử dụng loại trực thăng H19 (Sikorsky S55) mà công tác chính là tản thương hay tiếp tế. Một số từ 2 đến 4 chiếc trực thăng của phi đoàn này được phân phối đến Lào và Cambốt, số còn lại đồn trú tại căn cứ không quân Tân Sơn Nhất.
Theo chương trính viện trợ quân sự của Hoa Kỳ trong đó có phần chuyển giao phi đoàn H19 của Pháp cho Việt Nam Cộng Hòa và vì lúc đó Không Quân VNCH chưa có hoa tiêu trực thăng nên Hoa Kỳ đã yêu cầu Bộ Tư Lệnh Không Quân gấp rút gởi người sang Mỹ để huấn luyện. Bộ Tư Lệnh Không Quân đã chọn một số huấn luyện viên đang phục vụ tại căn cứ huấn luyện Không Quân Nha Trang như Thiếu Úy Nguyễn Huy Ánh, Chuẩn Úy Ông Lợi Hồng và Chuẩn Úy Nguyễn Văn Bá, những hoa tiêu đầu tiên của Không Quân VNCH đã tốt nghiệp huấn luyện viên trên các loại phi cơ T-6, T-28 và T-34 ở Hoa Kỳ năm 1955.
Các sĩ quan huấn luyện viên này được gởi sang căn cứ không quân Randolph AFB (San Antonio, Texas) để thụ huấn trên các loại trực thăng H13 (một loại trực thăng nhỏ, 2 chỗ ngồi với 2 càng (skid) dùng làm chân đáp trên đó có thể mắc 2 băng ca tản thương) và H19, với khoảng 65 giờ bay. Sau khi tốt nghiệp trở về Việt Nam họ đã bay cùng với các hoa tiêu trực thăng của Pháp tại Sàigon trước khi Ðệ Nhất Phi Ðoàn Trực Thăng được thành lập. Ðây là những huấn luyện viên nồng cốt của nghành trực thăng và là những tên tuổi quen thuộc trong Không Lực VNCH về sau này.
Hình chụp một số phi công VNCH thuộc Phi Ðoàn Trực Thăng 219. Ðầu năm 1966, phi đoàn này được thành lập vào tháng 3 năm 1964 tại Pleiku. Trước đó, Phi Đoàn 219 là một đơn vị trực thăng chuyên phụ trách việc đưa đón các toán thám-kích VNCH đi sâu vào lãnh thổ Lào và Cam Bốt để quan sát địa hình đối phương. Các sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy đầu tiên của phi đoàn gồm có: Đại Úy Hồ Bảo Định, Đại Úy Trần Văn Luân, Đại Úy Nguyễn Văn Nghĩa, Trung Úy Nguyễn Hữu Lộc, và Trung Úy Đỗ Văn Hiếu. (HÌNH ẢNH: Gary Rodgers) |
Chương trình huấn luyện trực thăng cho các hoa tiêu của Việt Nam Cộng Hòa thoạt đầu do căn cứ không quân Randolph đảm nhận và bắt đầu từ năm 1958 thì chuyển sang căn cứ không quân Stead (Reno, Nevada) cho đến cuối năm 1962 thì chấm dứt.
Hai cựu hoa tiêu L-19 đã tốt nghiệp sau cùng tại đây là các sinh viên sĩ quan Bùi Quang Chính và Lê Quỳnh. Trước khi Không Quân VNCH gởi các hoa tiêu sang Hoa Kỳ dể thụ huấn trên trực thăng thì đã có một số khóa sinh sau khi tốt nghiệp trên T6 tại Marrakech đã được gởi sang Paris để học lái H-13 như Trần Minh Thiện (phi đoàn trưởng Phi Đoàn 215, trưởng phòng đặc trách trực thăng Bộ Tư Lệnh Không Quân), Ðặng Văn Phước (phi đoàn trưởng Phi Đoàn 213, Phi Đoàn 219, không đoàn trưởng Không Đoàn 51 Chiến Thuật), Nguyễn Văn Trang (phi đoàn trưởng Phi Đoàn 215, liên đoàn trưởng Liên Đoàn 72, liên đoàn trưởng Liên Đoàn Trợ Lực thuộc Sư Đoàn 2 KQ), Công Xuân Phương (giải ngũ), Nguyễn Quang Phúc (hoa tiêu Phi Đoàn 213, sĩ quan an ninh) nhưng khi về nước tất cả đều được thuyên chuyển đến các phi đoàn quan sát vì lúc đó Không Quân VNCH chưa có phi đoàn trực thăng.
Sau khi thành lập Ðệ Nhất Phi Đoàn Trực Thăng tiếp nhận thêm 8 chiếc H-19 từ Hoa Kỳ, nâng tổng số trực thăng cơ hữu lên 22 chiếc gồm hai loại: H-19A (trang bị máy T6 do hãng Pratt & Whitney chế tạo) và H-19B (trang bị máy T28 do hãng Wright chế tạo).
Trực thăng H-19A rất yếu, có khi giữa trưa trời nắng nóng và gió êm như ở Sàigon phi cơ chỉ chở một vài hành khách thôi mà vẫn không cất cánh nổi. Trong mấy năm cuối thập niên 50 tình hình miền Nam tương đối yên tĩnh và cũng vì số phi cơ khả dụng quá ít nên nhiệm vụ chính của phi đoàn chỉ là huấn luyện và liên lạc.
Thỉnh thoảng nếu Bộ Tổng Tham Mưu cần hành quân đổ bộ ở một nơi nào đó thì phải cho Bộ Tư Lệnh Không Quân biết trước cả tuần lễ để kỹ thuật có thì giờ sửa chữa và nâng số phi cơ khả dụng lên ít nhất là 10 chiếc. Mỗi lần hành quân đổ bộ như vậy H-19 chỉ chở tối đa từ 5 đến 6 binh sĩ và khi đáp thì phải đáp thẳng xuống chứ không thể bay một chỗ được như những loại trực thăng H-34 hay UH-1 sau này.
