Thân Hữu Tiếp Tay...
Sơ lược về cách xưng hô của người Việt - Trần Văn Giang
( HNPĐ )Hiện nay, số người Việt sinh sống ở hải ngoại cũng khá đông -có đến 4 triệu người (?) - Có nhiều gia đình đã có 3-4 thế hệ sống bên ngoài Việt Nam.
Lời Giới Thiệu:
Hiện
nay, số người Việt sinh sống ở hải ngoại cũng khá đông -có đến 4 triệu
người (?) - Có nhiều gia đình đã có 3-4 thế hệ sống bên ngoài Việt Nam.
Vấn đề là các thế hệ trẻ ở hải ngoại rất lúng túng trong cách
xưng hô khi phải cố gắng dùng tiếng Việt trong các giao tiếp gia đình và
xã hội.
Nếu
đã nói tiếng Việt trôi chảy, chúng ta thấy ngay trong cách xưng hô
tiếng Việt, chẳng hạn qua sự đối thoại trò chuyện giữa hai người, chúng
ta có thể biết qua mối quan
hệ, sự tôn trọng, thái độ, giới tính và tình cảm giữa họ; trong khi
trong Anh ngữ, sự hiêu biết về các tương quan như vậy rất khó mà biết
ngay được!
Bài sưu tập nhỏ này có hai mục đích:
1- Nêu nên vài cách xưng hô cần thiết, đã được chấp nhận và dùng rộng rãi bởi số đông.
2-
Người viết mạo muội đề nghị một vài phương cách đơn giản hóa và dân chủ
hóa sự xưng hô với mục đích giảm thiểu sự lầm lẫn, khinh miệt vô cớ…
Người viết, ở tuổi 68, trông cậy vào sự chỉ giáo và sửa sai của các độc giả uyên bác về vấn đề “văn hóa” nặng ký này.
TVG
*
Gần
đây, trong một buổi họp báo tại thành phố Westminster, Orange County,
California của Ông Tạ Đức Trí, đương kim Thị trưởng Mỹ gốc Việt, 44 tuổi
sinh năm 1973 (?) có
một ông người Việt trung niên muốn nếu lên một câu hỏi và gọi Ông Tạ
Đức Trí là “Anh Thị Trưởng (?)” Dù là vô tình hay cố ý, đây là
một sự xưng hô cẩu thả rất đáng trách; nhất là khi chúng ta luôn miệng
nói rằng Việt cộng (v-xi) là “vô văn
hóa / kém văn hóa v..v..” Theo tôi, Ông Tạ Đức Trí là một người đáng
kính, với chức vụ Thị Trương dân cử của một thành phố khá lớn (Thành phố
Westminster có 92,000 dân, trong đó 47.5% là gốc Á châu), không thể
“được” một công dân thành phố gọi là một cách
hỗn hào là “Anh” - ngoại trừ em trai của Ông Trí có thể làm như vậy
thôi…
Tương
tự, chúng ta không thể đứng ngay giữa công đường (không phải bàn nhậu)
mà gọi “Anh Tổng thống này” hay “Anh Thống đốc nọ…” nghe chẳng những rất
kỳ cục mà còn chứng
tỏ người nói có một tư cách thiếu hẳn giáo dục tối thiểu. Nên
biết vi-xi thường gọi “Thằng Diệm,” “Thằng Thiệu,” “Thằng Kỳ,” “Thằng
Ních-xơn,” “Thằng Dơn-sơn…” đồng thời vi-xi gọi “Bác Hồ,” “Bác Tôn,”
“Bác Mao…” Nhưng bây giờ, vì gió
đã đổi chiều, vi-xi lại quay đầu 180 độ khúm núm trơ trẽn gọi Ông Ted
Osius dù chỉ là Đại sứ Hoa kỳ ở Việt Nam là “Ngài Đại sứ?!” (Người viết
xin nhắc là “Ngài Đại sứ” còn bé / rất nhỏ bé so với “Thằng Tổng Thống”
đấy các “bác vi-xi” à!)
Một
vài thí dụ nho nhỏ được nêu ra ở trên để cho chúng ta thấy vấn đề xưng
hô bằng tiếng Việt hôm nay cần phải được nhắc nhở sao cho đúng cách,
không thể gọi tùy hứng bừa
bãi; cũng có nghĩa là xưng hô vừa phải không cao quá đáng kịch cỡm; mà
cũng không quá thấp đến mức độ thiếu giáo dục.
Đây là cả vấn đề văn hóa Việt chứ không riêng cho tiếng Việt.
Đã đề cập đến văn hóa thì rất tinh tế. Xưng hô cho
đúng không phải là chuyện dễ dàng, không cần học hỏi, bởi vì tiếng Việt
dùng nhiều danh từ (nouns) khác nhau tùy theo quan hệ quen biết, tuổi
tác, chức vụ, nghề nghiệp, tôn giáo,
và tình trạng hôn nhân để gọi nhau thay vì chỉ dùng một số “đại danh
từ” (pronouns) như trong tiếng Anh (You/me – Mày / Tao; Bạn / Tôi) và
tương tự trong tiếng Pháp (Je/moi/tu/toi)…
Ngoài ra, trong văn viết, đơn từ, thư tín v..v.. vấn đề xưng hô
còn phức tạp hơn nhiều; không thể nói hết ra ở bài viết ngắn này.
Tôi đã đọc qua nhiều bài khảo cứu khá công phu của nhiều học giả khác nhau về vấn đề xưng hô.
Tôi xin phép được trích ra từ một số tài liệu đã có sẵn rồi thu
gọn lại cộng với một ít kinh nghiệm bản thân để đem đến cùng quý vị quan
tâm suy gẫm, khuyên bảo nếu cần.
I- Danh xưng và cách xưng hô trong gia đình Việt nam
Khi
nói chuyện với người lớn tuổi hơn mình, tốt hơn là phải luôn luôn dùng
cách “thưa gửi” và “gọi dạ bảo vâng” chứ không bao giờ nói trống không
với người trên, lớn tuổi,
cao cấp hơn. Người Việt chúng ta thường dùng tiếng “thưa” trước khi
xưng hô với người ở vai trên mình, chẳng hạn như: “Thưa mẹ con đi học…”
Đồng thời khi trả lời hoặc thưa điều gì với người lớn hơn mình
bắt đều với chữ “Dạ, Vâng, Ạ” ” để tỏ vẻ kính trọng và lễ phép. Thí dụ:
“Chào Cô ạ!” “Vâng ạ!”
Trong
cách xưng hô với người ở vai trên, chúng ta tránh không gọi tên tục
(tên cha mẹ đặt cho) của ông bà, cha mẹ, cô cậu, dì dượng, và chú bác.
Chúng ta chỉ xưng hô bằng
danh xưng ngôi thứ trong gia đình mà thôi. Chẳng hạn, ta chỉ nói đơn
giản là: “Mời Chú ăn cơm…”
mà không gọi tên tục của Chú ra trong lời mời.
