Truyện Ngắn & Phóng Sự
THÁI DƯƠNG NGUYỄN VĂN XANH *
Một người như mọi người!
William S. Reeder
(Nguyễn Hữu Thiện phỏng dịch và đặt tựa)
Lời nói đầu: Sau cuộc chiến Việt Nam , đã có nhiều huyền thoại đầy
anh hùng tính viết về các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Và
trong rất nhiều trường hợp, chỉ tới khi ấy, chúng ta mới giật mình
nhận ra những người "anh hùng" được nhắc tới lại chính là những cấp
chỉ huy, những đồng đội, những thuộc cấp rất bình thường của mình.
Một trong những con người rất bình thường ấy vừa được vinh danh là
cựu Trung-úy hoa tiêu khu trục Nguyễn Văn Xanh, Phi Đoàn 530 Thái
Dương, Không Đoàn 72 Chiến Thuật (Pleiku).
Thời gian ấy – Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, với tư cách Sĩ quan Thông Tin Báo
Chí đơn vị, có nhiệm vụ báo cáo hàng tuần về tổng số phi vụ và kết
quả hoạt động của đơn vị cho Phòng Thông Tin Báo Chí – BTL/KQ , có
lẽ chúng tôi đã chỉ ghi ngắn g=E 1n trong phần tổn thất của quân
bạn: "Phi Đoàn 530: một A-1 Skyraider bị phòng không địch bắn hạ
ngày 9/5/1972 tại Kontum; phi công nhảy dù và được ghi nhận mất
tích". Chấm hết!
Nhưng với một phi công Đồng Minh xa lạ, tới đây câu chuyện của ông
mới bắt đầu. Xin mời độc giả theo dõi câu chuyện cảm động ấy qua hồi
ký của Đại-tá Lục Quân (hồi hưu) William S. Reeder, nguyên phi công
trực thăng tấn công AH-1G Cobra, phục vụ tại Căn cứ Halloway, gần
phi trường Cù Hanh, Pleiku, mới được phổ biến trên Internet. Cũng
cần viết thêm, sau khi giải ngũ, ông Reeder đã trở lại trường đại
học, và đạt tới học vị Tiến sĩ. NHT
* * *
Tôi còn nhớ đợt phục vụ luân phiên (tour of duty) thứ nhì của tôi
khởi đầu vào ngày 7 tháng 12 năm 1971. Lúc ấy, chương trình rút quân
Mỹ theo kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh" của Tổng thống Nixon
đang được tiến hành một cách suông sẻ. Gánh nặng trong cuộc chiến đã
được chuyển giao gần hết cho Quân Lực VNCH, và quân Mỹ đã được đưa
về nước với một nhịp độ chóng mặt. Giờ này nhìn lại, phải công nhận
chương trình Việt Nam hóa ngày ấy đã đạt kết quả tốt đẹp. Hoạt động
của địch quân ở miền Nam đã giảm hẳn, và hình thức chiến tranh du
kích của quân phiến cộng đã không còn hiện hữu. Thế nhưng, sự yên
tĩnh ấy đã không kéo dài...
Mùa xuân 1972, quân Cộng Sản Bắc Việt bất thần mở những cuộc tấn
công vũ bão chưa từng thấy trong cuộc chiến – đợt t5n công mà người
Mỹ quen gọi là "Cuộc tổng công kích mùa Phục Sinh 1972" (1972 Easter
Offensive). Đây không phải là một cuộc tổng nổi dậy của Việt Cộng
trong Nam như hồi Tết Mậu Thân 1968, mà là một chiến dịch quy mô với
hàng loạt cuộc tấn công quy mô của quân CSBV băng qua vùng phi quân
sự, và từ những căn cứ đóng quân trên lãnh thổ Lào và Căm-bốt, với
mưu đồ cắt đôi lãnh thổ VNCH tại vùng Cao Nguyên, và tiến đánh Sài
Gòn, thủ đô miền Nam. Kết quả, quân CSBV đã thất bại trước sức chiến
đấu mãnh liệt của lục quân và không quân miền Nam , với sự trợ lực
tận tình của những đơn vị Hoa Kỳ còn đồn trú tại đây.
[1972 Easter Offensive được phía Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972;
và từ đoạn này, người dịch sẽ sử dụ ng "Mùa Hè Đỏ Lửa" thay cho
"Easter Offensive"]
Cuộc tổng tấn công bắt đầu vào tháng Tư năm 1972 với các cuộc tấn
công của quân chính quy Bắc Việt từ Căm-bốt tiến về hướng Sài gòn,
và băng ngang vùng phi quân sự tiến chiếm cố đô Huế. Sau cùng là mặt
trận mang tính cách quyết định của chiến dịch: quân CSBV từ miền Bắc
Căm-bốt và Nam Lào vượt biên giới tiến đánh vùng Tây Nguyên, với mục
đích giành quyền kiểm soát dải đất Trung phần, và tiêu diệt lực
lượng VNCH tại đây - giống như Việt Minh đã thực hiện, và đã thành
công trong chiến tranh với Pháp vào năm 1954. Lần này, quân cộng sản
đã thành công trong bước đầu, tuy nhiên sau đó họ đã không chiếm
được một mục tiêu quan trọng nào. Ở phía bắc, họ chỉ tiến chiếm tới
Quảng Trị, và sau đó đã bị lực lượng Nhảy Dù của VNCH đánh bại. Tại
Tây Nguyên, họ chỉ chiếm được một số tiền đồn chung quanh Kontum,
nhưng sau đó cũng bị đẩy lui.
Câu chuyện tôi kể lại sau đây chính là bối cảnh của một bi kịch đời
người diễn ra vào lúc ấy, với vai chính là tôi, và một phi công VNCH
tên là Xanh Văn Nguyễn – hay gọi theo cách gọi của người Việt, họ
luôn đứng trước tên gọi, thì là Nguyễn Văn Xanh. Vào thời gian Mùa
Hè Đỏ Lửa 1972 khởi sự, tôi đang bay trực thăng tấn công AH-1G Cobra
tại Căn cứ Halloway của Lục Quân Hoa Kỳ, ở gần tỉnh lỵ Pleiku.
Trung-úy Nguyễn Văn Xanh thì bay khu trục cơ A-1 Skyraider ở Căn cứ
Không Quân Pleiku. Chúng tôi không hề quen biết nhau, cũng chưa từng
gặp gỡ bao giờ.
Hôm đó là ngày=2 09 tháng 5, 1972, vào lúc hừng đông, tôi chỉ huy
một phi vụ gồm 2 chiếc trực thăng Cobra yểm trợ một căn cứ bộ binh
đang bị địch công hãm ở Polei Klang, ở cực tây tỉnh Kontum, gần biên
giới Căm-bốt. Một lực lượng quân CSBV với sự yểm trợ của chiến xa
đang tấn công căn cứ và tình hình thật bi đát. Sau nhiều vòng tấn
công và sử dụng toàn bộ rocket, đạn M-79 và đạn đại liên, chúng tôi
bay về phi trường Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu.
Nhân viên phi hành bay chung với tôi, tức phi công phụ kiêm xạ thủ
ngồi ghế trước của chiếc Cobra, là Thiếu-úy Tim Conry, quê ở
Phoenix, tiểu bang Arizona. Tim là sĩ quan trẻ xuất sắc nhất mà tôi
được biết, vì thế ngay sau khi anh tới đơn vị, tôi đã chọn anh vào
phi đội do tôi chỉ huy, và luôn luôn để anh bay chung v ới tôi. Anh
không chỉ là một nhân viên phi hành xuất chúng mà còn là một con
người toàn hảo. Nhưng vào chiều ngày hôm ấy, anh đã trở thành người
hùng thiên cổ!
Trở lại với phi vụ của chúng tôi, trên đường quay trở lại Polei
Klang, chúng tôi được lệnh thay đổi mục tiêu tấn công: đó là tới yểm
trợ cho một tiền đồn ở vùng Tam Biên – tức giao điểm của ba biên
giới Việt Nam , Căm-bốt và Lào. Địa danh này có tên là Ben Het. Lực
lượng trấn giữ là một tiểu đoàn Biệt Động Quân, với quân số khoảng
300 người, và hai cố vấn Mỹ. Lực lượng bé nhỏ ấy đang phải chống trả
sức tấn công của hàng ngàn bộ đội thuộc hai sư đoàn CSBV có chiến xa
tăng cường. Khi chúng tôi tới nơi, các chiến xa đã vượt qua hàng rào
phòng20thủ, và bộ đội Bắc Việt đã chiếm gần hết căn cứ.
Trước đó, trên đường tới Ben Het, khi bay ngang qua Polei Klang, tôi
nhìn xuống quan sát. Chiến sự đang sôi động, và tôi có thể thấy
những chiếc khu trục A-1 Skyraider đang nhào xuống thả bom. Bỗng một
chiếc A-1 bị trúng đạn phòng không, bốc cháy, đâm xuống đất nổ tung.
Nhưng viên phi công đã kịp thời phóng ghế thoát hiểm vì tôi thấy cái
dù của anh đang lơ lửng. Tôi liền gọi máy về xin được ở lại Polei
Klang để yểm trợ cho cuộc cấp cứu. Lời thỉnh cầu của tôi bị từ chối.
Tôi xin thêm một lần nữa, cũng bị từ chối. Và tới lần thứ ba thì bị
từ chối một cách dứt khoát, cộc lốc. Lúc đó, chưa được biết tình
hình ở Ben Het nguy kịch tới mức nào, cho nên tôi đã20vô cùng phẫn
nộ vì đã không được phép cứu giúp một phi công lâm nạn đang cần tới
sự yểm trợ của mình.