THỜI KỲ PHÁT TRIỂN (1958-69)
Bắt đầu từ năm 1958 vì nhận thấy các H-19 thuộc Ðệ Nhất Phi Ðoàn Trực Thăng quá cũ kỹ nên Hoa Kỳ đã gởi 16 chiếc H-34 sang để thay thế và đồng thời cũng gởi sang một toán huấn luyện viên, cơ phi, chuyên viên kỹ thuật và một dân chính đại diện hang Sikorsky đến Sàigon để huấn luyện cho các nhân viên Việt Nam. Thời gian bay huấn luyện trên trực thăng H-34 khoảng 10 giờ. Cũng trong thời gian này Ðệ Nhất Phi Ðoàn Trực Thăng được cải danh thành Phi Ðoàn 211 và các chức vụ chỉ huy cũng thay đổi như sau:
Ðại Úy Nguyễn Huy Ánh (chỉ huy trưởng) Ðại Úy Nguyễn Đình Thập (chỉ huy phó) Trung Úy Bùi Quang Các (trưởng phòng hành quân) Trực thăng H-34 mạnh hơn, bay nhanh hơn và có tầm bay xa hơn H-19 nên việc bay yểm trợ cho quân bạn hay liên lạc hành quân rất dễ dàng và hữu hiệu hơn. Công việc hành quân của Phi Đoàn 211 vào những năm cuối của thập niên 50 chẳng có là bao vì tình hình miền Nam lúc đó tương đối yên tĩnh.
Vào những tháng đầu năm 1960, Việt cộng khởi sự tranh đấu bằng vũ lực. Khởi đầu là trận đánh phá doanh trại của Tiểu Đoàn 13 thuộc Sư Đoàn 16 Bộ Binh (BB) ở Trảng Sụp (Tây Ninh) vào ngày 19 tháng 2 năm 1960 (sư đoàn này về sau trở thành Sư Đoàn 22 BB). Trong trận này phía VNCH bị thiệt hại nặng nề. Tiếp theo sau đó là một loạt công đồn đả viện ở Kiến Hòa mà quân đội VNCH đã phải xử dụng cả liên đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) để chống trả và càn quét đối phương.
Việc xử dụng trực thăng để làm những công tác yểm trợ cho quân bạn như tải thương, tiếp tế hoặc chuyển vận quân lính trên các mặt trận trở thành quan trọng. Do đó Phi Đoàn 213 được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1961 tại Tân Sơn Nhất với 20 chiếc trực thăng H-34 và thành phần chỉ huy như sau:
Ðại Úy Nguyễn Xuân Trường (chỉ huy trưởng) Ðại Úy Nguyễn Hữu Hậu (chỉ huy phó) Thiếu Úy Nguyễn Văn Trang (trưởng phòng hành quân) Trung Úy Ngô Khắc Thuật (sĩ quan kỹ thuật) Sau khi hoàn tất chương trình huấn luyện, Phi Đoàn 213 dời về Ðà Nẵng khoảng tháng 4 năm 1962. Ðến tháng 8, Ðại Úy Nguyễn xuân Trường thuyên chuyển đến nhiệm sở khác và Đại Úy Nguyễn Hữu Hậu thay thế vào chức vụ chỉ huy trưởng phi đoàn. Nhiệm vụ của Phi Đoàn 213 là yểm trợ quân bạn thuộc Sư Đoàn 1 BB (Huế) và Sư Đoàn 2 BB (Quảng Ngãi) hay các tiền đồn xa xôi, hẻo lánh trong vùng rừng núi thuộc lãnh thổ Quân Khu 1.
Ðầu năm 1963, Phi Đoàn 215 được thành lập tại Tân Sơn Nhất và đặt dưới quyền chỉ huy của Ðại Úy Nguyễn Đình Thập. Phi đoàn này xử dụng trực thăng H-19 để huấn luyện hoa tiêu tại quốc nội. Việc huấn luyện này hoàn toàn do các huấn luyện viên của Hoa Kỳ đảm nhận.
Phi Đoàn 215 hoàn tất được 4 khóa huấn luyện và mỗi khóa gồm 20 khóa sinh. Khóa học kéo dài 5 tháng và mỗi khóa sinh được bay 80 giờ trên trực thăng H-19. Thủ khoa Khóa 1 là Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Nhàn, thủ khoa Khóa 2 là Chuẩn Úy Phan Quang Vinh. Vì kết quả huấn luyện không khả quan và gặp nhiều khó khăn về vấn đề kỹ thuật nên phi đoàn này đã giải tán vào tháng 5 năm 1964.
Vào tháng 4 năm 1964, Phi Đoàn 217 được thành lập tại Ðà Nẵng với thành phần chỉ huy như sau:
Ðại Úy Ông Lợi Hồng (phi đoàn trưởng) Trung Úy Nguyễn Văn Phú Hiệp (phi đoàn phó) Trung Úy Mai Văn Hải (sĩ quan hành quân) Thiếu Úy Hồng Văn Tý (hoa tiêu thử nghiệm) Chuẩn Úy Trần Phước Hội (sĩ quan kỹ thuật) Các hoa tiêu trực thăng sau khi tốt nghiệp tại các trường bay ở Hoa Kỳ trở về nước được thuyên chuyển đến Phi Đoàn 217 và được gởi đến Phi Đoàn trực thăng HMS 364 của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ ở Ðà Nẵng để bay huấn luyện và thực tập. Ðến tháng 8 năm 1964, sau khi hoàn tất chương trình huấn luyện, Phi Đoàn 217 tiếp nhận 24 trực thăng H-34 từ Phi Đoàn HMS 364 và di chuyển về Tân Sơn Nhất.
Trong thời gian đồn trú ở Tân Sơn Nhất, phi đoàn có trách nhiệm yểm trợ cho quân bạn trong Vùng 3 Chiến Thuật, đồng thời có một biệt đội 6 chiếc H-34 tại Cần Thơ. Sau khi phi trường Trà Nóc hoàn tất, Phi Đoàn 217 dời về Cần Thơ vào tháng 2 năm 1965.
Tháng 9 năm 1964, một phi đoàn trực thăng mới được thành lập tại Ðà Nẵng, và vì Phi Đoàn 215 huấn luyện đã giải tán trước đây nên phi đoàn này lấy lại danh số 215. Bộ chỉ huy phi đoàn gồm có:
Ðại Úy Trần Minh Thiện (phi đoàn trưởng) Trung Úy Ðặng Trần Dưỡng (phi đoàn phó) Thiếu Úy Nguyễn Văn Trang (sĩ quan hành quân) Thiếu Úy Phạm Bính (sĩ quan phụ tá) Phi Đoàn 215 hoạt động chung với Phi đoàn 213 tại Ðà Nẵng trong việc huấn luyện và hành quân cho đến đầu năm 1965 thì di chuyển về Nha Trang.
Ðầu năm 1964, Không Quân VNCH có 3 trực thăng H-34 biệt phái làm việc với Lực Lượng Ðặc Biệt Delta ở Nha Trang. Nhiệm vụ của biệt đội này là thả các toán thám sát dọc theo biên giới Việt-Miên hoặc vào các mật khu của Việt Cộng. Ðến giữa năm 1964, một biệt đội khác cũng gồm 3 chiếc trực thăng H-34 được biệt phái làm việc với các chiến đoàn xung kích thuộc Sở Liên Lạc. Nhiệm vụ của biệt đội này là thả các toán thám sát Lôi Hổ vào lãnh thổ Lào và Cam Bốt để kiểm soát các hoạt động của địch quân.