Trong
cách xưng hô với anh chị em, chúng ta có thể dùng chữ Anh, Chị hay Em
trước tên hay ngôi thứ. Thí dụ: “Anh Tuấn đi vắng… “ v..v.. Các em nhỏ
không được phép gọi anh
chị bằng tên trống không. Tuy nhiên, anh chị có thể gọi các em bằng tên
trống không hoặc tên có thêm chữ ngôi thứ vào.
Thí dụ “Em An đi lấy cho anh cây viết” hay “An lấy cho anh cây viết” đều được cả.
Những
người con trong gia đình gọi nhau bằng “mày” và xưng “tao” là do lỗi
của bố mẹ không dạy bảo các con ngay từ khi chúng còn nhỏ. Các con gọi
nhau bằng mày xưng tao
mãi rồi thành thói quen. Khi đã thành thói quen thì chúng không thể đổi
cách xưng hô cho đúng phép được.
Cha
mẹ nên dạy con cái về cách xưng hô ngay từ khi con trẻ còn nhỏ. Muốn
chúng chào ai, cha mẹ phải nói cho chúng biết cách chào và bắt chúng lập
lại nhiều lần khi bắt
đầu.
A- Bậc Trên Cấp Cha Mẹ
Người
sinh ra ta được gọi là Cha Mẹ. Cha mẹ của Cha mẹ, Cô, Dì, Chú, và Bác
của chúng ta được gọi là Ông Bà. Cha mẹ của Ông bà được gọi là Cụ. Cha
mẹ của Cụ được gọi là
Kỵ. Các Ông cha đời trước nữa được gọi là Tổ Tiên. Cha Mẹ sinh ra Các
Con.
- Bậc bề trên trên cha mẹ nói chung:
Ông bà tổ tiên.
- Theo thứ tự thời gian:
Ông-Bà-Cố-Tổ, Tằng tổ, Cao tổ.
- Cha mẹ của Cha hoặc của Mẹ:
Ông, Bà (nội hoặc ngoại).
Xưng hô với các bậc trên cấp Cha Mẹ này thì dùng chữ Cháu.
Ở ngôi thứ ba, tương quan với bậc từ Cố trở lên thì gọi là Chắt.
Ở một vài tỉnh miền Trung Ông Bà còn được gọi là "Ông Mệ.”
B- Cha Mẹ, Con Cái, Anh Chị Em, Vợ Chồng
1) Cha Mẹ Ruột
Cha Mẹ ruột được gọi rộng rãi qua nhiều danh từ như:
Bố mẹ, Cha mẹ, Ba má, Tía Má, Thầy U, Song thân…
Trong
trò chuyện thân mật ở ngôi thứ ba thì gọi là “Ông Bà già tôi,” Các Cụ
chúng tôi, Ông Bà Nội các cháu (hoặc Ông Bà Ngoại các cháu) v..v..
- Cha: Cả 3 miền Bắc Trung Nam đều gọi là Cha, Ba.
Ttrong văn chương và ngôi thứ ba còn gọi là Thân phụ, ông Cụ Thân sinh…
trong trò chuyện thân mật ở ngôi thứ ba thì gọi là “Ông già”;
Bắc: Bố, Thầy, Cậu.
Ngôi thứ ba thì gọi “Ông Cụ nhà tôi”;
Nam: Tía;
Trung: một vài nơi gọi Cha bằng Chú.
- Mẹ: Cả 3 miền gọi là Mẹ. Trong văn chương và ngôi thứ ba còn gọi là Thân mẫu, Bà Cụ Thân sinh, Bà Cụ chúng tôi... “Bà già”;
Bắc: Me, Mẹ, U, Bu, Đẻ, Cái, Mợ;
Nam: Má; Vú, Bầm.
Trung: Mạ, Mệ
Trước đây trong chế độ đa thê, người con ruột gọi mẹ mình bằng Chị (?) nhưng gọi bà vợ chính của cha mình bằng Mẹ.
-
Cha mẹ gọi con ruột mình là Con. Nhưng người Bắc thường xưng hô
với con trai và con gái đã lớn tuổi, hay có gia đình rồi, của mình bằng
Anh và Chị.
2) Cha Kế / Mẹ Kế
- Chồng của Mẹ (mà không phải cha ruột mình) gọi là Dượng; người Trung còn gọi là Trượng.
- Vợ của Cha (mà không phải mẹ ruột mình) gọi là Dì (ghẻ); Nếu là vợ chính của cha, trong chế độ gia đình xưa thì gọi là Mẹ.
3) Cha Mẹ Vợ
Cha mẹ vợ gồm có: Ông Bà Nhạc, Ông Nhạc, Bà Nhạc, Cha Mẹ vợ, Cha vợ, và Mẹ vợ, v.v.
Tiếng gọi Cha Vợ khi nói chuyện với bạn bè thân gồm có: Nhạc Phụ, Nhạc Gia, Bố Vợ, Ông Nhạc, Ông Ngoại các cháu, v.v.
Tiếng gọi Mẹ Vợ khi nói chuyện với bạn bè gồm có: Bà Nhạc, Bà Ngoại các cháu, Nhạc mẫu, v.v
4) Anh Chị Em Ruột
- Anh:
Cả 3 miền đều gọi Anh. Trong văn chương ở ngôi thứ ba là Bào huynh.
Trung: một vài nơi gọi là “Eng” (?)
Người anh đầu lòng người Bắc gọi là Anh Cả, người Nam gọi là Anh Hai.
- Chị:
Cả 3 miền gọi là Chị.
Trung: một vài vùng gọi là Ả.
- Em trai, Em gái:
Cả 3 miền gọi là Em. Trong văn chương gọi là bào đệ, bào muội.
Trung: Út. Nếu người Trung gọi em
là Út, thì chữ Út nầy được người Nam và người Bắc hiểu là người em cuối
trong gia đình. Người Trung dùng chữ “Tui” (là chữ Tôi nhưng âm hưởng là
Em) để xưng hô với anh
chị mình.
5) Anh Chị Con Cháu Qua Hôn Phối (in-laws)
- Chồng Chị và Chồng Em gái gọi là Anh Rể và Em Rể. Vợ anh và Vợ em trai gọi là Chị Dâu và Em Dâu.
- Vợ con trai mình gọi là Con Dâu, chồng con gái mình gọi là Con Rể.
-
Cha, mẹ, anh, chị, em (của) chồng gọi là Cha chồng, Mẹ chồng, Chị
chồng, Anh chồng, Em chồng. Cha, mẹ, anh, chị, em (của) vợ gọi là Cha
Vợ, Mẹ Vợ, Anh Vợ, Chị Vợ, Em
Vợ.