Tôi bay vào Ben Het mà tưởng như đang bay vào một tổ ong bị động.
Lúc đó, 5 chiến xa địch đã vượt qua hàng rào kẽm gai, và bộ đội Bắc
Việt thì tràn ngập khắp nơi. Các quân nhân đồn trú còn sống sót đã
rút vào hầm chỉ huy ở trung tâm để cố thủ. Chúng tôi tác xạ một hồi
rồi yểm trợ cho một chiếc trực thăng đặc biệt được trang bị một loại
hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất. Sau khi sử dụng hết đạn dược,
chúng tôi lại bay về Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu.
Rồi quay trở lại Ben Het để thi hành phi vụ chiến đấu thứ ba trong
ngày.
Sau khi cất cánh khỏi phi trường Ko ntum, chúng tôi được lệnh hộ
tống một trực thăng có nhiệm vụ tiếp tế đạn dược cho Ben Het. Lúc
đó, đạn của lực lượng cố thủ đã gần cạn, riêng hỏa tiễn chống chiến
xa thì đã hết sạch.
Sau khi gặp nhau, chúng tôi hộ tống chiếc Huey (tức trực thăng UH-1)
tới Ben Het, tất cả đều bay sát ngọn cây. Vừa bay tới Ben Het thì
súng nổ như pháo Tết, súng của ta lẫn súng của định. Ở ghế trước
trên chiếc Cobra của tôi, Thiếu-úy Tim Conry rải từng tràng mini-gun
và những trái M-79 xuống thật chính xác. Tôi thì bắn từng cặp
rocket. Chúng tôi càng tiến sâu thì hỏa lực phòng không của địch
càng dày đặc. Nhưng rồi chiếc Huey cũng vào được tới nơi và hoàn tất
nhiệm vụ cực kỳ khó khăn ấy, phần lớn là nhờ hỏa lực yểm trợ
thật20chính xác của Tim: sau khi lơ lửng tại chỗ ở cao độ gần sát
mặt đất, và đạp các thùng đạn xuống, chiếc Huey bay ra dưới sự yểm
trợ hỏa lực của chúng tôi. Cùng lúc, chiếc Cobra của tôi bị trúng vô
số đạn đủ loại của địch, bốc cháy và đâm xuống theo đường xoáy trôn
ốc.. Chỉ trong giây lát, chiếc trực thăng chạm đất, và phát nổ ngay
sau khi tôi và Tim - dù bị thương nặng – tìm cách thoát ra khỏi phi
cơ.
Tim chết vào chiều tối hôm đó. Riêng tôi thì bị gẫy xương lưng,
phỏng ở mặt và phía sau cần cổ, một miểng đạn nằm sâu ở mắt cá, và
vô số vết thương nhỏ ở mặt và đầu. Nhưng mặc dù phi cơ rớt ngay
trong khu vực có hàng trăm địch quân đang tấn công căn cứ, tôi cũng
lẩn tránh được ba ngC3y trước khi bị bắt.
* * *
Tôi bị tra khảo trong mấy ngày liền; và bị đối xử khá tàn bạo. Khi
ấy tôi ở trong một tình trạng cực kỳ thê thảm về thể xác. Lưng tôi
bị gẫy. Máu từ vết thương ở mắt cá chảy ra đầy chiếc giày bốt, giờ
này đã khô lại thành một khối cứng ngắt. Đã ba ngày tôi không cạo
râu. Tôi không còn khả năng điều khiển ruột già và bàng quang, cho
nên tôi đã đại tiện, tiểu tiện ra đầy quần.. Tôi bị vô số vắt bám
vào người để hút máu, và chúng đã bị tôi bứt ra hết, trừ một con
đang chui vào lỗ mũi phía bên trái mà tôi không hề hay biết. Khi bắt
được tôi và thấy cảnh này, đám bộ đội đã được một trận cười khoái
trá.
Tôi bị tra khảo, đánh đập, hăm dọa. Hai tay tôi bị trói ngược ra
phía sau bằng dây nhợ, và càng ngày càng bị xiết chặt theo thời gian
bị tra khảo, cho tới khi hai vai tôi bị trật khớp, và hai cùi chỏ bị
trói cứng với nhau, cấn vào chỗ xương lưng bị gẫy khiến tôi đau đớn
khôn tả. Cuối cùng thì cuộc tra khảo cũng chấm dứt, và tôi được lệnh
đi bộ trong ba ngày liên tiếp, để tới một trại giam trong rừng già –
mà theo sự ước đoán của tôi, nằm ở phía bắc lãnh thổ Căm-bốt, ngay
bên kia biên giới. Tôi đã được bọn họ trả lại trả lại đôi giày bốt,
nhưng đã lấy mất hai sợi dây giày và đôi vớ. Sau ba ngày đi bộ, khi
lết một cách đau đớn tới cổng trại giam, đôi bàn chân của tôi đã trở
nên bầy hầy, giống như hai20cái hamburger còn sống.
Trại giam này là một điển hình của những trại mà nhiều người đã từng
sống qua. Trại được dựng trên một khoảnh đất trong rừng sâu, tất cả
đều làm bằng tre. Chung quanh là một bức tường bằng tre, khiến người
ta liên tưởng tới những tiền đồn của kỵ binh Mỹ vào thời khai phá
miền Viễn Tây. Bên ngoài bức tường này lại có một bức tường khác.
Giữa hai bức tường là một cái hào, giống như hào thành thời trung
cổ. Dưới hào có vô số chông - là những thân tre vót nhọn, sắc bén
như dao, cắm sâu dưới một lớp phân người.. Nếu rớt xuống đó, không
chết vì bị chông đâm vào những bộ phận trọng yếu thì bạn cũng sẽ
chết vì bị mất máu, hoặc nếu không chết ngay vì những vết thương thì
c ng chết từ từ vì bị nhiễm trùng. Một thân cây được bắc ngang cái
hào, mà phải cố gắng giữ thăng bằng, người ta mới có thể đi trên cái
"cầu" này để vào trại.
Bên trong những bức tường tre ấy là những cái cũi, cũng bằng tre, để
nhốt tù binh. Nào là quân nhân VNCH, nào là những người Thượng đồng
minh của Biệt kích Mỹ; và hai người Mỹ - gồm tôi và một phi công
trực thăng bị bắt trước đó một tháng. Tổng cộng, ít nhất cũng có vài
trăm tù binh. Tình trạng trong trại giam thật tồi tệ. Chúng tôi sống
như thú vật. Phần lớn những cái cũi để nhốt chúng tôi không đủ cao
để có thể đứng dậy. Tuy nhiên điều đó cũng không cần thiết bởi vì
chân chúng tôi đã bị cùm vào những cái cùm gỗ. Vì xương lưng bB gẫy,
tôi không thể nằm mà phải ngồi để ngủ. Đêm đêm, lũ chuột chạy tới
chạy lui trong cũi và gặm nhấm vết thương ở mắt cá chân của tôi. Vì
hai chân bị cùm, tôi không thể nhúc nhích nên không có cách nào để
đuổi chúng đi. Cho tới ngày nay, tôi vẫn còn ghét chuột!
Mỗi ngày, chúng tôi được ra khỏi cũi một lần để làm công việc thải
cặn bã trong cơ thể ở nhà vệ sinh dành cho tù binh. Giờ giấc mỗi
ngày đều khác nhau, cho nên tù binh nào không có khả năng chờ đợi,
kiềm chế, đã tự phóng uế ra quần khi đang còn bị cùm trong cũi (rất
nhiều người trong số chúng tôi bị tiêu chảy). Sau khi ra khỏi cũi,
chúng tôi phải đi một khoảng mới tới nhà vệ sinh ở một góc trại.
"Nhà vệ sinh" này thực ra chỉ là vài c i hố xí để bạn phóng uế
xuống. "Vấn đề" là có nhiều người trong số tù nhân bị đau yếu đã
không thể nín trên đường tới hố xí, nên đã đại tiện ngay tại chỗ,
khiến cả khu vực đầy rẫy những đống phân người. Một số tù nhân đau
nặng, gần chết, thì được đặt trên những cái võng gần các hố xí. Khi
có "nhu cầu", người nào còn đủ sức thì ráng xuống khỏi võng để tới
hố, người nào kiệt sức thì đành nằm trên võng mà phóng uế ra quần.
Hậu quả là cả khu vực chung quanh mấy cái hố được mệnh danh là "nhà
vệ sinh" ấy đầy rẫy phân người, mà những tù nhân còn tương đối khỏe
mạnh, trên đường đi tới hố xí phải cẩn thận lắm mới né tránh được.
Trên đường trở về cũi, không c bất cứ phương tiện nào để chúng tôi
lau chùi, rửa ráy.
Theo ký ức của tôi thì nước uống không có "vấn đề". Nước phân phát
cho tù nhân được đựng trong những ống tre. Họ nói rằng nước đã được
đun sôi, nhưng tôi vẫn bị tiêu chảy một cách thậm tệ. Nhưng lương
thực thì có "vấn đề".. Hầu như chỉ có một món duy nhất là cơm. Vào
lúc gần trưa, mỗi người được một nắm to bằng trái cam, tới xế chiều
được một nắm nữa. Thỉnh thoảng, chúng tôi được "chiêu đãi" bằng
những khúc rễ cây có bột, gọi là sắn dây, tương tự như rễ cây
"yucca" ở châu Mỹ La-tinh... Chỉ trong vài tuần lễ, tôi đã sút mất
hơn 20 ký-lô. Tôi giống như bộ xương cách trí với bộ râu dài. Trong
khoảng thời gian 5 tháng, tôi không hB được cạo râu.