Ðầu năm 1966 hai biệt đội này sát nhập lại để thành lập Phi Ðoàn 219, đồn trú trong nội vi phi trường Ðà Nẵng. Phi Ðoàn này trực thuộc Biệt Ðoàn 83 ở Tân Sơn Nhất cho đến khi biệt đoàn giải tán vào năm 1969 thì được chuyển sang trực thuộc Không Đoàn 41 Chiến Thuật. Bộ chỉ huy đầu tiên của Phi Ðoàn 219 gồm có:
Đại Úy Hồ Bảo Ðịnh (phi đoàn trưởng) Ðại Úy Trần Văn Luân (phi đoàn phó) Ðại Úy Nguyễn Văn Nghĩa (sĩ quan hành quân) Ðại Úy Nguyễn Phi Hùng (sĩ quan phụ tá) Trung Úy Nguyễn Hữu Lộc (sĩ quan huấn luyện) Sau khi thành lập, Phi Đoàn 219 vẫn giữ nhiệm vụ thả các toán thám sát Lôi Hổ sang bên kia biên giới Việt-Miên và Việt-Lào gần lãnh thổ của Quân Khu 1 và Quân Khu 2.
Một điểm đáng ghi nhận là khoảng cuối năm 1960, Không Quân VNCH có 2 chiếc Alouette 2 (hai hoa tiêu phía trước, băng sau chở ba hành khách) và hai chiếc Alouette 3 (hai hoa tiêu phía trước, băng sau chở bốn hành khách) trực thuộc Phi Ðoàn Liên Lạc (ELA) và dùng để chở các yếu nhân. Các trực thăng này do hãng Sud Aviation của Pháp chế tạo, nhẹ nhàng và nhậm lẹ còn dùng để liên lạc tản thương hay quan sát. Thiếu Úy Ông Lợi Hồng từ Phi Đoàn 211 được thuyên chuyển đến đây để bay những chiếc trực thăng này đồng thời huấn luyện cho các hoa tiêu vận tải như Trung Tá Phạm Ngọc Sang và Thiếu Úy Chính.
Đầu năm 1964 các không đoàn chiến thuật được thành lập và các đơn vị kỹ thuật trước đây nằm trong hệ thống chỉ huy của các phi đoàn được tách rời ra để thành lập các liên đoàn kỹ thuật. Vì vậy, các chức vụ chỉ huy của các phi đoàn được cải danh thành phi đoàn trưởng, phi đoàn phó, sĩ quan hành quân (thay vì chỉ huy trưởng, chỉ huy phó, và trưởng phòng hành quân).
Nhìn chung trong khoảng thời gian từ cuối năm 1958 đến cuối năm 1969, tình hình chiến sự tại miền Nam Việt-Nam ngày mỗi gia tăng. Bắc Việt cho xâm nhập vào miền Nam các đơn vị chính quy cùng nhiều vũ khí tối tân do Liên Sô, Trung Cộng và khối Cộng Sản Đông Âu cung cấp. Ðã có những trận đánh lớn giữa các sư đoàn bộ binh hoặc các đơn vị tổng trừ bị của Việt Nam Cộng Hòa như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến với quân Bắc Việt tại các mặt trận như Ấp Bắc (1963, Vùng 4 Chiến Thuật), Bình Giả (năm 1964-65, Vùng 3 Chiến Thuật), Ðỗ Xá (năm 1965, Vùng 1 Chiến Thuật), Pleime (năm 1965, Vùng 2 Chiến Thuật), Ðồng Xoài (năm 1965, Vùng 3 Chiến Thuật).
Vào những năm cuối cùng của thập niên 60, bắt đầu với cuộc tổng công kích Tết Mậu thân năm 1968, Việt Cộng xử dụng rất nhiều súng phòng không như 12.7-ly hoặc 37-ly và đã gây nhiều thiệt hại cho các phi đoàn trực thăng. Tính đến cuối năm 1969, Không Quân VNCH đã tiếp nhận từ phía Hoa Kỳ tất cả là 193 trực thăng H-34.
THỜI KỲ VIỆT NAM HÓA (1970-75)
Giữa năm 1969, Bộ Tư Lệnh Không Quân đã bắt đầu gởi nhiều khóa sinh sang Hoa Kỳ để học bay trực thăng và cho đến đầu năm 1970 sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon tuyên bố chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh thì số lượng khóa sinh du học tăng lên gấp bội. Tại hai trường huấn luyện trực thăng Fort Wolters (Mineral Wells, Texas) và Fort Hunter (Hunter Army Air Field, Savannah, Georgia) vào thời cao điểm mỗi nơi có đến 500 khóa sinh Việt Nam. Tại mỗi trường bay thường có một toán liên lạc của Không Quân VNCH gồm 5 sĩ quan và 5 hạ sĩ quan.
Trường huấn luyện Trực Thăng tại Fort Wolters tiếp nhận các khóa sinh Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 8 năm 1962 và 11 khóa sinh phi hành thuộc Khóa 61 vỡ lòng tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang gồm Trung Úy Ðỗ Minh Ðức và các sinh viên sĩ quan Hồng Văn Tý, Trần Xuân Quang, Ðặng Kim Quy, Phạm Bính, Trần Hữu Khôi, Ðinh Hữu Hiệp, Nguyễn Hữu Lộc, Trần Quang Võ, Phan Ngọc Huệ và Ðỗ Văn Hiếu đã đến đây để học bay trên trực thăng H-23.
Trường này xử dụng loại trực thăng H-23 để huấn luyện trong giai đoạn đầu cho đến cuối năm 1969 thì đổi sang trực thăng TH-55. Số giờ bay huấn luyện tại các trường này gồm 120 giờ trên trực thăng TH-55 (tại Fort Wolter) và 80 giờ trên trực thăng U1-H (tại Fort Hunter). Sau khi mãn khóa trở về nước các hoa tiêu này được thuyên chuyển đến các đơn vị trực thăng tân lập. Từ năm 1970 cho đến đầu năm 1973 tất cả nhân viên phi hành của các đơn vị tân lập cũng như của các phi đoàn H-34 cơ hữu của Không Lực VNCH đều được lần lượt gởi đến các đơn vị trực thăng tại miền Nam Việt Nam để thực tập hành quân trên các trực thăng UH-1 hoặc huấn luyện tác xạ trên trực thăng võ trang.