Nên biết thêm:
Khi xưng hô với nhau giữa hai người thì các chữ Rể, Dâu,
Chồng, Vợ sẽ mất đi (Ví dụ Con Dâu nói với Mẹ Chồng: " Con xin phép Mẹ";
hoặc Cha Vợ với con Rể: “Cha nhờ con việc nầy") - Khi nói với người thứ
ba thì thêm “Rể... tôi”: Con Rể tôi,
Con Dâu tôi, Cha Chồng (vợ) tôi, Mẹ Chồng (vợ) tôi.
6) Vợ Chồng
Tình vợ chồng người Việt rất đằm thắm, chân tình.
Họ đối đãi với nhau rất lịch sự và tương kính.
Tiếng
xưng hô của Chồng với Vợ trong gia đình gồm có: Em, Cưng, Mình, Bu nó,
Má mày, Má nó, Má thằng cu, Mẹ nó, Bà, Bà nó, Mợ, Mợ nó, Mình, Bậu, v.v.
Tiếng
Chồng gọi Vợ trong khi nói chuyện với người khác gồm có: Nhà tôi, Bà
nhà tôi, Má tụi nhỏ, Má sắp nhỏ, Má bày trẻ, Tiện nội, Nội tướng tôi, Bà
xã, Bà xã tôi, Vợ tôi,
v..v..
Tiếng
xưng hô của Vợ với Chồng trong gia đình gồm có: Anh, Cưng, Anh nó, Ba,
Ba nó, Bố, Bố nó, Bố mày, Bố thằng cu, Ông xã, Cậu, Cậu nó, Ông, Ông nó,
Mình, v.v.
Tiếng
Vợ gọi Chồng trong khi nói chuyện với người khác gồm: Nhà tôi, Ông nhà
tôi, Ba tụi nhỏ, Ba sắp nhỏ, Phu quân tôi, Ông Xã, Ông Xã tôi, Ông Chồng
tôi, Anh ấy, v.v.
Nên biết thêm:
Tại một vài nơi ở miền Trung người ta gọi Cha hoặc Mạ và thêm tên đứa
con đầu: chẳng hạn đứa con đầu tên Long thì vợ gọi chồng là “Cha thằng
Long”; chồng gọi vợ là “Mạ thằng Long”; và người ngoài xung hô là “ông
Long,” “Mụ Long” chứ không gọi tên
thật (còn gọi là tên tục).
Những cặp vợ chồng đứng đắn, có giáo dục không bao giờ gọi nhau bằng “Mày,” “Thằng đó,” “Con đó” và xưng “Tao.”
Họ tìm những lời lẽ dịu dàng đầy tình cảm yêu thương để gọi nhau.
Chính vì thế mà tiếng xưng hô giữa vợ chồng người Việt có rất nhiều,
hơn xa tiếng xưng hô của vợ chồng người Tây phương.
C- Anh Chị Em của Cha Mẹ, Anh Chị Em Họ
- Anh của cha: Cả 3 miền gọi là Bác.
- Vợ của anh cha:
Cả 3 miền gọi là Bác.
- Em trai của cha:
Cả 3 miền gọi là Chú.
- Vợ em trai của cha:
Cả 3 miền gọi là Thím.
- Chị của cha: Bắc gọi là Bác; Trung, Nam gọi Cô (hoặc O)
- Chồng chị của cha:
Bắc gọi là Bác; Trung, Nam: Dượng (hoặc Trượng)
- Em gái của cha: Bắc, Nam gọi Cô; Trung gọi O.
- Chồng em gái của cha: Bắc gọi Chú; Nam, Trung gọi Dượng (hay Trượng)
- Anh trai của mẹ: Bắc gọi Bác; Nam, Trung gọi Cậu
- người Trung còn gọi “Cụ” (?)
- Vợ anh trai của mẹ: Bắc gọi Bác; Trung, Nam gọi Mợ - người Trung còn gọi là Mự (?)
- Em trai của mẹ: Cả 3 miền gọi là Cậu - người Trung còn gọi là Cụ.
- Vợ em trai của mẹ:
Cả 3 miền gọi là Mợ - người Trung còn gọi là “Mự.”
- Chị của mẹ: Bắc gọi Bác; Trung, Nam gọi Dì.
- Chồng chị của mẹ: Bắc gọi Bác; Trung, Nam gọi Dượng (Trượng).
- Em gái của mẹ: Cả 3 miền gọi là Dì.
- Chồng em gái của mẹ:
Bắc gọi Chú; Trung, Nam gọi Dượng (Trượng)
-
Anh chị em họ: Cả 3 miền vẫn gọi là Anh, Chị, Em như anh chị em ruột.
Nhưng cấp bậc anh chị họ có nơi dựa trên tuổi tác cá nhân, có nơi, đặc
biệt ở miền Trung, thì tùy
vị thế trên dưới của các bậc cha mẹ. Chẳng hạn người con của chú mình
dầu lớn hơn mình cả 20 tuổi nhưng vẫn gọi mình bằng Anh và mình gọi lại
bằng Chú (tức là Chú em).
- Bác, chú cô dì... gọi các con anh em mình bằng Cháu.
Trong
cách xưng hô với anh chị em của cha mẹ, người Bắc ưu tiên tuổi tác khi
gọi anh, chị cha và mẹ là Bác, và cấp nhỏ là Chú Cậu Cô Mợ và chứ không
dùng chữ “Dượng.”
Nên biết thêm:
Người Nam và Trung ưu tiên về nội ngoại, thân sơ. Dì thì luôn bên
ngoại dù tuổi cao hay thấp, Cô (hoặc O) thì luôn bên nội dù là chị hay
em của cha. Chú thì chỉ dùng cho em cha, thuộc bên nội thôi. Người không
thuộc dòng máu cha mẹ thi gọi là Dượng
(hay Trượng), Mợ, Thím để phân biệt với Bác Trai, Chú, Cô, Cậu là anh
em ruột thịt. Chỉ có cách gọi Bác Gái (vợ anh trai của cha) là một ngoại
lệ.
II- Xưng Hô ngoài xã hội
Ngoài
xã hội, cách xưng hô từ trường học, cơ quan chính phủ, sở làm cho đến
chợ búa thực ra không có một quy tắc, nguyên tắc hay định luật nào nhất
định viết trên giấy
tờ. Cách tốt (và an toàn) nhất là dù ở hoàn cảnh nào, vị
trí nào, mình luôn luôn khiêm tốn, lịch sự, lễ phép, tình cảm và tế nhị;
tránh làm phật lòng, xúc phạm người khác.
Kết quả của sự cẩu thả, tủy tiện có thể gây đổ vỡ thiệt hại cho bản thân mình và người khác.
Nên nhớ là “Golden Rules” (“So in everything, do to others what you would have them do to you” - Matthew 7:12” -
Đừng làm cho người khác những gì mình không muốn người khác làm cho mình”) sẽ là chân lý cần thiết muôn đời: Tôn trọng người thì người sẽ tôn trọng mình là vậy.