Tôi không hề được chăm sóc về y tế hay được cấp phát bất cứ thứ
thuốc men nào cả. Nhưng người nào cũng thế thôi. Người tù binh Việt
Nam bị nhốt chung cũi, nằm cạnh tôi bị một vết thương rất nặng ở
ngực, không hiểu đã được băng từ đời nào, nhưng trong suốt thời gian
bị nhốt chung cũi, tôi không hề thấy anh được thay băng. Cái lỗ sâu
hoắm trên ngực anh không bao giờ lành. Anh còn trẻ và tương đối
khỏe, nhưng tôi biết chắc chắn anh sẽ không qua khỏi.
Chúng tôi sống như thú vật, trong điều kiện môi trường nhơ bẩn, đói
khổ, không một chút thuốc men, cho nên hầu như ngày nào cũng có
người chết. Xác họ được chôn trên sườn đồi phía bên ngoài trại.
* * *
Ngày 2 tháng 7 năm 1972, tôi được đưa ra khỏi cũi và sắp hàng cùng
với một toán tù binh. Có khoảng 25 người Việt và một người Mỹ khác.
Chỉ một lát sau, tôi được biết trong toán tù binh này có một phi
công bị bắn hạ cùng ngày với tôi, khi anh bay chiếc khu trục A-1
Skyraider yểm trợ cho trại Polei Klang. Tên anh là Trung-úy Xanh.
Tôi sẽ không bao giờ quên tên anh. Không bao giờ!
Viên chỉ huy trại tới nói chuyện với chúng tôi, theo đó, chúng tôi
sẽ di chuyển tới một trại mới, khá hơn. Nơi đó, chúng tôi sẽ được ăn
uống đầy đủ hơn, và được chăm sóc về y tế; chúng tôi sẽ được nhận
thư từ và bưu phẩm của gia đình gửi. Ông ta cho biết cuộc hành trình
có thể sẽ kéo dài tới 11 ngày, vì thế chúng tôi phải cố g=E 1ng hết
sức để đi cho tới nơi. Sau khi nghe ông ta nói, tôi tưởng tượng ra
một trại nào đó cũng ở trong rừng, nhưng vị trí thuận tiện, có nhiều
nhân viên và được tiếp tế đầy đủ hơn, nằm ở đâu đó phía bắc Căm-bốt
hoặc ngay bên kia bên giới Lào. Riêng về lời cảnh giác của viên trại
trưởng nói rằng chúng tôi "phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi",
tôi đã chẳng mấy quan tâm. Cho tới mấy ngày sau đó.
Với đôi chân trần, tôi bắt đầu cuộc hành trình. Các tù binh đều bị
trói, người này bị cột lại với người kia bằng một sợi dây. Sau vài
ngày, chúng tôi không còn bị trói nữa, vì bước đi còn không đủ sức
nói gì tới chạy trốn. Tôi rất đuối, vì thiếu dinh dưỡng, vì đủ thứ
bệnh không tên, và vì những vết thương lâu ngày không được chăm sóc
nay đã làm độc, và ngày càng trở nên tệ hại hơn cùng với cuộc hành
trình. Nhưng phải nói chính những con vắt mới là mối nguy hàng đầu;
chúng không chỉ hút máu mà còn gây viêm nhiễm do các độc tố chúng
truyền sang.
Trung-úy Xanh cũng ở trong tình trạng bi đát như tôi, mỗi bước đi là
một sự phấn đấu cả về thể xác lẫn nội tâm, để đối phó với sự kiệt
quệ của cơ thể, sự xuống dốc của tinh thần. Bởi nếu bạn không tiếp
tục bước, bạn sẽ chết. Ở cuộc sống đời thường, muốn chết bạn phải có
một hành động cương quyết nào đó. Bạn phải tự sát.. Nhưng một khi
bạn là tù binh chiến tranh thì trong bất cứ tình huống nào, sự thể
cũng trái n gược lại. Bạn phải phấn đấu từng ngày để sống sót. Còn
muốn chết thì dễ quá. Cứ việc bình thản, đầu hàng một cách êm ái, là
bạn sẽ chết. Nhiều người đã làm như thế. Họ chết trong trại tù đầu
tiên, họ chết trên đường di chuyển. Ngay sau ngày đầu, một số người
đã không chịu bò dậy nữa. Một số khác cố gắng tiếp tục cuộc hành
trình nhưng rồi cũng lần lượt bỏ cuộc. Trong lúc đoàn người tiếp tục
tiến bước, mỗi khi nghe một hay vài tiếng súng nổ ở phía sau, họ
biết họ sẽ không bao giờ còn gặp người tù binh đáng thương ấy nữa.
Toán 27 tù binh chúng tôi đã mất ít nhất là nửa tá trong hoàn cảnh
nói trên, và tới lúc cuộc hành trình kết thúc, Wayne Finch, người tù
binh Mỹ duy nhất ngoài tôi ra, cũng đã bỏ mạng.
* * *
Cuộc di chuyển không kéo dài 11 ngày, và đích tới cũng không phải là
một trại tù nào đó nằm trong khu vực. Mà là một cuộc hành trình gian
khổ kéo dài 3 tháng, đưa chúng tôi vượt gần 1000 cây số, ngược đường
mòn Hồ Chí Minh, và cuối cùng hướng về Hà Nội, thủ đô của miền Bắc.
Thật là một cơn ác mộng – một cơn ác mộng kinh hoàng nhất. Mỗi một
bước, với tôi là một sự đau đớn tận cùng thân thể. Các vết thương
làm độc ngày càng tệ hại. Tử thần đã kề bên. Cái chân bị thương đã
sưng phù lên gấp đôi bình thường, với những vết nứt dài, từ đó chảy
ra một thứ mủ cực kỳ hôi tanh.
Bệnh tiêu chảy của tôi càng thêm tồi tệ, lA 1i còn bị tới 3 loại sốt
rét khác nhau cùng với vô số ký sinh trùng trong ruột. Mỗi cuối
ngày, khi tôi kết thúc cuộc hành trình trên dưới 10 cây số, thần
chết cứ lảng vảng bên cạnh. Mỗi buổi sáng, ngay sau khi thức giấc,
tôi phải phấn đấu để cố đứng dậy, máu dồn xuống cái chân bị thương
cùng với sức nặng của thân hình đè xuống, tạo ra một cảm giác đau
đớn vô cùng tận. Và Trung-úy Xanh, mặc dù bản thân cũng trong tình
trạng hết sức tệ hại, luôn luôn hiện diện để khích lệ tôi, giúp đỡ
tôi với tất sức lực còn lại nơi anh. Tới bữa chiều, chúng tôi được
phát một nắm cơm nhỏ. Xanh nói với tôi đây không phải là cách ăn
uống bình thường của người Việt. Người Việt rất coi trọng bữa ăn, và
có nhiều món ăn ngon lFm. Đừng đánh giá văn minh ẩm thực của Việt
Nam qua những gì chúng tôi đang được cấp phát. Tôi cố gắng duy trì
đầu óc khôi hài. Đây là một việc rất khó khăn nhưng tối cần thiết.
Tinh thần là yếu tố quan trọng nhất trong việc sống còn, và kể cả
khi tình hình trở nên tuyệt vọng nhất, óc khôi hài sẽ giúp bạn giữ
vững được tinh thần – từ đó nảy sinh hy vọng. Và trong việc này,
Trung-úy Xanh cũng lại giúp đỡ tôi. Anh luôn luôn quan tâm tới tôi,
và làm bất cứ những gì anh có thể làm để giúp tôi giữ được lạc quan,
hy vọng. Vì thế, cho dù tình hình càng ngày tồi tệ, tôi chưa bao giờ
mất hy vọng. Kể cả trong cái ngày mà đáng lẽ ra tôi đã chết, nếu như
không có Xanh.
Mỗi ngày, tôi đã phải sử dụng toàn bộ ý chí để thức dậy, đứng lên và
bước đi. Rồi tôi phải phấn đấu hết mình trong suốt ngày hôm đó để
tiếp tục tiến bước trên con đường mòn dài vô tận. Tôi đã không còn
đứng vững, nhưng bằng cách nào đó, tôi vẫn hoàn tất mục tiêu của mỗi
ngày, để sáng hôm sau mở mắt chứng kiến thêm một bình minh nữa mà
Thượng Đế đã ban cho..
Nhưng rồi tới một ngày tệ hại nhất trong đời. Tôi đã phấn đấu hết
mình. Tôi lảo đảo muốn ngã xuống. Tôi cố gắng vận dụng hết sức lực..
Tôi loạng quạng bước đi. Rồi tôi lại lảo đảo, tôi cố gắng phấn đấu,
tôi vận dụng toàn bộ sinh lực còn sót lại, và tôi cầu nguyện xin có
thêm sức mạnh. Rồi tôi ngã gục, tôi bò dậy tiếp tục đi, nhưng rồi
lại20ngã gục. Tôi lại tiếp tục phấn đấu, phấn đấu với tất cả những
gì còn lại trong cơ thể, trong trái tim, trong linh hồn.. Nhưng rồi
tôi lại ngã gục, và lần này tôi không thể đứng dậy được nữa. Ý chí
của tôi vẫn còn, nhưng cơ thể đã hoàn toàn kiệt lực. Cuộc đời của
tôi đến đây là tận. Quân thù đến kia rồi; tên vệ binh nhìn xuống, ra
lệnh cho tôi bò dậy, nhưng tôi không thể. Hắn quát tháo lớn hơn, tôi
vẫn bất động. Coi như xong đời!