Sau khi hoàn tất chương trình huấn luyện các đơn vị trực thăng của Hoa Kỳ lần lượt giải tán và chuyển giao phi cơ lại cho các phi đoàn của Việt Nam Cộng Hòa. Cấp số của mỗi phi đoàn UH-1 là 32 chiếc. Mỗi phi đoàn có 3 phi đội, mỗi phi đội có 8 trực thăng vận-chuyển và một phi đội riêng biệt với 8 trực thăng võ trang. Tuy nhiên cũng có nhiều đơn vị tiếp nhận đến 38 chiếc UH-1 từ các đơn vị trực thăng của Hoa Kỳ. Cấp số của mỗi phi đoàn trực thăng CH-47 Chinook là 16 chiếc.
Trong năm 1970 có một phi đoàn CH-47 và 4 phi đoàn UH-1 được thành lập:
Phi Đoàn 237 (với trực thăng CH-47) thành lập tháng 9 năm 1970 tại Biên Hòa Phi Đoàn 223 (với trực thăng UH-1) thành lập tháng 9 năm 1970 tại Biên Hòa Phi Đoàn 225 (với trực thăng UH-1) thành lập tháng 10 năm 1970 tại Sóc Trăng Phi Đoàn 227 (với trực thăng UH-1) thành lập tháng 11 năm 1970 tại Sóc Trăng Phi Đoàn 229 (với trực thăng UH-1) thành lập tháng 12 năm 1970 tại Pleiku Trong năm 1971 có sáu phi đoàn trực thăng UH-1 được thành lập:
Phi Đoàn 221 thành lập tháng 1 năm 1971 tại Biên Hòa Phi Đoàn 233 thành lập tháng 1 năm 1971 tại Đà Nẵng Phi Đoàn 235 thành lập tháng 2 năm 1971 tại Pleiku Phi Đoàn 231 thành lập tháng 3 năm 1971 tại Biên Hòa Phi Đoàn 243 thành lập tháng 11 năm 1971 tại Phù Cát Phi Đoàn 245 thành lập tháng 12 năm 1971 tại Biên Hòa Trong năm 1972 có một phi đoàn UH-1 và 3 phi đoàn CH-47 được thành lập:
Phi Đoàn 239 (với trực thăng UH-1) thành lập tháng 2 năm 1972 tại Đà Nẵng Phi Đoàn 241 (với trực thăng CH-47) thành lập tháng 5 năm 1972 tại Phù Cát Phi Đoàn 247 (với trực thăng CH-47) thành lập tháng 12 năm 1972 tại Đà Nẵng Phi Đoàn 249 (với trực thăng CH-47) thành lập tháng 12 năm 1972 tại Cần Thơ Ðầu năm 1973, bốn phi đoàn UH-1 cuối cùng được thành lập:
Phi Đoàn 251 được thành lập tại Biên Hòa Phi Đoàn 253 được thành lập tại Đà Nẵng Phi Đoàn 255 được thành lập tại Cần Thơ Phi Đoàn 257 được thành lập tại Đà Nẵng Cũng trong thời gian từ đầu 1970 đến đầu 1973, có 8 phi đội tản thương, mỗi phi đội gồm 12 trực thăng UH-1 đã được thành lập.
KẾT LUẬN
Việt Nam là chiến trường mà quân đội Hoa Kỳ lần đầu tiên đã thực hiện chiến thuật hành-quân trực thăng vận với tầm cỡ to lớn. Trong một thập niên tại đây họ đã xử dụng (chưa kể số trực thăng võ trang AH-1 Cobra và không-vận CH-47 Chinook) khoảng 7,013 chiếc trực thăng UH-1 đã được xử dụng để yểm trợ cho một lực lượng bộ-chiến với nửa triệu quân của họ.
Không Lực VNCH, tính đến trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã tiếp nhận khoảng 800 chiếc UH-1 và gần 100 chiếc CH-47 (con số này chưa bằng 1/3 số trực thăng UH-1 của Hoa Kỳ bị thiệt hại trên chiến trường miền Nam, tức 3,305 chiếc). Ðây là một số lượng đáng kể nhưng thiết nghĩ các trực thăng này là những phi cơ quá cũ đã được các đơn vị trực thăng của Hoa Kỳ xử dụng quá nhiều, nên sau khi chuyển giao lại cho Việt Nam Cộng Hòa thường bị hư hỏng.
Thêm vào đó, sau khi hiệp định Paris được ký kết vào năm 1973, Hoa Kỳ lần lượt cắt giảm viện trợ, và xăng dầu cũng như các cơ phận thay thế càng ngày càng bị thiếu hụt nên Việt Nam Cộng Hòa đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc bảo trì sửa chữa phi cơ. Sự thiếu hụt này đã ảnh hưởng rất nhiều đến các chiến dịch hành quân trực thăng vận, yểm trợ, tiếp tế, hay tải thương. Đặc biệt là các tiền đồn ở những vùng hẻo lánh xa xôi hay bị quân Bắc Việt bao vây và đánh chiếm.
Ðỗ Văn Hiếu
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Quá Trình Thành Lập Các Đơn Vị Trực Thăng
Nhìn lại sự thành hình và phát triển của quân chủng Không Quân (KQ) từ ngày chính thức được thành lập (1 tháng 7 năm 1955) với quân số trên dưới 3,000 người cho đến ngày miền Nam sụp đổ, quân số Không Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã tăng lên đến hơn 64,000 chuyên viên thuộc đủ các ngành nghề. Không Quân đã có một bước tiến vượt bực. Ngành trực thăng tuy sinh sau đẻ muộn nhưng trước ngày tàn cuộc lại là một ngành có nhiều đơn vị phi hành nhất trong quân chủng (20 phi đoàn trực thăng UH-1, 4 phi đoàn trực thăng CH-47 và 8 phi đội tản thương xử dụng trực thăng UH-1). Sự phát triển của ngành trực thăng làm 3 thời kỳ sau đây.