1) Xưng hô ở nơi công cộng, chợ búa
Đây là hoàn cảnh dễ gây lúng túng nhất cho chúng ta bởi vì đối tượng là người xa lạ.
Trường hợp này chúng ta phải tùy thuộc vào sự quan sát và ước đoán về tuổi tác và giới tính mà xưng hô.
Điều cần nhất vẫn là phải khiêm tốn lễ phép và tế nhị. Tôi đề nghị một điều “Nếu
mình ở thế kẹt, không biết phải xưng hô như thế nào cho phải phép, cho
thỏa đáng thì cứ mạnh dạn hỏi người mình đang phải nói chuyện là mình
nên gọi họ như thế
nào?” Người Mỹ họ hay làm như vậy (“What should I call you?”); rất an toàn.
2) Xưng hô ở Trường Học
Văn
hóa Việt Nam đề cao việc học hành và sự giáo dục; đồng thời kính trọng
người dạy dỗ; xếp hạng và nâng cao bậc “Thầy, Cô” lên trên cả cấp sinh
thành (bậc cha mẹ).
Thành ra, lễ phép trong việc xưng hô với Thầy Cô là chuyện phải làm.
Kể ra, xưng hô với Thầy Cô cũng đơn giản: “Thưa Thầy,” “Thưa Cô…” không gọi Thầy Cô bằng tên tục.
Chúng ta có thể xưng Em (hay Con) là đủ. Ngay cả
trường hợp ở dưới quê, học trò đi học trễ tuổi nên tuổi tác gần như suýt
soát với Thầy Cô nhưng vẫn phải xưng hô với Thầy Cô như các học trò nhỏ
khác.
Ở bậc Đại học thì có vẻ thông thoáng hơn. Sinh viên còn có thêm thông lệ xưng hô với Thầy Cô qua học hiệu như “Thưa Giáo Sư,” Thưa Tiến sĩ…”
Sinh viên lớn tuổi có thể xưng “Tôi” thay vì “Em” hay “Con.”
3) Xưng hô ở sở làm, tại các cơ quan chính quyền
Sở
làm, nhất là công sở, không phải là gia đình do đó các nhân viên nam
hay nữ phải thẳng thắn dùng đại danh từ cho ngôi thứ nhất là “Tôi” -
không có ngoại lệ.
Ngôi thứ hai (đối tượng được gọi) có thể được gọi là Ông, Bà hay
Ông, Bà cộng thêm chức vị (Thí dụ: Ông Giám đốc, Bà Chủ Tịch Ban Quản
Trị…).
Tuyệt đối không dùng các danh xưng có tính cách thân mật quen
thuộc của gia đình như Chú, Bác, Cô, Dì, Cậu Mợ, Thím, Anh, Em, Con,
Cháu v.v..
Chuyện đáng buồn là ngày nay cách gọi thiếu dân chủ, thiếu đứng
đắn, thiếu chuyên nghiệp loại này đã lan tràn qua mọi ngõ ngách lớn nhỏ
của công sở đến cả các cấp cao nhất của chính phủ cộng sản và cả ngoài
xã hội dân sự.
Tôi xin trích một đoạn đối thoại trong một cuộc họp báo tầm quốc gia về vấn đề lớn (đó là “cá chết / môi trường”)
có tính cách quốc tế giữa ông Võ Tuấn Nhân, Thứ trưởng Bộ Tài
Nguyên Môi Trường của vi-xi và một phóng viên báo chí trong nước như
sau:
Phóng viên:
- Không.
Không. Em chỉ hỏi là mình nên đưa ra một cái mốc thời gian…
Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi Trường Võ Tuấn Nhân ngắt lời:
- Không. Không. Để cho anh nói hết.
Nói riêng với em…
Trới đất! “Anh-Anh/Em-Em” cái nỗi gì ở chỗ đang nói chuyện đứng đắn và chuyên nghiệp này…
Đây đâu có phải là lúc nói chuyện thường tình mà cứ phải dùng cái
“văn hóa du kích” khi còn đắp mô đặt mìn chặn xe đò trong sự nghiệp
“chống mĩ cứu nước,” hay lúc tình cờ gặp nhau khi đang khiêng tải đạn
dược, chuyển quân dụng ở trên “đường mòn hồ chí
minh” dưới “địa đạo củ chi?!” Tương tự, một vấn đề đã nêu ở trên của một ông người Việt tị nạn gọi Thị Trưởng Tạ Đức Trí là “Anh Thị trưởng” cũng sai trái y hệt như vậy thôi:
Hoàn toàn thiếu đứng đắn và rất chướng… Nghe rất bịnh.
III- Vài đề nghị thay đổi cách xưng hô
Qua
sự phát triển nhanh chóng của khoa học và kỹ thuật, nhất là kỹ thuật
tin học, chúng ta có cơ hội tiếp cận với các văn hóa lớn ngoài Việt Nam
chỉ qua vài cái “bấm” trên
“con chuột điện tử.” Có nhiều cái hay của họ mình nên học
hỏi; đồng thời những cái gì tốt, những cái có tính cách cá biệt bản sắc
dân tộc Việt Nam, chúng ta cần phải duy trì và phổ biến đến họ.
Chúng ta sẵn sàng hòa nhập và hội nhập nhưng nhất định không chịu
(để) văn hóa 4000 năm của mình hòa tan (melting) vào những văn hóa lớn
rồi bị tiềm thực.
Tuy vậy, không nên quá bảo thủ: Cái hay cần học hỏi; cái dở nên bỏ bớt đi.
Chúng ta không cần một cuộc cách mạng văn hóa mà chỉ cần một sự
thay đổi thận trọng để thích hợp; nhất là cần một sự dân chủ hóa các lối
gọi, xưng hô ở cơ quan chính quyền và ngoài xã hội.
Người dân đen yếu nhỏ bé thiếu quyền lực, cũng như giới trẻ thiếu
kinh nghiệm không thể bị gọi người lớn, cấp trên một cách thấp cấp
khinh miệt như “Mày, “Chúng mày,” “Em,” “Cháu…”
“.. còn trời còn đất còn non nước,
có lẽ ta đâu mãi thế này.”
(NCT)
“… lời nói không mất tiền mua,
lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.”
(Ca dao)
Trần Văn Giang ( HNPĐ )
Orange County, ngày 24 thàng 2 năm 2017
___________
Tham khảo
-“Xưng Hô Trong Gia Đình Việt Nam” – Nguyễn Đăng Trác
-“Cách Xưng Hô Trong Gia Đình Việt Nam” – Cao Thu Cúc
-“Quan hệ Gia Đình Làng Xóm của Người Quảng Ngãi” - Địa Dư Chi Quảng Ngãi
-“Cách Xưng Hô và Quan Hệ Trong Gia Đình Dòng Họ” - Đinh Khắc Thiện
Bàn ra tán vào (1)
Tâm
Theo thứ tự con - cháu - chắt . Và sau chắt là gì?