Nhưng Xanh đã tiến tới, vẻ mặt lo âu, cúi xuống nhìn tôi... Mặc cho
tên vệ binh quát tháo, xua đuổi, Xanh vẫn không chùn bước. Khi hắn
quát tháo dữ dội hơn, nét mặt Xanh bỗng trở nên đanh thép lạ thường,
và bất chấp những lời đe dọa của tên vệ binh, Xanh cúi xuống vực tôi
dậ y, rồi kê cái lưng ốm yếu cho tôi gục lên, để hai cánh tay của
tôi ôm vòng lấy cổ anh, hai cổ tay ghì chặt, và với tư thế ấy, anh
đã kéo tôi lết theo cho tới cuối ngày.. Đôi lúc, có một tù nhân khác
tạm thay thế Xanh, nhưng phải nói gánh nặng trong ngày hôm ấy dồn
hết lên vai anh. Xanh là người đã bất chấp nguy hiểm tới tính mạng
để lo lắng và chăm sóc tôi cho tới khi kết thúc cuộc hành trình ngày
hôm đó.
* * *
Sáng hôm sau, tôi trải qua mọi đau đớn thường lệ trong việc thức
dậy, đứng dậy và cố gắng lê lết cái chân bị thương trong những bước
đầu tiên, để tạo quyết tâm cho một ngày sắp tới. Tôi cảm thấy đau
đớn như chưa từng thấy nhưng vẫn cố gắng vận dụng ý chí để bư ớc đi.
Ngay phía bên ngoài cái trại vừa dừng chân là cây "cầu" bằng một
thân cây lớn bắc ngang một dòng nước chảy xiết xen lẫn những tảng đá
lớn. Tôi bắt đầu băng qua, cố gắng giữ thăng bằng nhưng không còn
sức lực mà cũng chẳng còn một chút ý thức gì về thăng bằng nữa. Cái
chân bị thương vô dụng kia đã hại tôi, kéo tôi nghiêng về một phía
khiến tôi loạng quạng và cuối cùng rớt xuống sông. Xanh và Wayne
đang đi phía trước, vội vàng quay trở lại phía bên này, lội xuống
vào kéo tôi lên bờ. Họ năn nỉ đám cộng sản cho phép cả toán tù binh
tạm dừng chân tại trại này cho tới khi nào tôi đủ sức tiếp tục cuộc
hành trình, nhưng bị từ chối. Xanh và Wayne nhất định không chịu rời
tôi. Cho tới khi đám vệ binh tiến tới, dí súng v0o người và lôi cổ
họ đi. Nhìn bóng hai người khuất dần cùng với toán tù binh, tôi biết
mình sẽ không bao giờ gặp lại Xanh trên cõi đời này nữa!
Bởi vì, như các bạn tù đồng cảnh ngộ đều biết, trong trường hợp này,
tôi bị bỏ lại trại để chết – như nhiều người khác đã chết.. Thế
nhưng không hiểu vì nguyên nhân hay lệnh lạc nào đó, đám cộng sản
lại quyết định chích penecillin cho tôi trong mấy ngày liền. Tôi bắt
đầu bình phục, và sau một khoảng thời gian ngắn, đã có thể đứng dậy.
Và ngay sau khi tôi đủ sức bước đi, đám cộng sản đã ra lệnh cho tôi
tiếp tục cuộc hành trình. Lần này, tôi đi chung với một đoàn bộ đội
di chuyển về hướng Bắc, một tay vệ binh được chỉ định đi theo tôi
làm cB 4ng việc áp giải.
Cuộc hành trình cũng gian khổ như những đoạn đường đã qua, nhưng với
tôi, những gì kinh hoàng nhất đã được bỏ lại sau lưng. Thậm chí tôi
còn có cơ hội chạy trốn: một ngày nọ, khi đi tới một khúc quẹo và
khuất tầm nhìn của tên vệ binh đi phía sau, tôi đã bỏ chạy vào rừng.
Nhưng rồi hắn đã mau chóng lần ra dấu vết và đuổi kịp; mặc dù tỏ ra
vô cùng giận dữ, hắn đã không bắn tôi chết, mà chỉ hung hăng chĩa
súng ra lệnh cho tôi quay trở lại. Sau đó, khi bắt đầu tiến vào lãnh
thổ Bắc Việt, tôi được cho nhập bọn với một đoàn tù binh VNCH, và
cuối cùng, tới Hà Nội. Nơi đó, sau khi đã trải qua mọi thủ tục và
nhiều nhà tù khác nhau, tôi được đưa tới "khách sạn Hilton - Hà Nội"
lừng danh (tức nhà tù Hỏa Lò), và ở đó cho tới khi được trao trả vào
giai đoạn cuối của cuộc chiến.
* * *
Ngay sau khi trở lại Hoa Kỳ, tôi đã đi tìm hỏi tin tức về Trung-úy
Xanh nhưng không có kết quả. Tôi đã tìm gặp các quân nhân Việt Nam
đang thụ huấn tại Mỹ, cũng không ai biết gì. Sau khi miền Nam rơi
vào tay cộng sản năm 1975, tôi càng ra sức tìm kiếm, để rồi lại bị
thất vọng.
Mấy năm sau, tôi được dịp tái ngộ với một quân nhân VNCH đi chung
với tôi trong toán tù binh nhứ nhất, cùng với một người khác trong
toán thứ hai, tên là Phạm Văn Tăng và Nghiêm Kế. Tôi nhờ họ giúp đỡ
trong việc tìm kiếm tin tức về Trung-úy Xanh.. Lúc đầu, không có kết
quả gì cả. Về sau thì có tin đồn nói rằng sau khi Sài Gòn thất thủ,
Xanh đã bị cộng sản bắt lại và có lẽ đã chết sau nhiều năm gian khổ
trong tù. Nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ có ngày được biết đích xác
những gì đã xảy ra cho Xanh, và có thể cả những tin tức liên quan
tới gia đình anh.
Trong những năm gần đây, tôi ra sức tìm kiếm trên internet, nhưng
luôn luôn thất bại. Thế rồi cách đây mấy tuần lễ, tôi tình cờ khám
phá ra trang mạng của các hoa tiêu bay khu trục A-1 Skyraider của
Không Quân VNCH, trong đó có một số người cùng phi đoàn với Xanh
ngày trước. Tôi gửi cho "trang chủ" mấy lời nhắn tin, và chỉ vài
ngày sau, tôi đã liên lạc được với Xanh bằng email, và sau đó qua
điện thoại – lần đầu tiên sau 35 năm, chúng tôi mới được nói chuyện
với nhau. Tôi sẽ gặp lại Xanh trong m t ngày gần nhất, có thể là mùa
thu này. Tôi sẽ được nhìn thấy anh lần đầu tiên kể từ cái ngày tôi
nằm lại bên đường mòn Hồ Chí Minh, mắt nhìn theo con người đã cứu
mạng mình – đang bị vệ binh dí súng cưỡng ép bước qua cây cầu, trong
lòng đau đớn vì phải bỏ tôi ở lại để chờ chết.
Xanh đâu có ngờ chính những cố gắng giúp đỡ tận tình của anh trong
những ngày đen tối nhất đời tôi, đã trở thành động lực để tôi phấn
đấu cho sinh mạng của chính bản thân mình – tôi không thể để uổng
phí công lao của Xanh. Tất cả những gì Xanh làm đã giúp tôi sống
sót, và chính những hành động quên bản thân của anh đã giúp tôi có
thêm nghị lực và quyết tâm để vượt qua bất cứ khó khăn, tr ngại nào
trong thời gian chờ đợi ngày được trả tự do.
Xanh luôn luôn là một con người đáng ngưỡng phục. Và giờ đây anh còn
là một công dân Mỹ đáng quý. Tôi cám ơn trời đã cho tôi gặp được một
người bạn như Xanh - vào lúc mà tôi cần tới sự giúp đỡ của anh hơn
lúc nào hết; và giờ đây, xin cám ơn trời một lần nữa, vì đã cho tôi
tìm lại được người bạn quý mến ấy.
William S. Reeder
(Nguyễn Hữu Thiện phỏng dịch và đặt tựa)
Rất cám ơn người đã dịch bức thư nầy , thư đã phổ
biến nhiều thông tin rất cần phải biết .
Về tên nhân vật được kể lại . Tôi nghĩ đó là KQ Nguyễn Đình Xanh ,
chứ không phải Nguyễn Văn Xanh . Và nhân đây tôi xin góp một đoạn
viết nhỏ đính kèm theo thư nầy , để nhắc lại một thời mà chúng ta ,
những người cùng sống trong thời chinh chiến đã phải trải qua .Và
tôi cũng có một thắc mắc là những việc xãy ra trong câu chuyện của
cựu quân nhân Mỹ đã kể, có phải là thời gian giữa năm 1972 không ?
Vì theo tôi nhớ thì hình như thời điểm sự việc xảy ra cho KQ NDX sớm
hơn . đoạn viết được đính kèm theo đây , tôi đã phổ biến trên FB vài
tuần trước .
Kính chúc sức khỏe đến toàn thể các bạn .
Trân trọng kính chào .