THỜI KỲ PHÔI THAI (1955-57)
Khi Không Quân VNCH được chính thức thành lập tại Căn Cứ một Trợ Lực tại NhaTrang vào ngày một tháng 7 năm 1955 thì quân chủng đã có các đơn vị cơ hữu như sau:
Một phi đoàn khu trục xử dụng phi cơ F8F đồn trú tại căn cứ không quân Biên Hòa. Một phi đoàn tác chiến và liên lạc (1er GCL: 1er Groupe de Combat et de Liaison) xử dụng phi cơ MD 315 (Marcel Dassault 315) đồn trú tại căn cứ không quân Nha Trang. Hai phi đoàn quan sát và trợ chiến (GAOAC: Groupe Aérien d’Observation et d’Accompagnement de Combat) xử dụng phi cơ Moranne 500 (MS 500) đồn trú ở Nha Trang và Ðà Nẵng. Một phi đoàn liên lạc (ELA: Escadrille de Liaison Aérienne) xử dụng phi cơ C-47 và C-45 (Beechcraft) đồn trú tại Tân Sơn Nhất Một liên phi-đoàn vận tải gồm 2 phi đoàn C-47 đồn trú tại Tân Sơn Nhất, Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân ở Nha Trang, và một công xưởng Không Quân ở Biên Hòa để bảo trì và sửa chửa các loại phi cơ. Phải đợi đến cuối năm 1957 khi quân đội viễn chinh Pháp hoàn tất việc rút quân khỏi Việt Nam và phái bộ cố vấn và viện trợ quân sự của Hoa Kỳ (Military Assistance & Advisory Group, viết tắt là MAAG) bắt tay vào việc cải tổ Không Quân VNCH theo lề lối tổ chức của họ thì Ðệ Nhất Phi Ðoàn Trực Thăng mới được thành lập ở Tân Sơn nhất với 14 trực thăng H-19 do quân đội Pháp để lại.
Thành phần chỉ huy Đệ Nhất Phi Đoàn Trực Thăng lúc đó gồm có:
Ðại Úy Nguyễn đức Hớn (chỉ huy trưởng) Trung Úy Nguyễn xuân Trường (chỉ huy phó) Trung Úy Nguyễn đình Thập (trưởng phòng hành quân) Thiếu Úy Ngô khắc Thuật (sĩ quan kỹ thuật) Thời gian từ 1952 đến 1955, Không Quân VNCH chưa có hoa tiêu trực thăng và quân đội Pháp ở Ðông Dương. Thời đó chỉ có một phi đoàn trực thăng duy nhất, xử dụng loại trực thăng H19 (Sikorsky S55) mà công tác chính là tản thương hay tiếp tế. Một số từ 2 đến 4 chiếc trực thăng của phi đoàn này được phân phối đến Lào và Cambốt, số còn lại đồn trú tại căn cứ không quân Tân Sơn Nhất.
Theo chương trính viện trợ quân sự của Hoa Kỳ trong đó có phần chuyển giao phi đoàn H19 của Pháp cho Việt Nam Cộng Hòa và vì lúc đó Không Quân VNCH chưa có hoa tiêu trực thăng nên Hoa Kỳ đã yêu cầu Bộ Tư Lệnh Không Quân gấp rút gởi người sang Mỹ để huấn luyện. Bộ Tư Lệnh Không Quân đã chọn một số huấn luyện viên đang phục vụ tại căn cứ huấn luyện Không Quân Nha Trang như Thiếu Úy Nguyễn Huy Ánh, Chuẩn Úy Ông Lợi Hồng và Chuẩn Úy Nguyễn Văn Bá, những hoa tiêu đầu tiên của Không Quân VNCH đã tốt nghiệp huấn luyện viên trên các loại phi cơ T-6, T-28 và T-34 ở Hoa Kỳ năm 1955.
Các sĩ quan huấn luyện viên này được gởi sang căn cứ không quân Randolph AFB (San Antonio, Texas) để thụ huấn trên các loại trực thăng H13 (một loại trực thăng nhỏ, 2 chỗ ngồi với 2 càng (skid) dùng làm chân đáp trên đó có thể mắc 2 băng ca tản thương) và H19, với khoảng 65 giờ bay. Sau khi tốt nghiệp trở về Việt Nam họ đã bay cùng với các hoa tiêu trực thăng của Pháp tại Sàigon trước khi Ðệ Nhất Phi Ðoàn Trực Thăng được thành lập. Ðây là những huấn luyện viên nồng cốt của nghành trực thăng và là những tên tuổi quen thuộc trong Không Lực VNCH về sau này.
Hình chụp một số phi công VNCH thuộc Phi Ðoàn Trực Thăng 219. Ðầu năm 1966, phi đoàn này được thành lập vào tháng 3 năm 1964 tại Pleiku. Trước đó, Phi Đoàn 219 là một đơn vị trực thăng chuyên phụ trách việc đưa đón các toán thám-kích VNCH đi sâu vào lãnh thổ Lào và Cam Bốt để quan sát địa hình đối phương. Các sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy đầu tiên của phi đoàn gồm có: Đại Úy Hồ Bảo Định, Đại Úy Trần Văn Luân, Đại Úy Nguyễn Văn Nghĩa, Trung Úy Nguyễn Hữu Lộc, và Trung Úy Đỗ Văn Hiếu. (HÌNH ẢNH: Gary Rodgers) |
Chương trình huấn luyện trực thăng cho các hoa tiêu của Việt Nam Cộng Hòa thoạt đầu do căn cứ không quân Randolph đảm nhận và bắt đầu từ năm 1958 thì chuyển sang căn cứ không quân Stead (Reno, Nevada) cho đến cuối năm 1962 thì chấm dứt.
Hai cựu hoa tiêu L-19 đã tốt nghiệp sau cùng tại đây là các sinh viên sĩ quan Bùi Quang Chính và Lê Quỳnh. Trước khi Không Quân VNCH gởi các hoa tiêu sang Hoa Kỳ dể thụ huấn trên trực thăng thì đã có một số khóa sinh sau khi tốt nghiệp trên T6 tại Marrakech đã được gởi sang Paris để học lái H-13 như Trần Minh Thiện (phi đoàn trưởng Phi Đoàn 215, trưởng phòng đặc trách trực thăng Bộ Tư Lệnh Không Quân), Ðặng Văn Phước (phi đoàn trưởng Phi Đoàn 213, Phi Đoàn 219, không đoàn trưởng Không Đoàn 51 Chiến Thuật), Nguyễn Văn Trang (phi đoàn trưởng Phi Đoàn 215, liên đoàn trưởng Liên Đoàn 72, liên đoàn trưởng Liên Đoàn Trợ Lực thuộc Sư Đoàn 2 KQ), Công Xuân Phương (giải ngũ), Nguyễn Quang Phúc (hoa tiêu Phi Đoàn 213, sĩ quan an ninh) nhưng khi về nước tất cả đều được thuyên chuyển đến các phi đoàn quan sát vì lúc đó Không Quân VNCH chưa có phi đoàn trực thăng.
Sau khi thành lập Ðệ Nhất Phi Đoàn Trực Thăng tiếp nhận thêm 8 chiếc H-19 từ Hoa Kỳ, nâng tổng số trực thăng cơ hữu lên 22 chiếc gồm hai loại: H-19A (trang bị máy T6 do hãng Pratt & Whitney chế tạo) và H-19B (trang bị máy T28 do hãng Wright chế tạo).