----------------------------------------------------------------------------------
Sơ lược về cách xưng hô của người Việt - Trần Văn Giang
( HNPĐ )Hiện nay, số người Việt sinh sống ở hải ngoại cũng khá đông -có đến 4 triệu người (?) - Có nhiều gia đình đã có 3-4 thế hệ sống bên ngoài Việt Nam.
Lời Giới Thiệu:
Hiện
nay, số người Việt sinh sống ở hải ngoại cũng khá đông -có đến 4 triệu
người (?) - Có nhiều gia đình đã có 3-4 thế hệ sống bên ngoài Việt Nam.
Vấn đề là các thế hệ trẻ ở hải ngoại rất lúng túng trong cách
xưng hô khi phải cố gắng dùng tiếng Việt trong các giao tiếp gia đình và
xã hội.
Nếu
đã nói tiếng Việt trôi chảy, chúng ta thấy ngay trong cách xưng hô
tiếng Việt, chẳng hạn qua sự đối thoại trò chuyện giữa hai người, chúng
ta có thể biết qua mối quan
hệ, sự tôn trọng, thái độ, giới tính và tình cảm giữa họ; trong khi
trong Anh ngữ, sự hiêu biết về các tương quan như vậy rất khó mà biết
ngay được!
Bài sưu tập nhỏ này có hai mục đích:
1- Nêu nên vài cách xưng hô cần thiết, đã được chấp nhận và dùng rộng rãi bởi số đông.
2-
Người viết mạo muội đề nghị một vài phương cách đơn giản hóa và dân chủ
hóa sự xưng hô với mục đích giảm thiểu sự lầm lẫn, khinh miệt vô cớ…
Người viết, ở tuổi 68, trông cậy vào sự chỉ giáo và sửa sai của các độc giả uyên bác về vấn đề “văn hóa” nặng ký này.
TVG
*
Gần
đây, trong một buổi họp báo tại thành phố Westminster, Orange County,
California của Ông Tạ Đức Trí, đương kim Thị trưởng Mỹ gốc Việt, 44 tuổi
sinh năm 1973 (?) có
một ông người Việt trung niên muốn nếu lên một câu hỏi và gọi Ông Tạ
Đức Trí là “Anh Thị Trưởng (?)” Dù là vô tình hay cố ý, đây là
một sự xưng hô cẩu thả rất đáng trách; nhất là khi chúng ta luôn miệng
nói rằng Việt cộng (v-xi) là “vô văn
hóa / kém văn hóa v..v..” Theo tôi, Ông Tạ Đức Trí là một người đáng
kính, với chức vụ Thị Trương dân cử của một thành phố khá lớn (Thành phố
Westminster có 92,000 dân, trong đó 47.5% là gốc Á châu), không thể
“được” một công dân thành phố gọi là một cách
hỗn hào là “Anh” - ngoại trừ em trai của Ông Trí có thể làm như vậy
thôi…
Tương
tự, chúng ta không thể đứng ngay giữa công đường (không phải bàn nhậu)
mà gọi “Anh Tổng thống này” hay “Anh Thống đốc nọ…” nghe chẳng những rất
kỳ cục mà còn chứng
tỏ người nói có một tư cách thiếu hẳn giáo dục tối thiểu. Nên
biết vi-xi thường gọi “Thằng Diệm,” “Thằng Thiệu,” “Thằng Kỳ,” “Thằng
Ních-xơn,” “Thằng Dơn-sơn…” đồng thời vi-xi gọi “Bác Hồ,” “Bác Tôn,”
“Bác Mao…” Nhưng bây giờ, vì gió
đã đổi chiều, vi-xi lại quay đầu 180 độ khúm núm trơ trẽn gọi Ông Ted
Osius dù chỉ là Đại sứ Hoa kỳ ở Việt Nam là “Ngài Đại sứ?!” (Người viết
xin nhắc là “Ngài Đại sứ” còn bé / rất nhỏ bé so với “Thằng Tổng Thống”
đấy các “bác vi-xi” à!)
Một
vài thí dụ nho nhỏ được nêu ra ở trên để cho chúng ta thấy vấn đề xưng
hô bằng tiếng Việt hôm nay cần phải được nhắc nhở sao cho đúng cách,
không thể gọi tùy hứng bừa
bãi; cũng có nghĩa là xưng hô vừa phải không cao quá đáng kịch cỡm; mà
cũng không quá thấp đến mức độ thiếu giáo dục.
Đây là cả vấn đề văn hóa Việt chứ không riêng cho tiếng Việt.
Đã đề cập đến văn hóa thì rất tinh tế. Xưng hô cho
đúng không phải là chuyện dễ dàng, không cần học hỏi, bởi vì tiếng Việt
dùng nhiều danh từ (nouns) khác nhau tùy theo quan hệ quen biết, tuổi
tác, chức vụ, nghề nghiệp, tôn giáo,
và tình trạng hôn nhân để gọi nhau thay vì chỉ dùng một số “đại danh
từ” (pronouns) như trong tiếng Anh (You/me – Mày / Tao; Bạn / Tôi) và
tương tự trong tiếng Pháp (Je/moi/tu/toi)…
Ngoài ra, trong văn viết, đơn từ, thư tín v..v.. vấn đề xưng hô
còn phức tạp hơn nhiều; không thể nói hết ra ở bài viết ngắn này.
Tôi đã đọc qua nhiều bài khảo cứu khá công phu của nhiều học giả khác nhau về vấn đề xưng hô.
Tôi xin phép được trích ra từ một số tài liệu đã có sẵn rồi thu
gọn lại cộng với một ít kinh nghiệm bản thân để đem đến cùng quý vị quan
tâm suy gẫm, khuyên bảo nếu cần.
I- Danh xưng và cách xưng hô trong gia đình Việt nam
Khi
nói chuyện với người lớn tuổi hơn mình, tốt hơn là phải luôn luôn dùng
cách “thưa gửi” và “gọi dạ bảo vâng” chứ không bao giờ nói trống không
với người trên, lớn tuổi,
cao cấp hơn. Người Việt chúng ta thường dùng tiếng “thưa” trước khi
xưng hô với người ở vai trên mình, chẳng hạn như: “Thưa mẹ con đi học…”
Đồng thời khi trả lời hoặc thưa điều gì với người lớn hơn mình
bắt đều với chữ “Dạ, Vâng, Ạ” ” để tỏ vẻ kính trọng và lễ phép. Thí dụ:
“Chào Cô ạ!” “Vâng ạ!”
Trong
cách xưng hô với người ở vai trên, chúng ta tránh không gọi tên tục
(tên cha mẹ đặt cho) của ông bà, cha mẹ, cô cậu, dì dượng, và chú bác.