NTH.
http://batkhuat.net/tl-td-nguyenvanxanh.htm
Tân Sơn Hòa chuyển
THÁI DƯƠNG NGUYỄN VĂN XANH *
Một người như mọi người!
William S. Reeder
(Nguyễn Hữu Thiện phỏng dịch và đặt tựa)
Lời nói đầu: Sau cuộc chiến Việt Nam , đã có nhiều huyền thoại đầy
anh hùng tính viết về các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Và
trong rất nhiều trường hợp, chỉ tới khi ấy, chúng ta mới giật mình
nhận ra những người "anh hùng" được nhắc tới lại chính là những cấp
chỉ huy, những đồng đội, những thuộc cấp rất bình thường của mình.
Một trong những con người rất bình thường ấy vừa được vinh danh là
cựu Trung-úy hoa tiêu khu trục Nguyễn Văn Xanh, Phi Đoàn 530 Thái
Dương, Không Đoàn 72 Chiến Thuật (Pleiku).
Thời gian ấy – Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, với tư cách Sĩ quan Thông Tin Báo
Chí đơn vị, có nhiệm vụ báo cáo hàng tuần về tổng số phi vụ và kết
quả hoạt động của đơn vị cho Phòng Thông Tin Báo Chí – BTL/KQ , có
lẽ chúng tôi đã chỉ ghi ngắn g=E 1n trong phần tổn thất của quân
bạn: "Phi Đoàn 530: một A-1 Skyraider bị phòng không địch bắn hạ
ngày 9/5/1972 tại Kontum; phi công nhảy dù và được ghi nhận mất
tích". Chấm hết!
Nhưng với một phi công Đồng Minh xa lạ, tới đây câu chuyện của ông
mới bắt đầu. Xin mời độc giả theo dõi câu chuyện cảm động ấy qua hồi
ký của Đại-tá Lục Quân (hồi hưu) William S. Reeder, nguyên phi công
trực thăng tấn công AH-1G Cobra, phục vụ tại Căn cứ Halloway, gần
phi trường Cù Hanh, Pleiku, mới được phổ biến trên Internet. Cũng
cần viết thêm, sau khi giải ngũ, ông Reeder đã trở lại trường đại
học, và đạt tới học vị Tiến sĩ. NHT
* * *
Tôi còn nhớ đợt phục vụ luân phiên (tour of duty) thứ nhì của tôi
khởi đầu vào ngày 7 tháng 12 năm 1971. Lúc ấy, chương trình rút quân
Mỹ theo kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh" của Tổng thống Nixon
đang được tiến hành một cách suông sẻ. Gánh nặng trong cuộc chiến đã
được chuyển giao gần hết cho Quân Lực VNCH, và quân Mỹ đã được đưa
về nước với một nhịp độ chóng mặt. Giờ này nhìn lại, phải công nhận
chương trình Việt Nam hóa ngày ấy đã đạt kết quả tốt đẹp. Hoạt động
của địch quân ở miền Nam đã giảm hẳn, và hình thức chiến tranh du
kích của quân phiến cộng đã không còn hiện hữu. Thế nhưng, sự yên
tĩnh ấy đã không kéo dài...
Mùa xuân 1972, quân Cộng Sản Bắc Việt bất thần mở những cuộc tấn
công vũ bão chưa từng thấy trong cuộc chiến – đợt t5n công mà người
Mỹ quen gọi là "Cuộc tổng công kích mùa Phục Sinh 1972" (1972 Easter
Offensive). Đây không phải là một cuộc tổng nổi dậy của Việt Cộng
trong Nam như hồi Tết Mậu Thân 1968, mà là một chiến dịch quy mô với
hàng loạt cuộc tấn công quy mô của quân CSBV băng qua vùng phi quân
sự, và từ những căn cứ đóng quân trên lãnh thổ Lào và Căm-bốt, với
mưu đồ cắt đôi lãnh thổ VNCH tại vùng Cao Nguyên, và tiến đánh Sài
Gòn, thủ đô miền Nam. Kết quả, quân CSBV đã thất bại trước sức chiến
đấu mãnh liệt của lục quân và không quân miền Nam , với sự trợ lực
tận tình của những đơn vị Hoa Kỳ còn đồn trú tại đây.
[1972 Easter Offensive được phía Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972;
và từ đoạn này, người dịch sẽ sử dụ ng "Mùa Hè Đỏ Lửa" thay cho
"Easter Offensive"]
Cuộc tổng tấn công bắt đầu vào tháng Tư năm 1972 với các cuộc tấn
công của quân chính quy Bắc Việt từ Căm-bốt tiến về hướng Sài gòn,
và băng ngang vùng phi quân sự tiến chiếm cố đô Huế. Sau cùng là mặt
trận mang tính cách quyết định của chiến dịch: quân CSBV từ miền Bắc
Căm-bốt và Nam Lào vượt biên giới tiến đánh vùng Tây Nguyên, với mục
đích giành quyền kiểm soát dải đất Trung phần, và tiêu diệt lực
lượng VNCH tại đây - giống như Việt Minh đã thực hiện, và đã thành
công trong chiến tranh với Pháp vào năm 1954. Lần này, quân cộng sản
đã thành công trong bước đầu, tuy nhiên sau đó họ đã không chiếm
được một mục tiêu quan trọng nào. Ở phía bắc, họ chỉ tiến chiếm tới
Quảng Trị, và sau đó đã bị lực lượng Nhảy Dù của VNCH đánh bại. Tại
Tây Nguyên, họ chỉ chiếm được một số tiền đồn chung quanh Kontum,
nhưng sau đó cũng bị đẩy lui.
Câu chuyện tôi kể lại sau đây chính là bối cảnh của một bi kịch đời
người diễn ra vào lúc ấy, với vai chính là tôi, và một phi công VNCH
tên là Xanh Văn Nguyễn – hay gọi theo cách gọi của người Việt, họ
luôn đứng trước tên gọi, thì là Nguyễn Văn Xanh. Vào thời gian Mùa
Hè Đỏ Lửa 1972 khởi sự, tôi đang bay trực thăng tấn công AH-1G Cobra
tại Căn cứ Halloway của Lục Quân Hoa Kỳ, ở gần tỉnh lỵ Pleiku.
Trung-úy Nguyễn Văn Xanh thì bay khu trục cơ A-1 Skyraider ở Căn cứ
Không Quân Pleiku. Chúng tôi không hề quen biết nhau, cũng chưa từng
gặp gỡ bao giờ.
Hôm đó là ngày=2 09 tháng 5, 1972, vào lúc hừng đông, tôi chỉ huy
một phi vụ gồm 2 chiếc trực thăng Cobra yểm trợ một căn cứ bộ binh
đang bị địch công hãm ở Polei Klang, ở cực tây tỉnh Kontum, gần biên
giới Căm-bốt. Một lực lượng quân CSBV với sự yểm trợ của chiến xa
đang tấn công căn cứ và tình hình thật bi đát. Sau nhiều vòng tấn
công và sử dụng toàn bộ rocket, đạn M-79 và đạn đại liên, chúng tôi
bay về phi trường Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu.
Nhân viên phi hành bay chung với tôi, tức phi công phụ kiêm xạ thủ
ngồi ghế trước của chiếc Cobra, là Thiếu-úy Tim Conry, quê ở
Phoenix, tiểu bang Arizona. Tim là sĩ quan trẻ xuất sắc nhất mà tôi
được biết, vì thế ngay sau khi anh tới đơn vị, tôi đã chọn anh vào
phi đội do tôi chỉ huy, và luôn luôn để anh bay chung v ới tôi. Anh
không chỉ là một nhân viên phi hành xuất chúng mà còn là một con
người toàn hảo. Nhưng vào chiều ngày hôm ấy, anh đã trở thành người
hùng thiên cổ!
Trở lại với phi vụ của chúng tôi, trên đường quay trở lại Polei
Klang, chúng tôi được lệnh thay đổi mục tiêu tấn công: đó là tới yểm
trợ cho một tiền đồn ở vùng Tam Biên – tức giao điểm của ba biên
giới Việt Nam , Căm-bốt và Lào. Địa danh này có tên là Ben Het. Lực
lượng trấn giữ là một tiểu đoàn Biệt Động Quân, với quân số khoảng
300 người, và hai cố vấn Mỹ. Lực lượng bé nhỏ ấy đang phải chống trả
sức tấn công của hàng ngàn bộ đội thuộc hai sư đoàn CSBV có chiến xa
tăng cường. Khi chúng tôi tới nơi, các chiến xa đã vượt qua hàng rào
phòng20thủ, và bộ đội Bắc Việt đã chiếm gần hết căn cứ.
Trước đó, trên đường tới Ben Het, khi bay ngang qua Polei Klang, tôi
nhìn xuống quan sát. Chiến sự đang sôi động, và tôi có thể thấy
những chiếc khu trục A-1 Skyraider đang nhào xuống thả bom. Bỗng một
chiếc A-1 bị trúng đạn phòng không, bốc cháy, đâm xuống đất nổ tung.
Nhưng viên phi công đã kịp thời phóng ghế thoát hiểm vì tôi thấy cái
dù của anh đang lơ lửng. Tôi liền gọi máy về xin được ở lại Polei
Klang để yểm trợ cho cuộc cấp cứu. Lời thỉnh cầu của tôi bị từ chối.
Tôi xin thêm một lần nữa, cũng bị từ chối. Và tới lần thứ ba thì bị
từ chối một cách dứt khoát, cộc lốc. Lúc đó, chưa được biết tình
hình ở Ben Het nguy kịch tới mức nào, cho nên tôi đã20vô cùng phẫn
nộ vì đã không được phép cứu giúp một phi công lâm nạn đang cần tới
sự yểm trợ của mình.