Trực thăng H-19A rất yếu, có khi giữa trưa trời nắng nóng và gió êm như ở Sàigon phi cơ chỉ chở một vài hành khách thôi mà vẫn không cất cánh nổi. Trong mấy năm cuối thập niên 50 tình hình miền Nam tương đối yên tĩnh và cũng vì số phi cơ khả dụng quá ít nên nhiệm vụ chính của phi đoàn chỉ là huấn luyện và liên lạc.
Thỉnh thoảng nếu Bộ Tổng Tham Mưu cần hành quân đổ bộ ở một nơi nào đó thì phải cho Bộ Tư Lệnh Không Quân biết trước cả tuần lễ để kỹ thuật có thì giờ sửa chữa và nâng số phi cơ khả dụng lên ít nhất là 10 chiếc. Mỗi lần hành quân đổ bộ như vậy H-19 chỉ chở tối đa từ 5 đến 6 binh sĩ và khi đáp thì phải đáp thẳng xuống chứ không thể bay một chỗ được như những loại trực thăng H-34 hay UH-1 sau này.
THỜI KỲ PHÁT TRIỂN (1958-69)
Bắt đầu từ năm 1958 vì nhận thấy các H-19 thuộc Ðệ Nhất Phi Ðoàn Trực Thăng quá cũ kỹ nên Hoa Kỳ đã gởi 16 chiếc H-34 sang để thay thế và đồng thời cũng gởi sang một toán huấn luyện viên, cơ phi, chuyên viên kỹ thuật và một dân chính đại diện hang Sikorsky đến Sàigon để huấn luyện cho các nhân viên Việt Nam. Thời gian bay huấn luyện trên trực thăng H-34 khoảng 10 giờ. Cũng trong thời gian này Ðệ Nhất Phi Ðoàn Trực Thăng được cải danh thành Phi Ðoàn 211 và các chức vụ chỉ huy cũng thay đổi như sau:
Ðại Úy Nguyễn Huy Ánh (chỉ huy trưởng) Ðại Úy Nguyễn Đình Thập (chỉ huy phó) Trung Úy Bùi Quang Các (trưởng phòng hành quân) Trực thăng H-34 mạnh hơn, bay nhanh hơn và có tầm bay xa hơn H-19 nên việc bay yểm trợ cho quân bạn hay liên lạc hành quân rất dễ dàng và hữu hiệu hơn. Công việc hành quân của Phi Đoàn 211 vào những năm cuối của thập niên 50 chẳng có là bao vì tình hình miền Nam lúc đó tương đối yên tĩnh.
Vào những tháng đầu năm 1960, Việt cộng khởi sự tranh đấu bằng vũ lực. Khởi đầu là trận đánh phá doanh trại của Tiểu Đoàn 13 thuộc Sư Đoàn 16 Bộ Binh (BB) ở Trảng Sụp (Tây Ninh) vào ngày 19 tháng 2 năm 1960 (sư đoàn này về sau trở thành Sư Đoàn 22 BB). Trong trận này phía VNCH bị thiệt hại nặng nề. Tiếp theo sau đó là một loạt công đồn đả viện ở Kiến Hòa mà quân đội VNCH đã phải xử dụng cả liên đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) để chống trả và càn quét đối phương.
Việc xử dụng trực thăng để làm những công tác yểm trợ cho quân bạn như tải thương, tiếp tế hoặc chuyển vận quân lính trên các mặt trận trở thành quan trọng. Do đó Phi Đoàn 213 được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1961 tại Tân Sơn Nhất với 20 chiếc trực thăng H-34 và thành phần chỉ huy như sau:
Ðại Úy Nguyễn Xuân Trường (chỉ huy trưởng) Ðại Úy Nguyễn Hữu Hậu (chỉ huy phó) Thiếu Úy Nguyễn Văn Trang (trưởng phòng hành quân) Trung Úy Ngô Khắc Thuật (sĩ quan kỹ thuật) Sau khi hoàn tất chương trình huấn luyện, Phi Đoàn 213 dời về Ðà Nẵng khoảng tháng 4 năm 1962. Ðến tháng 8, Ðại Úy Nguyễn xuân Trường thuyên chuyển đến nhiệm sở khác và Đại Úy Nguyễn Hữu Hậu thay thế vào chức vụ chỉ huy trưởng phi đoàn. Nhiệm vụ của Phi Đoàn 213 là yểm trợ quân bạn thuộc Sư Đoàn 1 BB (Huế) và Sư Đoàn 2 BB (Quảng Ngãi) hay các tiền đồn xa xôi, hẻo lánh trong vùng rừng núi thuộc lãnh thổ Quân Khu 1.
Ðầu năm 1963, Phi Đoàn 215 được thành lập tại Tân Sơn Nhất và đặt dưới quyền chỉ huy của Ðại Úy Nguyễn Đình Thập. Phi đoàn này xử dụng trực thăng H-19 để huấn luyện hoa tiêu tại quốc nội. Việc huấn luyện này hoàn toàn do các huấn luyện viên của Hoa Kỳ đảm nhận.
Phi Đoàn 215 hoàn tất được 4 khóa huấn luyện và mỗi khóa gồm 20 khóa sinh. Khóa học kéo dài 5 tháng và mỗi khóa sinh được bay 80 giờ trên trực thăng H-19. Thủ khoa Khóa 1 là Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Nhàn, thủ khoa Khóa 2 là Chuẩn Úy Phan Quang Vinh. Vì kết quả huấn luyện không khả quan và gặp nhiều khó khăn về vấn đề kỹ thuật nên phi đoàn này đã giải tán vào tháng 5 năm 1964.
Vào tháng 4 năm 1964, Phi Đoàn 217 được thành lập tại Ðà Nẵng với thành phần chỉ huy như sau:
Ðại Úy Ông Lợi Hồng (phi đoàn trưởng) Trung Úy Nguyễn Văn Phú Hiệp (phi đoàn phó) Trung Úy Mai Văn Hải (sĩ quan hành quân) Thiếu Úy Hồng Văn Tý (hoa tiêu thử nghiệm) Chuẩn Úy Trần Phước Hội (sĩ quan kỹ thuật) Các hoa tiêu trực thăng sau khi tốt nghiệp tại các trường bay ở Hoa Kỳ trở về nước được thuyên chuyển đến Phi Đoàn 217 và được gởi đến Phi Đoàn trực thăng HMS 364 của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ ở Ðà Nẵng để bay huấn luyện và thực tập. Ðến tháng 8 năm 1964, sau khi hoàn tất chương trình huấn luyện, Phi Đoàn 217 tiếp nhận 24 trực thăng H-34 từ Phi Đoàn HMS 364 và di chuyển về Tân Sơn Nhất.