Chúng ta chỉ xưng hô bằng
danh xưng ngôi thứ trong gia đình mà thôi. Chẳng hạn, ta chỉ nói đơn
giản là: “Mời Chú ăn cơm…”
mà không gọi tên tục của Chú ra trong lời mời.
Trong
cách xưng hô với anh chị em, chúng ta có thể dùng chữ Anh, Chị hay Em
trước tên hay ngôi thứ. Thí dụ: “Anh Tuấn đi vắng… “ v..v.. Các em nhỏ
không được phép gọi anh
chị bằng tên trống không. Tuy nhiên, anh chị có thể gọi các em bằng tên
trống không hoặc tên có thêm chữ ngôi thứ vào.
Thí dụ “Em An đi lấy cho anh cây viết” hay “An lấy cho anh cây viết” đều được cả.
Những
người con trong gia đình gọi nhau bằng “mày” và xưng “tao” là do lỗi
của bố mẹ không dạy bảo các con ngay từ khi chúng còn nhỏ. Các con gọi
nhau bằng mày xưng tao
mãi rồi thành thói quen. Khi đã thành thói quen thì chúng không thể đổi
cách xưng hô cho đúng phép được.
Cha
mẹ nên dạy con cái về cách xưng hô ngay từ khi con trẻ còn nhỏ. Muốn
chúng chào ai, cha mẹ phải nói cho chúng biết cách chào và bắt chúng lập
lại nhiều lần khi bắt
đầu.
A- Bậc Trên Cấp Cha Mẹ
Người
sinh ra ta được gọi là Cha Mẹ. Cha mẹ của Cha mẹ, Cô, Dì, Chú, và Bác
của chúng ta được gọi là Ông Bà. Cha mẹ của Ông bà được gọi là Cụ. Cha
mẹ của Cụ được gọi là
Kỵ. Các Ông cha đời trước nữa được gọi là Tổ Tiên. Cha Mẹ sinh ra Các
Con.
- Bậc bề trên trên cha mẹ nói chung:
Ông bà tổ tiên.
- Theo thứ tự thời gian:
Ông-Bà-Cố-Tổ, Tằng tổ, Cao tổ.
- Cha mẹ của Cha hoặc của Mẹ:
Ông, Bà (nội hoặc ngoại).
Xưng hô với các bậc trên cấp Cha Mẹ này thì dùng chữ Cháu.
Ở ngôi thứ ba, tương quan với bậc từ Cố trở lên thì gọi là Chắt.
Ở một vài tỉnh miền Trung Ông Bà còn được gọi là "Ông Mệ.”
B- Cha Mẹ, Con Cái, Anh Chị Em, Vợ Chồng
1) Cha Mẹ Ruột
Cha Mẹ ruột được gọi rộng rãi qua nhiều danh từ như:
Bố mẹ, Cha mẹ, Ba má, Tía Má, Thầy U, Song thân…
Trong
trò chuyện thân mật ở ngôi thứ ba thì gọi là “Ông Bà già tôi,” Các Cụ
chúng tôi, Ông Bà Nội các cháu (hoặc Ông Bà Ngoại các cháu) v..v..
- Cha: Cả 3 miền Bắc Trung Nam đều gọi là Cha, Ba.
Ttrong văn chương và ngôi thứ ba còn gọi là Thân phụ, ông Cụ Thân sinh…
trong trò chuyện thân mật ở ngôi thứ ba thì gọi là “Ông già”;
Bắc: Bố, Thầy, Cậu.
Ngôi thứ ba thì gọi “Ông Cụ nhà tôi”;
Nam: Tía;
Trung: một vài nơi gọi Cha bằng Chú.
- Mẹ: Cả 3 miền gọi là Mẹ. Trong văn chương và ngôi thứ ba còn gọi là Thân mẫu, Bà Cụ Thân sinh, Bà Cụ chúng tôi... “Bà già”;
Bắc: Me, Mẹ, U, Bu, Đẻ, Cái, Mợ;
Nam: Má; Vú, Bầm.
Trung: Mạ, Mệ
Trước đây trong chế độ đa thê, người con ruột gọi mẹ mình bằng Chị (?) nhưng gọi bà vợ chính của cha mình bằng Mẹ.
-
Cha mẹ gọi con ruột mình là Con. Nhưng người Bắc thường xưng hô
với con trai và con gái đã lớn tuổi, hay có gia đình rồi, của mình bằng
Anh và Chị.
2) Cha Kế / Mẹ Kế
- Chồng của Mẹ (mà không phải cha ruột mình) gọi là Dượng; người Trung còn gọi là Trượng.
- Vợ của Cha (mà không phải mẹ ruột mình) gọi là Dì (ghẻ); Nếu là vợ chính của cha, trong chế độ gia đình xưa thì gọi là Mẹ.
3) Cha Mẹ Vợ
Cha mẹ vợ gồm có: Ông Bà Nhạc, Ông Nhạc, Bà Nhạc, Cha Mẹ vợ, Cha vợ, và Mẹ vợ, v.v.
Tiếng gọi Cha Vợ khi nói chuyện với bạn bè thân gồm có: Nhạc Phụ, Nhạc Gia, Bố Vợ, Ông Nhạc, Ông Ngoại các cháu, v.v.
Tiếng gọi Mẹ Vợ khi nói chuyện với bạn bè gồm có: Bà Nhạc, Bà Ngoại các cháu, Nhạc mẫu, v.v
4) Anh Chị Em Ruột
- Anh:
Cả 3 miền đều gọi Anh. Trong văn chương ở ngôi thứ ba là Bào huynh.
Trung: một vài nơi gọi là “Eng” (?)
Người anh đầu lòng người Bắc gọi là Anh Cả, người Nam gọi là Anh Hai.
- Chị:
Cả 3 miền gọi là Chị.
Trung: một vài vùng gọi là Ả.
- Em trai, Em gái:
Cả 3 miền gọi là Em. Trong văn chương gọi là bào đệ, bào muội.
Trung: Út. Nếu người Trung gọi em
là Út, thì chữ Út nầy được người Nam và người Bắc hiểu là người em cuối
trong gia đình. Người Trung dùng chữ “Tui” (là chữ Tôi nhưng âm hưởng là
Em) để xưng hô với anh
chị mình.
5) Anh Chị Con Cháu Qua Hôn Phối (in-laws)
- Chồng Chị và Chồng Em gái gọi là Anh Rể và Em Rể. Vợ anh và Vợ em trai gọi là Chị Dâu và Em Dâu.
- Vợ con trai mình gọi là Con Dâu, chồng con gái mình gọi là Con Rể.
-
Cha, mẹ, anh, chị, em (của) chồng gọi là Cha chồng, Mẹ chồng, Chị
chồng, Anh chồng, Em chồng. Cha, mẹ, anh, chị, em (của) vợ gọi là Cha
Vợ, Mẹ Vợ, Anh Vợ, Chị Vợ, Em
Vợ.