Tôi bay vào Ben Het mà tưởng như đang bay vào một tổ ong bị động.
Lúc đó, 5 chiến xa địch đã vượt qua hàng rào kẽm gai, và bộ đội Bắc
Việt thì tràn ngập khắp nơi. Các quân nhân đồn trú còn sống sót đã
rút vào hầm chỉ huy ở trung tâm để cố thủ. Chúng tôi tác xạ một hồi
rồi yểm trợ cho một chiếc trực thăng đặc biệt được trang bị một loại
hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất. Sau khi sử dụng hết đạn dược,
chúng tôi lại bay về Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu.
Rồi quay trở lại Ben Het để thi hành phi vụ chiến đấu thứ ba trong
ngày.
Sau khi cất cánh khỏi phi trường Ko ntum, chúng tôi được lệnh hộ
tống một trực thăng có nhiệm vụ tiếp tế đạn dược cho Ben Het. Lúc
đó, đạn của lực lượng cố thủ đã gần cạn, riêng hỏa tiễn chống chiến
xa thì đã hết sạch.
Sau khi gặp nhau, chúng tôi hộ tống chiếc Huey (tức trực thăng UH-1)
tới Ben Het, tất cả đều bay sát ngọn cây. Vừa bay tới Ben Het thì
súng nổ như pháo Tết, súng của ta lẫn súng của định. Ở ghế trước
trên chiếc Cobra của tôi, Thiếu-úy Tim Conry rải từng tràng mini-gun
và những trái M-79 xuống thật chính xác. Tôi thì bắn từng cặp
rocket. Chúng tôi càng tiến sâu thì hỏa lực phòng không của địch
càng dày đặc. Nhưng rồi chiếc Huey cũng vào được tới nơi và hoàn tất
nhiệm vụ cực kỳ khó khăn ấy, phần lớn là nhờ hỏa lực yểm trợ
thật20chính xác của Tim: sau khi lơ lửng tại chỗ ở cao độ gần sát
mặt đất, và đạp các thùng đạn xuống, chiếc Huey bay ra dưới sự yểm
trợ hỏa lực của chúng tôi. Cùng lúc, chiếc Cobra của tôi bị trúng vô
số đạn đủ loại của địch, bốc cháy và đâm xuống theo đường xoáy trôn
ốc.. Chỉ trong giây lát, chiếc trực thăng chạm đất, và phát nổ ngay
sau khi tôi và Tim - dù bị thương nặng – tìm cách thoát ra khỏi phi
cơ.
Tim chết vào chiều tối hôm đó. Riêng tôi thì bị gẫy xương lưng,
phỏng ở mặt và phía sau cần cổ, một miểng đạn nằm sâu ở mắt cá, và
vô số vết thương nhỏ ở mặt và đầu. Nhưng mặc dù phi cơ rớt ngay
trong khu vực có hàng trăm địch quân đang tấn công căn cứ, tôi cũng
lẩn tránh được ba ngC3y trước khi bị bắt.
* * *
Tôi bị tra khảo trong mấy ngày liền; và bị đối xử khá tàn bạo. Khi
ấy tôi ở trong một tình trạng cực kỳ thê thảm về thể xác. Lưng tôi
bị gẫy. Máu từ vết thương ở mắt cá chảy ra đầy chiếc giày bốt, giờ
này đã khô lại thành một khối cứng ngắt. Đã ba ngày tôi không cạo
râu. Tôi không còn khả năng điều khiển ruột già và bàng quang, cho
nên tôi đã đại tiện, tiểu tiện ra đầy quần.. Tôi bị vô số vắt bám
vào người để hút máu, và chúng đã bị tôi bứt ra hết, trừ một con
đang chui vào lỗ mũi phía bên trái mà tôi không hề hay biết. Khi bắt
được tôi và thấy cảnh này, đám bộ đội đã được một trận cười khoái
trá.
Tôi bị tra khảo, đánh đập, hăm dọa. Hai tay tôi bị trói ngược ra
phía sau bằng dây nhợ, và càng ngày càng bị xiết chặt theo thời gian
bị tra khảo, cho tới khi hai vai tôi bị trật khớp, và hai cùi chỏ bị
trói cứng với nhau, cấn vào chỗ xương lưng bị gẫy khiến tôi đau đớn
khôn tả. Cuối cùng thì cuộc tra khảo cũng chấm dứt, và tôi được lệnh
đi bộ trong ba ngày liên tiếp, để tới một trại giam trong rừng già –
mà theo sự ước đoán của tôi, nằm ở phía bắc lãnh thổ Căm-bốt, ngay
bên kia biên giới. Tôi đã được bọn họ trả lại trả lại đôi giày bốt,
nhưng đã lấy mất hai sợi dây giày và đôi vớ. Sau ba ngày đi bộ, khi
lết một cách đau đớn tới cổng trại giam, đôi bàn chân của tôi đã trở
nên bầy hầy, giống như hai20cái hamburger còn sống.
Trại giam này là một điển hình của những trại mà nhiều người đã từng
sống qua. Trại được dựng trên một khoảnh đất trong rừng sâu, tất cả
đều làm bằng tre. Chung quanh là một bức tường bằng tre, khiến người
ta liên tưởng tới những tiền đồn của kỵ binh Mỹ vào thời khai phá
miền Viễn Tây. Bên ngoài bức tường này lại có một bức tường khác.
Giữa hai bức tường là một cái hào, giống như hào thành thời trung
cổ. Dưới hào có vô số chông - là những thân tre vót nhọn, sắc bén
như dao, cắm sâu dưới một lớp phân người.. Nếu rớt xuống đó, không
chết vì bị chông đâm vào những bộ phận trọng yếu thì bạn cũng sẽ
chết vì bị mất máu, hoặc nếu không chết ngay vì những vết thương thì
c ng chết từ từ vì bị nhiễm trùng. Một thân cây được bắc ngang cái
hào, mà phải cố gắng giữ thăng bằng, người ta mới có thể đi trên cái
"cầu" này để vào trại.
Bên trong những bức tường tre ấy là những cái cũi, cũng bằng tre, để
nhốt tù binh. Nào là quân nhân VNCH, nào là những người Thượng đồng
minh của Biệt kích Mỹ; và hai người Mỹ - gồm tôi và một phi công
trực thăng bị bắt trước đó một tháng. Tổng cộng, ít nhất cũng có vài
trăm tù binh. Tình trạng trong trại giam thật tồi tệ. Chúng tôi sống
như thú vật. Phần lớn những cái cũi để nhốt chúng tôi không đủ cao
để có thể đứng dậy. Tuy nhiên điều đó cũng không cần thiết bởi vì
chân chúng tôi đã bị cùm vào những cái cùm gỗ. Vì xương lưng bB gẫy,
tôi không thể nằm mà phải ngồi để ngủ. Đêm đêm, lũ chuột chạy tới
chạy lui trong cũi và gặm nhấm vết thương ở mắt cá chân của tôi. Vì
hai chân bị cùm, tôi không thể nhúc nhích nên không có cách nào để
đuổi chúng đi. Cho tới ngày nay, tôi vẫn còn ghét chuột!
Mỗi ngày, chúng tôi được ra khỏi cũi một lần để làm công việc thải
cặn bã trong cơ thể ở nhà vệ sinh dành cho tù binh. Giờ giấc mỗi
ngày đều khác nhau, cho nên tù binh nào không có khả năng chờ đợi,
kiềm chế, đã tự phóng uế ra quần khi đang còn bị cùm trong cũi (rất
nhiều người trong số chúng tôi bị tiêu chảy). Sau khi ra khỏi cũi,
chúng tôi phải đi một khoảng mới tới nhà vệ sinh ở một góc trại.
"Nhà vệ sinh" này thực ra chỉ là vài c i hố xí để bạn phóng uế
xuống. "Vấn đề" là có nhiều người trong số tù nhân bị đau yếu đã
không thể nín trên đường tới hố xí, nên đã đại tiện ngay tại chỗ,
khiến cả khu vực đầy rẫy những đống phân người. Một số tù nhân đau
nặng, gần chết, thì được đặt trên những cái võng gần các hố xí. Khi
có "nhu cầu", người nào còn đủ sức thì ráng xuống khỏi võng để tới
hố, người nào kiệt sức thì đành nằm trên võng mà phóng uế ra quần.
Hậu quả là cả khu vực chung quanh mấy cái hố được mệnh danh là "nhà
vệ sinh" ấy đầy rẫy phân người, mà những tù nhân còn tương đối khỏe
mạnh, trên đường đi tới hố xí phải cẩn thận lắm mới né tránh được.
Trên đường trở về cũi, không c bất cứ phương tiện nào để chúng tôi
lau chùi, rửa ráy.
Theo ký ức của tôi thì nước uống không có "vấn đề". Nước phân phát
cho tù nhân được đựng trong những ống tre. Họ nói rằng nước đã được
đun sôi, nhưng tôi vẫn bị tiêu chảy một cách thậm tệ. Nhưng lương
thực thì có "vấn đề".. Hầu như chỉ có một món duy nhất là cơm. Vào
lúc gần trưa, mỗi người được một nắm to bằng trái cam, tới xế chiều
được một nắm nữa. Thỉnh thoảng, chúng tôi được "chiêu đãi" bằng
những khúc rễ cây có bột, gọi là sắn dây, tương tự như rễ cây
"yucca" ở châu Mỹ La-tinh... Chỉ trong vài tuần lễ, tôi đã sút mất
hơn 20 ký-lô. Tôi giống như bộ xương cách trí với bộ râu dài. Trong
khoảng thời gian 5 tháng, tôi không hB được cạo râu.