Trong thời gian đồn trú ở Tân Sơn Nhất, phi đoàn có trách nhiệm yểm trợ cho quân bạn trong Vùng 3 Chiến Thuật, đồng thời có một biệt đội 6 chiếc H-34 tại Cần Thơ. Sau khi phi trường Trà Nóc hoàn tất, Phi Đoàn 217 dời về Cần Thơ vào tháng 2 năm 1965.
Tháng 9 năm 1964, một phi đoàn trực thăng mới được thành lập tại Ðà Nẵng, và vì Phi Đoàn 215 huấn luyện đã giải tán trước đây nên phi đoàn này lấy lại danh số 215. Bộ chỉ huy phi đoàn gồm có:
Ðại Úy Trần Minh Thiện (phi đoàn trưởng) Trung Úy Ðặng Trần Dưỡng (phi đoàn phó) Thiếu Úy Nguyễn Văn Trang (sĩ quan hành quân) Thiếu Úy Phạm Bính (sĩ quan phụ tá) Phi Đoàn 215 hoạt động chung với Phi đoàn 213 tại Ðà Nẵng trong việc huấn luyện và hành quân cho đến đầu năm 1965 thì di chuyển về Nha Trang.
Ðầu năm 1964, Không Quân VNCH có 3 trực thăng H-34 biệt phái làm việc với Lực Lượng Ðặc Biệt Delta ở Nha Trang. Nhiệm vụ của biệt đội này là thả các toán thám sát dọc theo biên giới Việt-Miên hoặc vào các mật khu của Việt Cộng. Ðến giữa năm 1964, một biệt đội khác cũng gồm 3 chiếc trực thăng H-34 được biệt phái làm việc với các chiến đoàn xung kích thuộc Sở Liên Lạc. Nhiệm vụ của biệt đội này là thả các toán thám sát Lôi Hổ vào lãnh thổ Lào và Cam Bốt để kiểm soát các hoạt động của địch quân.
Ðầu năm 1966 hai biệt đội này sát nhập lại để thành lập Phi Ðoàn 219, đồn trú trong nội vi phi trường Ðà Nẵng. Phi Ðoàn này trực thuộc Biệt Ðoàn 83 ở Tân Sơn Nhất cho đến khi biệt đoàn giải tán vào năm 1969 thì được chuyển sang trực thuộc Không Đoàn 41 Chiến Thuật. Bộ chỉ huy đầu tiên của Phi Ðoàn 219 gồm có:
Đại Úy Hồ Bảo Ðịnh (phi đoàn trưởng) Ðại Úy Trần Văn Luân (phi đoàn phó) Ðại Úy Nguyễn Văn Nghĩa (sĩ quan hành quân) Ðại Úy Nguyễn Phi Hùng (sĩ quan phụ tá) Trung Úy Nguyễn Hữu Lộc (sĩ quan huấn luyện) Sau khi thành lập, Phi Đoàn 219 vẫn giữ nhiệm vụ thả các toán thám sát Lôi Hổ sang bên kia biên giới Việt-Miên và Việt-Lào gần lãnh thổ của Quân Khu 1 và Quân Khu 2.
Một điểm đáng ghi nhận là khoảng cuối năm 1960, Không Quân VNCH có 2 chiếc Alouette 2 (hai hoa tiêu phía trước, băng sau chở ba hành khách) và hai chiếc Alouette 3 (hai hoa tiêu phía trước, băng sau chở bốn hành khách) trực thuộc Phi Ðoàn Liên Lạc (ELA) và dùng để chở các yếu nhân. Các trực thăng này do hãng Sud Aviation của Pháp chế tạo, nhẹ nhàng và nhậm lẹ còn dùng để liên lạc tản thương hay quan sát. Thiếu Úy Ông Lợi Hồng từ Phi Đoàn 211 được thuyên chuyển đến đây để bay những chiếc trực thăng này đồng thời huấn luyện cho các hoa tiêu vận tải như Trung Tá Phạm Ngọc Sang và Thiếu Úy Chính.
Đầu năm 1964 các không đoàn chiến thuật được thành lập và các đơn vị kỹ thuật trước đây nằm trong hệ thống chỉ huy của các phi đoàn được tách rời ra để thành lập các liên đoàn kỹ thuật. Vì vậy, các chức vụ chỉ huy của các phi đoàn được cải danh thành phi đoàn trưởng, phi đoàn phó, sĩ quan hành quân (thay vì chỉ huy trưởng, chỉ huy phó, và trưởng phòng hành quân).
Nhìn chung trong khoảng thời gian từ cuối năm 1958 đến cuối năm 1969, tình hình chiến sự tại miền Nam Việt-Nam ngày mỗi gia tăng. Bắc Việt cho xâm nhập vào miền Nam các đơn vị chính quy cùng nhiều vũ khí tối tân do Liên Sô, Trung Cộng và khối Cộng Sản Đông Âu cung cấp. Ðã có những trận đánh lớn giữa các sư đoàn bộ binh hoặc các đơn vị tổng trừ bị của Việt Nam Cộng Hòa như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến với quân Bắc Việt tại các mặt trận như Ấp Bắc (1963, Vùng 4 Chiến Thuật), Bình Giả (năm 1964-65, Vùng 3 Chiến Thuật), Ðỗ Xá (năm 1965, Vùng 1 Chiến Thuật), Pleime (năm 1965, Vùng 2 Chiến Thuật), Ðồng Xoài (năm 1965, Vùng 3 Chiến Thuật).
Vào những năm cuối cùng của thập niên 60, bắt đầu với cuộc tổng công kích Tết Mậu thân năm 1968, Việt Cộng xử dụng rất nhiều súng phòng không như 12.7-ly hoặc 37-ly và đã gây nhiều thiệt hại cho các phi đoàn trực thăng. Tính đến cuối năm 1969, Không Quân VNCH đã tiếp nhận từ phía Hoa Kỳ tất cả là 193 trực thăng H-34.
THỜI KỲ VIỆT NAM HÓA (1970-75)
Giữa năm 1969, Bộ Tư Lệnh Không Quân đã bắt đầu gởi nhiều khóa sinh sang Hoa Kỳ để học bay trực thăng và cho đến đầu năm 1970 sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon tuyên bố chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh thì số lượng khóa sinh du học tăng lên gấp bội. Tại hai trường huấn luyện trực thăng Fort Wolters (Mineral Wells, Texas) và Fort Hunter (Hunter Army Air Field, Savannah, Georgia) vào thời cao điểm mỗi nơi có đến 500 khóa sinh Việt Nam. Tại mỗi trường bay thường có một toán liên lạc của Không Quân VNCH gồm 5 sĩ quan và 5 hạ sĩ quan.