Nên biết thêm:
Khi xưng hô với nhau giữa hai người thì các chữ Rể, Dâu,
Chồng, Vợ sẽ mất đi (Ví dụ Con Dâu nói với Mẹ Chồng: " Con xin phép Mẹ";
hoặc Cha Vợ với con Rể: “Cha nhờ con việc nầy") - Khi nói với người thứ
ba thì thêm “Rể... tôi”: Con Rể tôi,
Con Dâu tôi, Cha Chồng (vợ) tôi, Mẹ Chồng (vợ) tôi.
6) Vợ Chồng
Tình vợ chồng người Việt rất đằm thắm, chân tình.
Họ đối đãi với nhau rất lịch sự và tương kính.
Tiếng
xưng hô của Chồng với Vợ trong gia đình gồm có: Em, Cưng, Mình, Bu nó,
Má mày, Má nó, Má thằng cu, Mẹ nó, Bà, Bà nó, Mợ, Mợ nó, Mình, Bậu, v.v.
Tiếng
Chồng gọi Vợ trong khi nói chuyện với người khác gồm có: Nhà tôi, Bà
nhà tôi, Má tụi nhỏ, Má sắp nhỏ, Má bày trẻ, Tiện nội, Nội tướng tôi, Bà
xã, Bà xã tôi, Vợ tôi,
v..v..
Tiếng
xưng hô của Vợ với Chồng trong gia đình gồm có: Anh, Cưng, Anh nó, Ba,
Ba nó, Bố, Bố nó, Bố mày, Bố thằng cu, Ông xã, Cậu, Cậu nó, Ông, Ông nó,
Mình, v.v.
Tiếng
Vợ gọi Chồng trong khi nói chuyện với người khác gồm: Nhà tôi, Ông nhà
tôi, Ba tụi nhỏ, Ba sắp nhỏ, Phu quân tôi, Ông Xã, Ông Xã tôi, Ông Chồng
tôi, Anh ấy, v.v.
Nên biết thêm:
Tại một vài nơi ở miền Trung người ta gọi Cha hoặc Mạ và thêm tên đứa
con đầu: chẳng hạn đứa con đầu tên Long thì vợ gọi chồng là “Cha thằng
Long”; chồng gọi vợ là “Mạ thằng Long”; và người ngoài xung hô là “ông
Long,” “Mụ Long” chứ không gọi tên
thật (còn gọi là tên tục).
Những cặp vợ chồng đứng đắn, có giáo dục không bao giờ gọi nhau bằng “Mày,” “Thằng đó,” “Con đó” và xưng “Tao.”
Họ tìm những lời lẽ dịu dàng đầy tình cảm yêu thương để gọi nhau.
Chính vì thế mà tiếng xưng hô giữa vợ chồng người Việt có rất nhiều,
hơn xa tiếng xưng hô của vợ chồng người Tây phương.
C- Anh Chị Em của Cha Mẹ, Anh Chị Em Họ
- Anh của cha: Cả 3 miền gọi là Bác.
- Vợ của anh cha:
Cả 3 miền gọi là Bác.
- Em trai của cha:
Cả 3 miền gọi là Chú.
- Vợ em trai của cha:
Cả 3 miền gọi là Thím.
- Chị của cha: Bắc gọi là Bác; Trung, Nam gọi Cô (hoặc O)
- Chồng chị của cha:
Bắc gọi là Bác; Trung, Nam: Dượng (hoặc Trượng)
- Em gái của cha: Bắc, Nam gọi Cô; Trung gọi O.
- Chồng em gái của cha: Bắc gọi Chú; Nam, Trung gọi Dượng (hay Trượng)
- Anh trai của mẹ: Bắc gọi Bác; Nam, Trung gọi Cậu
- người Trung còn gọi “Cụ” (?)
- Vợ anh trai của mẹ: Bắc gọi Bác; Trung, Nam gọi Mợ - người Trung còn gọi là Mự (?)
- Em trai của mẹ: Cả 3 miền gọi là Cậu - người Trung còn gọi là Cụ.
- Vợ em trai của mẹ:
Cả 3 miền gọi là Mợ - người Trung còn gọi là “Mự.”
- Chị của mẹ: Bắc gọi Bác; Trung, Nam gọi Dì.
- Chồng chị của mẹ: Bắc gọi Bác; Trung, Nam gọi Dượng (Trượng).
- Em gái của mẹ: Cả 3 miền gọi là Dì.
- Chồng em gái của mẹ:
Bắc gọi Chú; Trung, Nam gọi Dượng (Trượng)
-
Anh chị em họ: Cả 3 miền vẫn gọi là Anh, Chị, Em như anh chị em ruột.
Nhưng cấp bậc anh chị họ có nơi dựa trên tuổi tác cá nhân, có nơi, đặc
biệt ở miền Trung, thì tùy
vị thế trên dưới của các bậc cha mẹ. Chẳng hạn người con của chú mình
dầu lớn hơn mình cả 20 tuổi nhưng vẫn gọi mình bằng Anh và mình gọi lại
bằng Chú (tức là Chú em).
- Bác, chú cô dì... gọi các con anh em mình bằng Cháu.
Trong
cách xưng hô với anh chị em của cha mẹ, người Bắc ưu tiên tuổi tác khi
gọi anh, chị cha và mẹ là Bác, và cấp nhỏ là Chú Cậu Cô Mợ và chứ không
dùng chữ “Dượng.”
Nên biết thêm:
Người Nam và Trung ưu tiên về nội ngoại, thân sơ. Dì thì luôn bên
ngoại dù tuổi cao hay thấp, Cô (hoặc O) thì luôn bên nội dù là chị hay
em của cha. Chú thì chỉ dùng cho em cha, thuộc bên nội thôi. Người không
thuộc dòng máu cha mẹ thi gọi là Dượng
(hay Trượng), Mợ, Thím để phân biệt với Bác Trai, Chú, Cô, Cậu là anh
em ruột thịt. Chỉ có cách gọi Bác Gái (vợ anh trai của cha) là một ngoại
lệ.
II- Xưng Hô ngoài xã hội
Ngoài
xã hội, cách xưng hô từ trường học, cơ quan chính phủ, sở làm cho đến
chợ búa thực ra không có một quy tắc, nguyên tắc hay định luật nào nhất
định viết trên giấy
tờ. Cách tốt (và an toàn) nhất là dù ở hoàn cảnh nào, vị
trí nào, mình luôn luôn khiêm tốn, lịch sự, lễ phép, tình cảm và tế nhị;
tránh làm phật lòng, xúc phạm người khác.
Kết quả của sự cẩu thả, tủy tiện có thể gây đổ vỡ thiệt hại cho bản thân mình và người khác.
Nên nhớ là “Golden Rules” (“So in everything, do to others what you would have them do to you” - Matthew 7:12” -
Đừng làm cho người khác những gì mình không muốn người khác làm cho mình”) sẽ là chân lý cần thiết muôn đời: Tôn trọng người thì người sẽ tôn trọng mình là vậy.