Tôi không hề được chăm sóc về y tế hay được cấp phát bất cứ thứ
thuốc men nào cả. Nhưng người nào cũng thế thôi. Người tù binh Việt
Nam bị nhốt chung cũi, nằm cạnh tôi bị một vết thương rất nặng ở
ngực, không hiểu đã được băng từ đời nào, nhưng trong suốt thời gian
bị nhốt chung cũi, tôi không hề thấy anh được thay băng. Cái lỗ sâu
hoắm trên ngực anh không bao giờ lành. Anh còn trẻ và tương đối
khỏe, nhưng tôi biết chắc chắn anh sẽ không qua khỏi.
Chúng tôi sống như thú vật, trong điều kiện môi trường nhơ bẩn, đói
khổ, không một chút thuốc men, cho nên hầu như ngày nào cũng có
người chết. Xác họ được chôn trên sườn đồi phía bên ngoài trại.
* * *
Ngày 2 tháng 7 năm 1972, tôi được đưa ra khỏi cũi và sắp hàng cùng
với một toán tù binh. Có khoảng 25 người Việt và một người Mỹ khác.
Chỉ một lát sau, tôi được biết trong toán tù binh này có một phi
công bị bắn hạ cùng ngày với tôi, khi anh bay chiếc khu trục A-1
Skyraider yểm trợ cho trại Polei Klang. Tên anh là Trung-úy Xanh.
Tôi sẽ không bao giờ quên tên anh. Không bao giờ!
Viên chỉ huy trại tới nói chuyện với chúng tôi, theo đó, chúng tôi
sẽ di chuyển tới một trại mới, khá hơn. Nơi đó, chúng tôi sẽ được ăn
uống đầy đủ hơn, và được chăm sóc về y tế; chúng tôi sẽ được nhận
thư từ và bưu phẩm của gia đình gửi. Ông ta cho biết cuộc hành trình
có thể sẽ kéo dài tới 11 ngày, vì thế chúng tôi phải cố g=E 1ng hết
sức để đi cho tới nơi. Sau khi nghe ông ta nói, tôi tưởng tượng ra
một trại nào đó cũng ở trong rừng, nhưng vị trí thuận tiện, có nhiều
nhân viên và được tiếp tế đầy đủ hơn, nằm ở đâu đó phía bắc Căm-bốt
hoặc ngay bên kia bên giới Lào. Riêng về lời cảnh giác của viên trại
trưởng nói rằng chúng tôi "phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi",
tôi đã chẳng mấy quan tâm. Cho tới mấy ngày sau đó.
Với đôi chân trần, tôi bắt đầu cuộc hành trình. Các tù binh đều bị
trói, người này bị cột lại với người kia bằng một sợi dây. Sau vài
ngày, chúng tôi không còn bị trói nữa, vì bước đi còn không đủ sức
nói gì tới chạy trốn. Tôi rất đuối, vì thiếu dinh dưỡng, vì đủ thứ
bệnh không tên, và vì những vết thương lâu ngày không được chăm sóc
nay đã làm độc, và ngày càng trở nên tệ hại hơn cùng với cuộc hành
trình. Nhưng phải nói chính những con vắt mới là mối nguy hàng đầu;
chúng không chỉ hút máu mà còn gây viêm nhiễm do các độc tố chúng
truyền sang.
Trung-úy Xanh cũng ở trong tình trạng bi đát như tôi, mỗi bước đi là
một sự phấn đấu cả về thể xác lẫn nội tâm, để đối phó với sự kiệt
quệ của cơ thể, sự xuống dốc của tinh thần. Bởi nếu bạn không tiếp
tục bước, bạn sẽ chết. Ở cuộc sống đời thường, muốn chết bạn phải có
một hành động cương quyết nào đó. Bạn phải tự sát.. Nhưng một khi
bạn là tù binh chiến tranh thì trong bất cứ tình huống nào, sự thể
cũng trái n gược lại. Bạn phải phấn đấu từng ngày để sống sót. Còn
muốn chết thì dễ quá. Cứ việc bình thản, đầu hàng một cách êm ái, là
bạn sẽ chết. Nhiều người đã làm như thế. Họ chết trong trại tù đầu
tiên, họ chết trên đường di chuyển. Ngay sau ngày đầu, một số người
đã không chịu bò dậy nữa. Một số khác cố gắng tiếp tục cuộc hành
trình nhưng rồi cũng lần lượt bỏ cuộc. Trong lúc đoàn người tiếp tục
tiến bước, mỗi khi nghe một hay vài tiếng súng nổ ở phía sau, họ
biết họ sẽ không bao giờ còn gặp người tù binh đáng thương ấy nữa.
Toán 27 tù binh chúng tôi đã mất ít nhất là nửa tá trong hoàn cảnh
nói trên, và tới lúc cuộc hành trình kết thúc, Wayne Finch, người tù
binh Mỹ duy nhất ngoài tôi ra, cũng đã bỏ mạng.
* * *
Cuộc di chuyển không kéo dài 11 ngày, và đích tới cũng không phải là
một trại tù nào đó nằm trong khu vực. Mà là một cuộc hành trình gian
khổ kéo dài 3 tháng, đưa chúng tôi vượt gần 1000 cây số, ngược đường
mòn Hồ Chí Minh, và cuối cùng hướng về Hà Nội, thủ đô của miền Bắc.
Thật là một cơn ác mộng – một cơn ác mộng kinh hoàng nhất. Mỗi một
bước, với tôi là một sự đau đớn tận cùng thân thể. Các vết thương
làm độc ngày càng tệ hại. Tử thần đã kề bên. Cái chân bị thương đã
sưng phù lên gấp đôi bình thường, với những vết nứt dài, từ đó chảy
ra một thứ mủ cực kỳ hôi tanh.
Bệnh tiêu chảy của tôi càng thêm tồi tệ, lA 1i còn bị tới 3 loại sốt
rét khác nhau cùng với vô số ký sinh trùng trong ruột. Mỗi cuối
ngày, khi tôi kết thúc cuộc hành trình trên dưới 10 cây số, thần
chết cứ lảng vảng bên cạnh. Mỗi buổi sáng, ngay sau khi thức giấc,
tôi phải phấn đấu để cố đứng dậy, máu dồn xuống cái chân bị thương
cùng với sức nặng của thân hình đè xuống, tạo ra một cảm giác đau
đớn vô cùng tận. Và Trung-úy Xanh, mặc dù bản thân cũng trong tình
trạng hết sức tệ hại, luôn luôn hiện diện để khích lệ tôi, giúp đỡ
tôi với tất sức lực còn lại nơi anh. Tới bữa chiều, chúng tôi được
phát một nắm cơm nhỏ. Xanh nói với tôi đây không phải là cách ăn
uống bình thường của người Việt. Người Việt rất coi trọng bữa ăn, và
có nhiều món ăn ngon lFm. Đừng đánh giá văn minh ẩm thực của Việt
Nam qua những gì chúng tôi đang được cấp phát. Tôi cố gắng duy trì
đầu óc khôi hài. Đây là một việc rất khó khăn nhưng tối cần thiết.
Tinh thần là yếu tố quan trọng nhất trong việc sống còn, và kể cả
khi tình hình trở nên tuyệt vọng nhất, óc khôi hài sẽ giúp bạn giữ
vững được tinh thần – từ đó nảy sinh hy vọng. Và trong việc này,
Trung-úy Xanh cũng lại giúp đỡ tôi. Anh luôn luôn quan tâm tới tôi,
và làm bất cứ những gì anh có thể làm để giúp tôi giữ được lạc quan,
hy vọng. Vì thế, cho dù tình hình càng ngày tồi tệ, tôi chưa bao giờ
mất hy vọng. Kể cả trong cái ngày mà đáng lẽ ra tôi đã chết, nếu như
không có Xanh.
Mỗi ngày, tôi đã phải sử dụng toàn bộ ý chí để thức dậy, đứng lên và
bước đi. Rồi tôi phải phấn đấu hết mình trong suốt ngày hôm đó để
tiếp tục tiến bước trên con đường mòn dài vô tận. Tôi đã không còn
đứng vững, nhưng bằng cách nào đó, tôi vẫn hoàn tất mục tiêu của mỗi
ngày, để sáng hôm sau mở mắt chứng kiến thêm một bình minh nữa mà
Thượng Đế đã ban cho..
Nhưng rồi tới một ngày tệ hại nhất trong đời. Tôi đã phấn đấu hết
mình. Tôi lảo đảo muốn ngã xuống. Tôi cố gắng vận dụng hết sức lực..
Tôi loạng quạng bước đi. Rồi tôi lại lảo đảo, tôi cố gắng phấn đấu,
tôi vận dụng toàn bộ sinh lực còn sót lại, và tôi cầu nguyện xin có
thêm sức mạnh. Rồi tôi ngã gục, tôi bò dậy tiếp tục đi, nhưng rồi
lại20ngã gục. Tôi lại tiếp tục phấn đấu, phấn đấu với tất cả những
gì còn lại trong cơ thể, trong trái tim, trong linh hồn.. Nhưng rồi
tôi lại ngã gục, và lần này tôi không thể đứng dậy được nữa. Ý chí
của tôi vẫn còn, nhưng cơ thể đã hoàn toàn kiệt lực. Cuộc đời của
tôi đến đây là tận. Quân thù đến kia rồi; tên vệ binh nhìn xuống, ra
lệnh cho tôi bò dậy, nhưng tôi không thể. Hắn quát tháo lớn hơn, tôi
vẫn bất động. Coi như xong đời!