Trường huấn luyện Trực Thăng tại Fort Wolters tiếp nhận các khóa sinh Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 8 năm 1962 và 11 khóa sinh phi hành thuộc Khóa 61 vỡ lòng tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang gồm Trung Úy Ðỗ Minh Ðức và các sinh viên sĩ quan Hồng Văn Tý, Trần Xuân Quang, Ðặng Kim Quy, Phạm Bính, Trần Hữu Khôi, Ðinh Hữu Hiệp, Nguyễn Hữu Lộc, Trần Quang Võ, Phan Ngọc Huệ và Ðỗ Văn Hiếu đã đến đây để học bay trên trực thăng H-23.
Trường này xử dụng loại trực thăng H-23 để huấn luyện trong giai đoạn đầu cho đến cuối năm 1969 thì đổi sang trực thăng TH-55. Số giờ bay huấn luyện tại các trường này gồm 120 giờ trên trực thăng TH-55 (tại Fort Wolter) và 80 giờ trên trực thăng U1-H (tại Fort Hunter). Sau khi mãn khóa trở về nước các hoa tiêu này được thuyên chuyển đến các đơn vị trực thăng tân lập. Từ năm 1970 cho đến đầu năm 1973 tất cả nhân viên phi hành của các đơn vị tân lập cũng như của các phi đoàn H-34 cơ hữu của Không Lực VNCH đều được lần lượt gởi đến các đơn vị trực thăng tại miền Nam Việt Nam để thực tập hành quân trên các trực thăng UH-1 hoặc huấn luyện tác xạ trên trực thăng võ trang.
Sau khi hoàn tất chương trình huấn luyện các đơn vị trực thăng của Hoa Kỳ lần lượt giải tán và chuyển giao phi cơ lại cho các phi đoàn của Việt Nam Cộng Hòa. Cấp số của mỗi phi đoàn UH-1 là 32 chiếc. Mỗi phi đoàn có 3 phi đội, mỗi phi đội có 8 trực thăng vận-chuyển và một phi đội riêng biệt với 8 trực thăng võ trang. Tuy nhiên cũng có nhiều đơn vị tiếp nhận đến 38 chiếc UH-1 từ các đơn vị trực thăng của Hoa Kỳ. Cấp số của mỗi phi đoàn trực thăng CH-47 Chinook là 16 chiếc.
Trong năm 1970 có một phi đoàn CH-47 và 4 phi đoàn UH-1 được thành lập:
Phi Đoàn 237 (với trực thăng CH-47) thành lập tháng 9 năm 1970 tại Biên Hòa Phi Đoàn 223 (với trực thăng UH-1) thành lập tháng 9 năm 1970 tại Biên Hòa Phi Đoàn 225 (với trực thăng UH-1) thành lập tháng 10 năm 1970 tại Sóc Trăng Phi Đoàn 227 (với trực thăng UH-1) thành lập tháng 11 năm 1970 tại Sóc Trăng Phi Đoàn 229 (với trực thăng UH-1) thành lập tháng 12 năm 1970 tại Pleiku Trong năm 1971 có sáu phi đoàn trực thăng UH-1 được thành lập:
Phi Đoàn 221 thành lập tháng 1 năm 1971 tại Biên Hòa Phi Đoàn 233 thành lập tháng 1 năm 1971 tại Đà Nẵng Phi Đoàn 235 thành lập tháng 2 năm 1971 tại Pleiku Phi Đoàn 231 thành lập tháng 3 năm 1971 tại Biên Hòa Phi Đoàn 243 thành lập tháng 11 năm 1971 tại Phù Cát Phi Đoàn 245 thành lập tháng 12 năm 1971 tại Biên Hòa Trong năm 1972 có một phi đoàn UH-1 và 3 phi đoàn CH-47 được thành lập:
Phi Đoàn 239 (với trực thăng UH-1) thành lập tháng 2 năm 1972 tại Đà Nẵng Phi Đoàn 241 (với trực thăng CH-47) thành lập tháng 5 năm 1972 tại Phù Cát Phi Đoàn 247 (với trực thăng CH-47) thành lập tháng 12 năm 1972 tại Đà Nẵng Phi Đoàn 249 (với trực thăng CH-47) thành lập tháng 12 năm 1972 tại Cần Thơ Ðầu năm 1973, bốn phi đoàn UH-1 cuối cùng được thành lập:
Phi Đoàn 251 được thành lập tại Biên Hòa Phi Đoàn 253 được thành lập tại Đà Nẵng Phi Đoàn 255 được thành lập tại Cần Thơ Phi Đoàn 257 được thành lập tại Đà Nẵng Cũng trong thời gian từ đầu 1970 đến đầu 1973, có 8 phi đội tản thương, mỗi phi đội gồm 12 trực thăng UH-1 đã được thành lập.
KẾT LUẬN
Việt Nam là chiến trường mà quân đội Hoa Kỳ lần đầu tiên đã thực hiện chiến thuật hành-quân trực thăng vận với tầm cỡ to lớn. Trong một thập niên tại đây họ đã xử dụng (chưa kể số trực thăng võ trang AH-1 Cobra và không-vận CH-47 Chinook) khoảng 7,013 chiếc trực thăng UH-1 đã được xử dụng để yểm trợ cho một lực lượng bộ-chiến với nửa triệu quân của họ.
Không Lực VNCH, tính đến trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã tiếp nhận khoảng 800 chiếc UH-1 và gần 100 chiếc CH-47 (con số này chưa bằng 1/3 số trực thăng UH-1 của Hoa Kỳ bị thiệt hại trên chiến trường miền Nam, tức 3,305 chiếc). Ðây là một số lượng đáng kể nhưng thiết nghĩ các trực thăng này là những phi cơ quá cũ đã được các đơn vị trực thăng của Hoa Kỳ xử dụng quá nhiều, nên sau khi chuyển giao lại cho Việt Nam Cộng Hòa thường bị hư hỏng.
Thêm vào đó, sau khi hiệp định Paris được ký kết vào năm 1973, Hoa Kỳ lần lượt cắt giảm viện trợ, và xăng dầu cũng như các cơ phận thay thế càng ngày càng bị thiếu hụt nên Việt Nam Cộng Hòa đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc bảo trì sửa chữa phi cơ. Sự thiếu hụt này đã ảnh hưởng rất nhiều đến các chiến dịch hành quân trực thăng vận, yểm trợ, tiếp tế, hay tải thương. Đặc biệt là các tiền đồn ở những vùng hẻo lánh xa xôi hay bị quân Bắc Việt bao vây và đánh chiếm.
Ðỗ Văn Hiếu