1) Xưng hô ở nơi công cộng, chợ búa
Đây là hoàn cảnh dễ gây lúng túng nhất cho chúng ta bởi vì đối tượng là người xa lạ.
Trường hợp này chúng ta phải tùy thuộc vào sự quan sát và ước đoán về tuổi tác và giới tính mà xưng hô.
Điều cần nhất vẫn là phải khiêm tốn lễ phép và tế nhị. Tôi đề nghị một điều “Nếu
mình ở thế kẹt, không biết phải xưng hô như thế nào cho phải phép, cho
thỏa đáng thì cứ mạnh dạn hỏi người mình đang phải nói chuyện là mình
nên gọi họ như thế
nào?” Người Mỹ họ hay làm như vậy (“What should I call you?”); rất an toàn.
2) Xưng hô ở Trường Học
Văn
hóa Việt Nam đề cao việc học hành và sự giáo dục; đồng thời kính trọng
người dạy dỗ; xếp hạng và nâng cao bậc “Thầy, Cô” lên trên cả cấp sinh
thành (bậc cha mẹ).
Thành ra, lễ phép trong việc xưng hô với Thầy Cô là chuyện phải làm.
Kể ra, xưng hô với Thầy Cô cũng đơn giản: “Thưa Thầy,” “Thưa Cô…” không gọi Thầy Cô bằng tên tục.
Chúng ta có thể xưng Em (hay Con) là đủ. Ngay cả
trường hợp ở dưới quê, học trò đi học trễ tuổi nên tuổi tác gần như suýt
soát với Thầy Cô nhưng vẫn phải xưng hô với Thầy Cô như các học trò nhỏ
khác.
Ở bậc Đại học thì có vẻ thông thoáng hơn. Sinh viên còn có thêm thông lệ xưng hô với Thầy Cô qua học hiệu như “Thưa Giáo Sư,” Thưa Tiến sĩ…”
Sinh viên lớn tuổi có thể xưng “Tôi” thay vì “Em” hay “Con.”
3) Xưng hô ở sở làm, tại các cơ quan chính quyền
Sở
làm, nhất là công sở, không phải là gia đình do đó các nhân viên nam
hay nữ phải thẳng thắn dùng đại danh từ cho ngôi thứ nhất là “Tôi” -
không có ngoại lệ.
Ngôi thứ hai (đối tượng được gọi) có thể được gọi là Ông, Bà hay
Ông, Bà cộng thêm chức vị (Thí dụ: Ông Giám đốc, Bà Chủ Tịch Ban Quản
Trị…).
Tuyệt đối không dùng các danh xưng có tính cách thân mật quen
thuộc của gia đình như Chú, Bác, Cô, Dì, Cậu Mợ, Thím, Anh, Em, Con,
Cháu v.v..
Chuyện đáng buồn là ngày nay cách gọi thiếu dân chủ, thiếu đứng
đắn, thiếu chuyên nghiệp loại này đã lan tràn qua mọi ngõ ngách lớn nhỏ
của công sở đến cả các cấp cao nhất của chính phủ cộng sản và cả ngoài
xã hội dân sự.
Tôi xin trích một đoạn đối thoại trong một cuộc họp báo tầm quốc gia về vấn đề lớn (đó là “cá chết / môi trường”)
có tính cách quốc tế giữa ông Võ Tuấn Nhân, Thứ trưởng Bộ Tài
Nguyên Môi Trường của vi-xi và một phóng viên báo chí trong nước như
sau:
Phóng viên:
- Không.
Không. Em chỉ hỏi là mình nên đưa ra một cái mốc thời gian…
Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi Trường Võ Tuấn Nhân ngắt lời:
- Không. Không. Để cho anh nói hết.
Nói riêng với em…
Trới đất! “Anh-Anh/Em-Em” cái nỗi gì ở chỗ đang nói chuyện đứng đắn và chuyên nghiệp này…
Đây đâu có phải là lúc nói chuyện thường tình mà cứ phải dùng cái
“văn hóa du kích” khi còn đắp mô đặt mìn chặn xe đò trong sự nghiệp
“chống mĩ cứu nước,” hay lúc tình cờ gặp nhau khi đang khiêng tải đạn
dược, chuyển quân dụng ở trên “đường mòn hồ chí
minh” dưới “địa đạo củ chi?!” Tương tự, một vấn đề đã nêu ở trên của một ông người Việt tị nạn gọi Thị Trưởng Tạ Đức Trí là “Anh Thị trưởng” cũng sai trái y hệt như vậy thôi:
Hoàn toàn thiếu đứng đắn và rất chướng… Nghe rất bịnh.
III- Vài đề nghị thay đổi cách xưng hô
Qua
sự phát triển nhanh chóng của khoa học và kỹ thuật, nhất là kỹ thuật
tin học, chúng ta có cơ hội tiếp cận với các văn hóa lớn ngoài Việt Nam
chỉ qua vài cái “bấm” trên
“con chuột điện tử.” Có nhiều cái hay của họ mình nên học
hỏi; đồng thời những cái gì tốt, những cái có tính cách cá biệt bản sắc
dân tộc Việt Nam, chúng ta cần phải duy trì và phổ biến đến họ.
Chúng ta sẵn sàng hòa nhập và hội nhập nhưng nhất định không chịu
(để) văn hóa 4000 năm của mình hòa tan (melting) vào những văn hóa lớn
rồi bị tiềm thực.
Tuy vậy, không nên quá bảo thủ: Cái hay cần học hỏi; cái dở nên bỏ bớt đi.
Chúng ta không cần một cuộc cách mạng văn hóa mà chỉ cần một sự
thay đổi thận trọng để thích hợp; nhất là cần một sự dân chủ hóa các lối
gọi, xưng hô ở cơ quan chính quyền và ngoài xã hội.
Người dân đen yếu nhỏ bé thiếu quyền lực, cũng như giới trẻ thiếu
kinh nghiệm không thể bị gọi người lớn, cấp trên một cách thấp cấp
khinh miệt như “Mày, “Chúng mày,” “Em,” “Cháu…”
“.. còn trời còn đất còn non nước,
có lẽ ta đâu mãi thế này.”
(NCT)
“… lời nói không mất tiền mua,
lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.”
(Ca dao)
Trần Văn Giang ( HNPĐ )
Orange County, ngày 24 thàng 2 năm 2017
___________
Tham khảo
-“Xưng Hô Trong Gia Đình Việt Nam” – Nguyễn Đăng Trác
-“Cách Xưng Hô Trong Gia Đình Việt Nam” – Cao Thu Cúc
-“Quan hệ Gia Đình Làng Xóm của Người Quảng Ngãi” - Địa Dư Chi Quảng Ngãi
-“Cách Xưng Hô và Quan Hệ Trong Gia Đình Dòng Họ” - Đinh Khắc Thiện