Nhưng Xanh đã tiến tới, vẻ mặt lo âu, cúi xuống nhìn tôi... Mặc cho
tên vệ binh quát tháo, xua đuổi, Xanh vẫn không chùn bước. Khi hắn
quát tháo dữ dội hơn, nét mặt Xanh bỗng trở nên đanh thép lạ thường,
và bất chấp những lời đe dọa của tên vệ binh, Xanh cúi xuống vực tôi
dậ y, rồi kê cái lưng ốm yếu cho tôi gục lên, để hai cánh tay của
tôi ôm vòng lấy cổ anh, hai cổ tay ghì chặt, và với tư thế ấy, anh
đã kéo tôi lết theo cho tới cuối ngày.. Đôi lúc, có một tù nhân khác
tạm thay thế Xanh, nhưng phải nói gánh nặng trong ngày hôm ấy dồn
hết lên vai anh. Xanh là người đã bất chấp nguy hiểm tới tính mạng
để lo lắng và chăm sóc tôi cho tới khi kết thúc cuộc hành trình ngày
hôm đó.
* * *
Sáng hôm sau, tôi trải qua mọi đau đớn thường lệ trong việc thức
dậy, đứng dậy và cố gắng lê lết cái chân bị thương trong những bước
đầu tiên, để tạo quyết tâm cho một ngày sắp tới. Tôi cảm thấy đau
đớn như chưa từng thấy nhưng vẫn cố gắng vận dụng ý chí để bư ớc đi.
Ngay phía bên ngoài cái trại vừa dừng chân là cây "cầu" bằng một
thân cây lớn bắc ngang một dòng nước chảy xiết xen lẫn những tảng đá
lớn. Tôi bắt đầu băng qua, cố gắng giữ thăng bằng nhưng không còn
sức lực mà cũng chẳng còn một chút ý thức gì về thăng bằng nữa. Cái
chân bị thương vô dụng kia đã hại tôi, kéo tôi nghiêng về một phía
khiến tôi loạng quạng và cuối cùng rớt xuống sông. Xanh và Wayne
đang đi phía trước, vội vàng quay trở lại phía bên này, lội xuống
vào kéo tôi lên bờ. Họ năn nỉ đám cộng sản cho phép cả toán tù binh
tạm dừng chân tại trại này cho tới khi nào tôi đủ sức tiếp tục cuộc
hành trình, nhưng bị từ chối. Xanh và Wayne nhất định không chịu rời
tôi. Cho tới khi đám vệ binh tiến tới, dí súng v0o người và lôi cổ
họ đi. Nhìn bóng hai người khuất dần cùng với toán tù binh, tôi biết
mình sẽ không bao giờ gặp lại Xanh trên cõi đời này nữa!
Bởi vì, như các bạn tù đồng cảnh ngộ đều biết, trong trường hợp này,
tôi bị bỏ lại trại để chết – như nhiều người khác đã chết.. Thế
nhưng không hiểu vì nguyên nhân hay lệnh lạc nào đó, đám cộng sản
lại quyết định chích penecillin cho tôi trong mấy ngày liền. Tôi bắt
đầu bình phục, và sau một khoảng thời gian ngắn, đã có thể đứng dậy.
Và ngay sau khi tôi đủ sức bước đi, đám cộng sản đã ra lệnh cho tôi
tiếp tục cuộc hành trình. Lần này, tôi đi chung với một đoàn bộ đội
di chuyển về hướng Bắc, một tay vệ binh được chỉ định đi theo tôi
làm cB 4ng việc áp giải.
Cuộc hành trình cũng gian khổ như những đoạn đường đã qua, nhưng với
tôi, những gì kinh hoàng nhất đã được bỏ lại sau lưng. Thậm chí tôi
còn có cơ hội chạy trốn: một ngày nọ, khi đi tới một khúc quẹo và
khuất tầm nhìn của tên vệ binh đi phía sau, tôi đã bỏ chạy vào rừng.
Nhưng rồi hắn đã mau chóng lần ra dấu vết và đuổi kịp; mặc dù tỏ ra
vô cùng giận dữ, hắn đã không bắn tôi chết, mà chỉ hung hăng chĩa
súng ra lệnh cho tôi quay trở lại. Sau đó, khi bắt đầu tiến vào lãnh
thổ Bắc Việt, tôi được cho nhập bọn với một đoàn tù binh VNCH, và
cuối cùng, tới Hà Nội. Nơi đó, sau khi đã trải qua mọi thủ tục và
nhiều nhà tù khác nhau, tôi được đưa tới "khách sạn Hilton - Hà Nội"
lừng danh (tức nhà tù Hỏa Lò), và ở đó cho tới khi được trao trả vào
giai đoạn cuối của cuộc chiến.
* * *
Ngay sau khi trở lại Hoa Kỳ, tôi đã đi tìm hỏi tin tức về Trung-úy
Xanh nhưng không có kết quả. Tôi đã tìm gặp các quân nhân Việt Nam
đang thụ huấn tại Mỹ, cũng không ai biết gì. Sau khi miền Nam rơi
vào tay cộng sản năm 1975, tôi càng ra sức tìm kiếm, để rồi lại bị
thất vọng.
Mấy năm sau, tôi được dịp tái ngộ với một quân nhân VNCH đi chung
với tôi trong toán tù binh nhứ nhất, cùng với một người khác trong
toán thứ hai, tên là Phạm Văn Tăng và Nghiêm Kế. Tôi nhờ họ giúp đỡ
trong việc tìm kiếm tin tức về Trung-úy Xanh.. Lúc đầu, không có kết
quả gì cả. Về sau thì có tin đồn nói rằng sau khi Sài Gòn thất thủ,
Xanh đã bị cộng sản bắt lại và có lẽ đã chết sau nhiều năm gian khổ
trong tù. Nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ có ngày được biết đích xác
những gì đã xảy ra cho Xanh, và có thể cả những tin tức liên quan
tới gia đình anh.
Trong những năm gần đây, tôi ra sức tìm kiếm trên internet, nhưng
luôn luôn thất bại. Thế rồi cách đây mấy tuần lễ, tôi tình cờ khám
phá ra trang mạng của các hoa tiêu bay khu trục A-1 Skyraider của
Không Quân VNCH, trong đó có một số người cùng phi đoàn với Xanh
ngày trước. Tôi gửi cho "trang chủ" mấy lời nhắn tin, và chỉ vài
ngày sau, tôi đã liên lạc được với Xanh bằng email, và sau đó qua
điện thoại – lần đầu tiên sau 35 năm, chúng tôi mới được nói chuyện
với nhau. Tôi sẽ gặp lại Xanh trong m t ngày gần nhất, có thể là mùa
thu này. Tôi sẽ được nhìn thấy anh lần đầu tiên kể từ cái ngày tôi
nằm lại bên đường mòn Hồ Chí Minh, mắt nhìn theo con người đã cứu
mạng mình – đang bị vệ binh dí súng cưỡng ép bước qua cây cầu, trong
lòng đau đớn vì phải bỏ tôi ở lại để chờ chết.
Xanh đâu có ngờ chính những cố gắng giúp đỡ tận tình của anh trong
những ngày đen tối nhất đời tôi, đã trở thành động lực để tôi phấn
đấu cho sinh mạng của chính bản thân mình – tôi không thể để uổng
phí công lao của Xanh. Tất cả những gì Xanh làm đã giúp tôi sống
sót, và chính những hành động quên bản thân của anh đã giúp tôi có
thêm nghị lực và quyết tâm để vượt qua bất cứ khó khăn, tr ngại nào
trong thời gian chờ đợi ngày được trả tự do.
Xanh luôn luôn là một con người đáng ngưỡng phục. Và giờ đây anh còn
là một công dân Mỹ đáng quý. Tôi cám ơn trời đã cho tôi gặp được một
người bạn như Xanh - vào lúc mà tôi cần tới sự giúp đỡ của anh hơn
lúc nào hết; và giờ đây, xin cám ơn trời một lần nữa, vì đã cho tôi
tìm lại được người bạn quý mến ấy.
William S. Reeder
(Nguyễn Hữu Thiện phỏng dịch và đặt tựa)
Rất cám ơn người đã dịch bức thư nầy , thư đã phổ
biến nhiều thông tin rất cần phải biết .
Về tên nhân vật được kể lại . Tôi nghĩ đó là KQ Nguyễn Đình Xanh ,
chứ không phải Nguyễn Văn Xanh . Và nhân đây tôi xin góp một đoạn
viết nhỏ đính kèm theo thư nầy , để nhắc lại một thời mà chúng ta ,
những người cùng sống trong thời chinh chiến đã phải trải qua .Và
tôi cũng có một thắc mắc là những việc xãy ra trong câu chuyện của
cựu quân nhân Mỹ đã kể, có phải là thời gian giữa năm 1972 không ?
Vì theo tôi nhớ thì hình như thời điểm sự việc xảy ra cho KQ NDX sớm
hơn . đoạn viết được đính kèm theo đây , tôi đã phổ biến trên FB vài
tuần trước .
Kính chúc sức khỏe đến toàn thể các bạn .
Trân trọng kính chào .
NTH.
http://batkhuat.net/tl-td-nguyenvanxanh.htm
Tân Sơn Hòa chuyển